Ngược Về Thời Minh
Chương 129-2: Oan Gia Cưỡi Sóng Tới (phần 2)
Người ta nói có qua có lại mới toại lòng nhau. Vui chơi thoả thích xong, khi đoàn người quay trở về, Mạc Thanh Hà cũng nhiệt tình mời huynh muội thiên sư đến Hàng Châu một chuyến. Lúc trước, khi vừa mới đến Hàng Châu, hai anh em này chỉ được những người ở các đạo quán nghênh tiếp một hồi rồi lại ngồi kiệu xe của Ngô phủ đi đến Tô Châu nên chưa hề được dạo chơi Tây Hồ, vì thế cả hai đều vui vẻ nhận lời đi ngay.
Dọc đường nhàn rỗi, Trương thiên sư và Mạc công công bèn ngồi trong khoang đánh cờ vây. Chớ thấy cờ tướng của Trương thiên sư kém cỏi mà lầm, cờ vây của y cao siêu vô cùng. Không biết đánh cờ vây, Dương Lăng nhìn một hồi cảm thấy nhàm chán bèn ra trước khoang ngắm nhìn phong cảnh một lát rồi trở về khoang mình.
Cao Văn Tâm đang ngồi một mình trong khoang đắm mình trong tâm sự, vừa thấy y trở về nàng liền vội đứng lên. Từ lúc dạo Thái Hồ trở về, hai người luôn cảm thấy không được tự nhiên khi ở chung một chỗ với nhau. Dương Lăng cười gượng gạo, nói:
– Tôi ngồi lâu ở bên ngoài nên cảm thấy hơi mệt, định vào khoang trong nghỉ ngơi một lát.
Cao Văn Tâm vẫn luôn mang nghi vấn trong lòng, không biết rốt cuộc y có bí mật gì (phụ nữ tò mò LOL) mà đã có thể tiếp nhận Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, lại có tình cảm với mình, thế mà lại khăng khăng không chịu tiếp nhận mình. Nàng rất muốn hỏi y ngay bây giờ, nhưng bản thân là con gái nên không tiện tỏ ra bức thiết quá mức. Thấy Dương Lăng vén rèm định vào trong, rốt cuộc nàng nhịn không được bèn mở miệng:
– Lão gia…
Dương Lăng dừng bước, quay đầu lại hỏi:
– Hử? Có chuyện gì vậy?
Mặt Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng lắp bắp:
– A… không có gì, chúng ta… chúng ta về thẳng Hàng Châu à?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
– Không, về đến Hàng Châu thì trời cũng khuya quá rồi. Chúng ta sẽ dừng lại giữa đường, đến Hải Ninh trọ lại một đêm, mai sẽ lại về Hàng Châu.
– Ồ…,
Cao Văn Tâm nghe đêm nay không thể nghe được bí mật mà mình rất muốn biết không khỏi thất vọng hỏi:
– Lão gia đến Hải Ninh có phải là vì muốn thưởng thức thủy triều Hải Ninh vang danh thiên hạ phải không?
Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
– Hải Ninh có thuỷ triều đáng xem sao? Tôi chỉ có nghe nói đến thuỷ triều sông Tiền Đường vang danh thiên hạ thôi.
Khoé miệng Cao Văn Tâm hơi nhếch lên song nàng lại không dám cười nữa, chỉ nói khẽ:
– Thuỷ triều Hải Ninh… chính là thuỷ triều sông Tiền Đường mà…
Dương Lăng hơi ngẩn ra, rồi cúi đầu ủ rũ:
– Thôi đi! Lão gia tôi coi như là đã mất sạch thể diện trước mặt cô rồi. Thuỷ triều sông Tiền Đường không gọi là thuỷ triều sông Tiền Đường mà lại gọi là thủy triều Hải Ninh gì đó, thật là mất mặt.
Mặc dù bụng đầy tâm sự nhưng Cao Văn Tâm vẫn bị y trêu đến bật cười phì, nàng vội khoan thai giải thích:
– Lão gia là người phương Bắc, lúc ở kinh sư cũng không rảnh nghe ngóng những chuyện đâu đâu này nên không biết cũng là thương, có gì mất mặt chứ? Có điều nên đi xem thủy triều sông Tiền Đường vào mười tám tháng tám, lúc ấy thủy triều mới tráng lệ; tuy bây giờ cũng có thủy triều nhưng kém hơn nhiều.
Dương Lăng đáp:
– Tiện thể ngắm xem một chút cũng được rồi. Chủ yếu tôi đi Hải Ninh là để thăm viếng Mẫn đại nhân một phen. Ông ấy là thượng cấp cũ của tôi. Tôi vừa đến Giang Nam ông ấy đã đến thăm tôi, tôi không ghé thăm lại ông ta thì khó tránh có lỗi với cố nhân.
Nói đến đây, y hơi ngừng lại rồi dịu dàng nhìn Cao Văn Tâm nhẹ giọng bảo:
– Tôi đi ngủ một lúc đây, không cần kêu người hầu hạ. Nếu cô mệt rồi thì cũng nghỉ ngơi đi.
Đột nhiên Cao Văn Tâm nhớ đến một chuyện định kể cho Dương Lăng hay. Nhưng nghĩ lại chuyện này không có quan hệ gì với Dương Lăng và mình, hơn nữa một người con gái lại đi kể những chuyện này thực cũng khó mở miệng, thế là bèn gật nhẹ đầu. Đưa mắt tiễn Dương Lăng về phòng xong, bản thân nàng cũng thu vén y phục rồi nằm lên giường, mở mắt nhìn lên mui thuyền, không ngờ lại nhớ đến việc kỳ lạ nọ.
Hôm nay Mạc phu nhân trở về từ nha môn của Bố chánh sứ, dáng điệu và vẻ mặt hơi khác thường. Mặc dầu người thường không thể nhận thấy sự khác biệt nhưng Cao Văn Tâm lại nhìn ra nguyên do. Nàng thấy vị Mạc phu nhân đó hai má đỏ bừng, mày mềm như nước, dáng đi dịu dàng mềm mại, không khỏi cả kinh trong lòng.
Với sự hiểu biết y học về cơ thể con người, nàng biết rõ khi dáng đi và vẻ mặt của một người phụ nữ đột nhiên xuất hiện dị trạng như vậy chắc chắn là cô nàng vừa mới trải qua một cuộc mây mưa.
Mạc công công là người đã bị hoạn, hắn lại đã cùng Dương Lăng chèo thuyền dạo Thái Hồ. Mạc phu nhân đi một mình từ nha môn Bố chánh sứ về, mặt mày tràn trề lạc thú giống như mới vừa giao hoan với người khác, chẳng lẽ thị ta không giữ đạo làm vợ, lén chồng vụng trộm hay sao?
Cao Văn Tâm vắt tay lên trán ngẩn ngơ suy nghĩ một hồi, rồi mới thở dài u uẩn: “Bỏ đi! Tuy rằng việc này tổn hại lễ giáo nhưng đó chỉ là chuyện riêng nhà người ta. Mình muốn kể cho lão gia nghe cũng ngượng mở miệng. Chuyện mình còn chưa đủ lao tâm sao, còn quản chuyện đâu đâu của người ta làm gì chứ?”
“Chao ôi… lão gia rõ ràng cũng… cũng có tình ý với mình, vì sao không chịu tiếp nhận mình vậy? Bởi vì mình đang là nô tì ư? Không! Không phải! Y không phải là người như vậy. Y nói là có bí mật, rốt cuộc y có bí mật gì mà lại khiến y không chịu tiếp nhận mình nhỉ?”
Cao Văn Tâm nằm trên giường, tai nghe tiếng nước rì rào, sóng lòng cũng dâng trào theo. Suốt chặng đường dài nàng cứ trằn trọc băn khoăn suy nghĩ không ngừng đến vấn đề này, thuỷ chung khó lòng yên giấc.
…
Dương Lăng đang khoác hờ chiếc áo khoác dài đen màu mực đứng trong đình Quan Triều (trạm xem thủy triều) dưới gò Trấn Hải, trấn Diêm Quan, huyện Hải Ninh. Cao Văn Tâm duyên dáng đứng sau lưng y; Mạc Thanh Hà, Mạc phu nhân, huynh muội Trương thiên sư, Diêm vận sứ Mẫn đại nhân cùng Chủng thiên hộ trú đóng tại đây và mấy diêm thương lớn của địa phương cùng đứng bên cạnh.
Mẫn Văn Kiến đứng nghênh sóng, há miệng cười to:
– Dương đại nhân! Thủy triều lớn ở Hải Ninh thời tháng tám cao đến mấy trượng, tiếng sóng như sấm rền, vô cùng hoành tráng, bây giờ ngài đến xem thì thủy triều không thể sánh bằng. Tuy nhiên hiếm khi đại nhân ghé thăm một chuyến nên thế nào ngài cũng phải xem một chút mới được.
Tuy rằng Mẫn Văn Kiến không hề có ý nghĩ bám vào quyền quý, nhưng giao tình hai người không nhạt. Hôm nay cố nhân đã làm quan lớn đến như vậy trong kinh sư lại đặc biệt đến đây thăm mình, trong lòng lão cảm thấy vinh hiển vui sướng cũng là thường tình, cho nên mặt mày rất là hớn hở.
Đến thăm Hải Ninh lần này, ngoài việc viếng thăm Mẫn huyện lệnh có ơn tri ngộ với mình ra, thật sự Dương Lăng còn có tính toán khác. Y đã phái người về kinh bẩm báo với Hoàng thượng về hành vi phạm pháp của Chỉ huy sứ Tư Tất Xuân của Long Sơn vệ và thuế quan trấn thủ Viên Hùng.
Thuở trước, lúc còn ở Kê Minh dịch y đã gặp Tất Xuân, biết rõ kẻ này tuyệt không phải là người dễ đối phó. Đặc biệt là đội thân binh bảo vệ gần hai trăm người của gã, ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến và còn hết lòng trung thành với Tất Xuân. Về phần Viên Hùng, hắn đặt trạm thu thuế khắp nơi, dưới tay có một đám lưu manh trộm cướp, cũng không thể nào là kẻ bó tay chờ chết. Tội danh hai kẻ này một khi được xác lập thì sẽ là đại tội tử hình, cho nên không thể không đề phòng bọn chúng chó cùng rứt giậu.
Lúc Dương Lăng chưa rời kinh đã nghe Ngô Kiệt báo cáo ở vùng Giang Chiết từng có quan tướng phạm vào tội chết bèn liều mình dẫn thân quân giết quan tạo phản, cướp quân nhu khí giới trốn ra biển gia nhập hải tặc. Nếu như Hoàng đế hạ chỉ giao Dương Lăng bắt người, y cũng không biết tướng lĩnh vệ sở phụ cận có phải cùng một giuộc với Tất Xuân hay không, cho nên để không rò rỉ tin tức, đương nhiên y không thể dùng người của bọn họ.
Nếu chỉ mang ba trăm thân quân của y tấn công vào đại doanh có gần ba ngàn người của Tất Xuân, vạn nhất Tất Xuân cả gan cương quyết chống lại thì chắc chắn y không đàn áp nổi mà e rằng còn bị cắn trả. Cho nên lúc trước khi nghe Mẫn Văn Kiến nói nơi đây có đội “hộ diêm binh” (quân bảo vệ việc vận chuyển muối; đồng thời kiểm tra, giám sát việc buôn lậu muối) khoảng chừng hơn ba trăm người, sức chiến đấu so với lính vệ sở bình thường còn cao hơn một chút, Dương Lăng liền lưu ý ngay.
Y phái Liễu Bưu nghe ngóng, biết được còn có một Thiên hộ sở đồn trú nơi này. Nói là Thiên hộ, thật ra cũng chỉ có hơn năm trăm người, quân số thiếu mất một nửa; nhưng lúc nguy cấp y vẫn có thể xin thánh chỉ giành quân đoạt soái của nó, để Mẫn Văn Kiến nắm đội quân này trong tay, phối hợp với y bắt Tất Xuân và Viên Hùng.
Lần này đến đây, Dương Lăng mượn cớ duyệt binh, yêu cầu Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên hộ điều toàn bộ ba trăm hộ diêm binh và năm trăm quan binh vệ sở đến bên sông. Y dự định sau khi xem thủy triều xong sẽ cho bọn họ diễn tập, xem thử sức chiến đấu của bọn họ như thế nào.
Dương Lăng có trách nhiệm đốc sát văn võ bá quan, lại là thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng đế, nên dẫu rằng chưa xin thánh chỉ thì việc khảo sát chiến lực quân đội với quy mô nhỏ như vậy cũng không bị xem là vượt quá phép tắc.
Mạc công công bó ống tay áo đứng một bên, có phần không hào hứng gì. Lần này Dương Lăng đột nhiên thay đổi lộ trình, ghé Hải Ninh thăm viếng bạn bè mà không hề thông báo cho hắn biết trước nên trong lòng hắn ít nhiều có phần không vui; cộng thêm thủy triều tháng mười thua xa thủy triều tháng tám rất nhiều nên hắn cũng không có hứng thú để xem, vì thế hắn lui về phía sau tránh gió chứ không đứng ở phía trước.
Mấy diêm thương lớn đều nằm dưới sự cai quản của hắn, dĩ nhiên phải cùng đứng cạnh hắn, không ngừng chào hỏi Mạc gia này nọ. Mạc Thanh Hà cũng chỉ tiếp chuyện qua loa.
Người địa phương không có hứng thú mấy với thủy triều sớm của tháng mười. Nhưng mà lần này gần ngàn quan binh đang đứng thẳng tắp bên bờ sông chờ đợi kiểm binh. Đây đúng là cảnh tượng hiếm có, cho nên không ít người dân lẫn phú hộ trong trấn cũng chạy đến bờ sông tụ tập xem náo nhiệt. Trong chốc lát, khí thế ấy thực giống như lúc xem thủy triều tháng tám.
Gió mạnh dần lên, Mẫn Văn Kiến phấn khởi tinh thần, nói:
– Đại nhân xem kìa, thủy triều đến rồi.
Dương Lăng nheo mắt nhìn ra xa, từ chân trời phương đông của dòng sông mênh mông mơ hồ vọng đến âm thanh dồn dập. Nơi cuối tầm mắt có một đường kẻ trắng, theo âm thanh rì rầm mỗi lúc một to, đường kẻ trắng hoá thành một dải lụa trắng vắt ngang sông, cuồn cuộn kéo tới gần. Những tiếng rầm rầm như sấm nổ vang lên liên miên không dứt.
Mẫn Văn Kiến căng họng át tiếng thủy triều trên sông, cả tiếng:
– Dương đại nhân, Trương thiên sư! “Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều”(5) ở Diêm Quan này hùng tráng lắm đó. Tiếc rằng hôm nay thủy triều hơi nhỏ, không đủ hùng tráng.
Lão nói hôm nay thủy triều hơi nhỏ, nhưng chỉ trong chốc lát nước sông đã dâng cao mãnh liệt. Trong khoảnh khắc, dải lụa sóng lớn màu trắng biến thành một bức tường nước sừng sững cao hơn mấy mét. Tiếng thủy triều như hàng vạn con ngựa tung vó phi nhanh, như sấm bên tai. Trông thấy cảnh tượng đặc sắc chưa bao giờ thấy qua này, Dương Lăng và Trương thiên sư đều vui vẻ hào hứng, khen không ngớt miệng.
Đỉnh triều đập vào đê, tung bọt sóng lên cao ngất. Đầu sóng trắng xoá như tuyết, tựa như núi tuyết non băng, khiến cho lòng người rúng động. Lúc triều sông vỗ vào trước đê, một tiếng sét gầm vang, đầu con sóng triều bất ngờ dựng thẳng, trong nháy mắt bụi nước ngập trời, ngọn gió mang chúng ào đến mọi người, đem đến một luồng không khí ẩm ướt, dễ chịu sảng khoái. Trương Phù Bảo thích thú chen đứng đằng trước thế là hứng trọn bụi nước, không khỏi nhếch nhác lui về phía sau khiến Dương Lăng và Trương thiên sư lớn tiếng cười to.
Trương Phù Bảo hậm hực hừm một tiếng, lấy ống tay áo của anh mình lau mặt, song lòng hứng thú xem thủy triều lại không hề giảm. Một khi sóng trước rút về, nó sẽ trở thành vật cản đối với sóng sau; từng cơn sóng triều va vào nhau, sóng trước bị ngăn, sóng sau lại bung lên, sóng này cao hơn sóng kia. Tuy không có sóng cả mạnh nhất làm rung động lòng người, nhưng cũng là những đỉnh sóng thẳng đứng, hùng dũng tung trào.
Dương Lăng thấy mặc dù sóng không cao lắm, nhưng hôm nay gió lớn thổi xuôi, luôn bắn những bụi nước li ti tới, y bèn cố ý đứng chếch phía trước Cao Văn Tâm, che chắn hơi nước cho nàng. Cao Văn Tâm nhận thấy tâm ý của y, trong lòng không khỏi cảm thấy ngọt ngào.
Triều dâng tuy nhanh, nhưng rút đi cũng chóng. Mấy người ở vùng khác như Dương Lăng chưa từng thấy thủy triều sông Tiền Đường nên xem còn chưa đã mắt, thủy triều đã bắt đầu có dấu hiệu rút đi.
Lúc này Trương Phù Bảo mới quay đầu cười nói:
– Dương đại nhân! Nhớ lúc ở trấn Thượng Hải đại nhân từng nói Bạch Nương Tử hô phong hoán vũ, nước ngập Kim Sơn. Khi ấy tiểu nữ vẫn không tưởng tượng ra cảnh tượng đó phải hùng tráng như thế nào. Hôm nay được thấy thủy triều như thế này, mới xem như trong lòng tiểu nữ có chút hình dung.
Dương Lăng nghe xong cười lớn:
– Nào chỉ vậy, nào chỉ vậy! Sóng ấy có thể ngập cả chùa Kim Sơn, đỉnh sóng há chẳng phải còn cao hơn núi ư? Cô hãy tưởng tượng trên đầu ngọn sóng còn có rất nhiều binh tôm tướng cá, con thì cầm giáo, con thì cầm chùy, đứng trên đầu ngọn sóng…
Y vừa chỉ vào nước triều sông vừa cười nói. Đang nói hăng say, nụ cười trên khuôn mặt y bỗng dưng cứng lại. Y kinh ngạc chỉ tay về phía xa hỏi:
– Đó là gì vậy?
Nhìn theo hướng ngón tay y, mọi người cùng thấy phía cuối dòng thủy triều liên miên đang lờ mờ xuất hiện vài chấm đen. Trương Phù Bảo kinh ngạc cười nói:
– Lạ quá, lạ quá! Chẳng lẽ thật sự có binh tôm tướng cá đến sao?
Nhờ thủy triều và gió lớn, những chấm đen đó di chuyển rất nhanh, trong chốc lát đã thấy rõ điểm đen to nhất là một chiếc thuyền buồm. Có cảm giác chiếc thuyền nọ hơi vuông, trên thuyền căng cánh buồm đen rất to.
Mạc Thanh Hà trông thấy thất kinh, vừa sợ vừa giận kêu lên:
– Thật đáng giận! Cờ Bát Phan Đại Bồ Tát, đó là thuyền biển của bọn người Oa, mau hộ tống đại nhân rời khỏi đây!
Lúc này Mẫn Văn Kiến cũng đã nhìn rõ ký hiệu trên thuyền, cả kinh kêu to:
– Quả nhiên là giặc Oa đến. Bà mẹ bọn nó, lần này lại có nhiều giặc đến như vậy! Mau lên, bảo hộ khâm sai đại nhân và thiên sư rời khỏi nơi này!
Bọn họ đứng trên cao nên nhìn được xa, những người dân đứng trên bờ đê dưới lầu chỉ thấy có hơn hai mươi chiếc thuyền từ xa xa đi tới, họ chưa nhìn rõ ký hiệu trên thuyền nên vẫn không vội không hoảng mà vẫn đứng bên bờ sông.
Dương Lăng thấy vậy, nào chịu tự mình bỏ chạy. Huống chi hôm nay y vừa khéo đã điều cả quan binh ty Diêm vận lẫn vệ sở đến để duyệt binh, mọi người đều cầm sẵn vũ khí. Mặc dù trong ba trăm thân quân của mình có hai trăm người đã theo thuyền quan về Hàng Châu, nhưng tùy thân cũng còn một trăm quân tinh nhuệ, sức chiến đấu giờ đây gần sánh với ngàn người. Đối phương có hơn hai mươi chiếc thuyền, lớn có, nhỏ có, lớn có thể chứa ba trăm người, nhỏ thì cũng bốn năm chục, áng chừng nhân số tổng cộng cũng không quá nhiều, chưa hẳn đã không thể đánh một trận.
Dương Lăng lập tức quát lớn:
– Không được hoảng loạn! Tất cả dân chúng và diêm thương trong đình lui xuống. Mẫn đại nhân, Chủng thiên hộ, lập tức ước thúc toàn quân, lập trận chặn địch. Trịnh Bách hộ, lập tức sơ tán bá tánh trên bờ.
Vị Chủng thiên hộ này cả người mặc khôi giáp sáng choang, vốn hôm nay gã định biểu lộ tài năng trước mặt đại nhân, nào ngờ lại gặp phải chuyện này. Trước kia chỉ có ba đến năm trăm tên giặc Oa đến bờ sông cướp bóc đã xem như rất nhiều giặc rồi. Lần này xem ra lại có cả ngàn tên giặc cướp trở lên, khiến gã sợ đến xanh mặt nhưng lại không dám tỏ ra sợ hãi, gã lật đật dạ một tiếng rồi xuống đình chỉnh đốn và tập hợp đội ngũ.
Mẫn Văn Kiến là tên lính điên do Tổng binh Đại Đồng – lão Đỗ điên – một tay nặn ra, thấy đánh nhau là hưng phấn khôn thôi. Khi xưa lão dám đơn thương độc mã đánh vào trong quân doanh Thát Đát, chém chết thân vương gia của bọn họ, thì làm sao thèm để ý đến mấy tên lùn này.
Lão cười ha hả:
– Mụ nội nó! Đã nói phải diễn võ cho khâm sai đại nhân xem, giờ đã biến thành động đao động thương thật rồi. Mỗ lập tức xuống dưới. Dương đại nhân hãy xem oai phong của đại đao ta đây!
Vừa nói lão vừa chạy thình thịch xuống lầu. Mạc Thanh Hà mặt mày tái mét, miệng méo xệch:
– Diệt trừ giặc Oa không phải là trách nhiệm của đại nhân. Đại nhân nên mau lánh khỏi đây một chút đi. Nếu đại nhân có mệnh hệ gì, ti chức vạn lần không đảm đương nổi đâu.
Dương Lăng liếc sang Cao Văn Tâm, bảo:
– Văn Tâm! Cô hãy cùng Mạc phu nhân và Trương tiểu thư mau chạy về trấn trước. Nếu như thủ không được, chúng ta sẽ lập tức dùng khoái mã rời khỏi đây.
Cao Văn Tâm ưỡn ngực đáp:
– Lão gia ở đâu, tiểu tỳ ở đó. Tiểu tỳ không đi!
Dương Lăng giậm chân quát:
– Làm chuyện vô nghĩa, chỉ là ngu xuẩn thôi! Cô ở lại thì có tác dụng gì? Cô xông trận giết giặc được sao?
Cao Văn Tâm hiên ngang đáp:
– Đại nhân là nho sĩ, chẳng lẽ xông trận giết giặc được sao? Người lâm trận không lui là vì muốn trấn định lòng quân. Còn tiểu tỳ là nữ nhân, lâm trận không lui, là vì muốn cùng… cùng đại nhân đồng sanh cộng tử!
Dương Lăng nghe thế sững người, nhất thời không đáp lại được. Mặc dù mặt hoa tái nhợt nhưng Trương Phù Bảo nghe Cao Văn Tâm nói như vậy, lại thấy tuy anh mình mặt mày căng thẳng nhưng cũng không có ý định đào tẩu, thế là cô bèn nổi dũng khí:
– Đại nhân không đi, ta cũng không đi. Trấn này có rất nhiều tín đồ của Thiên Sư đạo ta. Đêm qua khi chúng ta đến trấn, bọn họ đã quỳ lễ cầu phước với Thiên sư, vô cùng tôn kính. Nếu như hôm nay chúng ta lùi bước thì còn mặt mũi gặp lại bọn họ sao?
Lúc này, theo tiếng hò hét kêu gọi của nha sai Nội xưởng, dân chúng bên bờ sông đã biết xảy ra chuyện gì nên bắt đầu dìu già dắt trẻ, kêu cha gọi mẹ, vừa la vừa khóc tranh nhau xuống đê, chạy thục mạng về trấn.
Chủng thiên hộ triệu tập binh sĩ của gã lại, tập hợp phía bên phải bờ đê. Mẫn Văn Kiến vẫn mặc trang phục quan văn (xem ra lão này thích mặc đồ quan văn đánh giặc), vác cây đại đao vốn là chiêu bài của lão, dẫn một đám diêm binh ăn mặc lộn xộn đứng mé trái phía trước đê.
Những chiếc thuyền của người Oa nương theo nước sông đi thẳng vào bờ. Bọn chúng vừa hò hét vừa nhảy xuống thuyền, tụm ba tụm năm thành từng nhóm lao lên bờ. Dương Lăng thấy trang phục của bọn giặc Oa này hết sức hỗn tạp, có tên mặc Oa phục, có tên mặc Hán phục, có tên mặc áo bào văn sĩ, nhưng lại nhét vạt áo trong thắt lưng. Thậm chí còn có mấy tên mặc cả đồ phụ nữ, đủ thấy cuộc sống lăn lộn trên biển của đám giặc Oa này cũng chẳng tốt đẹp gì.
Mặc dù áo quần không đồng bộ, vũ khí trong tay cũng đủ loại mẫu mã, nhưng những tên hải tặc tạp nham này ai nấy đều hung hãn dũng mãnh, hành động cũng nhanh nhẹn vô cùng.
Nha sai nội xưởng chỉ có trăm người, trong đó có hai mươi cung tiễn thủ, toàn bộ đều đang đứng dưới đình Quan Triều không dám rời khỏi. Dù sao toàn bộ những nhân vật quan trọng nhất đều đang ở trên lầu, nếu lỡ có sơ suất gì thì bọn họ đều sẽ rơi đầu. Bây giờ đang có quân đội của vệ sở ở đây, bọn họ vui lòng lui về vị trí hậu bị, chỉ bảo hộ đại nhân.
Không ngờ giặc Oa mới vừa xông lên bờ, quan binh vệ sở đã có người hét lên một tiếng, không xông lên mà lại quay đít bỏ chạy.
Đứng trên đình thấy thế, lỗ mũi Dương Lăng thiếu chút nữa xịt khói. Lúc này số giặc Oa vừa đổ bộ không đông, chỉ cần một trận loạn tiễn chăm sóc hoặc giả trực tiếp đưa quân tập kích phủ đầu, đều có thể chiếm được tiên cơ. Chút đạo lý hiển nhiên này cũng không hiểu, đây là thứ quan binh gì vậy?
Không nén được giận dữ, Dương Lăng đập tay mạnh xuống thành lan can, lạnh lùng quát xuống đình:
– Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!
– Dạ! Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!
Trịnh bách hộ vung tay, mấy tay nha sai lập tức giương cung lắp tên, bắn thẳng vào phía tên quan binh vệ sở tranh chạy trước tiên. Loại tên do những nha sai này dùng đều là Nhiếp Hồn Hưởng tiễn (tiếng tên khiếp hồn), là loại tên mà Dương Lăng kiếm được từ chổ Cẩm Y vệ lúc y huấn luyện thân quân. Khi tên được bắn ra sẽ phát nên tiếng rít sắc bén, có hiệu quả chấn nhiếp hồn vía người ta.
Mấy cung tiễn thủ này đều là thần tiễn thủ trăm người chọn một, tên bay người ngã, khiến đám quan binh vệ sở đang chạy theo tên nọ đều sững sờ khiếp sợ. Đến khi nghe nha sai Nội xưởng giống như hung thần ác sát quát tháo bọn họ:
– Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết chết không luận tội!
Cả bọn đành phải sợ sệt quay trở về.
Lúc này Mẫn Văn Kiến đã dẫn diêm binh xông lên tiền tuyến. Diêm binh của lão không có cung tên, chỉ có thể giao chiến trực diện với giặc Oa. Giặc Oa lập thành nhóm hai ba tên phối hợp rất ăn ý: trong lúc vờn quanh, chúng thường xuyên thừa lúc đối phương không đề phòng cả bọn cùng đột nhiên ra tay tấn công mãnh liệt.
May mà những diêm binh này chuyên hộ tống diêm đội, trèo non lội suối, thường hay chiến đấu cùng giặc sông cướp núi nên cũng giỏi quần công. Mặc dù sát khí tàn bạo hơi kém đối phương, nhưng có Diêm vận sứ Mẫn đại nhân vung cây đại khảm đao nặng mấy chục cân xông lên phía trước như một con mãnh hổ nên nhuệ khí cũng dâng cao vô cùng, do đó bọn họ vẫn có thể chống đỡ ngang ngửa với giặc, không hề lùi bước.
Thấy những quan binh vệ sở mặc dù đã quay trở lại nhưng vẫn co cụm sợ sệt, không dám tiến lên phía trước, Dương Lăng giận sôi máu. Lúc này lại không phải là lúc chỉnh đốn quân đội, y chỉ đành hô gọi Trịnh bách hộ:
– Trịnh bách hộ! Dẫn người của ngươi xông lên cho ta, bảo Chủng thiên hộ bắn tên yểm trợ!
Trịnh bách hộ nghe thế vội thưa:
– Đại nhân! Chức trách của ti chức là bảo vệ đại nhân, trước mắt bên cạnh đại nhân chỉ có hơn trăm thân binh này, ti chức không dám rời xa!
Dương Lăng cả giận, gắt:
– Nếu ngươi không đi, ta sẽ tự đi!
Hết cách, Trịnh bách hộ đành hậm hực giậm chân, giữ hai mươi cung tiễn thủ ở lại bảo vệ đình Quan Triều, còn bản thân bạt đao dẫn tám mươi tay lính khoẻ xông lên trước.
Vị Chủng thiên hộ đang đứng đực ở đó, nay nghe Dương Lăng truyền lệnh bắn tên mới như từ trong mơ bừng tỉnh lại, ra lệnh cho quan binh lập tức bắn tên.
Bọn họ bày trận phía rìa cùng bờ bên phải. Chỗ đó gần bờ có mấy tảng đá to, nước sông lại khá thấp nên chiến thuyền của người Oa không cập bến ở chỗ bọn họ. Hơn nữa bọn họ không hề chủ động công kích nên đám giặc Oa xông lên bờ chỉ tấn công diêm binh của Mẫn Văn Kiến và thân quân của Dương Lăng, tạm thời còn chưa “chiếu cố” đến bọn lính này.
Vì vậy bọn quan binh vệ sở dư dả thời gian chuẩn bị cung tên. Chỉ thấy mấy ông lính này dù đang căng thẳng song vẫn ung dung giương cung, lắp tên, kéo dây, bắn tên. Một tiếng “tách” vang lên, tên bắn ra hàng loạt, một trận mưa tên ùn ùn kéo đến bắn vào đám giặc Oa đang ào ào nhảy khỏi thuyền.
Ở trong đình, Dương Lăng thấy vậy cười to. Trận mưa tên này thể nào cũng có thể bắn chết và bị thương khoảng trăm tên giặc Oa, có thể gọi là “Cập Thời Tiễn Vũ”(6) rồi.
Cơn mưa tên đó bắn khắp các thuyền, ít nhất có một nửa bắn trúng người giặc Oa. Nhưng khi tên nhọn vừa chạm vào người chúng thì lại trượt xuống quần áo, có mấy mũi bắn trúng nón rộng vành của người Oa, cắm đong đưa trên đó mà chẳng hề gây thương tổn gì tới người. Phóng mắt nhìn khắp trận tuyến, dường như trận mưa tên này không làm cho tên giặc Oa nào bị thương cả.
Dương Lăng và Trương thiên sư đứng trên đình trông thấy mà sững sờ. Bọn họ há hốc mồm kinh ngạc nhìn cảnh tượng kỳ lạ này. Mãi lâu sau hai người mới đưa mắt nhìn nhau, sau đó đồng loạt nhảy dựng lên như thể bị lửa đốt mông, la lớn:
– Sao lại như vậy được! Chẳng lẽ bọn người Oa đều đao thương bất nhập sao?
Chú thích:
(5) do thủy triều tại đoạn đê biển phía Đông Nam trấn Diêm Quan huyện Hải Ninh là điểm đẹp nhất, thủy triều giăng thành một đường kẻ đặc sắc, nên mới có tiếng khen là ‘Hải Ninh Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều’.
(6) Trong tác phẩm Thuỷ Hử, Tống Giang có biệt hiệu là Cập Thời Vũ (mưa thuận, hay mưa đúng lúc). Ở đây tác giả mượn chữ để mô tả trận mưa tên đúng lúc.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!