Dấu Chân Của Chúa
Chương 11
Tôi đứng lặng người trên ngưỡng cửa. Trong vòng chưa đến một giây đồng hồ, cảm giác nhẹ nhõm bỗng biến thành nỗi lo tê điếng, và cái ý nghĩ rằng Geli Bauer là phụ nữ cũng không làm động mạch đang gõ thình thịch của tôi đập chậm lại chút nào. Giống như đám thuộc hạ, trông ả gầy gò gân guốc với tia sáng giết người trong mắt. Ở con người ả toát ra vẻ tự tin lạnh lùng của vận động viên leo núi đẳng cấp thế giới. Tôi có thể tưởng tượng ả treo mình trên vách đá dựng đứng hàng giờ liền, sức nặng cơ thể dồn vào cả mấy đầu ngón tay. Khó mà đánh giá trí thông minh của ả trong một lò ấp toàn thiên tài, nhưng qua những cuộc trò chuyện trước đây, tôi biết ả cực kỳ nhanh trí. Ả đối xử với mọi người, trừ những nhà bác học hàng đầu của Trinity, như tù khổ sai, và tôi cho đó là vì ả là con gái một vị tướng đầy quyền thế. Ravi Nara thô lỗ gọi ả là “kẻ hủy diệt có vú” còn tôi nghĩ ả là một kẻ hủy diệt có đầu óc.
“Tôi có thể làm gì cho cô?” cuối cùng tôi lên tiếng.
“Tôi cần hỏi anh vài câu hỏi,” ả nói. “Thủ tục ấy mà.”
Thủ tục? Tôi biết trong vòng hai năm Geli Bauer đã viếng thăm phòng làm việc của tôi đến năm sáu lần. Tôi thường thấy ả qua tấm kính, chúi mũi vào nghiên cứu những trắc nghiệm phát hiện nói dối mà tôi được chọn làm ngẫu nhiên.
“Godin vừa cho chúng ta nghỉ ba ngày,” tôi nói. “Tại sao cô không để đến khi chúng ta trở lại làm việc?”
“Tôi e rằng không thể chờ đợi.” Ả có giọng lơ lớ của đám sinh viên những trường học của giới thượng lưu ở hải ngoại.
“Cô vừa nói rằng chỉ là thủ tục.”
Một nụ cười mềm mỏng. “Sao anh không ngồi xuống, bác sĩ?”
“Cô đang ngồi trên ghế của tôi.”
Geli không đứng dậy. Ả có vẻ hiếu chiến.
“Cô không hay đích thân xử lý những thủ tục loại này,” tôi nói. “Do đâu mà tôi có vinh dự ấy?”
“Cái chết của tiến sĩ Fielding đã làm phát sinh một tình hình bất thường. Chúng tôi cần chắc chắn mình biết được nhiều nhất có thể về tất cả những gì đang xảy ra xung quanh chuyện này.”
“Tiến sĩ Fielding chết do đột quỵ.”
Ả im lặng quan sát tôi hồi lâu. Vết sẹo trên má trái của ả nhắc tôi nhớ đến vết sẹo của các cựu binh đã chiến đấu ở Việt Nam, khi tôi còn làm bác sĩ. Họ miêu tả những mảnh lựu đạn phốt pho cháy sâu vào da thịt rồi sau đó tự chai lại như thế nào, chỉ cần gặp không khí là bắt cháy trở lại làm bị thương cả bác sĩ phẫu thuật đang cố gắp những mảnh đó ra. Lính tráng rất sợ những mảnh này, còn Geli Bauer trông như thể đã quen va chạm với chúng. Nhờ vết sẹo đó mà tôi đâm ra thích ả. Một người đàn bà đẹp được đánh dấu bằng một thứ như thế thường có những hiểu biết thấu đáo về cuộc sống mà các chị em khác khó có được. Nhưng khi giao tiếp với Geli, tôi mới vỡ ra rằng cho dù thoát nạn bằng cách quái quỷ nào, bài học ả rút ra từ đó chỉ là cay đắng.
“Tôi quan tâm đến quan hệ của anh với tiến sĩ Fielding,” ả nói.
Geli bao giờ cũng xưng tôi, không dùng cái từ ngữ quan liêu chúng tôi; dường như ả cảm thấy giữ an ninh cho cả dự án là trách nhiệm của riêng cá nhân ả.
“Thế ư?” tôi hỏi lại, làm như bị sốc.
“Anh miêu tả về quan hệ giữa hai người như thế nào?”
“Ông ấy là bạn tôi.”
“Anh thường gặp và trò chuyện với ông ấy ngoài nơi làm việc.”
Nếu thừa nhận điều này tức là thú nhận đã vi phạm quy chế an ninh của Trinity. Nhưng chắc Geli đã có băng video rồi. “Phải.”
“Điều đó trực tiếp vi phạm quy chế an ninh.”
Tôi đảo mắt. “Thì cứ kiện tôi đi.”
“Chúng tôi có thể bắt giam anh.”
**********. “Có thế mới thực sự bảo mật được chỗ này.”
Ả lùa những ngón tay dài vào mái tóc vàng. Đúng là một con diều hâu đang rỉa lông sửa cánh. “Anh có thể mất vị trí ở đây, bác sĩ ạ.”
“Giờ tôi hiểu rồi. Cô đến đây để sa thải tôi.”
Một nụ cười lướt qua. “Không cần phải đóng kịch. Tôi đang cố để tìm hiểu những gì cần biết về hoàn cảnh của tiến sĩ Fielding.”
“Hoàn cảnh của ông ấy ư? Ông ấy đã chết. Từ trần rồi. Không còn ở bên chúng ta nữa.”
“Ngoài giờ làm việc các anh bàn chuyện gì?”
“Bóng đá.”
“Bóng đá?”
“Fielding gọi nó là Football 1 . Ông ấy nhận mình ‘cuồng bóng đá’. Ông ấy cổ động cho đội Arsenal của Anh. Tôi ngán muốn chết, nhưng tôi thích trò chuyện với ông ấy.”
“Anh đã bắt đầu thiếu thành thực, bác sĩ.”
“Tôi ư?”
“Cả anh và Fielding đều chống lại việc tiếp tục dự án.”
“Không. Tôi bận tâm về khía cạnh đạo đức của dự án. Fielding thì có những mối quan tâm khác.”
“Ông ấy muốn dự án dừng lại.”
“Chỉ tạm ngưng đến khi xác định được nguyên nhân của những tác dụng ngoại ý lên hệ thần kinh mà tất cả chúng tôi phải chịu.”
“Ông ấy có thảo luận những tác dụng ngoại ý ấy với ai không biết rõ thông tin về Trinity không?”
“Tôi cũng không biết nữa.”
“Vợ ông ấy chẳng hạn?”
Tôi cố giữ vẻ mặt vô cảm. “Tôi không nghĩ ông ấy có thể làm vậy.”
Geli nhướng mày, “Tối qua anh ở bên bà ấy gần cả tiếng đồng hồ.”
Vậy là bọn chúng đã theo dõi. Tất nhiên chúng đã làm. Chúng vừa mới giết Fielding và cần biết người bạn thân nhất của ông phản ứng thế nào. Điều đó có nghĩa là chúng đã biết về Rachel.
“Tôi đến để chia buồn.”
“Anh đã thảo luận những thông tin nhạy cảm của Trinity với Lu Li Fielding. Một nhà vật lý người Hoa.”
“Tôi không làm chuyện gì như thế cả.” Tôi nghĩ cuộc hôn nhân của Lu Li với Fielding đã khiến bà trở thành công dân Anh, nhưng lúc này tôi không muốn tranh cãi làm gì.
“Bà Fielding đã biến mất. Chúng tôi cần nói chuyện với bà ấy.”
“Nghe như chuyện riêng tư.”
Geli phớt lờ lời châm biếm của tôi. “Nếu anh giúp bà ấy trốn, anh sẽ bị kết tội phản bội.”
“Lu Li đã phạm tội à?”
Mặt Geli không chút biểu cảm. “Điều đó còn chưa xác định được. Bà ấy có thể là đồng phạm trong một vụ mưu phản.”
Viên pha lê, tôi bỗng nghĩ. Điều này chắc phải liên quan đến chiếc đồng hồ của Fielding. “Vậy là cả ông bà Fielding đều biến mất. Tình thế thật là rắc rối, phải không?” tôi nói.
Geli trông chẳng có vẻ gì bối rối. Ả tỉnh bơ.
“Đêm qua Lu Li bảo tôi rằng chẳng ai nói với bà một lời về thi hài của chồng bà ấy,” tôi nói. “Bà ấy rất hoảng loạn.”
“Đó không phải là phạm vi trách nhiệm của tôi.”
“Còn vật dụng cá nhân của Fielding thì sao? Lu Li đặc biệt nhắc đến chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng. Một vật gia bảo.”
Geli cắn môi rồi lắc đầu, “Tôi không nhớ cái đồng hồ bỏ túi. Nhưng ngay khi bà Fielding ra trình diện, tất cả sẽ được sắp xếp đâu vào đấy.”
Geli nói dối. Làm việc ở đây hai năm, chắc chắn ả đã trông thấy chiếc đồng hồ ấy hàng trăm lần là ít.
“Sáng nay chúng ta sẽ phải làm trắc nghiệm phát hiện nói dối,” ả nói.
Người tôi toát mồ hôi lạnh. “Xin lỗi. Tôi sẽ không làm đâu.”
Geli nheo mắt. Đây là lần đầu tiên tôi chối từ một đề nghị như thế này. “Tại sao vậy?”
“Tôi vừa mất một người bạn thân. Tôi không ngủ được. Tôi thấy trong người rất khó chịu. Tôi quên hết mọi thứ rồi.”
“Bác sĩ Tennant…”
“Và tôi không muốn phục tùng những trò phát xít của các người hôm nay. Được chưa?”
Ả ngả lưng trên ghế của tôi và nhìn tôi càng lúc càng chăm chú hơn. “Bản hợp đồng làm việc mà anh đã ký cho phép tiến hành trắc nghiệm nói dối vào bất kỳ lúc nào. Anh đã chấp thuận phục tùng.”
Nỗi sợ thắt ruột khiến tôi muốn đấm cho ả một quả vào giữa mặt. Suốt đời tôi đã sống tự do vô hạn. Là một bác sĩ nội khoa, tôi hoàn toàn làm chủ được việc hành nghề của mình. Là một tác giả, khi viết tôi chỉ bị hạn chế bởi chủ đề cuốn sách. Nhưng giữa không khí nghẹt thở của Trinity, chứng sợ không gian kín lại dấy lên trong tôi. Cha tôi cũng từng trải qua những cảm giác tương tự khi nghiên cứu vũ khí hạt nhân ở Los Alamos và Oak Ridge. Và hồi ấy ông đã phải phục tùng trắc nghiệm phát hiện nói dối. Nhưng thời thế đã thay đổi so với thời Chiến tranh Lạnh. Ngày nay NSA có những máy phát hiện nói dối dựa trên công nghệ MRI, và không giống máy phát hiện nói dối truyền thống, nó chính xác đến một trăm phần trăm.
Nguyên tắc rất đơn giản: khi nói dối, bộ não vận dụng nhiều tế bào thần kinh hơn khi nói thật. Ngay cả những kẻ nói dối bệnh lý cũng nghĩ đến sự thật trước khi trả lời câu hỏi. Sau đó anh ta mới bịa ra hoặc lặp lại câu nói dối của mình. Hành động này soi sáng bộ não kẻ nói dối như những ngọn đèn đêm Giáng sinh, và máy phát hiện nói dối MRI chỉ việc chụp lại và lưu kết quả cho người thẩm vấn. Chính Fielding là người đã chống lại việc dùng máy phát hiện nói dối MRI, lập luận rằng những triệu chứng lạ trong chúng tôi sẽ trầm trọng hơn khi tiếp xúc thêm với MRI. Đó là một thắng lợi của Fielding trong cuộc chiến chống lại sự xâm phạm cõi riêng tư của chúng tôi, nhưng những cuộc thẩm vấn phát hiện nói dối thông thường thì không ảnh hưởng gì lắm đến thần kinh. Áp dụng chúng một cách bất ngờ sẽ cho anh cái cảm giác như đang sống ở một nơi tinh thần bị đàn áp tồi tệ, nhất là khi anh đang có điều gì muốn giấu.
“Cô định gây mê tôi à?” tôi hỏi. “Hay trói tôi?”
Ả có vẻ muốn thế thật.
“Không. Thôi quên đi.”
Ả giơ ngón tay lên lơ đãng sờ vào vết sẹo. “Tôi không hiểu sao anh lại chống cự hăng như vậy, bác sĩ?”
“Chắc chắn là cô hiểu.”
“Anh đang giấu giếm điều gì?”
“Nếu tôi có điều gì muốn giấu thì cô cũng thế.”
“Anh đang cố lật đổ dự án này.”
“Tôi làm thế nào được chuyện đó? Mà tại sao tôi phải làm thế? Dự án đang bị treo cơ mà.”
Geli ngắm nghía móng tay ả, hai chiếc trong số đó bị cắn trụi. Có lẽ rốt cục ả cũng không điềm tĩnh cho lắm. “Bằng cách ra trước công luận,” cuối cùng ả nói.
À đây rồi. Nỗi sợ hãi thầm kín do chứng hoang tưởng của đầu óc nhà binh. “Tôi chưa hề làm thế.”
“Anh có nghĩ đến chuyện đó không?”
“Không.”
“Anh đã nói chuyện với tổng thống chưa?”
“Trong đời tôi ấy à?”
Cuối cùng ả cũng gắt lên khó chịu, “Sau cái chết của Fielding.”
“Chưa.”
“Hôm qua anh có gửi lại lời nhắn ở Nhà Trắng.”
Tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên. “Phải.”
“Anh đã gọi điện thoại công cộng?”
“Thì sao?”
“Tại sao?”
“Di động của tôi hết pin.” Tôi nói dối dễ dàng, khó mà kiểm tra được.
“Tại sao anh không đợi về đến nhà hẵng gọi?”
“Đúng lúc đó tôi thấy cần nói chuyện.”
“Thấy cần nói chuyện với tổng thống Mỹ?”
“Đúng thế.”
“Về cái chết của Fielding?”
“Cùng với những chuyện khác.”
Ả có vẻ cân nhắc khá kỹ lưỡng những lời sắp nói ra. “Anh nói với Nhà Trắng anh không muốn các yếu nhân khác của Trinity biết rằng anh đã gọi cho họ.”
Huyết áp của tôi tụt xuống đột ngột. Làm thế nào mà bọn chúng nghe được những gì tôi nói qua điện thoại công cộng? Chắc hẳn bằng cách nghe trộm, mà không phải cảnh sát địa phương hay FBI hầm bà lằng. NSA mỗi ngày ghi âm trộm hàng triệu cuộc điện thoại riêng tư, các ổ đĩa ở tầng hầm khu căn cứ quân sự Meade được kích hoạt bởi những từ khóa như thuốc nổ, Al Qaeda, mã hóa, RXD, hoặc thậm chí Trinity. Tôi nhớ mình đã nói “Trinity” ngay khi tổng đài Nhà Trắng trả lời, để cô ấy nối máy cho tôi đến nơi cần gọi. Có lẽ NSA đã ghi âm cuộc nói chuyện của tôi từ lúc ấy.
Tôi trấn tĩnh và nhìn thẳng vào mắt Geli. “Tôi được đích thân tổng thống chỉ định vào dự án này chứ không phải NSA hay John Skow, hay ngay cả Peter Godin. Tôi có mặt ở đây để đánh giá các khía cạnh đạo đức của dự án. Nếu tôi xác định có vấn đề nào tồn tại, tôi báo cáo trực tiếp với tổng thống. Ở đây không ai có quyền nói gì về chuyện này.”
Ván bài đã lật ngửa rồi. Tôi vừa mới vạch một lằn ranh giữa tôi với tất cả những người khác trong tòa nhà Trinity.
Geli nhoài người ra phía trước, cặp mắt xanh của ả thách thức tôi. “Anh có mấy điện thoại di động, bác sĩ Tennant? “
“Một.”
“Anh còn sở hữu chiếc nào nữa không?”
Tôi bỗng vỡ lẽ. Bọn chúng biết tôi gọi đến Nhà Trắng, nhưng không biết tổng thống đã liên lạc lại với tôi hay chưa. Chúng kiểm soát điện thoại di động của tôi, cái mà chúng biết, nhưng lại lo lắng về những kênh liên lạc khác mà chúng không biết. Nếu chúng lo lắng về điều đó, thì tức là chúng không có đường dây bên trong phủ tổng thống, và tôi vẫn còn cơ hội thuyết phục tổng thống về những mối nghi ngờ của tôi.
“Rachel Weiss có một máy di động,” Bauer nói, mắt ả cảnh giác với từng động thái nhỏ nhất của tôi.
Tôi thở chậm và giữ giọng bình thản. “Tôi không thấy có bác sĩ nào mà không có điện thoại di động.”
“Nhưng anh biết bác sĩ Weiss rõ hơn bất cứ ai khác.”
“Cô ấy là bác sĩ tâm thần của tôi, ý cô định nói thế chăng?”
“Cô ấy là người duy nhất ngoài Trinity mà anh nói chuyện nhiều hơn năm mươi từ trong vòng hai tháng qua.”
Tôi tự hỏi không biết có đúng như vậy không.
“Điều đó cũng đúng với bác sĩ Weiss,” Geli nói.
“Ý cô muốn nói gì?”
“Cô ta không gặp gỡ ai. Năm ngoái cô ta mất đứa con trai vì ung thư. Sau khi thằng bé chết, chồng cô ta đã bỏ rơi cô ta để trở về New York. Cách đây sáu tháng, thỉnh thoảng bác sĩ Weiss còn có những cuộc hò hẹn với đồng nghiệp nam giới. Ăn tối, đi xem phim, đại loại thế. Cô ta không gặp ai đến lần thứ hai. Hai tháng trở lại đây, cô ta hoàn toàn không gặp một người đàn ông nào nữa.”
Điều này không làm tôi ngạc nhiên. Rachel là một phụ nữ mạnh mẽ, và tôi nghĩ không mấy người đáp ứng được tiêu chuẩn của cô.
“Vậy thì sao?” tôi hỏi.
“Tôi nghĩ chính anh là lý do đấy, bác sĩ ạ. Tôi cho rằng bác sĩ Weiss yêu anh.”
Tôi cười, lần đầu tiên tôi cười thật sự, kể từ lúc tôi nhìn thấy thi thể Fielding đến giờ. “Bác sĩ Weiss cho rằng tôi bị hoang tưởng, cô Bauer ạ. Có lẽ là một dạng tâm thần phân liệt đấy.”
Điều này không làm Geli lúng túng. “Tối qua cô ta hôn anh. Tại nhà Fielding.”
“Đó chỉ là cái hôn an ủi. Tôi bị suy sụp sau cái chết của Fielding.”
Geli phớt lờ câu ấy. “Anh đã nói gì với bác sĩ Weiss về Trinity?”
“Không nói gì cả, như cô biết rõ. Tôi chắc cô đã tìm cách ghi được tất cả các cuộc khám bệnh của tôi.”
Ả làm tôi ngạc nhiên khi khẽ gật đầu thú nhận. “Nhưng những người yêu nhau bao giờ chẳng đủ mánh khóe. Anh đã xoay xở được những cuộc gặp gỡ trái phép. Như tối hôm qua.”
“Tối qua là lần đầu tiên tôi gặp Rachel Weiss ngoài phòng khám của cô ấy.” Tôi khoanh tay trước ngực. “Và tôi từ chối bàn luận tiếp về cô ấy. Cô ấy chẳng dính dáng gì đến dự án này. Cô đang xâm phạm đời tư của một công dân Mỹ khi người ta chưa ký một thỏa thuận nào từ bỏ các quyền của mình.”
Lần này thì chính Geli mỉm cười, vẻ nanh ác chợt lóe lên. “Một khi dính dáng đến Dự án Trinity, đời tư không là cái gì cả. Theo Sắc lệnh 173 về An ninh Quốc gia, chúng tôi có thể bắt giữ Rachel bốn mươi tám tiếng mà không cần cả gọi điện báo trước.”
Tôi ngán quá thể. “Geli, cô có biết Dự án Trinity là cái gì không?”
Tôi gọi tên cúng cơm của ả khiến nụ cười trên môi ả vụt tắt, và câu hỏi của tôi khiến ả rõ ràng rơi vào thế thủ. Ả tiêu mất nếu phải thú nhận mình chẳng hiểu mô tê gì về những bí mật bên trong của Trinity, nhưng nếu nói ngược lại dễ làm ả mất việc như chơi. Ả trừng mắt nhìn nhưng không nói năng gì cả.
Tôi tiến một bước về phía ả. “Thôi được, tôi biết rồi. Nhưng xin đừng hăm hở tuân lệnh một cách ngu ngốc như thằng oắt người Đức kia cho đến khi nào cô biết và hiểu hết uẩn khúc sự tình.”
Câu mắng chửi đã trúng đích. Ả căng người trên ghế như thể sắp nhảy xổ vào tôi. Tôi lùi lại một bước, ngay lập tức thấy hối tiếc về những lời lẽ vừa rồi. Chẳng có lợi gì khi chuốc lấy oán thù cá nhân với Geli Bauer. Thật ra điều đó hoàn toàn dại dột. Có thể chính ả đã ra tay giết Fielding. Và tôi nhận ra, chính vì thế mà tôi chọc giận ả.
“Chúng ta xong việc rồi,” tôi nói và rút chìa khóa xe trong túi ra. “Sáng thứ Ba tôi sẽ trở lại. Từ nay đến đó hãy để lũ chó săn của cô tránh xa tôi ra.”
Tôi quay lưng đi.
“Bác sĩ Tennant!”
Tôi cứ bước tiếp.
“Tennant!”
Tôi nhấn nút thang máy. Cửa mở, tôi bước vào, nhưng lại bước ra ngay. Geli có thể biến cái khoang nhỏ xíu này thành xà lim chỉ với một cú nhấn nút. Ả cũng có thể phong tỏa cả tòa nhà này dễ dàng như thế, nhưng dù sao tôi đi cầu thang bộ vẫn hơn.
Khi tôi xuống đầu cầu thang tầng bốn, hình ảnh Fielding ngồi trong đám khói mờ xâm chiếm trí óc tôi. Ông người Anh hút thuốc như ống khói, nhưng trong toàn bộ tổ hợp Trinity đều cấm hút thuốc, cả với những nhà bác học đầu đàn. Đó không phải do luật lệ của bang; mà do Godin không chịu nổi một chút khói thuốc thoảng trong không khí. Vốn tài xoay xở, Fielding đã tìm thấy chỗ để ông có thể nuông chiều thói quen của mình. Trong phòng thí nghiệm vật liệu trên tầng bốn có một gian buồng chân không rộng rãi mà trước đây trong giai đoạn đầu của dự án được sử dụng để thí nghiệm các đặc tính của ống nano carbon. Trong phòng thí nghiệm có đầu dò khói, còn buồng chân không thì không có. Fielding đã khéo léo xếp chồng đống hộp quanh gian buồng khiến hầu hết mọi người quên đi sự tồn tại của nó. Khi đã tìm ông khắp nơi mà không thấy, tôi biết thể nào ông cũng ở đó.
Tôi suy luận, nếu lúc ấy Fielding đang ở trong tòa nhà Trinity và lo sợ cho tính mạng của mình, thì ông có tìm cách cách ly chiếc dây đồng hồ mang viên pha lê? Ông không thể giấu nó trong phòng làm việc, nơi chắc chắn sẽ bị lục soát. Nhưng buồng chân không chỉ cách có một tầng, và ông có thể tin chắc trước sau gì tôi cũng tìm ra chỗ bí mật này.
Tôi ra khỏi cầu thang và tìm đến phòng thí nghiệm vật liệu. Hai kỹ sư tuyển mộ từ Sun Microsystems bước từ phòng thí nghiệm ra, tách nhau ra để vượt qua tôi và hướng về phía thang máy. Tôi cố nặn một nụ cười và bước chậm lại sao cho họ đi khuất chỗ rẽ rồi mới đến cửa phòng thí nghiệm vật liệu.
Không có ai trong phòng. Tôi vội vã đến chỗ đống hộp che chắn cửa căn buồng chân không bằng thép và bắt đầu mở khóa. Cỗ máy gớm guốc trông giống căn buồng giảm áp cho thợ lặn dưỡng khí, với một lỗ cửa sổ và một vành xoay lớn bằng sắt lắp vào cánh cửa trông như cửa sập. Tôi vặn vành xoay để mở cửa sập. Đèn tự động bật sáng.
Tim tôi đập thình thịch khi tôi bước vào bên trong. Tôi nhớ những chiếc giá rộng bừa bộn dụng cụ, kìm và mảnh vụn carbon cũ. Bây giờ trong gian buồng chẳng còn thứ gì. Ngay cả những chiếc giá cũng được mang đi. Cả căn buồng trông như mới được rửa sạch bằng hơi nước.
“Geli Bauer, ” tôi thở hắt ra.
Nếu trước đó chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding được giấu ở đây, thì bây giờ Geli đã có nó rồi. Tôi hối hả ra khỏi căn buồng, ngờ ngợ sẽ chạm trán ả trong phòng thí nghiệm. Nhưng cả phòng thí nghiệm và hành lang đều không một bóng người. Tôi lao ra cầu thang, chạy xuống tầng ba và bước về phía bàn bảo vệ, nơi Henry đang chờ tôi.
Để ra khỏi Trinity, mọi nhân viên phải chịu khám người để chứng tỏ họ không mang theo đĩa máy tính hoặc giấy tờ gì ra khỏi tòa nhà. Fielding chắc phải cười thầm mỗi lần Henry bỏ qua dây đồng hồ quả quýt gắn viên pha lê của ông. Khi tôi tới gần bàn bảo vệ, tôi thấy Henry đang nói vào micro trên cổ áo.
“Có chuyện gì thế Henry?” tôi nói trong khi đứng đợi ông ta kiểm tra người.
“Xin đợi một phút, bác sĩ.”
Tim tôi đập loạn. Tôi tưởng tượng Geli Bauer đã ra lệnh cho ông ta: Không cho Tennant ra khỏi tòa nhà…
“Tôi cần đi ngay,” tôi nói, “tôi có cuộc hẹn.”
Henry nhìn tôi, rồi nói vào mic, “Anh ta đây rồi.”
Jesus. Nếu Geli phải hỏi xem liệu tôi có ra cửa không, thế tức là ả không nhìn thấy tôi qua camera lắp trong phòng an ninh. Có lẽ ả đang trên đường đến đây. Não giữa thôi thúc tôi chạy thật lực, nhưng phỏng được bao xa? Henry trông có vẻ vô hại nhưng được trang bị khẩu súng tự động Glock 9mm. Chớ lao ra cửa lúc này vẫn là thượng sách.
Henry nghe bằng ống nghe mấy giây, trông ông ta có vẻ bối rối. “Cô có chắc không?” ông ta hỏi. “Được.”
Ông ta đi vòng qua bàn, và tôi vụt hiểu rằng nếu Henry rờ tay vào khẩu súng, chỉ vài giây nữa thôi bản năng sống còn trong tôi sẽ lên tiếng. Người tôi căng ra khi bàn tay ông ta rơi xuống, nhưng rồi ông ta ngồi xổm xuống và bắt đầu khám từ ống quần như thường lệ.
Geli quyết định để tôi đi. Vì sao? Vì ả không biết chắc tôi đã nói chuyện với tổng thống hay chưa.
“Anh đi được rồi, bác sĩ,” Henry nói, vỗ nhẹ vai tôi. “Vừa rồi tôi tưởng cô ấy – à, họ – yêu cầu tôi giữ anh lại đây.”
Khi tôi nhìn vào mặt Henry, tôi thấy nét gì đó trong mắt ông mà tôi không hiểu. Bây giờ thì tôi hiểu rồi. Ông ta không ưa gì Geli hơn tôi. Thật ra, ông ta sợ ả.
Khi tôi vừa qua khỏi cánh cửa kính bọc thép thì chuông điện thoại di động reo.Tôi bấm nhận cuộc gọi và ép điện thoại sát tai.
“A lô?”
“David? Anh ở chỗ quái quỷ nào vậy?’
“Đừng gọi tên tôi,” tôi gắt, nhận ra tiếng Rachel.
“Tôi kiếm anh cả tiếng đồng hồ rồi!”
Chắc tín hiệu di động không thể truyền qua lưới đồng bao quanh Trinity. “Cho tôi biết có chuyện gì đi.”
“Sáng nay anh có đến phòng làm việc của tôi không?”
“Phòng cô? Tất nhiên là không. Tại sao?”
“Bởi vì có kẻ nào đó gần như đã bới tung nó lên. Hồ sơ bệnh án của anh bị mất, mọi thứ tung tóe hết cả.”
Tôi hít một hơi đầy phổi, cố giữ nhịp bước bình thường về phía xe. “Hôm nay tôi không hề đến gần phòng làm việc của cô. Sao cô nghĩ tôi có thể làm một việc như thế?”
“Để củng cố các ảo giác của anh trong mắt tôi! Để tôi tin là chúng có thật.”
Giọng cô khá kích động. Vậy ra đêm qua cô không hiểu gì hết? “Chúng ta cần nói chuyện, nhưng không phải như thế này. Cô đang ở văn phòng phải không?”
“Không, tôi đang trên xa lộ 15.”
Có lẽ Rachel đã chạy trên xa lộ 15 suốt chặng đường từ Trung tâm Y khoa Duke đến đồi Chapel. “Cô đang đi taxi phải không?”
“Không, sáng nay tôi lấy xe về rồi.”
“Hãy gặp tôi ở chỗ cô thấy tôi thu băng hình đó.”
“Ý anh nói…”
“Cô biết ở đâu mà. Tôi đang trên đường. Gác máy.”
Cô làm theo.
Tôi kiềm chế hết sức để không chạy mấy bước cuối cùng đến xe.
— —— —— —— ——-
1 Bóng đá trong tiếng Mỹ là “soccer”, trong tiếng Anh là “football”.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!