Tắt Đèn Kể Chuyện Ma (Tập 1) - Chương 14: Sổ sinh tử những chuyện hoang đường
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
143


Tắt Đèn Kể Chuyện Ma (Tập 1)


Chương 14: Sổ sinh tử những chuyện hoang đường


Phần 1

Còn nhớ hồi nhỏ khi xem Tây du ký, tôi từng rất tiếc nuối, không phải vì Tôn Ngộ Không không ngồi trên Bảo điện Linh Tiêu, mà là vì lão Tôn đã đại náo Bảo điện Sâm La, khi đánh dấu vào quyển sổ sinh tử, trong lòng tôi chỉ nghĩ đến nhân vật lớn nổi tiếng bên trong con khỉ, “cửu u thập loại tận trừ danh”[1], nhưng loài người chúng ta lại không có trong số đó. Hóa ra con khỉ này chẳng qua cũng là kẻ chỉ biết đến mình mà thôi! Thế là, nghĩ đến việc mình khó có thể xuống điện Sâm La một lần, tôi liền có chút không phục trước hành động tạo phản kinh thiên động địa đó của Tôn Ngộ Không.

[1] Nghĩa là: tất cả chín âm phủ và mười loài (năm loài tiên, năm loài côn trùng) đều gạch hết tên.

Tôi cứ khăng khăng suy nghĩ đó của mình trong nhiều năm, cho đến những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi được lĩnh giáo về những thủ đoạn của sổ sinh tử do con người tạo ra tôi mới chợt sực tỉnh. Từ đó tôi hiểu được rằng “sau con người chưa chắc phải là ma quỷ, sau ma quỷ chắc chắn là con người”. Gọi là sổ sinh tử, hóa ra vẫn là nằm trong tay con người. Vậy có cần thiết phải bàn tới sổ sinh tử trong giới âm phủ nữa không? Không dám nói là cần thiết, nhưng nói qua một chút cũng không vấn đề gì, bởi từ đó ít nhiều cũng hiểu được chút ít về thời đại đó trong quá khứ. Chỉ là nói cho nặng nề, hơn nữa còn lạc điệu nhảy lời, không như những bài văn sử dụng ngôn từ chính xác, nghiêm túc, tôi tự đề cử dùng từ “chất giọng hoang dã” đi!

1

Nói nghiêm túc thì sổ sinh tử chỉ là một loại sổ sách dưới âm phủ. Sổ sách dưới âm phủ, ngoài việc ghi chép giới hạn tuổi thọ của con người ra, những quyển sổ liên quan đến vấn đề “nhân sự” (loài người chúng ta cũng chỉ qua được “bản thân mình”, còn những cái khác thôi thì tùy chúng mà thôi) còn có rất nhiều loại, chỉ nói về những quyển quan trọng đã có tài liệu chuẩn bị án, sổ lợi lộc, sổ công danh, sổ ghi chép thiện ác, sổ ghi thành tích và thiếu sót, còn có danh bạ bắt bớ linh hồn, sổ đăng nhập hộ tịch cho quỷ đã chết… và tên gọi cũng có nhiều như “sổ, bạ, lục, tịch”. Nhưng xét đến cùng, điểm chủ yếu trong những thứ này sẽ không tách nổi hai chữ “sinh – tử” liên quan đến các sinh linh và ma quỷ. Vì thế, khi nhìn thấy quyển sổ trong tay tên phán quan trong Thập Vương đồ, dù ông ta đang lật giở tìm cái gì đi nữa, hoặc dù nó có được gọi là “sổ sinh tử” đi nữa thì cũng chẳng có sai sót gì lớn.

Trong văn hóa Trung Hoa, thực sự có không ít những thứ khiến người ta tự hào. Việc sáng lập ra chế độ sổ sách của quan phủ từ rất sớm và rất hoàn thiện chính là một trong những việc khiến ta tự hào. Lưu Bang tiến vào biên giới, tấn công Hàm Dương, các tướng tranh thủ lấy vàng bạc, Tiêu Hà “một mình vào lấy quyển sách về pháp lệnh của Tần thừa tướng và phủ ngự sử cất giấu”, vì thế ông biết tất cả những nguy hiểm, những ách tắc và điểm mạnh yếu về lực lượng người trong thiên hạ. Đời sau có người thốt lên rằng, Tần Thủy Hoàng đốt sách diệt Nho, nhưng chưa hoàn toàn muốn diệt chúng, trong tay các vị tiến sĩ đều có giữ bản sao, vậy tại sao lúc đó Tiêu Hà không mau chóng cứu chúng ra? Kết quả Bá Vương Tây Sở lại đến nhóm cho Hàm Dương một mồi lửa, thiêu rụi tất cả những quyển sách quý ấy, từ đó tạo thêm việc cho các nho sinh, có người đi thu nhặt những chương sách bị cháy, sau đó tìm các bậc cao nhân nhờ chỉ dạy, có người lợi dụng thời cơ làm giả sách Nho rồi quát với giá cao, có người tìm chứng cứ hòng để lộ ra chân tướng khiến người kia không đường trốn thoát. Thực ra, những vị nho sinh này đã bận rộn một cách uổng phí, lẽ nào họ không biết những yếu điểm và những vấn đề về mặt con người đã là tiền đề quan trong để chiếm cứ thiên hạ? Mọt sách không thấy được cái lớn, họ luôn luôn là vậy, vì thế họ chỉ xứng với việc lột bỏ mũ áo, giúp đại anh hùng hứng nước tiểu mà thôi.

Cũng với lý lẽ đó, muốn thống trị và quản lý người sống cũng như ma quỷ, âm phủ bắt buộc phải có một quyển sổ sinh tử. Từ kết quả của cuộc đại náo Diêm phủ của Tôn Hành Giả có thể thấy được, nếu Diêm phủ không có được quyển sổ sinh tử của Mỹ Hầu Vương thì cũng đồng nghĩa với việc họ đã mất quyền thống trị đối với đối phương. Sổ sinh tử chính là linh hồn của Diêm phủ, những kẻ làm quan dưới đó chẳng qua chỉ là những nhân viên ma quỷ dùng pháp luật âm ti để quản lý quyển sổ mà thôi. Mà nội dung quan trọng nhất trong quyển sổ sinh tử đó chính là ghi lại những chuyện “thiện và ác” thường ngày của con người. Trong thế giới loài người, dù là túi hồ sơ của bộ phận nhân sự, hay tài liệu đen của cơ quan đặc vụ, quyển sổ chi tiêu ghi chép rõ ràng, chỉ chờ cơ hội để quyết toán, vẫn có một số thiếu sót trong mỗi nha môn, nhưng tất cả các đạo đức gia đều chất chứa trong mình chủ ý xấu xa muốn trừng trị người khác, vì thế họ đều cung cấp những bản phác về quyển sổ thiện ác này. Theo truyền thống bản địa của Trung Quốc, “trong trời đất có phúc, thiện, họa, dâm”, tuổi thọ của con người ngắn hay dài, gia tộc hưng hay suy, đều do kết quả thống kê trong quyển sổ thiện và ác quyết định. Còn một cách nói khác có lẽ được truyền đến từ văn hóa Tây phương (Ấn Độ), nói rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do nghiệp báo của thế hệ trước để lại, nó không chịu ảnh hưởng của việc người đó làm việc thiện hay ác ở kiếp này, nhưng cái thiện và cái ác ở kiếp này sẽ là căn cứ quả báo dành cho kiếp sau, sổ thiện ác có thể nói luôn được phát hành trong tình trạng cung không đủ cầu.

Vì thế, sổ âm phủ tuy có nhiều loại, nhưng xét từ góc độ “kết toán”, nó chỉ được phân làm hai loại lớn, không thể đặt tên cho chúng được, chỉ có thể gọi chúng là hai phái thời gian và không gian.

Phái “không gian”, tuổi thọ của mỗi người giống như một căn phòng trống, đợi đến khi mà số tội của anh ta phạm phải trong thế giới loài người đủ để lấp đầy căn phòng đó, gọi là “tội ác tày trời”, thì có nghĩa là đã đến lúc anh ta phải từ giã cõi trần. Nhưng có thể nhìn nhận từ một góc độ khác, tuổi thọ của con người cũng giống như một bó thẻ bài, mỗi lần phạm tội, người ta sẽ căn cứ vào sự lớn nhỏ của tội ác để rút ra một ít. Đây gọi là “tính phép trừ”, đợi đến khi số thẻ là 0 thì coi như phép tính đã được tính xong. Nhưng nếu anh làm việc thiện thì sao? Vậy thì anh có thể “tăng tuổi thọ”, người ta sẽ bổ sung thêm cho anh những thẻ bài khác. Việc này có vẻ rất công bằng, nhưng cũng không hẳn vậy, có người làm vô số những việc thất đức đến mức không kể hết, nhưng họ vẫn sống rất tự tại, còn có người vừa mới sinh, chỉ mới khóc có vài tiếng, cùng lắm là tiếng khóc của họ đã gây ảnh hưởng đến môi trường một chút, nhưng đột nhiên ngừng thở, tuổi thọ của anh đến đây chấm dứt. Việc này thực sự khó mà nói rõ được, nếu muốn giải thích, có lẽ chỉ có thể nói mỗi một “căn phòng” có độ to nhỏ không giống nhau, số thẻ trong từng bó có bó ít có bó nhiều chăng? Nhưng dù thế nào đi nữa, theo quan điểm của phái này, tuổi thọ của con người dài hay ngắn chí ít có thể do bản thân mình quyết định một phần, đó là nên làm nhiều việc tốt, ít làm chuyện thất đức.

Phái “thời gian” cho rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do trời định, con người không thể thay đổi nó. Một người nào đó phạm tội ở dương gian, âm ti chỉ lo việc ghi vào sổ, còn khoản nợ phải đợi đến sau thu mới giải quyết. Cũng có nghĩa là, cho dù người ta có đốt sách diệt Nho như Tần Thủy Hoàng, giết hại người trung thành, lương thiện như Tần Hội, thì họ vẫn được sống rất thoải mái, cho đến khi trời phán rằng “đại hạn” đã đến rồi, lúc đó họ mới phải đến gặp Diêm La Vương để tính toán tổng số nợ, và tất cả mọi sự quả báo hoặc là sẽ xuống địa ngục, hoặc là đổ lên đầu con cháu đời sau, tóm lại là không ai cho họ nhìn thấy quả báo của mình. Cũng với lý lẽ đó, kiếp này chúng ta làm nhiều việc tốt cũng chỉ là uổng phí công sức mà thôi, bởi họa, phúc, thọ, yểu của kiếp này đã được định sẵn rồi, anh chỉ có thể tích đức để đời sau của mình hưởng nó mà thôi. Trước kia, chiếc cột chính trong miếu Thành Hoàng có treo một chiếc mâm lớn rộng khoảng một trượng, có nơi phía trên còn viết năm chữ lớn: “Cậu cũng đến rồi à!”, khiến người đọc nó vô cùng sửng sốt. Chữ “cậu” vốn dùng để gọi linh hồn của người đã chết, nhưng thực tế là để cho người sống xem, ý nói bạn là anh hùng một thời, đã xưng bá tại một nước hay một con ngõ nào đó, nhưng cuối cùng cũng khó mà thoát khỏi cái chết. Anh hùng xem xong cũng chỉ cười một tiếng, làm sao biết sau khi chết mình có phải tính toán nợ nần hay không, ngay lúc này tôi còn có thể tháo dỡ cái miếu Thành Hoàng này ấy chứ!

Tóm lại, một phái giống như đánh bóng chuyền, thua hết điểm thì ra ngoài sân, một phái lại giống như đánh bóng rổ, lấy thời gian làm thước đo, có thể thua trong sự thoải mái hân hoan. Lẽ tất nhiên hai phái này có thể tìm ra một vài điểm có sự giao thoa giữa Trung Quốc và nước ngoài, giữa Đạo giáo và Phật giáo, cũng có thể nhận ra điểm không dung hòa giữa chúng, nhưng giữa chúng lại chưa từng xảy ra xung đột tranh chấp, hơn nữa còn có thể hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, mặt trời mặt trăng phối hợp với nhau khá ăn ý. Lúc thì giáo dục người dân chỉ cần làm nhiều việc thiện, ắt sẽ được thiện giả thiện báo, lúc lại biện giải cho đám thân sĩ giàu có kia tuy làm nhiều việc ác, nhưng chưa chắc đã gặp ác giả ác báo. Và tất nhiên, hai bên cùng vui, hòa thuận với nhau chắc chắn là kết quả cuối cùng. Vì thế hai trường phái này nhìn có vẻ như tương phản, nhưng thực chất lại là người hai mặt, cứ thay đổi cách nhìn nhận trong bộ não của mình để tồn tại suốt hàng nghìn năm nay.

2

Sổ sách âm phủ lớn nhất Trung Quốc có vẻ như thuộc về phái không gian.

“Thổ phủ” – xuất hiện vào khoảng thời Đông Hán, có lẽ là Diêm Phủ chính thức, tương đối độc lập với thiên đình sớm nhất Trung Quốc. Nó được xây dựng dựa trên cơ sở “quyển sổ thiện ác”. Tác phẩm kinh điển thời kỳ đầu của Đạo giáo là Kinh Thái Bình, chương Canh bộ chi bát trong đó nói rằng, sự khống chế của Thiên đế đối với cuộc đời của con người thông qua những hành vi và lời nói thường ngày của họ được ghi lại trong “sổ thiện ác, một khi đã gây ra tội ác tày đình thì linh hồn của người đó sẽ được giao cho “Địa thần” trong “quỷ môn”, do Địa thần thẩm vấn, dùng hình, sau đó lại được giao cho “Mệnh tào” đối chiếu giữa tuổi thọ và tội ác của người này, nếu những hành vi tội ác của người này đã sát tận với tuổi thọ, thì hẳn người này đã đến lúc “vào đất”, hơn nữa ác nghiệt của hắn sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau, đây chính là mục chú giải “gia đình tích phúc, con cháu được nhờ, không biết tích phúc, họa chờ đời sau” của Nho gia.

Nhưng theo tác phẩm kinh điển của Nho gia có nói, nếu không phải là những tội ác thật nghiêm trọng, thì hình như tội ác đó không ảnh hưởng đến con cháu sau này. Cái gọi là “đại tội có năm loại, trong đó giết người không thuộc đại tội” (Đại đới lễ ký – Chương Bản mệnh), ngoài những tội nghịch với luân lý lẽ trời sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau thì tội giết người chẳng qua cũng chỉ “báo ứng với bản thân” mà thôi, nó tuyệt đối không liên lụy đến con cháu sau này. Xét sơ qua, tầng lớp thống trị thời cổ đại vẫn còn khá tử tế. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thấy họ vô cùng đáng sợ, cái gọi là nghịch với lẽ trời, nghịch với đạo làm người, vu cáo quỷ thần…tất cả không phải tội lỗi về mặt tư tưởng sao? Tội tư tưởng nếu muốn xử thì hai đời đến năm đời cũng chưa thích đáng, trên thì đào mộ tổ, dưới thì giết hại con cháu, nếu đem so sánh thì tội phóng hỏa giết người chỉ là tội nhẹ do “một chút sơ suất” thôi ư? Đến đây mới khiến tôi hiểu ra rằng, tại sao phạm vi liên lụy của ngục Văn tự trong lịch sử lại mênh mông bát ngát đến vậy, còn những tai nạn nghiêm trọng liên lụy năm đời, ảnh hưởng chín tộc đem gắn với hai chữ “văn hóa” thì quả là không sát thực chút nào.

Đến Canh bộ chi thập, ngoài Thổ phủ ra, tác phẩm còn nhắc tới các âm cung khác, mỗi đợt đông chí đến cần thu thập tất cả các quyển “sổ câu hiệu” dân thường khắp thiên hạ. “Câu” là bắt giữ, “hiệu” là tra hỏi, “sổ câu hiệu” chính là sổ dùng để ghi chép những tội ác có lệnh bắt của dân thường. Lúc này, tất cả những vị thần tiên được thờ cúng trong thiên hạ đều phải báo cáo mọi thông tin lên trên, các vị thần gia đình hằng ngày phụ trách việc giám sát những lời nói, cử chỉ của người dân, mỗi tháng đều phải tập hợp một lần, lúc đó đương nhiên cũng phải trình báo theo quy định. Sau đó “Thái âm pháp tào” sẽ tiến hành thống kê, đối chiếu, rồi triệu “Thần địa âm” và “Thổ phủ”, hai đối tượng này sẽ phụ trách bắt và thẩm vấn. Trình tự này nghe thì rất đáng sợ, nhưng đối với những người dân đã quen chịu gõ đầu, bóc lột, những cái đó chẳng qua cũng chỉ cần dùng một câu để ứng phó: “Cùng lắm là chết chứ gì!”

Nhưng điều không ngờ rằng, chỉ với vài thảo dân mà cũng cần nhiều sơn hải chư thần và thần nhà cùng lúc hầu hạ như vậy, tự ghi chép những hành vi cử chỉ cho mình có lẽ cũng chẳng phải việc gì phiền phức. Vì thế sau này họ đã đơn giản hóa cơ cấu nghiệp vụ này, người chuyên chức phụ trách công việc này chính là “tam thi”[2] – điều mà các đạo sĩ quan tâm. (Còn ông Táo – người mà các hộ dân không muốn rời xa lại kiêm nhận chức trách đó, có lẽ bởi ông Táo quá hiểu tính cách của con người, dễ bị những người dân thường mua chuộc, trở thành người không đáng tin cậy trong mắt ông trời chăng?) Thần tam thi ẩn nấp trong cơ thể con người, cứ sáu mươi ngày một lần, vào ngày Canh Thân ông lại lén lút thoát ra ngoài báo cáo với đặc vụ. Theo cách nói những người tu đạo luôn lấy việc hành đức làm cốt lõi, thì họ vốn không cần lo lắng vì những điều được báo cáo này, nhưng vì muốn nhanh chóng thoát khỏi sự trói buộc trong hình dáng một con người, để sống một cuộc sống tiêu diêu thoải mái, thần tam thi lại vui mừng khi khiến những người này chết sớm, vì thế nhất định ông phải bịa ra thứ gì đó không có thật. Còn những kẻ tu đạo cũng có chủ ý của riêng mình, cứ đến ngày Canh Thân họ lại thức trắng đêm không ngủ, khiến tam thi không có cơ hội chuồn ra bên ngoài, cứ như vậy, cuối cùng họ thức đến mức “thần tam thi lồng lộn lên” (mượn từ ngữ trong tiểu thuyết, lại không tương xứng với ý nghĩa câu “giận dữ xung thiên”), cuối cùng tức mà chết, vị lão đạo này sau này không thành tiên, chỉ thành tinh mà thôi.

[2] Tam thi: ba xác chết

Từ đó có thể nhận ra, sổ âm phủ của phái không gian hóa ra lại có nguồn gốc sâu xa với Đạo giáo bản địa Trung Quốc, vì thế họ trích ra từ Kinh Thái Bình cũng là việc hết sức đương nhiên. Dùng biện pháp mềm mỏng để đối phó với mật thám, có thể gọi đó là tinh túy trong chiến thuật của Lão Tử, chưa bắt đầu thì chưa ảnh hưởng đến đời sau. Nhưng quyển sổ thiện ác đó lại hoàn toàn trùng khớp với nguyện vọng của các bậc chính nhân quân tử sau này, họ có bổ sung thêm phần thiếu sót “trong quan phủ ở dương gian không có điều lệ ghi chép lại công danh và sai sót của con người”, đối với những người dân thường mà nói, họ không thể chỉ nói “cùng lắm là chết chứ gì?” là có thể ứng phó được với quá khứ.

Gần đến triều Hán Ngụy, tăng lữ Phật giáo Tây phương liên tiếp tới Trung Quốc vài lần, tuy họ vẫn chưa thể tự do truyền giáo vào đời sống của người dân Trung Quốc, nhưng những tác phẩm kinh điển của Phật giáo đã bắt đầu được dịch sang tiếng Hán, trong đó quan điểm ở âm phủ đã có địa ngục (tám địa ngục lửa, tám địa ngục băng) dưới ngọn núi Thiết Vi lớn. Nhưng khi họ biên dịch, với một chút lơ là đã tạo ra từ “địa ngục Thái Sơn”, Thái Sơn vốn có nghĩa là một ngọn núi khổng lồ, chính là chỉ ngọn núi Thiết Vi kia. Nhưng các vị hòa thượng Tây phương chưa từng nghĩ tới sẽ sang núi Đông Nhạc để vẫn có thể viết được Thái Sơn, càng không nghĩ địa ngục Thái Sơn của mình bị con rắn Địa đầu lấy đi mất, sau khi thay đổi một chút đã biến thành đồ của người ta. Hóa ra, tôn giáo bản địa của Trung Quốc lúc bấy giờ cũng đang trong giai đoạn phát triển, Trương Lỗ – đệ tử của Ngũ Đấu Mễ đạo[3] gần như đã hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, đại anh hùng Tào Mạnh Đức cảm thấy đó không phải là một việc tốt, nên sau khi bình định Hán Trung, ông bèn “Võ Ngụy cung roi” dồn tất cả phương sĩ khắp nơi rầm rộ tiến về kinh thành trong phạm vi thế lực của mình, sử dụng hình thức chăm nuôi để nhốt họ lại. Những phương sĩ sống tản cư bên ngoài sau khi vào đến những đô thị lớn, họ có cơ hội để giao lưu với đủ các loại người, và thời bấy giờ hòa thượng cũng là một loại phương sĩ. Tôi đoán rằng, vào lúc này, “địa ngục Thái Sơn” của Phật giáo đã bị các phương sĩ địa phương “vay mượn” thành “Thái Sơn Phủ Quân” mang cái mác MADE IN CHINA. Ông Tiền Trọng Thư nói: “Từ lúc ngựa trắng chở kinh về, Thái Sơn càng trở thành một cái tên khác của địa ngục”. Thái Sơn từ một ngọn núi thần tiên biến thành quỷ phủ, đó là việc xảy ra sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, và lúc đó quyển sổ âm phủ trong nha môn Thái Sơn Phủ Quân bắt đầu xuất hiện phái thời gian. Dưới đây là câu chuyện sau khi Thái Sơn Phủ Quân nắm giữ âm phủ:

Năm Kiến An, triều vua Hán Hiến Đế, tại Nam Dương có người trên Giả Ngẫu, tự là Văn Hợp do mắc bệnh mà chết. Khi chết, có viên quan nhỏ cầm một chiếu chỉ của Thái Sơn tới. Những người trùng tên Văn Hợp có tất cả mười người cả nam lẫn nữ, quan tư mệnh kiểm tra kỹ lại, rồi nói với quan hành sự rằng: “Nay muốn triệu Văn Hợp tới, làm thế nào để triệu được người này? Hãy mau chóng trả hắn về dương gian.” (“Sưu thần ký” quyển hai mươi mốt.)

[3] Ngũ Đấu Mễ đạo: nghĩa là “ đạo Năm Đấu Gạo”, cũng gọi là Thiên Sư đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34-156) sáng lập.

Diêm phủ đã bắt nhầm người, khiến người ta phải chết oan, người không nên chết thì đã chết, còn người nên chết thì vẫn sống. Hãy quay lại xem quá trình bắt bớ trong Kinh Thái Bình, có thể thấy khi lấy căn cứ là quyển sổ thiện ác thì việc bắt bớ sẽ không được thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng nếu chỉ nhìn vào tên của những người đã hết hạn sống trong sổ thiện ác hiện nay, trường hợp trùng tên là rất nhiều, phải tra thêm hộ tịch, nhưng thi thoảng cũng xảy ra sơ suất, để rồi bắt những người không liên can tới Diêm phủ. Nhưng theo quy định nghiêm ngặt của phái thời gian, nếu người này chưa đến hạn chết, thì Diêm phủ không thể bắt bớ linh hồn của anh ta, nhưng giống như những tên quan phủ trên dương gian, họ không bao giờ chịu nhận lỗi về mình, đã s ai thì cho sai luôn, hoặc giống như Đào Cương, triều Lý đã bắt nhầm nhưng vẫn bị Diêm phủ giữ lại linh hồn, điều đó là không thể được. Nếu đã không thể giữ được linh hồn người đó, vậy chỉ còn cách đưa họ trở về dương gian, nếu không người bị bắt nhầm sẽ trở thành linh hồn lưu lạc không nơi trú thân, để rồi biến thành kẻ trụy lạc chết thảm trong cô đơn, từ đó quay lại quấy phá hai giới âm dương, đó cũng là sự việc khiến người ta hết sức đau đầu. (Sau này, vấn đề này đã có một cách giải quyết thích hợp, đó là thiết kế một nơi thu nhận hoặc tập trung tất cả linh hồn chết oan lang thang, điều này sẽ được bàn tới trong chương khác.)

Vị Giả Văn Hợp này vẫn được coi là may mắn, khi quan tư mệnh tới đón nhận linh hồn mới phát hiện ra có trên mười trường hợp trùng tên. Sau khi rà soát kỹ càng, quả nhiên có sai sót, chỉ còn một cách đó là mau chóng thả linh hồn người này trở về dương gian. Trên đường trở về dương gian, Giả Văn Hợp gặp một người phụ nữ cũng bị bắt nhầm rồi được thả về. Nhưng thế giới âm phủ hỗn loạn, thời gian gấp gáp, dù là một người phụ nữ yếu đuối nhưng mấy tên nha dịch cõi âm vẫn mạnh tay mạnh chân quẳng hai linh hồn trở về dương gian rồi nhanh chóng biến mất. Trên con đường u tối của thế giới âm phủ, cô gái gặp rất nhiều khó khăn, cũng may gặp được chàng thanh niên Giả Văn Hợp, hai người giúp đỡ nhau trên suốt chặng đường, cuối cùng cả hai cũng tìm về được với dương gian, đồng thời họ tạo nên một mối nhân duyên hạnh phúc, khiến người ta hiểu ra rằng, hóa ra việc tốt luôn xuất hiện từ những việc không may, khi tổ chức lễ thành hôn đừng quên mang kẹo cưới gửi tặng anh lính sai đã bắt nhầm hai người tới âm phủ nhé!

3

Từ thời Hán – Ngụy đến nay, những câu chuyện “bắt nhầm – trả về” nơi cõi âm xảy ra quá nhiều, có thể nói đó là một loại lớn trong các loại chuyện về thế giới âm phủ. Tuy rằng trong những yếu tố tạo nên loại hình này không thể thiếu quyển sổ sinh tử. Nhưng điểm quan trọng của câu chuyện không phải ở chỗ muốn chứng tỏ quyền uy của sổ sinh tử, cũng không phải để tạo nên những câu chuyện tốt đẹp như của chàng trai Giả Văn Hợp và cô nương Đỗ Lệ. Loại chuyện này sở dĩ được nhắc đến nhiều lần, được các tín đồ Phật giáo không ngừng tuyên truyền, giảng giải, đó là vì nó có nhắc tới tình tiết tham quan địa ngục. Đã bắt nhầm, theo lý phải trả người về, nhưng Diêm Vương còn đảm nhiệm công tác bộ trưởng bộ tuyên truyền trong thế giới âm phủ, thế là ông không để cho người đó uổng phí một lần đến đây. Diêm Vương cử người dẫn họ đi tham quan tất cả mười tám địa ngục, hơn nữa không biết ông đã giở trò gì mà bình thường sau cơn mơ, người ta sẽ quên gần hết những điều đã xảy ra trong đó, nhưng ở đây, những người này sau khi trở lại dương gian, họ có thể viết ra những bài bút ký thực sự sinh động về quá trình tham quan địa ngục.

Nhưng những câu chuyện lấy sổ sinh tử và thuyết định mệnh làm chủ đề cũng không ít, đó là những câu chuyện kể quan âm phủ cầm quyển sổ sinh tử tới chiến trường để điểm danh những binh lính đã hi sinh.

Đây cũng chính là chủ đề chính của các câu chuyện về cõi âm có sức sống từ hàng ngàn năm nay. Câu chuyện sớm nhất xuất hiện trong Bác dị chí của Cốc Thần Tử, người thời Đường và Hà Đông ký của Tiết Ngư Tư, còn đến cuối triều Thanh, những chuyện như thế này vẫn được người ta đón nhận một cách thích thú. Bác dị chí kể về Bình hoắc tây Ngô Nguyên Tế năm Nguyên Hòa thứ mười hai, triều vua Đường Hiến Tông. Khi Triệu Xương Thời trở thành phó tướng của Ngô Nguyên Tế, ông cùng với Lý Tố chiến đấu tại thành Thanh Lăng, rồi bị trúng đao từ phía sau, ông ngã xuống từ trên lưng ngựa mà chết. Vào khoảng bốn giờ sáng, ông bỗng như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mộng, nghe thấy bên ngoài tiếng tướng lính đang điểm danh duyệt binh, hô đến tên của ai, người đó dõng dạc lên tiếng đáp lời. Cứ như vậy họ đã điểm danh cả hơn nghìn người. Triệu Xương Thời chú ý lắng nghe, nhưng đến khi công việc điểm danh hoàn tất, vẫn không nghe thấy ai điểm danh tên mình. Trời chuyển sáng, người điểm danh đã không còn ở đó nữa, Triệu Xương Thời băn khoăn ngồi dậy, ông nhìn những xác chết xung quanh mình, tất cả đều là những người được đọc tên lúc đêm qua, giờ đây ông mới biết hóa ra là đêm qua quan âm phủ điểm duyệt, những chiến sĩ chết nơi trận mạc đều là định mệnh cả.

Chủ đề của câu chuyện chính là “định mệnh”. Nhưng nếu người đã chết, thì quan âm phủ chỉ cần điểm tên của linh hồn là được rồi, sao còn phải đối chiếu với những thi thể đã chết? Trừ phi những hồn ma của binh lính cũng cần tập hợp xếp hàng rồi bắt đầu đi duyệt binh? Lý do đó dường như không được hợp lý thì phải, nhưng trong buổi điểm danh đêm qua, giọng đáp lời của những binh lính đã chết tạo nên một không khí rất ghê rợn, đó chính xác là một thành công trong việc sáng tác những câu chuyện ma. Nó xứng đáng liệt vào danh sách những đề tài khủng bố đến dựng tóc gáy như xác chết di động, linh hồn quay lại, hồn ma hàm oan… Bởi thế, những thế hệ sau sẽ không thấy chán khi lặp lại chúng, và thỉnh thoảng họ cũng cho thêm những nguyên liệu mới mẻ vào trong câu chuyện. Thế là “chỉ cần hô gọi họ tên, xác chết lập tức đứng dậy đáp lời” (chương Vương Tuyên Trạch mượn binh, quyển mười, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại thời Nam Tống), khi được gọi đến tên, người đó đã là một xác chết cương cứng, chỉ có thể nhảy lên theo chiều thẳng đứng miệng hô “có”, sau đó lại “phịch” một tiếng đổ thẳng xuống đất. Dưới ánh trăng ảm đạm, hàng nghìn xác chết cứ làm đi làm lại như thế, đó là cảnh tượng “đêm người chết sống lại” khiến người ta chỉ cần nghĩ tới đã thấy dựng tóc gáy. Nhưng dường như chúng vẫn để lại những điểm có thể tiếp tục phát huy, để rồi đến đầu đời Thanh, trong tác phẩm Thục Bích lại yêu cầu “sau mỗi một tiếng điểm danh, người chết liền xách đầu mình đứng dậy”. Các vị tú tài, các cử nhân lũ lượt kéo đến trường thi, họ biết rõ việc kiểm tra xác định nhân thân là tất yếu, vì thế họ cho rằng trong sổ sách âm phủ cũng nên có điều khoản “tuổi tác – hình dáng”, chẳng hạn như người chết nếu không xách chiếc đầu lâu “lấm lem máu” của mình sẽ dễ dàng bị cho là mạo nhận tên tuổi. Ngay cả các bộ phim khủng bố nhất như Xác chết di động cũng không thể so sánh được với những câu chuyện thuần túy theo đuổi hiệu quả gây sốc này, nhưng Bồ Tùng Linh vẫn có thể giúp không khí ghê rợn trong đêm chiến trận thời cổ đại được đẩy lên cao một bậc.

Mẩu chuyện Liêu Dương Quân trong Liêu trai cũng đã sử dụng hình thức điểm danh, chỉ có điều người không phải chết đã bị chém rơi đầu, quan Diêm phủ bèn lệnh cho đám lâu la gắn đầu anh ta lại, sau đó đưa anh ta rời khỏi âm phủ, đây có thể cho là một sáng kiến mới mẻ, nhưng chưa tạo được nét độc đáo khác cho tác phẩm của mình. Còn chuyện Chó hoang kể rằng binh lính triều Thanh trấn áp bảy đội quân phiến loạn, giết người không ghê tay, một kẻ muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó, bèn giả vờ chết giữa đống thi thể. Đợi đến khi quân Thanh rời khỏi, lúc đó đất trời cũng đã chìm vào màn đêm đen kịt.

Bỗng thấy cả rừng xác chết không đầu, không tay bỗng nhiên đứng dậy. Một trong những xác chết ấy đầu vẫn đang vắt vẻo trên vai, một âm thanh phát ra từ miệng người đó: “Tên chó hoang kia đến đây làm gì?” Cả đám xác chết cùng ứng theo: “Làm gì?” Nói xong, chúng lại đồng loạt ngã vật ra đất, không nói thêm lời nào nữa.

Bỗng chốc một rừng xác chết đứng bật dậy, rồi lại đột nhiên ngã vật ra đất, đó là giây phút tĩnh lặng bên xác chết vào lúc đêm khuya, để chờ đợi thứ đáng sợ nhất xuất hiện. Đoạn vừa rồi tuy không phải là câu chuyện về cảnh “điểm danh trên chiến trường”, nhưng nó đã tập trung vào hoàn cảnh khủng khiếp của câu chuyện, thể hiện thành công tính thảm khốc của cảnh chết chóc giết hại người dân không ghê tay của binh lính triều Thanh. Vậy nếu là cảnh bị chết chìm giữa sông thì sao? Trong chương Phú quý sống chết có số,quyển bốn, cuốn Khách song hiếm thoại – phần tiếp theo, Ngô Xí Xương có viết, những kẽ chết đuối, chết chìm cũng có một viên quan âm phủ đến điểm danh. Vậy tất nhiên những xác chết ở đây không thể gây ra những cảnh kinh hãi như những xác chết cứng đơ nơi đồng không mông quạnh được. Nhưng hãy tưởng tượng, những xác chết đứng dậy lửng lơ trên mặt nước, xếp thành hàng ngũ, chắc có lẽ sẽ tạo cho bạn một cảm giác cõi âm khác biệt chứ!

Nhưng những câu chuyện cũng không chỉ dừng lại ở việc tạo ra cảm giác sợ hãi, chủ đề định mệnh cũng được chú ý và thực hiện sâu sắc hơn. Những người chưa đến số phải chết không những không phải điểm danh, mà quan âm phủ còn vạch trần ra xem người này sẽ chết sau bao nhiêu năm nữa, và sẽ chết ở nơi nào. Tác phẩm Quý tân tạp thức của Chu Mật người Nam Tống có ghi lại câu chuyện xảy ra vào thời Nam Tống Ninh Tông: người Mãn xâm phạm từ phía nam, giết người vô kể, xương chất thành núi, thịt chất thành tầng, giết xong chúng còn lùng sục lại xem có ai chưa chết hẳn thì dùng búa sắt đánh cho chết hẳn rồi mới chịu đi. Trong số đó có một người may mắn vẫn chưa chết hẳn, đêm đến, thấy người của quan phủ đốt đèn đi tới điểm danh người đã chết trong sổ, đọc đến tên người nào, xác chết của người đó đứng bật dậy, rồi lại lập tức ngã xuống. Khi đọc đến tên người kia, anh ta cũng đứng dậy. Lúc này, bỗng nghe có người nói: “Người này vẫn chưa chết.” Và rồi theo sổ sinh tử viết: “Sau hai mươi năm nữa ngươi sẽ chết ở Thần Châu.” Người này đã được miễn chết, mặc dù sau này anh ta đặc biệt cẩn thận không bao giờ đi Thần Châu, luôn sống an phận theo pháp luật, nhưng cuối cùng anh ta cũng không thoát được định mệnh của mình, phải chịu một nhát đao oan uổng trên pháp trường Thần Châu.

Về sau, chương Thủ thuật chi bại, quyển mười hai, cuốn Lưỡng sơn mặc đàm của Trần Đình người đời Thanh, chương Kẻ họ Nhược trong quyển Sạn trong ngọc của Đổng Cốc, chương Sống chết định trước, quyển sáu, cuốn Dung am bút ký của Tiết Phúc Thành, người đời Thanh, ba tác phẩm này cơ bản cũng kể về những cảnh tượng như vậy, không thấy xuất hiện bất kỳ một chi tiết mới nào. Chỉ đến tác phẩm Di viên đàm dị của Trần Dị người đời Thanh, trong chương Kẻ mặt rỗ họ Châu, “phái không gian” mới tham gia vào thể loại truyện này.

Vào năm Kỷ Mùi, năm canh Thân Hàm Phong, quân Thái Bình chiếm lĩnh khu vực phía nam sông Trường Giang, và phía tây thành phố Trấn Giang, cả khu vực Dương Châu phía bắc sông Trường Giang, người dân không mắc bệnh tật, cuộc sống êm đềm. Giang Nam rơi vào bẫy, người dân muốn chạy trốn và đa số đều chết bởi binh lính đem ngựa đuổi theo chém giết, hai bên sông xác chết thành đập. Một người họ Giáp may mắn sống sót, nằm ẩn mình trong đám xác chết, nửa đêm, những tiếng hô gọi từ xa vọng lại, anh ta thấy thần Thành Hoàng dẫn theo quan binh âm phủ cầm sổ sinh tử điểm tên xác chết. Đọc đến người họ Giáp này, Thành Hoàng nói: “Không phải, ngày mai tên mặt rỗ họ Châu sẽ cướp đi mạng sống của ngươi.” Ngày hôm sau, người họ Giáp này gặp một người phụ nữ, cô ta nói mình bị cướp hết tiền bạc, giờ đây không biết sống bằng cách nào, nên muốn đi tìm cái chết. Người này nghĩ, đằng nào hôm nay ta cũng chết trong tay tên mặt rỗ họ Châu, vậy ta còn giữ tiền làm gì? Nghĩ rồi anh ta khẳng khái đưa tất cả số tiền của mình tặng cho người phụ nữ. Quả nhiên, một lúc sau, anh ta nhìn thấy một người vung đao lao tới, người họ Giáp liền gọi: “Châu mặt rỗ!” Người kia hỏi: “Sao ngươi biết tên ta?” Người họ Giáp tiến lên phía trước, nói: “Hôm nay ta sẽ chết trong tay Châu mặt rỗ nhà ngươi, xin hãy mau giết ta đi.” Châu mặt rỗ kinh ngạc đáp: “Đồ điên! Ngươi bảo ta giết ngươi, nhưng ta không giết đấy.” Thế là người họ Giáp cứ khăng khăng đuổi theo Châu mặt rỗ yêu cầu hắn giết mình, Châu mặt rỗ thấy vậy như gặp phải ma, hắn cướp chỗ tiền của người phụ nữ kia rồi nhanh chóng tẩu thoát. Câu chuyện hình như có chút thay đổi, thực ra đó chẳng qua là lối viết lấy việc thiện để thay đổi định mệnh đã cũ mèm mà thôi, nói cho cùng, chúng vẫn không thể tách rời hai chữ “định mệnh”.

Xét cho cùng, định mệnh trong sổ sách âm phủ là một thứ rất lạnh nhạt, rất vô tình, nó coi việc quản lý chặt chẽ mạng sống của con người là thay đời hành đạo. Quyển sáu trong Mao đình khách thoại của Hoàng Hưu Phục, người thời Bắc Tống có chương Ai Diên Tộ, chương này đã dùng câu chuyện sổ sinh tử điểm danh để biện hộ cho việc giết người trong vụ trấn áp cuộc khởi nghĩa Lý Thuận tại Thành Đô: “Được biết triều đình truy đánh quân phản nghịch, giết chết nhiều người, đó là thay trời hành đạo, không có gì là sai cả.” Triều đình giết người là tuân theo lệnh trời, hàng ngàn, hàng vạn người dân vô tội bị cướp đi mạng sống, đó tuyệt đối không có gì oan uổng cả. Vậy những người thuộc dân tộc khác tới xâm phạm, họ cũng giết hại biết bao người dân hiền lành, vậy nó được coi là gì? Quyển bốn, tác phẩm Bàn về núi Thiết Vi của Thái Điều thời Nam Tống có viết, vào năm Kiến Viêm Nam Tống, quân đội nhà Kim xâm lược từ hướng nam, triều đình bỏ mặc dân chúng, một mình tháo chạy về hướng nam, nhằm khiến quân địch mắc lừa. Quan Lang Hầu Mậu cùng hai người khác không kịp chạy trốn, bèn nấp mình trên chiếc cột lớn ở gian giữa ngôi nhà trong vườn hoa. Một ngày nọ, họ nhìn thấy hàng nghìn quân nhà Kim lũ lượt kéo tới, chúng ngồi trong gian giữa, lệnh cho lũ lâu la áp tải những người dân bị bắt vào trong, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, chúng nhất loạt dùng gậy đập chết, xác người chồng chất lên nhau. Xế chiều, khi giết hết số người ở đó, chúng mới rời khỏi. Đến nửa đêm, quan binh âm phủ đến điểm danh, trong đó chỉ có bốn xác chết được quan binh âm phủ nói “không phải”. Ngày hôm sau, quả nhiên chỉ có bốn người đó sống lại. Đương nhiên sự việc này cũng là do “ thiên mệnh”, không liên quan gì đến sự phủ bại, bất lực, chỉ biết lo cho bản thân của triều đình. Đói khát, hoang tàn, lạnh giá, binh biến, ôn dịch, lũ lụt, động đất…tất cả đều là do ông trời muốn “thu người”. Nếu đã là do ông trời muốn bắt lại, vậy anh không đi có được không? Hoàng đế muốn ngăn cản liệu có được không? Huống hồ Vạn Tuế gia lại là đứa “con trời” thực sự (lúc này cũng đừng kéo cả những “đứa con đáng tự hào của trời” được nhận học bổng vào nhé!), giúp cha mình một tay âu cũng là đạo lý muôn thuở ở đời!

4

Từ Kinh Thái Bình đã nêu ra ở phần trước, chúng ta có thể nói sổ thiện ác xuất hiện cùng lúc với Diêm phủ. Diêm phủ đã có lịch sử hai nghìn năm, ngôi vị Diêm Vương gia đã được hoán đổi hai trăm đời, nhưng tình hình chung của Diêm phủ vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn là tiến trình quen thuộc, đặc vụ báo tin cho quan quân Diêm phủ, quan quân tổng hợp lại rồi báo với Diêm Vương.

Loại sổ sách ghi chép lại những công đức, tội lỗi này, đến đời đường còn được gọi là “sổ Mậu Thân”. “Mậu Thân” nghĩa là gì, từ trước đến nay chưa có ai đi giải thích nó, cũng may trong tác phẩm Dậu dương tạp trở, Đoạn Thành Thức đã ghi chép về nó: “Thu nhận cáo trạng như nhân gian, đầu tiên hỏi ngày sinh, tiếp đến hỏi họ tên, tuổi tác, bên dưới có ghi chú ngày, tháng, năm sinh, ở dòng khác ghi Lục tuần (60) Giáp Tý, công lao và tội lỗi từng có, hiện phạm tội gì, nếu không có thì viết “vô sự”, tức không có chuyện gì. Người được ghi tên vào sổ này “nhiều vô kể”, theo Chu Y Nhân – người quản giữ quyển sổ nói: “Cứ sáu mươi năm quyển sổ này lại ghi tên người trong thiên hạ một lần, để kiểm tra và đối chiếu việc thiện, việc ác của người đó, tuổi thọ tăng hay giảm sẽ do người đó tự quyết định.” Như vậy, sáu mươi năm là thời gian để thanh toán tổng số nợ, và cũng chính là một tuổi mậu thân, có lẽ vì thế mà nó được gọi là “sổ Mậu Thân”? Đây cũng chỉ là điều suy đoán của tác giả mà thôi. Quyển “sổ Mậu Thân” này gần giống với quyển hồ sơ nah6n sự của quan phủ, có thể ghi chép công danh và tội lỗi của người đó bất cứ lúc nào, rồi lấy đó làm căn cứ để tăng hoặc giảm tuổi thọ hay chức vụ, bổng lộc của con người, việc phân loại của nó ắt đã được nghiên cứu kỹ càng.

Còn quyển sổ âm phủ trong Hồi dương ký của Trần Thúc Văn có vẻ phức tạp hơn so với quyển “sổ Mậu Thân”, “tất cả mọi việc được thực hiện đều có mục đích của nó, vì vậy việc gì cũng phải được ghi vào sổ”. Vậy thì những ghi chép vào sổ không chỉ giới hạn ở ngôn từ, cử chỉ, mà còn bao gồm cả những ý niệm trong đầu, cho dù đó chỉ là “một chút suy nghĩ riêng tư thoáng qua” cũng phải ghi vào trong hồ sơ. Quyển “sổ vô cùng” này “ghi việc thiện lớn thì dùng chữ vàng, việc thiện nhỏ thì dùng chữ đỏ, ghi việc ác lớn thì dùng chữ xanh lục, việc ác nhỏ thì dùng chữ đen”, như vậy có thể khiến người ta “không cảm thấy rợn tóc gáy” khi nhìn thấy, nghĩ rằng nó đã thực sự chạm đến linh hồn. Chỉ cần trong đầu xuất hiện một suy nghĩ, suy nghĩ đó chắc chắn sẽ bị Diêm phủ nhìn thấu. Có thể ngay cả thần Tam thi ẩn náu trong hình dáng con người cũng không thể làm như thế được. Nhưng đó cũng không phải là thứ có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, mà có lẽ nó chỉ là sự cáo giải của tôn giáo Tây phương, là sự giao lưu tâm linh trong thổ giáo, chúng biến phép khiến những điều bạn suy nghĩ trong lòng bị mang ra ánh sáng. Cái đáng để chúng ta than thở, đó là một khi hình thức giao lưu tâm linh đó nhận được sự cổ vũ, trở thành một trào lưu trong xã hội loài người, thì không phải chỉ đào sâu nghiên cứu, mà thậm chí còn phải bịa dựng linh tinh. Lúc đó, có lẽ người ta tưởng mình đã thành công, trở thành mô phạm trong việc giao lưu tâm linh, cho đến khi quyển sổ được công khai thì chỉ còn lại sự “ghê rợn tới tận sống lưng” mà thôi.

Đương nhiên, nếu động cơ tốt, muốn mộc mạc hóa phong tục, đến bậc minh vương như Nghiêu – Thuấn cũng có thể khoan dung cho sự đê hèn về mặt thủ đoạn. Vấn đề lại nằm ở chỗ, sổ thiện ác không phải quyển sổ khích lệ người ta học tập tinh thần cứu giúp người vô tư của Lôi Phong. Trong mẩu truyện Thần thành hoàng đô thị, quyển mười một, cuốn Khoái viên[4] của Tiền Hy Ngôn, người đời Minh, chúng ta có thể nhìn thấy mục đích của các bậc chính nhân quân tử khi tạo ra sổ thiện ác.

[4] Nghĩa là: khu vườn xảo quyệt

Năm Long Khánh thứ năm, đời vua Minh Mục Tông, Bắc Kinh có một tú tài mười chín tuổi với trí thông minh lạ thường. Khi cùng đi chơi với các bạn học, cậu ta đã gặp một thiếu nữ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, hai người liếc mắt đưa tình, tình cảnh giống hệt Trương Quân Thụy gặp phải hồn ma lẳng lơ chết oan của năm trăm năm trước khi ông đang cứu chùa tại nước Tấn. Sau khi trở về, cậu tú tài mắc bệnh tương tư, hằng đêm thương nhớ, chỉ mong sao có thể gặp được nàng. Gia sư của cậu ta là một cử nhân trẻ tuổi, cũng là người rất am hiểu nhân tình thế thái, thầy giáo bèn hỏi thăm tâm tư của học trò, sau đó bảo sẽ giúp cậu tú tài hoàn tất việc này. Anh ta thay học trò viết một bài cầu nguyện, sau đó hai thầy trò đến miếu Thành Hoàng thắp hương. Dừng lại ở đây, chúng ta thật sự chưa nhận thấy điểm gì sai sót ở cậu tú tài, ai ngờ sau khi từ miếu trở về, thần Thành Hoàng nhập vào thể xác của một thầy cúng, tuyên phán với cậu tú tài rằng: “Số mệnh của nhà ngươi năm thứ hai Vạn Niên sẽ đỗ trạng nguyên, hưởng thọ chín mươi tuổi, thầy giáo của ngươi cũng đỗ tiến sĩ năm đó. Nhưng nay ngươi đã bị cắt cái lộc đó, ngươi sẽ chết yểu năm mười chín tuổi, và thầy giáo ngươi cũng bị xử moi ruột mà chết. Tội trạng của ngươi là gì? Đó là ngươi không thông qua “sự cho phép của bố mẹ, và lời người mai mối” mà định yêu đương với con gái người ta!” Quả nhiên, đến ngày hôm sau, cậu tú tài mơ thấy thần Kim giáp tay lăm lăm cầm búa rìu, còn thầy giáo mình đang kêu đau bụng như bị ai cào xé trong đó. Ba ngày sau, cả hai thầy trò cùng bị lấy đi mạng sống. Còn người con gái trên núi đó, có lẽ cũng không nhận được kết quả tốt đẹp gì, bởi chiếu theo lô gic quan phụ mẫu ở “huyện My Ô”, chút “rung động” của Tiểu Phó Bằng sẽ là kết quả “bán lẳng lơ” của Tôn Ngọc Giảo.

Tình cảm nam nữ là thứ tình người căn bản nhất, chỉ có điều bởi có “tà niệm” này mà cả thọ lẫn lộc đều bị tước hết, thay vào đó là “án xử trảm”, dụng tâm ở đây là diệt bỏ triệt để tình người. Xem xong câu chuyện này, khi đó tôi chỉ có một suy nghĩ, giữa trời và đất không có địa ngục thì tốt quá, nếu có thì nó chắc chắn do Tiền Hy Ngôn xây dựng nên! Đến cuồi triều Thanh, Trần Dị cho rằng mẩu chuyện này có tác dụng đối với lòng người trong nhân gian, quan điểm này được ghi trong tác phẩm Y viên đàm dị, còn trong tác phẩm Đàm dị lại ngợi ca Đàm Phúc Đường, có thể thấy Tiền Hy Ngôn không thiếu những người có cùng quan điểm. Đừng cho rằng những người này chỉ là những “ông đồ cổ hủ” không thông “đạo lý làm người”, như ông Chu Tác Nhân có nói, họ “kìm nén sự thể hiện của bản tính người, nhưng lại đắm đuối theo những ham muốn biến thái”, càng là những người dung tục thì càng muốn đóng thành những bậc chính nhân quân tử; Nhưng cái tà niệm trong lòng lại làm cho họ dù có đóng thế nào cũng gượng gạo, cùng lắm cũng là loại quái vật dị hình mất hết nhân tính. Trong Đàm dị, Trần Dị từng thở dài rằng, quan phủ trong nhân gian không thể ghi lại hết những hành vi. Ngôn từ, và suy nghĩ của tất cả mọi người trên thế gian. Ông cho rằng sổ thiện ác trong Diêm phủ có tác dụng bổ sung thêm những điểm thiếu sót của dương thế. Người này giữ chức tuần phủ An Huy, Lễ bộ thị lang, xem chừng ông ta rất muốn đưa toàn bộ sự thống trị các đặc vụ của điện Diêm Vương vào trong quan phủ để trị quốc, trị dân. Từ đây có thể suy ra sự thấp hèn về nhân cách, sự thiển cận về tri thức của hắn. Trong tiểu thuyết Cái nhìn lạnh cuối triều Thanh có viết, một kẻ tên Trần Lục Chu hằng ngày mặc quần áo của Phật, ăn đồ ăn của Phật, ở cùng với Phật qua ngày – hắn chính là kẻ thấp hèn được nói trên. Tiểu thuyết có nói, cuối cùng hắn chết do ăn linh dược của tiên cơ, điều này e rằng cũng không có căn cứ.

Sau thời Tống – Nguyên, sổ thiện ác của Diêm phủ về cơ bản đã trở thành một đạo cụ biểu diễn thuộc loại cấp thấp nhất của những kẻ ngụy quân tử. Ngay từ thời Nam Tống, quyển sổ thiện ác này đã có một tên gọi khác, tức Diêm phủ có hai quyển sổ thiện và ác, dựa vào từng người để phân biệt chúng, tức người thiện thì ghi trong sổ thiện, người ác thì ghi trong sổ ác (xem chương Thử bàn về cung Thái Thanh, quyển mười sáu, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại). Đến Hương ẩm lầu tân đàm, quyển hạ của Lục Trường Xuân, người đời Thanh lại xuất hiện cách nói “sổ công lao và tội lỗi”, tức mỗi người đều lập cho mình quyển sổ thiện ác, ngoài quyển “ghi những bổng lộc nhận được lúc bình sinh”, còn có một quyển chuyên “ghi chép những công lao và tội lỗi” của mình. Có người tự nói với Diêm phủ qua quyển sổ cá nhân của mình rằng, hồi nhỏ anh ta lấy trứng rùa làm đồ chơi, một lần do không cẩn thận làm trứng rùa bị vỡ, đây thuộc vào tội sát sinh, người này vô cùng thành thật, đem kể việc “thất đức” nhất cả đời mình cho Diêm phủ biết.

Những người như vậy hiếm nhưng không phải là duy nhất. Chương Ông họ Thang trong Liêu trai chí dị là bản tự thuật của một “đạo đức gia”, cũng rất giống với “bảng công lao và tội lỗi” của những kẻ ngụy quân tử. Trong giây phút cận kề giữa sự sống và cái chết, tất cả những việc thiện và ác xảy ra trong cả đời người đều được trình báo như được phát băng ghi hình vậy. Còn việc “ác” lớn nhất, đáng ghi nhớ nhất của ông họ Thang này lại là “khi lên bảy, lên tám, ông ta đi tìm bắt chim sẻ và đã bắn chết nó”. Câu chuyện này được ông ta tự kể sau khi tỉnh lại, cái đạo đức giả của người này được tạo dựng một cách quá mức. Nếu đoạn văn này của Bồ lão tiên sinh không có hàm ý châm biếm đả kích thì quả thật người đọc sẽ thấy ghê tởm khi đọc đến những dòng này.

“Sổ công đức và tội lỗi” của Diêm phủ chính là bản dịch “bảng công đức và tội lỗi” của dương gian. Các nhà Đạo học xin chỉ thị sớm mà báo cáo muộn, hằng ngày đều bỏ ra mấy tiếng đồng hồ tự mình phê phán, tự mình sửa chữa, rồi lại đau khổ tự kiểm điểm, tự phê bình. Đối với xã hội ngày nay, việc này có vẻ khá nực cười, nhưng khoảng bốn mươi năm về trước chúng tôi lại có ý định phổ cập nó ra toàn xã hội, và gần như đã đạt đến cảnh giới “sáu trăm triệu người dân đều theo Đạo học”.

Thế là khi nghĩ tới đúng bốn mươi năm về trước, tôi vừa về nông thôn làm thầy giáo (nói là giáo viên cấp hai, nhưng thực chất là “cấp một đội mũ cấp hai”). Đầu tiên tôi tham gia một lớp bồi dưỡng giáo viên. Một giáo viên đứng lên phát biểu, tiêu đề vừa được nói ra đã khiến người nghe thấy giật mình, đó là: “Tôi rất phê bình tư tưởng dâm loạn của mình.” Nhưng khi nghe tiếp, chúng tôi dần dần hiểu ra vấn đề, anh ta chỉ muốn kiểm điểm một việc, đó là muốn đổi những cái nơ vải trên quần áo thành những chiếc cúc nhựa mà thôi. Nhưng anh ta nói “nếu có tuấn ý, ắt sẽ có dâm ý” (“tuấn ý” có lẽ chỉ ham muốn yêu cái đẹp? Câu nói đó được đọc theo âm địa phương, cho nên dù đã được nhắc lại nhiều, nhưng tôi vẫn không nghe hiểu, vì vậy tôi bàn gặp riêng người đó thỉnh giáo, vì vậy mới làm tôi nhớ đến tận ngày hôm nay). Sau đó anh ta sử dụng nhiều điều khoản luật mới ban hành lúc bấy giờ để hùng biện cho câu nói của mình, vấn đề này nối tiếp vấn đề kia, cuối cùng anh ta suy ra mình là thành phần hư hỏng phản cách mạng (lúc đó, dù anh có tội phạm gì cũng đều thêm vào đó ba chữ “phản cách mạng”). Sau khi cuộc họp kết thúc, tôi vội vã chào người giáo viên đó, vì tôi e “tên lưu manh đang chờ trợ cấp” này cảm thấy ngại mà thôi. Thực ra là tôi đã nghĩ quá nhiều, bởi người đó không những không tỏ thái độ gì gọi là e ngại, thậm chí anh ta còn đoán rằng lãnh đạo sẽ nhanh chóng bầu anh ta trở thành người phát ngôn điển hình. Có người nói, bài phát biểu đó thực chất là do lãnh đạo lên kế hoạch sẵn, điều này cũng không cần thiết phải trách mắng, bởi mấy chục cuộc thảo luận nhóm lúc bấy giờ đều là ngồi nhìn nhau, yên lặng tới mức khó chịu. Và kết quả sau cùng của những cuộc họp lớn lại là “sự hào hứng”, tiếp tục mở các cuộc họp nhỏ, mỗi bài phát biểu đều như bắt đầu “dâm loạn”.

Nhưng nếu cho rằng những người dân như chúng ta dễ dàng bị tu thành môn đồ của các nhà Đạo học là điều quá sai lầm. Ở cái thời đại cấm những ham muốn đó, thần kinh của con người trở nên vô cùng nhạy cảm, từ việc bào khoai lát, cho đến diễn kịch, các cuộc họp phê bình và tự phê bình, tất cả đều được người ta liên tưởng, vận dụng đến mức các nhà văn chân chính cũng phải nể phục. Chỉ một chữ “dâm” đó đã có thể kích thích trí trưởng tượng của mọi người, để rồi từ đó nó không ngừng được phát huy, khai quật. Từ một bữa cơm khoai cơm sắn, cuối cùng có thể được mọi người tưởng tượng thành đại tiệc với tám món mặn và tám món chay. Đầu tiên có người cúi xuống cười thầm, sau đó người khác đứng lên hưởng ứng, thế là dần dần chủ đề chính được dẫn dắt sang tà đạo, được thảo luận sôi nổi hơn, hào hứng hơn. Đúng lúc đó, lãnh đạo sở Giáo dục đến, họ cũng chỉ cười mắng một câu: “Đồ quỷ”, để tỏ rõ lập trường không ủng hộ mà cũng không ngăn cấm của mình, nhưng có lẽ trong lòng họ cũng thầm đắc ý bởi bản lĩnh kiểm soát tình hình của mình. Vào lúc này, phía nữ giới có đặc quyền không cần phát biểu, thậm chí họ có thể đỏ mặt rồi chạy ra ngoài chuồn mất cũng không ai thắc mắc gì. Bây giờ nghĩ lại, “nhóm bốn người” chúng tôi thật là ngu ngốc, ngu ngốc ở chỗ chúng tôi thật sự cho rằng cả thiên hạ đều được họ bàn luận thành thật, tư tưởng thống nhất, ai ai cũng trở thành người máy số một, như vậy chẳng phải con người sẽ không biết thế nào là thiên tính, không biết gì là lương tri nữa hay sao? Những điều đó sẽ để lại dấu ấn không dễ phai mờ.

Tiếp tục sự phát triển, có một loại sổ Diêm phủ tên gọi là sổ “Xuất cung khan thư – Đọc sách khi đại tiện”(tức tất cả những người có sở thích “tam thượng” là mã thượng – trên lưng ngựa, chẩm thượng – trên gối, xí thượng – trên nhà xí) đều được ghi vào trong sổ này. Có lẽ quyển sổ này chuyên dùng cho những tên đặc vụ ngồi xổm trong nhà xí để ghi chép, cuối cùng âm ti sẽ dựa theo số lượng những cán gỗ, cán trúc dùng để lau chùi sau khi đi đại tiện của họ để tính tuổi thọ. Chương Dư thu thất học sĩ, quyển một, Bắc đông viên bút lục sơ biên của Lương Cung Thần có viết:

Diêm Vương cầm sổ sinh tử đọc, Xí phán quan nói: “Tuổi thọ của người này vẫn chưa hết, tại sao lại đưa đến đây?” Phán quan nói: “Người này đọc sách khi đi đại tiện, nên thần đã trừ bớt tuổi thọ của hắn.” Diêm Vương cầm lấy quyển sổ, viết lên bìa ngoài bốn chữ lớn “Xuất cung khán thư”.

Đọc đến đây, tôi bỗng cảm thấy ngạc nhiên, tuy tôi chỉ có sở thích “một thượng”, nhưng nó lại chính là “xí thượng”! Nhưng thiết nghĩ, sở dĩ tôi chưa được tiếp kiến Diên Vương có lẽ vì khi vào nhà vệ sinh tôi chưa từng mang các loại sách thánh hiền vào đọc, cho dù có mang vào tờ báo thì tôi cũng chỉ xem những quảng cáo bán nhà cũ mà thôi. Tuyệt đối không được mang sách thánh hiền vào nhà vệ sinh, điểm này ngay cả những người dân thường ngô nghê, lỗ mãng không cần nghe cũng biết. Tôi thường thấy các đồng nghiệp lo lắng lục lọi trong đống sách, vậy nếu không phải là cấp trên đến kiểm tra thì chắc chắn là nỗi bức bách bên trong cơ thể đang thúc giục, lúc này bạn thử đưa cho họ một quyển sách thánh hiền xem, chắc chắn trăm phần trăm bạn sẽ bị từ chối khéo. Nếu dựa vào trường hợp Gia Cát cung kính trước phân gà và trứng gà, thì những bài văn bày tỏ những tâm đắc về điều đó đương nhiên cũng không được mang vào nhà xí.

Không những thời cổ đại, mà ngay cả những năm tháng “tay không rời sách hồng bảo[5]” khi đi vệ sinh chúng ta cũng thường gặp vấn đề như vậy. Chúng ta cũng đã từng gặp những người một tay giơ cao còn một tay đang làm “công tác vệ sinh”, động tác đó tuy không khó, nhưng lại rất khó giữ được lâu, và không phải bất kỳ người bình thường nào cũng có thể bắt chước đạt hiệu quả đến vậy, không khéo lỡ tay sẽ để lại mối hận nghìn thu. Vì khó đến vậy, nên nó trở thành loại khác biệt, mà người kia cứ hễ vào nhà xí là giơ cao tay, khiến cho những người đang đi vệ sinh ở đó cũng phải vội vàng đi theo, rõ ràng người đó đã thành thạo trong việc lôi kéo người khác nhảy vào vùng đất chết. Và thế là có người bày tỏ sự không hài lòng, tiết lộ người đó đang cố ý bảo người khác mang “sách hồng bảo” bỏ vào hố phân. Cũng may mà anh ta xuất thân tốt, lại là người ngay thẳng, tuy lòng người khó đoán nhưng tính tình “chân chất”, thôi thì cũng cho qua, nhưng hành động sáng tạo này từ đó không còn xuất hiện nữa. Sau này tôi đến một địa phương ở miền Nam, thấy bên ngoài các nhà vệ sinh công cộng đều đặt một chiếc bàn gỗ, bên trên trải vải đỏ, đồng thời có một từ giấy nhắc nhở màu đỏ, ai có nhu cầu dùng nhà vệ sinh, xin tạm thời đặt “sách hồng bảo” ở đây. Sự nhắc nhở chu đáo, chân thành này thật khiến người ta cảm động, đáng tiếc khi đó có một số người không kìm nổi sự yêu quý đối với những quyển sách, đã tiện tay lấy mất hoặc nhanh tay dùng sách khác tráo đổi, hiện tượng này xảy ra rất nhiều, khiến chiến lược này chưa thể đạt đến tiêu chuẩn hành vi và quan niệm đạo đức được mọi người công nhận, thật đáng buồn thay!

[5] Sách hồng bảo: sách ghi lại những câu nói của Mao Trạch Đông

Nhưng trong lúc đi vệ sinh người ta vẫn muốn tìm một việc gì đó để làm. Cổ nhân nói “tiện nhân” thường có bốn dáng điệu như sau, đó là ăn thì chậm, đi đại tiện thì nhanh, dễ ngủ say, quần áo lôi thôi”, muốn trở thành một người quý phái, ít nhất anh cũng phải ngồi trong nhà xí mười mấy phút. Ở đó mười mấy phút mà không việc gì làm thì quả thực không phù hợp với điều mà cổ nhân răn dạy “quý trọng thời gian”, vì thế anh có thể ở đó “tự kiểm điểm, nhắc nhở bản thân”, cũng có thể “bồi dưỡng cho mình tinh thần chính trực”, cho đến khi dần trở thành người quý phái, tự nhiên anh sẽ hiểu, tính toán kế hoạch tác chiến, xem sẽ xử lý bọn họ như thế nào, thật sự không có nơi nào tốt hơn trong nhà xí. Trong Hán thư – Cấp Ảm truyện có nói, Hán Vũ Đế vừa ngồi trong nhà vệ sinh vừa nói chuyện với Đại tướng quân Vệ Thanh Thị Trung bên ngoài, rất tùy tiện thoải mái, còn đối với người thẳng thắn đến mức khó gần như Cấp Ảm, chỉ cần mũ áo của Vũ Đế có chút không chỉnh tề là ngài nhất định không tiếp kiến Cấp Ảm. Các nhà sử học dựa vào đó để chứng mình sự kính trọng của Vũ Đế đối với Cấp Ảm, thực ra đó là một sai lầm, cực kỳ sai lầm. Đối với thừa tướng Tôn Hồng – người tự mình xuyên tạc học thuật của mình – Hán Vũ Đế có thể vừa xách quần vừa ra tiếp kiến, chứng tỏ quan hệ của Hán Vũ Đế với Tôn Hồng thân thiết hơn so với Cấp Ảm. Là người đứng đầu trong triều, Vệ Thanh có vinh dự là người lính duy nhất có thể vào nhà vệ sinh vừa bàn bạc kế sách chiến lược, vừa giúp Vạn Tuế gia “làm công tác vệ sinh” snau khi đi đại tiện, đó mới là sự đãi ngộ của bậc “đại thần cơ mật” thực sự.

Có câu nói rằng: “Vì lãnh đạo làm một trăm việc tốt không bằng cùng lãnh đạo làm một việc xấu”, không biết câu nói này có phải được truyền lại từ thời Hán Vũ Đế hay không, nhưng vào thời Minh chắc chắn đã xảy ra một việc như vậy. Cố Đình Lâm từng trích dẫn như sau: “Người thời đó nói rằng, nếu yêu quý đức vua, quan tướng nghe theo ngài trên triều, không bằng tiếp đón nhau lúc rảnh rang.” Sớm hơn một chút thì có Chu Hy, khi tiếp kiến Tống Hiếu Tông có nói: “NHững kẻ chỉ có một mục đích duy nhất là làm quan thi thoảng đến tìm ta một lần, còn những kẻ yêu quý ta thực sự, cứ khi rảnh rỗi là họ lại tìm đến với ta. Những kẻ sĩ coi trọng lễ tiết, diện mạo thường là những người khó gần, bàn chuyện với họ vừa khó khăn lại vừa khó hiểu, những người dễ gần thường không để ý đến lễ tiết, diện mạo, nhưng vẫn có thể dốc bầu tâm sự. Sự giảo hoạt của bọn quan lại sẽ làm đầu óc ta mê muội, e rằng bệ hạ chưa kịp đưa ra quyết sách xử lý, thì trước đó, Người đã trúng kế của bọn gian thần.” Lời Chu Hy nói cũng cùng một đạo lý như trên.

Đương nhiên, việc gặp riêng lúc rảnh rỗi ở đây vẫn có sự phân biệt về tầng thứ. Chắc là ở chốn quan trường thời xưa có một số bí quyết “không thể tiết lộ cho anh nếu anh chỉ là một người bình thường”, vậy đối với những người thuộc tầng lớp cao hơn, sau khi thăng đường, vào phòng, giả sử bên trên kẻ đó không phải là Võ Tắc Thiên để có diễm phúc được lên giường, thì việc thân mật nhất chỉ có thể là cùng đi vệ sinh thôi nhỉ! Nội dung có phần đi hơi xa, nhưng lại chưa được khảo chứng, vì thế bản thân tôi không dám chắc việc đi vệ sinh là trung tâm của trung tâm chính trị dưới chế độ quản lý của nhà vua, nhưng một số quyết sách tối cao lại được nảy sinh từ nhà vệ sinh, vì thế cũng không thể phủ định hoàn toàn những sự việc trên.

Phần 2

Vẫn bắt đầu bằng Tôn Hành Giả, con khỉ này đã quệt mực lên sổ sinh tử, tiếp đó còn ăn đào tiên của Vương Mẫu nương nương, ăn linh đơn của Thái Thượng Lão Quân, như vậy Tôn Hành Giả quả thật “thị cùng với trời đất, sống cùng với tháng năm”. Nhưng lão Tôn lại không ngờ rằng, hóa ra trường sinh bất lão cũng không thoát khỏi bệnh tật, hơn nữa lão Tôn sẽ rất nhanh được nếm trải nỗi khổ đó. Ngọc Hoàng Đại Đế mời Phật Tổ từ Tây Thiên tới, nhốt con khỉ dưới Ngũ Hành Sơn, chỉ cho lộ ra chiếc đầu khỉ. Khi khỉ đói thì cho ăn sắt viên nung đỏ, khi khát cho uống nước đồng nung, gió sương đâm xé da thịt, mưa băng, nắng gắt đốt da đó là chuyện thường tình, còn thả côn trùng chui vào hai lỗ tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng, đủ để lão Tôn chịu đựng. Lúc này lão Tôn đâu có hy vọng “năm trăm năm sau thành hảo hán”, vậy cái “bất tử”của ông đã trở thành “mong chết mà không được”, trở thành nỗi khổ hình vô hạn. Vậy là, cho dù lúc đó ông nghĩ những gì, là “không có tự do, thà chết còn hơn”, hay là “ chết thanh thản còn hơn sống vật vờ”, tất cả đều vô dụng, mà mục tiêu khác trong đời người đã được thể hiện rất rõ ràng, đời người không chỉ là dài hay ngắn, mà còn có thêm vấn đề chất lượng, cũng có nghĩa là “chỉ số hạnh phúc”. Ai cũng có thể nhận ra rằng, “chỉ số hạnh phúc” của lão Tôn dưới Ngũ Hành Sơn đã hạ thấp đến con số âm.

Đời người – nội dung quan trọng này đương nhiên cũng được thể hiện trong sổ sinh tử. Quan lại trong điện Diêm la dường như cũng rất có ý thức hướng tới tương lai, vì thế họ đã định ra “chỉ số hạnh phúc” cho xã hội loài người và đến nay cũng không hề bị lỗi thời, đó chính là ăn uống, trai gái và thăng quan phát tài. Từ đó các loại sổ thực phẩm, sổ công danh được ra đời.

1

Trong các câu chuyện ma quỷ, ngoài sổ sinh tử, loại sổ được bàn đến khá nhiều đó là “sổ thực phẩm”. Sổ thực phẩm là hồ sơ để các quan âm phủ ghi lại tất cả các loại thực phẩm, số lượng thực phẩm mà một người dùng trong suốt cuộc đời. Một cá nhân được chỉ định có thể hưởng dùng một lượng và chủng loại thực phẩm nhất định, sau khi đã dùng hết, không còn gì nữa, hoặc là bày thức ăn ra trước mặt anh cũng không thể nuốt nổi nữa, lúc này anh không muốn gặp Diêm Vương cũng không được.

Động cơ sáng tạo quyển “sổ thực phẩm” này đương nhiên cũng xuất phát từ thuyết định mệnh. Trong quyển Tiền định lục của Trọng Lộ, người thời Đường có ghi, dưới âm phủ có chức quan chuyên quản lý vấn đề thực phẩm trên trần gian, vấn đề thực phẩm của mỗi cá nhân lại được âm phủ quản lý bằng một quyển sổ riêng. Những người có chức quan từ tam phẩm trở lên, thực phẩm hằng ngày sẽ do Diêm phủ cấp phát, chức quan ngũ phẩm trở lên sẽ được cấp phát theo tuần, chức quan từ lục phẩm đến cửu phẩm được cấp phát theo quý, người dân thường không có lộc vị sẽ được cấp phát theo năm. Quy định cấp phát như vậy cũng khá hợp tình hợp lý, bậc quan nhân quý tộc hễ tổ chức ăn uống là coi như tương đương với gia sản của một gia đình trung lưu, làm sao quy ra được số lương thực ít ỏi cả năm của những người dân lao khổ! Nhưng việc cấp phát ở đây lại có một tầng nghĩa khác, đó là số thực phẩm dùng hằng ngày của lớp quan nhân quý tộc đều có quy định, cho dù là bữa ăn giá trị vạn tiền của Nhiệm Khải, hay lối sống xa hoa của Vương Tế, cũng đều được Diêm Phủ sắp xếp, còn đối với tầng lớp thảo dân, cấp cho anh lượng củ cải đường dùng cho một năm, khi bận thì ăn khô, khi nhàn tản thì ăn canh, anh muốn chế biến thế nào đó là việc của anh, có trời mới rảnh rỗi giúp anh soạn thực đơn hằng ngày! Đương nhiên cũng có thể gọi một cách dễ nghe hơn là “sống theo tập thể sẽ thiếu tự do”.

Dựa theo những kiến thức trong xã hội loài người, việc này quá hợp tình hợp lý, tuy nhiên nó cũng chỉ là cách nói của riêng Tiền định lục. Nếu như việc ăn uống đều phải được sắp đặt trước, Phật gia và chúng sinh bình đẳng với nhau, ngay cả những loài động vật nhỏ bé như chim sẻ, chuột cũng không phải là ngoại lệ, mỗi một đĩa cải, đĩa rau của người dân thường cũng không được ăn tự do. Vì thế, quan điểm thường thấy là không phân biệt giàu nghèo, trên có Đế Vương, dưới là ăn mày, thực phẩm sử dụng trong cả cuộc đời họ đều được chuẩn bị trước. Nhưng cách nói này cũng phân ra làm hai trường phái, phái không gian và phái thời gian.

Theo quan điểm của phái thời gian, tất cả mọi người trong thiên hạ đều ăn uống theo sự sắp đặt trước, thời gian, địa điểm đều do trời định, ăn ít hay ăn nhiều không phải cứ muốn là được. Mỗi ngày, mỗi bữa ăn những gì, trong sổ thực phẩm đều đã ghi rõ, chỉ định cho anh ăn, anh muốn ăn ít đi một miếng cũng không được, tương tự, chỉ định anh không có phúc ăn uống, dù thức ăn có bày ra trước mặt anh cũng không cho được vào miệng. Trong quyển Dật sử, thời Đường có câu chuyện như sau: “Tại huyện Vạn Niên có vị quan bắt trộm họ Lý, một hôm ông tổ chức bữa tiệc chiêu đãi, mời bạn bè tới ăn món cá lát xào tại nơi làm việc. Trong đó có một vị khách bất ngờ đến, chần chừ không chịu đi, rõ ràng là muốn tới đây ăn cơm, nhưng vẻ mặt lại tỏ ra rất kiêu căng, không tỏ ý muốn ở lại. Quan Lý thấy vậy rất tức giận, bèn hỏi người đó có tài năng gì. Người đó đáp: “Ta biết hôm nay ngài dùng những thực phẩm gì.” Quan Lý lại hỏi: “Vậy ngươi xem trong bữa cơm ngày hôm nay, những người ở đây ai không ăn được?” Ý ông muốn nói không muốn cho người này ăn. Không ngờ vị khách này mỉm cười đáp: “Trong tất cả những người ở đây chỉ có ngài là không được ăn.” Quan Lý nổi giận: “Làm gì có lý đó! Bữa cơm này do ta làm chủ, sao ta lại không được ăn?” Đang nói, quan Lý thấy một người thúc ngựa đi tới, nói Triệu Dẫn đại nhân nơi kinh thành đang cần triệu Lý mỗ gấp. Quan Lý không dám không đi, bèn bảo mọi người ăn trước, còn nhắc nhà bếp để lại cho mình hai đĩa. Rất lâu sau, quan Lý mới trở về, mọi người đều đã ăn xong, trên bàn bày hai đĩa cá để lại phần ông. Vị quan bổ đầu cởi áo ngồi xuống ghế, cầm đũa lên, miệng mắng vị pháp sư vừa rồi, rằng: “Chẳng phải bây giờ ta đã được ăn cá sao, ngươi còn ngồi đây làm gì?” Vừa nói dứt lời, từ trên trần nhà có một miếng vữa to chừng ba mươi centimet rơi xuống giữa bàn, khiến đĩa cá vỡ tan thành từng mảnh, thịt cá và vụn vữa hòa lẫn vào nhau. Lúc này Lý bổ đầu vẫn cố nén cơn giận, nuốt miếng cá như đang nuốt một cục rác vào bụng.

Tương tự, trong cuộc đời, có lúc muốn không ăn cũng không được. Quyển mười, cuốn Tử bất ngữ có ghi lại câu chuyện về một người tuy nghèo khổ nhưng cũng thấy vui, đấy được coi là đại diện cho phái này: “Bờ bắc sông Trường Giang có vị Trương tú tài, mỗi năm anh đều đến Nam kinh dự thi, và đều sống trong chùa Báo n. Sau khi trụ trì của chùa là Ngộ Tây qua đời, Trương tú tài cũng tỏ lòng đau xót vô hạn, nhiều ngày bỏ không ôn bài. Năm nay, học trò của Ngộ Tây qua sông tới thăm, nói nằm mơ gặp thầy của mình, bảo ông giục Trương công tử đi ứng thí, nói rằng lần này nhất định Trương công tử sẽ trúng bảng. Trương tú tài nghe vậy vô cùng vui mừng, liền hứng khởi qua sông đi ứng thí. Nhưng khi kết quả được đưa ra, tú tài vẫn “trượt”. Trương tú tài vô cùng tức giận, chửi mắng vị hòa thượng nọ, trù cho ông ta chết không được yên. Đêm hôm đó Trương tú tài nằm mơ thấy Ngộ Tây đến nói rằng: “Năm nay Diêm phủ phái lão tăng phân tán chỗ cơm cháo chuẩn bị cho khoa trường. Nhưng một người không tới, lão tăng không biết tống tán chúng đi đâu. Trong đời công tử đã tham gia ba kỳ khoa trường, vậy công tử phải ăn mười một bát cơm và cháo, vì thế ta đã nhờ tên học trò ngu ngốc của ta tới mời công tử đi.”

Nếu như ăn cái gì cũng đều do số phận sắp đặt, vậy thì người nào, vật nào bị ăn cũng không ngoại lệ. Cũng có nghĩa là, chỉ cần số phận sắp xếp anh phải làm đồ ăn cho người khác thì anh đừng mong thoát khỏi lưới trời. Bắt đầu từ thời Đường, không ít những câu chuyện đều nói tới những chú cừu, chú dê bị giết lấy thịt, sau đó đến chỗ Diêm Vương kêu kiện, kết quả khi tra sổ âm phủ, thì đó là số mạng đã sắp đặt anh như thế, nên anh phải làm đồ ăn cho vị đại nhân nọ. Vì thế, những oan hồn này cuối cùng lại trở thành những hồn ma gian xảo. Bò dê đã như vậy, vậy nếu là những người dân thì sẽ ra sao? Bò, dê, người dân hiểu được những điều này, thì sự hòa hợp tốt đẹp giữa âm dương hai giới tất sẽ được bảo đảm, những năm tháng thái bình không địa ngục, không nhục hình sẽ không còn xa nữa.

Còn theo quan điểm của phái không gian, chỉ quản lý vấn đề thực phẩm cả đời của một con người, vậy thì tổng số lượng phải là một số nhất định, thế còn thời gian, địa điểm ăn lại không được quản lý chặt như vậy, cũng có nghĩa là, cho dù là lúc nào, chỉ cần anh ăn hết đồ ăn là được mời đến báo cáo Diêm Vương. Trong Ngọc đường hiếm thoại của Vương Nhân Dục thời Ngũ Đại viết, Diêm phủ không những có kho hồ sơ chuyên lưu giữ “sổ thực phẩm” của nhân gian, mà còn có cả một “kho thực phẩm” thực sự. Bất kỳ ai trong đời cần ăn bao nhiêu thực phẩm đều được để trên một mảnh đất trống dưới âm phủ, bên trên có cắm tấm biển ghi họ tên của người đó. Đương nhiên, những chú gà, vịt, bò, dê mà người này phải ăn cũng đều được nuôi ở đó, hơn nữa còn được ghi chú tên chủ sở hữu. (Còn như con bò hoặc con dê này là do mấy người cùng ăn, thì sẽ giải quyết như thế nào? Còn có Vương Tam Tỉ mười bảy năm rưỡi ăn rau dại, lẽ nào cũng có mấy hec ta đất chuyên trồng rau dại dành cho Tam Tỉ? Hơn nữa lại không lo cho chúng?) Trong Liêu trai có mẩu truyện Lộc số viết, có một kẻ làm quan từng làm rất nhiều việc bất đạo. Một người tu luyện tự xưng có thể biết được tuổi thọ của người khác, nói rằng kẻ nọ chỉ có thể ăn thêm được hai trăm đấu gạo, bốn trăm đấu bột mỳ nữa. Kẻ nọ tính toán lượng gạo và bột mỳ một người ăn một năm không quá hai mươi đấu, như vậy ít nhất mình có thể sống thêm được hai mươi năm nữa, thế là ông ta càng không kiêng kỵ gì. Chẳng ngờ ông ta bỗng nhiên mắc bệnh lạ, một ngày ăn mười bữa, chưa đến một năm ông ta đã ăn hết chỗ gạo và bột mỳ còn lại của cuộc đời mình. Điều khiến người ta không thể hiểu nổi, đó là ông ta đã biết số gạo và bột mỳ là có hạn, thì “tại sao không đi ăn thịt nhỉ?”

Nếu nói rằng phái thời gian nói thay cho giới Phật môn, thì phái không gian lại bị các nhà đạo đức học lợi dụng, vì thế cho rằng âm ti tạo ra sổ thực phẩm, mục đích là khiến con người biết “trân trọng phúc phận” của mình. Nếu như kiếp này đã có lượng thực phẩm với số lượng cố định, vậy thì anh càng trân trọng thực phẩm thì anh càng trường thọ. Ngược lại, nếu anh lãng phí của trời, tức anh ăn hết chúng sớm, thì đương nhiên anh sẽ rời bỏ thế gian này sớm. Tác phẩm Lạc thiện lục của Lý Xương Linh có viết, trong trường Thái học có hai học trò sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, có lẽ số mệnh của họ cũng giống nhau, số lượng thực phẩm bọn họ ăn ít nhiều cũng như nhau. Hai người sau này được làm quan, trong đó một người chết sớm, bèn báo mộng cho người kia rằng: “Trước đây ta sinh ra trong giàu sang phú quý, tiêu dùng quá lãng phí, vì thế mà ta chết sớm. Còn các hạ sinh ra trong hoàn cảnh hàn vi, chưa được hưởng thụ nhiều, vì thế mà vẫn sống.” Rồi người đó kết luận rằng: “Con người không nên hưởng thụ và sử dụng quá mức.” Câu nói này nghe rất hay, nhưng hai chữ “quá mức” ở đây lại vô cùng linh hoạt, con người mỗi người có một “mức” khác nhau, vẫn còn không gian lớn dành cho các đại nhân và lão gia thả sức xa xỉ.

2

Sổ thực phẩm và sổ sinh tử tạo nên hai loại thước đo, một là lấy thời gian sống làm giới hạn, một lấy số lượng thực phẩm phải ăn trong đời làm giới hạn, người ta nên nghiên cứu xem nên dựa theo tiêu chuẩn nào để kết thúc cuộc đời của mình. Nhưng từ câu chuyện của Lý Xương Linh có thể thấy rằng, nếu như coi sự phóng túng và tiết kiệm thực phẩm là chiếc van khống chế cuộc đời, vậy thì giữa hai quyển sổ này vẫn có thể thông cảm được cho nhau. Nhưng điều này dường như chỉ phù hợp với những người giàu sang phú quý, còn đối với người nghèo, chút thực phẩm đó nếu “trân trọng” một chút thì bụng sẽ lập tức đứng lên đấu tranh, còn nếu làm cho no bụng thì lại đoản thọ. Trong quyển Chí lâm của Tô Đông Ba có đoạn viết vui thế này: Nhan Hồi ăn cơm bằng rá, uống nước bằng vầu nên không tránh khỏi cái chết yểu, nếu như ông ta mỗi lần có thể ăn được hai rá cơm, hai vầu nước thì chắc chắn muốn sống đến năm hai mươi tuổi xem chừng cũng khó!

Tuy nhiên, những kẻ giàu sang phú quý lại không muốn “trân trọng phúc phận”, cứ mở tiệc rượu là lên tới hàng ngàn, hàng vạn đồng, ăn không hết thì đổ đi, không hề tiếc rẻ. Nếu bạn nói với anh ta rằng, tuy chỗ đồ ăn đó được kê khai vào quỹ công, nhưng lại nằm trong sổ thực phẩm của anh, liệu anh ta có tin không? Anh ta không tin, và người dân thường cũng không tin, rõ ràng là mồ hôi nước mắt của chúng tôi, dựa vào cái gì mà các người tính đó là phúc phận của tôi? Cho đến lúc bệnh gan nhiễm mỡ tìm đến, cholesterol trong máu tăng cao, anh làm điều ác giờ đây bị báo ứng, có lẽ lúc này anh ta mới nghĩ tới việc “trân trọng phúc phận”, nhưng cũng như viên quan tham ô, ngồi trong tù rồi mới nghĩ tới “bà con, cô bác nơi quê nhà”. Đến lúc này, mệnh trời đã định, anh có điều chỉnh lượng thực phẩm của mình như thế nào cũng vô tác dụng mà thôi.

Tác phẩm Tuyên thất chí của Đới Phù có viết, Lý Đức Dục là tướng quốc nhà Đường, bị cách chức đi Lĩnh Nam. Trước khi lên đường, ông hỏi một vị hòa thượng xem liệu ông có được quay trở lại miền Bắc hay không. Vị hòa thượng nói: “Lúc bình sinh, tướng quốc chỉ được ăn một vạn con dê, nay tính ra đã được chín nghìn năm trăm con rồi. Vì thế ngài trở lại miền Bắc là vì vẫn còn năm trăm con dê đang chờ ngài quay trở lại ăn.” Ai ngờ vừa nói xong, quan sai của Tiết độ sứ Trấn Vũ trình lên một lá thư, đồng thời tặng cho tướng quốc năm trăm con dê (Khi vị quan sai này xuất phát chắc chắn vẫn chưa nhận được tin Lý Đức Dục đã bị giáng chức.) Lý Đức Dục vô cùng kinh hãi, nói với hòa thượng rằng: “Ta không ăn chúng, như vậy chắc có thể tránh được chứ?” Hòa thượng đáp: “Dê đã được đưa đến nơi này, chúng đã thuộc quyền sở hữu của tướng quốc, ăn hay không thì chúng cũng đã được ghi dưới tên của ngài rồi.” Vì thế, Lý Đức Dục giáng chức đi Triều Châu, sau đó đi Nhai Châu, và trút hơi thở cuối cùng tại một nơi hẻo lánh của tỉnh Hải Nam. Cũng một câu chuyện đại loại như vậy, Dung ảm bút ký của Tiết Phúc Thành kể, có người lúc bình sinh rất thích ăn vịt, mỗi bữa đều phải giết một con làm thịt ăn. Một ngày, anh ta nằm mơ thấy mình lạc tới một đầm nước. Trong đầm nước có một đàn vịt béo đang bơi lội, người trông vịt nói: “Đàn vịt này là để cho ngươi ăn!” Lúc tỉnh dậy người này tự cảm thấy rất vui, và giết vịt ăn một cách vô độ. Nhưng về sau anh ta lại mơ thấy mình đến đầm nước nọ, lúc này số vịt trong đầm còn lại không nhiều. Sau khi tỉnh lại, anh ta vội vã lệnh cho người nhà không được giết vịt nữa. Thật trùng hợp, không lâu sau anh ta mắc bệnh nằm liệt giường, họ hàng, bạn bè đến thăm nom, ai đến cũng mang cho anh một con vịt đã được làm chín. Anh ta đếm, trùng khớp với số vịt mà anh đã thấy trong mơ, vừa ngạc nhiên vừa sợ, rồi đột nhiên anh ta kêu lên một tiếng buồn bã. Thường ngày thích ăn thứ đó, bỗng nhiên bị cấm không được ăn, thói quen đó làm sao có thể thu lại được. Xem ra phái không gian cuối cùng cũng vẫn phải quy thuận phái thời gian, càng nhiều càng khó tránh (chết sớm).

Tiết kiệm ăn uống có thể giảm béo, nhưng có thể cứu được mạng sống hay không thì rất khó nói. Nhưng nếu không muốn sống nữa, anh cứ việc ăn nhiều, uống nhiều, cho dù không đạt đến cấp độ căng bụng mà chết, nhưng việc giảm thọ sẽ có khả năng thành công rất lớn. Nhưng có kẻ nào khờ khạo đến vậy không? Đương nhiên là có, hơn nữa, chưa hẳn tất cả đều là những kẻ khờ khạo. Bậc đại hiền như Tín Lăng Quân – Tứ công tử thời Chiến Quốc đã từng dẫn quân binh năm nước đánh bại quân Tần, lập công lớn gây chấn động các bậc đế vương, bị kẻ xấu lên kế hoạch hãm hại, đồng thời bị giáng chức. Từ đó, ông “ngày đêm rượu chè, khách khứa, ham vui tửu sắc”, chỉ trong bốn năm ông mắc bệnh nặng mà chết. Tín Lăng Quân chết được mười tám năm thì nước Ngụy suy vong, giang sơn chuyển sang quyền cai quản của nhà Đại Lương. Đó là hậu quả mà Tứ công tử nước Ngụy cho dù chết sớm cũng không mong được chứng kiến.

Có lẽ mọi người cho rằng câu chuyện ở đây không hề nhắc tới sổ thực phẩm, vậy thì tôi lại kể đến một sự việc khác. Tuy chỉ là một câu chuyện, nhưng nhân vật trong đó là có thực, rõ cả họ cả tên.

Câu chuyện được kể trong Tử bất ngữ xảy ra vào năm Khang Hy. Huyện lệnh huyện Thạch Khang là Uông Dĩ Hân, có người bạn thân họ Lâm. Lâm Mỗ chết sớm, sau đó được làm thần thổ địa vùng Thạch Khang. Hai người tuy âm dương cách biệt nhưng hằng đêm họ vẫn gặp nhau trong mơ, vui vẻ như khi còn sống. Một đêm, Lâm thổ địa nói với Uông Dĩ Hân rằng: “Nhà huynh gặp nạn, đệ không dám không nói cho huynh biết, trời định mẫu thân của huynh bị sét đánh chết.” Uông Dĩ Hân kinh ngạc, kêu khóc van xin Lâm Mỗ cứu mẫu thân mình. Nhưng Lâm thổ địa nói: “Đây là cái nghiệt của kiếp trước, đệ chỉ là một viên quan nhỏ, làm sao có thể cứu được?” Uông Dĩ Hân vừa khóc vừa van xin, Lâm Mỗ nói: “Chỉ có một cách, huynh nhanh chóng tận hiếu đạo làm con, tất cả những đồ ăn, đồ uống, chăn màn, quần áo thường ngày bà dùng, tất cả chuẩn bị gấp mười lần bình thường, huynh chịu lãng phí một chút, như vậy tất cả số lộc trong đời cụ đã hưởng hết, lúc đó cụ sẽ ra đi, huynh có thể tận hiếu đến việc cuối cùng, khi đó Lôi thần có đến thì cũng chẳng có việc để làm nữa rồi.” Uông Dĩ Hân làm đúng theo lời Lâm thổ địa, quả nhiên đã tiễn mẫu thân của mình lên đường sớm. Ba năm sau, trong một trận mưa gió bão bùng, Lôi thần ghé thăm nhà Uông Dĩ Hân, một tia điện cứ lia vòng quanh chiếc quan tài bà cụ đang nằm, mùi sulfur bốc lên nồng nặc khắp nhà, nhưng không tìm thấy mục tiêu, tia sét đó không đánh xuống được. Lôi thần không biết phải báo cáo với Diêm phủ thế nào, đành giáng xuống phá tan ngôi nhà rồi đi, tượng thần thổ địa bị đánh cho nát vụn,

Tận hiếu là một phẩm chất tốt đẹp, nhưng không nên tận hiếu đến quá mức, phá hoại thiên vật để mang danh tận hiếu, như vậy lại thành mang cái chết đến nhanh, hiển nhiên không thể chọn phương án này được, trừ phi chết muộn hơn nhưng phải chịu bị sét đánh. Nhưng từ đó chúng ta cũng phải nghĩ rằng, tự tìm đường chết để tránh né sự trừng phạt của trời, cũng có thể coi đó là kế sách hay giúp đưa lũ dân tặc ngu ngốc vào nhà đá.

Vũ An Hầu Điền Phẫn sau khi chết không lâu, vụ việc ông câu kết với Hoắc Nam Vương bị bại lộ, Hán Vũ Đế căm hận nói rằng: “Tiếc là hắn chết sớm, nếu không ta sẽ diệt cả dòng tộc nhà hắn!” Có lẽ vào thời bấy giờ, người chết rồi sẽ được miễn sự truy cứu của pháp luật. Vì thế, một số tham quan khi có dự cảm sự việc không được thuận lợi, bọn chúng sẽ “hi sinh vì nhiệm vụ” trước, như vậy không những bảo toàn được số tiền đã tham nhũng và cuộc sống hạnh phúc của người thân, mà bản thân mình còn được truy điệu tử tế. Người dân nói: “Không phải không báo ứng, mà là thời điểm chưa chín muồi.” Nhưng nếu không đợi thời điểm đến mà hắn đã trốn thoát, vậy anh còn báo ứng cái gì đây? Vì thế, kẻ tham quan sáng suốt tốt nhất là hãy biết “chọn ngày mà chết”, chỉ cần chú ý đừng chết trên giường của gái điếm trong khách sạn là được, thông thường trường hợp đó không thể gọi là hi sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ được, mặc dù “nghề” của hắn vốn là làm những việc như vậy.

3

Gần giống với sổ thực phẩm là sổ lợi lộc, có điều, sổ thực phẩm chỉ giới hạn trong nội dung ẩm thực, còn sổ lợi lộc lại bao gồm tất cả thu nhập trong đời, không chỉ có tiền lương, lương thực được cấp phát, mà cả những khoản tham ô, bóc lột của quan lại, thổ phỉ cũng nằm trong đó, chỉ cần anh không bị tóm và nôn chúng ra. Nói rằng mỗi người đều có một quyển sổ này, nhưng thực ra nó chẳng liên quan gì đến người nghèo, hỏi “lợi lộc” của người nghèo chẳng khác nào anh tìm ăn mày đòi danh thiếp, như vậy có khác nào anh định lấy họ ra làm trò cười. Nhưng Diêm phủ lại khăng khăng đòi bình đẳng, có tiền hay không có tiền đều phải ra ngân hàng lập một tài khoản, thôi thì đành vậy, chỉ có điều sổ tiết kiệm của người nghèo cũng chỉ là những phiếu cơm bắt buộc phải tiết kiệm mà thôi.

Lộc có hai loại, cũng có thể nói là ba loại, đối với quan thần thì là “lộc quan”, là lượng thóc gạo, vàng bạc do triều đình cấp, đối với người bình thường thì nó là “lộc lãi”, nếu ngay cả “lộc lãi” cũng không có thì chỉ có “lộc ăn uống” – là những phiếu ăn. Nhưng trong sổ Diêm phủ, lộc quan không được sạch sẽ như bảng lương hằng tháng, mà tất cả những khoản thu nhập đen, bao gồm các nguồn thu phi pháp như tiền hối lộ, quà tặng, cướp bóc, chỉ cần “đời anh nên có” thì chắc chắn chúng sẽ được ghi vào sổ này. Về mặt pháp luật ở dương thế, chúng được coi là bất hợp pháp, chỉ cần âm phủ ghi án vào sổ lợi lộc, “số mệnh được chỉ định”, thì đó không những hợp lý mà còn hợp pháp, hơn nữa đó còn là cái mà thần thánh không thể xâm phạm, bởi “mệnh” là thứ ông trời đã an bài mà không ai có thể can thiệp được. Trong chương Núi phá tiền, quyển m sơn bát cảnh, tôi đã từng nói tới câu chuyện giữa Lô Hoài Thận và Trương Thuyết, Diêm phủ đã mở một xưởng đúc tiền dành riêng cho Trương Thuyết, vậy anh có thể nói những khoản thu nhập đen này là không hợp pháp ư? Vì vậy, nhìn thấy người ta vàng bạc, của cải đầy cửa, núi vàng, núi bạc lần lượt khuân về nhà, thì những ngưởi dân thường chúng ta tốt nhất đừng nên than thở gì, càng không cần đem luật pháp dương gian ra để nói, chỉ cần nhớ rằng, đó là số mệnh của người ta! Đây chính là chân lý mà “sổ lợi lộc” muốn nhắc nhở chúng ta.

Đương nhiên, không chỉ hiện nay, mà ở thời cổ đại, những tên tham quan cỡ lớn chỉ là thiểu số, bởi mồ hôi xương máu của người dân là có hạn. “Đi ngàn dặm để nhận chức quan, cũng chỉ vì vấn đề ăn mặc”, làm quan là bát cơm của người đọc sách, vì thế làm quan sớm hay muộn, quan to hay quan nhỏ, giữ chức lâu hay chỉ tạm thời, cuối cùng cũng quy kết về một chữ “lộc”. Nói ngược lại cũng vậy, sổ lợi lộc chính là quyển sổ ghi lại hành trình phía trước của những kẻ làm quan.

Trong những cuốn tiểu thuyết, người ta chưa xác định các danh mục của sổ lợi lộc, có quyển ghép lợi lộc và tuổi thọ lại cùng nhau để bàn luận, rồi gọi chung là “sổ lộc thọ”. Chương Trong ruộng có chôn tiền, quyển mười, cuốn Di Kiên chí bổ của Hồng Mại viết, huyện Thụy An – Ôn Châu có người thợ mộc tên Vương Tuấn, năm đó mười bảy, mười tám tuổi. Một hôm, cậu ta nằm mơ thấy mình đi vào phủ quan, gặp quan âm phủ đang ôm hồ sơ đi qua. Vương Tuấn liền hỏi, viên quan đó đáp: “Đây là sổ lộc thọ của người trần thuộc sự quản lý của ta.” Mà huyện Thụy An lại vừa đúng nằm trong sự quản lý của ông ta. Thế là Vương Tuần van xin mãi, mong được biết những gì mình được hưởng trong đời. Sau khi lật tìm, viên quan âm phủ để cậu ta xem, bên trên viết: “Ruộng không quá sáu mươi mẫu, thọ không quá tám mươi tuổi.”

Dựa theo quyển sổ đó, lộc và thọ đi cùng với nhau, đây là kiến thức mà người thường nào cũng biết: người chết rồi, tiền lương hay tiền dưỡng lão sẽ không được cấp phát nữa. Nhưng rất ít người có “tư duy ngược chiều” như vậy, nếu dứt khoát không lĩnh nhận khoản tiền lương mà mình được phép có trong đời, thì có phải sẽ kéo dài tuổi thọ, thậm chí có thể không chết hay không? Và thế là có người thông minh biết trước số lương thực của mình lúc bình sinh là có hạn, bèn dùng cách tẩy chay các khoản lộc mà mình được hưởng để kéo dài tuổi thọ. Di kiên chi chí đinh tập, quyển một có câu chuyện như sau: “Quách Đại Nhiệm nhận lệnh tới làm tri phủ huyện Vu Tiềm, Hàng Châu. Trước khi đi nhậm chức, ông nằm mơ có người đến đưa cho ông một trăm quan tiền và một thưng gạo, nói rằng: “Lộc khoa của lão huynh lúc bình sinh chính là đây.” Sau khi tỉnh dậy, Quách Đại Nhiệm tỏ ra buồn rầu, nếu như lộc ta được hưởng chỉ ít như vậy, chẳng khác nào vừa nhận chức đã chết hay sao, vậy tiền đồ của ta còn gì nữa đây? Thế là ông ta thà chết chứ không chịu đi nhận chức. Ông ta không nhận phần bổng lộc này, và đương nhiên cũng không chết được, cứ như vậy nhiều năm trôi qua. Nhưng về sau, triều đình điều tra ra việc đó, lại bổ nhiệm cho Quách Đại Nhiệm làm huyện lệnh huyện Kiến Đức, Nghiêm Châu. Vốn là một thư sinh nghèo, lúc này kinh tế gia đình đang eo hẹp, người nhà cầu xin ông đi nhận chức để giải quyết tình hình túng thiếu hiện nay, đương nhiên không phải chỉ vì “một trăm quan và một thưng gạo” phần bổng lộc hàng tháng. Quách Đại Nhiệm đành chấp thuận, sau khi nhận chức, lần đầu tiên ông nhận “một trăm quan và một thưng gạo”, nhưng trước ngày phát bổng lộc của tháng thứ hai một ngày, Quách Đại Nhiệm đã qua đời.

Có thể thấy, chỉ cần Quách Đại Nhiệm không lĩnh khoản bổng lộc “một trăm quan và một thưng gạo” đó thì ông ta có thể sống mãi mãi. Như vậy, Quách Đại Nhiệm quá vớ bở rồi còn gì! Nhưng ông trời không dễ bị chơi khăm như thế, bởi đến khi nhà túng đến mức không có gì ăn, anh không lĩnh khoản lộc quan đó thì cũng vẫn chết vì đói mà thôi, do vậy, cuối cùng Quách Đại Nhiệm vẫn phải đi nhận chức quan. Nói mãi, cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái “mệnh”.

Hơn nữa còn có cách nói rằng, nếu giữ chức quan mà chỉ ăn không ngồi rồi thì tuổi thọ của người đó cũng bị quan dưới âm ti cắt bớt, giống như Quách Đại Nhiệm trốn ở nhà không đi nhận chức, không khéo đến một ngày nào đó, ngay cả khoản bổng lộc “một trăm quan và một thưng gạo” cũng bị bốc hơi mất. Điều này cũng có câu chuyện để chứng minh. Trong Bắc đông viên bút lục tục biên của Lương Cung Thần, quyển năm có chương Dung sư chiết lộc, đây là chương ghi lại câu chuyện tách rời thọ và lộc: “Huyện Ngân tỉnh Chiết Giang có một người học trò, viết văn cũng khá nhưng luôn lận đận lúc khoa cử. Một ngày, anh ta nằm mơ thấy mình xuống âm phủ, ở đó anh gặp một viên quan nhỏ, người đó lại chính là người bạn đã mất của mình. Thế là anh ta liền hỏi dò số công danh bổng lộc của mình ra sao. Viên quan kiểm tra trong sổ âm phủ, rồi nói: “Thọ của huynh chưa hết nhưng lộc thì đã hết rồi, không lâu sau huynh sẽ được ghi vào danh sách chết, còn trông mong gì về công danh nữa!” Người này nói: “Thường ngày ta chỉ biết dạy học kiếm sống, càng chưa từng phung phí quá mức bao giờ, vậy tại sao lộc của ta lại hết trước?” Quan âm phủ thở dài, nói: “Huynh nhận tiền học phí của người ta mà lại dạy dỗ qua loa, không nghiêm túc. Theo luật pháp âm phủ, ngồi mát ăn bát vàng, không làm đòi hưởng lợi thuộc vào tội lãng phí, bị phạt trừ hết mọi bổng lộc mà người đó được hưởng, để bù vào những gì anh lấy không của người khác. Người có bổng lộc làm quan thì cắt bổng lộc, người không có lộc làm quan thì cắt lộc ăn uống.” Quả nhiên không lâu sau, vị thư sinh này mắc chứng nghẹn khi ăn, không nuốt được gì hết, lúc này dù tuổi thọ của anh chưa hết thì anh vẫn không thể không chết.

Nhưng những chuyện đó đều là việc của người dân không có lộc quan, còn những kẻ gian ác số một như Tần Hội lại không thấy Diêm phủ động đến một sợi lông chân của ông ta, hằng ngày ông ta vẫn ăn no ngủ say, khi chết được chết tại nhà. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, có thể Tần Hội lại chính do ông trời phái xuống để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt cũng nên. Vì thế, đừng ai nghĩ có thể tìm ra lỗi của ông Trời. Đặc biệt là luật trời, “người có lộc quan thì cắt lộc quan, người không có lộc quan thì cắt lộc cơm”, nó cũng giống như ở trần gian, quan chức là mạng sống thứ hai của con người, quan càng cao thì “mạng sống” giữ được càng nhiều, tương tự trong trường hợp phạm tội, quan cao thì bị giáng chức, quan thấp thì bị cách chức, còn đám dân thường chúng ta không có chức tước thì đành phải để anh bạn dùng để ăn cơm kia nghỉ hưu sớm mà thôi. “Anh bạn” ở đây là đầu hay là bát cơm thì kết cục cũng như nhau cả, chỉ có điều, nó có sự phân biệt nhanh tức khắc hay từ từ mà thôi, vì thế ít tham gia vào việc của người khác thôi, từ câu chuyện này chúng ta chỉ cần lĩnh hội được rằng, thọ và lộc luôn tương thông với nhau, hết thọ thì lộc cũng tự hết, mà hết lộc thì muốn sống cũng không được, dân thường chúng ta phải biết nắm chặt lấy bát cơm đó của mình.

Ngoài ra, giống như việc có sổ thực phẩm lại có “kho thực phẩm”, dưới cõi âm, ngoài “sổ lợi lộc” ra còn có “kho lộc tài”, tương ứng với sổ lợi lộc. Quyển Khuê xa chí của Quách Thoán có câu chuyện như sau: “Huyện Giang Sơn, Cù Châu có người họ Mao, một hôm ông mơ thấy mình lạc xuống âm phủ, quan âm phủ dẫn ông ta tới một nơi, ở đó có hai dãy nhà lớn, bên trong đầy tiền, nhưng bên trong lại lấy chức quan của từng người làm mốc đánh dấu, hóa ra đây là bổng lộc của các quan trên trần gian. Những khoản tiền này đều có hạn định. Thử nghĩ, nhân vật có cấp bậc như Hòa Thân sợ phải xây dựng một nhà kho riêng để chứa bổng lộc của hắn. Diêm phủ phải đặc biệt mở một trăm chiếc lò rèn ngày đêm không ngừng đúc tiền, như vậy cũng chưa chắc đã theo kịp tốc độ nhận quà cống tặng của hắn ở dương gian.”

4

m phủ có sổ sách ghi lại công danh khoa cử của con người, danh mục cũng không xác định. Trong Di kiên giáp chí, quyển mười tám, chương Dương Công Toàn mơ gặp cha gọi loại sổ đó là “sổ văn”, còn trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển mười một, chương Thú dân sách lại gọi là “sổ khoa giáp”. Tiếp đến, ngoài danh mục thứ tự khoa cử như “Đỉnh giáp”, “Tiến sĩ hiếu liêm”, “Minh kinh tú tài” ra, còn có sổ “Tú dân” được coi như một sự sáng tạo mới lạ. Gọi là “Tú dân”, tức chỉ những người có học vấn mà không có bổng lộc, học vấn rộng, viết văn hay, nhưng không có duyên với khoa bảng, và tất nhiên không được hưởng lộc quan rồi. Tuy Diêm Vương nói: “Người trần coi “Đỉnh giáp” là số một thì trên trời coi “Tú dân” là số một”, nhưng số một trên trời không thực tế bằng chiếc bánh ngô dưới hạ giới, vì thế, vị học trò giữ vị trí đầu tiên trong sổ “Tú dân” rất tỉnh táo, không hề hứng thú với chiếc đầu rùa trên trời chút nào.

Bởi công danh chốn khoa trường do Diêm phủ quyết định, vì thế vào thời Đường, mỗi đêm trước ngày công bố bảng vàng, Diêm phủ lại phái các quan đưa danh sách tới những nơi tổ chức thi cử. Việc giao nhận giữa âm dương hai giới có phần rất bí ẩn, quan âm phủ mang công văn tới trường thi, đương nhiên các quan chủ khảo không nhìn thấy quan âm phủ, cũng không nhìn thấy công văn, nhưng không hiểu làm sao mà các quan chủ khảo bỗng xúc động, họ lĩnh hội ý chỉ từ phía âm phủ một cách không so đo thắc mắc, dù nội dung những bài thi được xem như thế nào, nhưng căn cứ để điền tên lúc đó hoàn toàn là do thiên ý. Tác phẩm Tục huyền quái lục của Lý Phức Ngôn, người thời Đường có kể câu chuyện thuộc thời vua Đường Đức Tông: “Lý Tuấn thi tiến sĩ nhiều lần không đỗ, năm nay Lý Tuấn nhờ người bạn cũ của mình là Bao Cát – giữ chức Quốc tử tế tửu (chủ quản Quốc tử học) giúp đỡ, cũng coi như đã chạy được qua cửa quan chủ khảo. Trước ngày phát bảng, quan quản lý định mang danh sách những người trúng bảng báo lên tể tướng. Hôm đó vừa qua canh năm, Lý Tuấn liền chạy tới nhà Bao Cát hỏi thăm tình hình, giờ này cửa trong vẫn chưa mở, Lý Tuấn bèn đứng bên ngoài chờ đợi. Bên cạnh có quầy bán bánh ngọt, lại có một viên thư lại ở đó, viên thư lại này nhìn như người từ nơi khác tới kinh thành đưa công văn, hắn nhìn chằm chằm vào chỗ bánh ngọt mà nuốt nước miếng. Lý Tuấn thấy đáng thương, bèn mời hắn ăn một bữa no say. Viên thư lại rất cảm kích, bèn nói: “Nói thật, ta là quan lại dưới âm phủ, được cử tới đây đưa danh sách kết quả thi tiến sĩ. Có phải huynh đang đợi thông tin này không? Danh sách những người đỗ bảng ở đây, huynh cầm lấy mà xem.” Kết quả khiến Lý Tuấn kinh ngạc, trên bảng vàng không hề có tên anh ta, hóa ra người khác có quan hệ còn ghê gớm hơn anh ta, đá anh ta ra khỏi danh sách. Nhưng quan hệ có ghê gớm cỡ mấy cũng không bằng có sự ra tay trước của viên thư lại dưới âm phủ, Lý Tuấn bỏ thêm ít tiền, quả nhiên khiến viên thư lại này sửa tên người trúng tuyển thành tên Lý Tuấn trên bảng vàng. Tất nhiên, danh sách của âm phủ là không có thực, danh sách do chủ quản viết vẫn cần có người sửa chữa, nhưng nếu như danh sách của phía âm phủ đã được sửa lại, thì coi như đã thông qua được cửa quan chủ quản, danh sách phía dương gian muốn sửa cũng không được.

Nhưng như vậy, lẽ ra mười năm sau Lý Tuấn mới đỗ bảng vàng thì giờ đây đã được làm tiến sĩ trước, điều này chẳng phải đi ngược lại với “định mệnh” sao? Không hẳn thế, bởi “định mệnh” ở đây chính là do “Diêm phủ quyết định”, bàn tay của âm phủ sẽ quyết định tất cả. Ngày nay chẳng phải ta vẫn có câu: “Tháng Sáu học sinh thi, tháng Bảy phụ huynh thi” sao? Vậy thì phải xem những bậc phụ huynh này có qua được kỳ khoa cử của Diêm phủ hay không!

Không chỉ kỳ thi tiến sĩ, mà cả thi cử nhân, tú tài, thậm chí cả các kỳ thi tuyển học trò tại các phủ huyện cũng đều do thiên mệnh sắp đặt, đều được ghi vào sổ âm phủ. Những câu chuyện về đề tài này có quá nhiều, chỉ riêng trong Liêu trai chí dị đã có vài chuyện, nếu kể ra sẽ khiến mọi người mất hứng, khiến các bậc anh hùng trượt bảng vàng khó tránh khỏi thốt lên một câu rằng: “Nếu sớm biết như vậy thì có phải đã tốt hơn không!” Nhưng thực ra những câu chuyện này đa phần viết về những bậc anh hùng rớt bảng, chúng ta có nói, có kể cũng là để tự an ủi mỉnh phần nào.

Cuối cùng ta bàn tới một cơ quan khác của cõi âm, đó là “Phòng mũ ô sa” – chuyên quản lý mũ ô sa của dương gian. Tác phẩm Canh tỵ biên, quyển hai, chương Thích biên tu của Lục sán, người triều Minh có ghi lại những việc Thích Lan nhìn thấy khi đi xuống âm phủ thời trẻ. Thích Lan lâm bệnh mà chết, rồi xuống âm phủ, nhưng hóa ra lần này Diêm phủ lại hồ đồ bắt nhầm người, thế là phải trả Thích Lan trở lại dương gian. Trên đường gặp trận mưa rào, tất cả bèn đi vào ngôi chùa Phật trên đường tránh mưa. (Rất ít tài liệu ghi phía dưới aa6m phủ cũng có mưa, có chùa chiền, vì thế tôi đặc biệt chú ý đến điểm này.) Đi vào phòng đầu tiên, trên nền nhà đều là khung cốt của mũ ô sa, Thích Lan đưa tay định cầm lên nhưng không thể di chuyển được nó. Lúc này, người bên cạnh mới nói: “Những cái này không liên quan đến ngươi, cái của ngươi ở đây cơ.” Nói rồi người đó chỉ cho Thích Lan thấy, Thích Lan đưa tay nhấc nó lên, quả nhiên khẽ đưa tay đã nhấc được, bên phía trong cốt mũ có hai chữ “thất phẩm”. Quả nhiên sau này Thích Lan làm đến chức quan Biên tu tại Hàn lâm viện thì qua đời, vừa đúng là chức thất phẩm. Trong tập khác của quyển Canh tỵ biên còn nói, Thích Lan sau này trở thành thủy thần ở hồ Bà Dương, không biết đó là chức quan mấy phẩm, cho dù là “thần thông minh chính trực”, chắc chức vị cũng không cao lắm. Nhân vật sau khi chết trở thành thần, lúc sống chẳng qua cũng chỉ là một viên quan nhỏ bé, có người nhìn thấy trên đầu lợn, đầu chó có đội mũ san hô, mũ lông công, bèn giận dữ than trời bất công, có cần thiết như vậy không nhỉ?

Những câu văn vụng về đến đây cũng nên được kết thúc, nhưng phần kết không tránh khỏi cảm giác khô khan, cứng nhắc. Cũng may hôm đó gặp mấy người bạn, rồi cùng bàn về “sổ âm phủ” và “sổ dương gian”, sổ nào “thắng thế” hơn. Một người bạn bèn nói: “Anh nói rằng sổ âm phủ “giống ở dương gian”, thậm chí còn phúc tạp và nghiêm ngặt hơn so với dương gian, tôi cho rằng chưa chắc. Để tôi kể cho anh nghe về quyển “sổ dương gian” mà tôi đã tận mắt nhìn thấy, trong các loại sổ âm phủ mà anh biết chưa chắc đã có.” Sau khi anh bạn kể xong, tôi thử quy nó vào loại “sổ sinh tử”, thấy không thỏa đáng, quy vào “sổ thực phẩm” cũng không phù hợp. Nay tôi xin thuật lại câu chuyện đó phía dưới, xin quý độc giả phân loại giúp. Tuy ở đây có chút trật thứ tự, nhưng nó cũng chính là lối “không có căn cứ”.

Bỉ nhân theo học một khoa,làm quan năm mươi năm nay, lộc thu về đương nhiên cũng có, nhưng xem ra vẫn chưa đủ để gia nhập bảng xếp hạng đại gia tại các trường đại học bây giờ. Nhưng khoa chúng tôi cũng có những sự tích đủ để lưu danh thiên cổ, tuy không đến mức kinh thiên động địa, nhưng đôi khi cũng khiến quỷ thần phải rơi nước mắt. Người xưa nói: “Thà làm miệng gà, chứ không làm đuôi trâu.” Người nay nói: “Không sợ Xuy Phá Thiên[6], tôi có một chiêu riêng.” Sự việc tuy nhỏ nhưng cũng không phải là không thể gia nhập Vô song phổ[7]. Có điều đáng tiếc là, hiện nay, tuy hầu hết các trường đại học danh tiếng đều đã viết lịch sử trường, nhưng không hiểu vì ai mà người viết kỵ húy không viết những điều như vậy vào quyển “chính sử” của họ.

[6] Tên nhân vật biểu diễn của diễn viên xiếc nổi tiếng Hà Thụ Sâm.

[7] Quyển sách tổng hợp thơ, văn, hình ảnh của bốn danh nhân nổi tiếng thời xưa của Trung Quốc là Hạng Vũ, Tô Vũ, Lý Bạch, Tư Mã Thiên.

Đó chính là vào thời kỳ đấu tranh giai cấp gay gắt, còn khoa chúng tôi lại luôn có thể tạo ra sự thực để luận chứng cho chữ “gay gắt” này. Tôi xin lấy tài liệu tại chỗ luôn, tài liệu ở đây chính là những sinh viên không cần bỏ tiền mua chỗ ngồi trong trường học, bình quân mỗi năm có thể gây ra hai vụ “phản động”, hơn nữa chủ đề luôn thay đổi theo thời gian, bắt kịp với sự thay đổi của tình thế. Ví dụ, thời kỳ 1963 -1964, đây là thời kỳ “phản đối chủ nghĩa sửa đổi”, năm đó những sinh viên trúng tuyển có đặc điểm là thích chạy dài và học tiếng Nga, hai môn học này đủ để giúp họ đào tẩu sang biên giới Trung – Xô (Nga). Chủ đề của giai đoạn 1964 – 1965 là “tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp”, thế là năm đó, bí thư chi bộ Đoàn của lớp sinh viên tốt nghiệp lập tức rơi vào sa đọa, còn kẻ tay chân không được sạch sẽ cho lắm đã được giai cấp vô sản chúng tôi cứu vớt, trở thành ngôi sao chính trị cấp khoa. Đến nửa cuối năm 1965, chúng tôi gia nhập lớp “sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp”, chủ đề tuy vẫn chưa rõ ràng, nhưng kẻ xử lý và kẻ bị xử lý đều thấy căng thẳng trong thầm lặng. Lúc này, có một sinh viên bất ngờ gia nhập Đảng. Dùng từ bất ngờ là vì, thứ nhất thư ký chi bộ Đoàn là lớp trưởng còn chưa vào Đảng, mà người này rõ ràng thuộc loại “siêu đẳng” rồi, hai là người này lại ngầu như Thổ Hành Tôn trong “bảng Phong Thần” mà Thẩm Mạn Vân đã vẽ, thường ngày luôn miệng nói cười, vui vẻ làm trò gây cười cho người khác, thật không hiểu, rốt cuộc cấp trên thấy được điểm gì ở cậu ta nhỉ? Lúc đó nghĩ lại, mọi người mới nhớ ra cậu ta thường lén lút ghi chép cái gì đó vào vở, nhìn thấy người khác đi tới là vội vã giấu ngay. Có một ngày, cậu ta ở trong ký túc giả vờ “khờ khạo” chọc cười cho người khác, có lẽ là muốn nhân cơ hội để tiếp tục thu thập một số thông tin tình báo chăng? Mọi người bèn nghĩ kế, nhân lúc huyên náo lộn xộn, một người cướp lấy quyển vở trên người cậu ta. Khi lật ra xem, thật ngạc nhiên, đó không phải là những bí mật ghi chép người nào ở đâu, làm gì, nói gì, mà là ghi lại chi tiết việc một bạn sinh viên mỗi sáng ăn mấy cái bánh bao (sau này mới biết, bạn sinh viên này là đối tượng bồi dưỡng được chỉ định trước, chuẩn bị trở thành sinh viên phản động của khóa tiếp theo), nếu ngày nào cậu sinh viên này ăn thiếu nửa cái, bên dưới sẽ được ghi chú hôm đó trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Việt Nam đã bắn rơi mấy chiếc máy bay của Mỹ, rõ ràng cậu ta đang thể hiện tinh thần “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” mà. Cái phiền phức là, báo chí lúc đó dường như ngày nào cũng đăng tin máy bay bị bắn rơi, vì thế chỉ cần người này ăn ít đi vài miếng bánh bao thì có thể cậu ta đang câu kết với chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Những ghi chép này thực sự đáng sợ, những lời nhảm nhí có thể không nói, những điều vô căn cứ có thể không bàn luận, nhưng mỗi bữa ăn hằng ngày đều phải suy xét xem có nên “liên hệ” đến thế lực phản động trong và ngoài nước hay không thì thật là khó.

Trước vụ việc đó, một ngày tôi ăn ba bữa, sáng, trưa, tối mỗi bữa đều ba cái bánh bao (năm 1965, nền kinh tế đã có sự chuyển biến tốt đẹp, nhà ăn trường tôi không giới hạn suất ăn của sinh viên), tuyệt đối không có trường hợp ngoại lệ. Có bạn học nói tôi thực hiện “kế tự bảo vệ mình”, đó là một câu nói đùa đầy thiện ý, nhưng sau này nghe nói trong “nội bộ” có người từng hoài nghi tôi cố ý “đối phó” với tổ chức. Đó quả là nỗi oan ghê gớm.

Phần 3

1

Sổ sinh tử của Diêm phủ đã được chuẩn bị từ nhiều năm nay, cuối cùng chẳng qua cũng chỉ vì câu: “Anh cũng đến rồi à!” Câu này nghe có cảm giác như “cháy nhà hàng xóm vỗ tay reo mừng” vậy, để rồi việc tiếp theo là lấy đi linh hồn của người sống. Sau đó là giam cầm, dùng hình, phán tội, và rồi người đứng đầu Diêm phủ sẽ tìm thấy niềm vui từ đó, giống như anh nông dân vui mừng khi vụ mùa bội thu, còn Diêm Vương hạnh phúc khi những vất vả biên soạn sổ sách trước đây cuối cùng cũng được đền đáp.

Trên tay thần Chết của Tây phương luôn cầm một lưỡi hái, đối với Diêm phủ ở Trung Quốc, vụ mùa của họ cũng được bắt đầu từ việc câu kéo linh hồn của người sống. Từ những câu chuyện ma đã được đọc, nha sai cõi âm khi đi làm nhiệm vụ câu kéo linh hồn, thường tỏ ra rất uy phong. Hắn hỏi qua tên tuổi, sau đó mới dùng xích sát trói anh lại? Chà, vậy là hắn quá khách khí rồi đấy! Thông thường, hắn chẳng nói chẳng rằng, vừa xông vào cửa đã trói chặt anh rồi cứ thế dắt đi. Có lẽ cũng do chịu ảnh hưởng từ phong cách bắt người của các anh nha sai trên dương gian chăng? Nhưng khi xin chỉ thị hoặc bẩm báo công việc với Diêm phủ thì lại không được sơ suất như vậy. Bởi cho dù là Diêm La Vương đi bắt người, theo lý mà nói ông cũng phải làm các bước “thủ tục” đã. Giống như ở dương gian, khi bắt tội phạm, có thể bỏ qua thủ tục tuyên bố quyền lợi của hai bên, nhưng tục ký phát lệnh bắt giữ là không thể bỏ qua. Vì thế, khi Diêm phủ muốn bắt giữ các linh hồn với số lượng lớn cần có “sổ bắt linh hồn”, bắt giữ một linh hồn thì cần có “thẻ bắt giữ”.

Đương nhiên, việc bắt giữ linh hồn cần phải có thủ tục, không phải hoàn toàn chứng tỏ tính nghiêm ngặt về mặt pháp trị tại Diêm phủ, mà là vì Diêm Vương và các Phán quan lo sợ một khi lũ quỷ con kia không có quy củ, thì tất cả mọi âm mưu kéo bè kéo cánh nhằm mưu lợi riêng kia sẽ lọt vào tay bọn Đổng Siêu, Tiết Bá.

Những bằng chứng bắt linh hồn này không xác định về tên gọi, nhưng nếu nói giữa nó và lệnh bắt giữ của dương gian có sự tương đồng về tính chất là không sai. Lịch sử của nó có thể bắt đầu truy cứu từ đời Hán, nhưng khi đó, dân gian gọi loại sổ này là “sổ người chết”. Tác phẩm Sưu thần ký của Can Bảo, người đời Tấn có ghi lại câu chuyện của Chu Thức – một người sống vào thời nhà Hán: “Chu Thức ngồi thuyền đi về hướng quận Đông Hải, trên đường đi, Thức gặp một viên thư lại. trên tay cầm mấy quyển sách, nhìn rất mệt mỏi, viên thư lại nhờ Thức đỡ dùm chỗ sách đó. Chu Thức rất vui vẻ giúp đỡ. Thuyền đi được hơn mười dặm, viên thư lại nói với Chu Thức rằng: “Tôi phải ghé qua vùng này một chút, sách tôi gửi lại trên thuyền nhờ huynh trông giúp, huynh không được mở chúng ra.” Câu “huynh không được mở chúng ra” chính là ám thị “chỗ này không có ba trăm lạng bạc”, sẽ là kẻ ngốc nếu Châu Thức “không mở nó ra”. Thế là Châu Thức lén mở chỗ sách ra xem, hóa ra đó là “sổ ghi tất cả những người đã và sắp chết” trong đó có tên của mình.

Loại sổ đó còn gọi tắt là “sổ chết”, có thể gặp trong tác phẩm Chân dị lục của Đới Tộ, người đời Tấn: “Sau khi qua đời bảy năm, Hoa Dật hiện hình trở về nhà, tìm gặp anh trai nói chuyện về đứa con trai cả của mình, rằng: “Thằng Ngu đã bị ghi tên trong sổ chết, nó không còn sống được mấy ngày nữa.”

Tiếng Bạch thoại có thể gọi trực tiếp là “sổ người chết”. Sách Triện dị ký của Lý Mai, người đời Đường có viết: “Núi Thái Sơn triệu tập linh hồn của con người, sổ người chết được giao cho phía Đông Nhạc, phía Đông Nhạc có nhiệm vụ đi bắt những linh hồn ấy.”

Nếu gọi là “thẻ trời”, xem chừng có vẻ trang trọng quá mức. Di kiên bính chí, quyển ba, chương Lý Bật Vi kể: “Lý Bật Vi nói: “Thẻ trời ở đây, ngươi có thể xem qua.”. Nói rồi ông lấy từ trong tay áo ra một quyển văn thư đưa cho người kia xem, trên quyển văn thư đều là họ tên người. Bật Vi chỉ quyển văn thư, nói: “Tất cả những người có tên trong văn thư này đều sắp chết.” Quyển thiên phù này chưa chắc là do Ngọc Hoàng đại đế soạn ra, mà chỉ là công văn của Diêm Vương, để cho quyển công văn thêm phần khí thế nên cho thêm vào tên gọi những từ ngữ kiểu “chiếu theo chỉ thị của Ngọc Hoàng đại đế” mà thôi.”

Trên đây đều là những quyển sổ đã được viết sẵn, hoặc như trong Sưu thần ký có nói, thư lại chốn âm phủ phải mang theo quyển sổ hoàn chỉnh để đi bắt linh hồn với số lượng lớn, trường hợp này rất ít xảy ra, trừ phi trên dương gian xuất hiện “cơn sốt” địa ngục. Nhưng nếu bắt linh hồn trai tráng với số lượng lớn, ví như trong Thạch hào lại đã nói, thì cũng bắt buộc phải có sổ sách đi theo. Dù sao cũng là bắt người, dù anh bắt vì mục đích gì thì phương pháp và cách làm cũng không khác nhau là mấy.

Nếu như không có sổ sách, có thể chấp nhận thẻ, mỗi người một tấm thẻ, tất cả phải giống loại giấy tờ bắt giữ người của quan phủ chốn dương gian. Trong Dị văn lục của Đường Dật Danh có câu chuyện giống chuyện Châu Thức đi thuyền, chỉ có điều quyển sổ của viên lại chốn âm phủ đó được đổi thành chiếc tay nải, người xem lén mở tay nải ra xem, thấy “mỗi chiếc túi có chứa năm trăm chiếc thẻ, gần giống giấy, chữ viết không phải chữ triện hay chữ lệ, nên không nhận được ra chữ gì.” Chỗ thẻ này có cách thức rất giống “giấy câu hồn”, chỉ có điều nó sử dụng một loại mật mã để viết. Như vậy, tuy nó không thể bị tiết lộ cho người khác biết đó là gì, nhưng làm thế nào để giúp người bị bắt biết thẻ đó dùng để bắt linh hồn mình? Những tấm thẻ này trong các điệu hò dân gian được gọi là “thẻ câu hồn”, còn “giấy câu hồn” lại xuất hiện nhiều trong các vở kịch, tiểu thuyết hoặc dân ca thời Minh – Thanh. Từ “giấy” này thuộc thuật ngữ pháp luật, từ “giấy mời” hiện nay có lẽ cũng liên quan đến vấn đề này.

Liên quan đến vấn đề này còn có một loại “thẻ bài câu hồn”, đây thực sự là đạo cụ trong tay những tên quỷ vô thường. Hình dáng của nó giống một chiếc cuốc nhỏ, được làm từ gỗ, bên trên có viết mấy chữ như chữ “truy nã”, có lẽ nó hoàn toàn là cách làm của đám sai dịch nha môn. Nhưng trong tiểu thuyết cũng xuất hiện những trường hợp quỷ cầm thẻ bài đi câu hồn. Trong Di kiên giáp chí, quyển chín, chương Giấc mơ của sứ thần Trương Kỳ có viết, viên lại âm phủ tới bắt người, trên tay cầm một chiếc thẻ bài sơn đen và “chu thư”, “chu thư” là chỉ thẻ bài có viết họ tên của tên quỷ sống cần bắt, còn thẻ bài sơn đen là do quan phủ tự chế, bên trên chắc có ấn tín, hoặc hình thù gì đó khó bắt chước, nghe có vẻ rất quyền uy. Trên sân khấu thường có những câu háy kiểu như “Thẻ vàng điều tới, thẻ bạc cho đi”, xem ra, từ “bài” ở đây nghiêm túc, trang trọng hơn thẻ giấy nhiều lần, như vậy dù có bị bắt cũng chỉ những nhân vật lớn mới xứng được dùng.

Nếu như thẻ bài câu hồn giống lệnh bắt giữ ngày nay, vậy thì suy luận ra, nếu sai dịch cõi âm không mang theo loại giấy tờ này, thì người bị bắt có quyền cự tuyệt việc bắt giữ. Quyển bốn, sách Quỷ đổng của Vô Danh Thị, người thời Tống có ghi lại câu chuyện rất thú vị như sau:

Trần Sinh lâm bệnh nặng. Sinh nhìn qua khe tường thấy có một kẻ mặt khỉ đi từ ngoài vào, mặc quần áo người, con khỉ nói: “Diêm phủ muốn bắt ngươi.” Trần Sinh nói: “Có thẻ lệnh bắt không?” Khỉ đáp: “Lẽ ra phải có thẻ, nhưng không có thẻ ta không thể bắt ngươi được sao?” Trần Sinh mắng: “Luật lý âm dương là một, nếu quả muốn bắt ta, thì phải có thẻ làm nghiệm chứng chứ? Những tên quỷ khác luôn mạo danh để xin cái ăn mà thôi. Hơn nữa Diêm phủ thiếu người hay sao mà lại sai một con khỉ xuống?” Con khỉ cho gọi thần thổ địa và thần táo lên: “Án này đang rất cấp bách, trong lúc vội vã ta quên mang theo thẻ, nay người này không tin, hai ngươi có thể làm chứng cho ta được chứ?” Hai vị thần đáp: “Vâng.”

Chỉ cần mặc lên người bộ quần áo của “kẻ chức trách”, đừng nói là “khỉ mặc áo người”, trông rất giống người rồi, thì ngay cả là loài súc sinh như “động vật linh trưởng” cũng không thể làm việc chểnh mảng được. Trần Sinh không những đòi kiểm tra công văn, mà còn trông mặt để bắt hình dong, coi khinh quyền uy của những bộ quan phục, rõ ràng đó chỉ là một tên điêu dân. Cũng may con khỉ này gặp được vị thần thổ địa thấu tình đạt lý và vị Táo Quân “ăn cây táo, rào cây sung”, sau vài tiếng vâng vâng dạ dạ, tất cả đã đồng tâm hợp lực đưa Trần Sinh lên đường xuống suối vàng. Không có thẻ bài, quan sai âm giới có thể tìm thần thổ địa và Táo Quân làm chứng, đồng thời hỗ trợ quan sai trong việc bắt bớ, đó là một quan điểm. Còn một quan điểm nữa ngược lại, khi quan sai muốn bắt linh hồn người, đầu tiên phải đưa thẻ bài câu hồn trình đến miếu thổ địa, nhờ thổ địa lập hồ sơ (xem Tục thoại khinh đàm, tập hai, Qua Bằng gặp ma của Chiêu Kỷ Đường, người đời Thanh), có người lại nói rằng phải đến chỗ thần thổ công kiểm tra thẻ trước (xem Xuân chử kỷ văn, quyển hai của Hà Liên, thời Nam Tống), nếu không thì đừng nghĩ tới chuyện bắt người.

Tôi nghĩ, ngay cả xã hội phong kiến cũng có bạo loạn, có cai trị, nếu là cai quản xã hội, phải luôn cần một số trình tự pháp luật, không thể dù là người hay không, chỉ cần mặc một bộ quần áo của nhà chức trách là có thể tùy tiện bắt người. Hơn nữa, chiếu theo quy tắc, loại văn tự dùng trên những thẻ bài câu hồn đó cũng phải tuân theo những quy phạm nhất định, vì vậy, Diêm phủ muốn viết thẻ bài bắt người, nên dùng những người mà trong bụng người đó phải có chút ít chữ nghĩa, nếu không, một khi gặp phải những kẻ cứng đầu thích quấy phá, lúc đó những người thi hành luật pháp sẽ phải đau đầu vì chúng. Trong nhà Kỷ Hiểu Lam quả có một người như vậy, đó là một đầu bếp do cha ông khi làm quan ở tỉnh ngoài dẫn về, ông ta cứng đầu không phải là vì có quan lớn nâng đỡ phía sau, mà là vì ông ta cũng có chút ít chữ nghĩa.

Người này họ Dương, tên Nghĩa, chữ “义” (nghĩa) có cách viết chuẩn theo thể phồn thể là “義”. Một hôm, ông Dương nằm mơ, ông gặp hai con quỷ tay cầm thẻ Chu đến bắt ông, nhưng trên thẻ lại viết “杨义” (Dương Nghĩa). Ông Dương nói: “Ta tên là “杨 義”(Dương Nghĩa), không phải là “杨 义” (Dương Nghĩa), các người tìm nhầm người rồi.” Hai con quỷ nói: “Ông già nhìn kỹ lại xem, đây là “乂” (Nghệ), bên trên còn có một nét chấm, là chữ “義” (Nghĩa) giản thể. Bọn ta không nhầm đâu.” Ông Dương vẫn không phục, cãi lại rằng: “Tên của ta lẽ nào ta lại không rõ! Từ trước tới nay ta chưa thấy chữ “義” (Nghĩa) được viết như vậy bao giờ, chắc là chữ “乂” (Nghệ) bị quệt nhầm một nét lên đó.” Hai con quỷ không thuyết phục được ông Dương, đành quay về nha môn sửa lại thẻ. (xem Duyệt vi thảo đường bút ký, quyển năm)

Người này tuy cãi bừa, nhưng cũng không phải không có căn cứ, còn những người làm chức trách có thể giảng giải đạo lý với phạm nhân như vậy, dù là ở âm giới hay dương gian chúng ta cũng đều rất ít gặp. Nhưng từ việc này có thể thấy rằng: Muốn người dân biết chữ là việc nên làm, nhưng biết chữ rồi còn biết giảng lý lẽ với quan phủ, có lẽ đó lại là dấu hiệu không hay.

Trong Dữ Ngô Chất thư, Tào Phi nhớ tới bảy đại văn hào Kiến An:

Ngày xưa, khi đi chu du các xứ, đi thì cùng đi, mệt cùng dừng lại nghỉ, khi đó nào ai nghĩ sẽ phải nếm trải giây phút biệt ly!… Nào ngờ sau bao năm các huynh đã ra đi gần hết, nhắc đến thật đau lòng. Những tập thơ văn viết vội của các huynh, ta tập hợp lại thành tập. Nhìn tên tuổi các huynh nay đã bị liệt vào danh sách của quỷ, nghĩ lại những ngày tháng du ngoạn cùng nhau trước đây, tôi vẫn còn ghi nhớ mãi nơi con tim này, tuy nay các huynh đã là người của quá khứ, nhưng ta ngàn lần nhớ tới các huynh!

Đào Uyên Minh cũng có tác phẩm Nhạc truy điệu – Vãn ca:

Có sinh ắt có tử,

Cớ sao vội vã đi

Đêm qua còn là người,

Sáng nay đã thành ma.

Hai tác phẩm thơ văn trên có nhắc tới “sổ ma”, không phải giống như “sổ chết” đã nói đến ở phần trước. “Sổ chết” là quyển sổ câu hồn được dùng khi đi bắt linh hồn người sống, còn “sổ ma” lại là quyển “sổ hộ khẩu” dưới âm giới. Ở thế giới địa phủ được nhắc tới trong thuyết luân hồi lục đạo, vong hồn không cần có hộ khẩu, họ chỉ quanh quẩn chốc lát trong lúc chờ chuyển thế tại điện Diêm La mà thôi, vì vậy hộ khẩu tạm thời, giấy đăng ký tạm trú…. tất cả đều không cần tới, để sau đó họ lại tiếp tục lên đường. Vì thế, “sổ ma” là loại sổ câu hồn kiểu Trung Quốc, bởi linh hồn tổ tiên của chúng ta cần đăng ký hộ khẩu, an cư tại âm giới. Chỉ có điều từ này rất ít gặp trong các câu chuyện ma, chỉ thi thoảng được nhắc tới trong thơ văn, là cách gọi nhã nhặn cho “người đã mất”. Trong Trẻ em tìm về nguồn – quyển sách dạy trẻ em cách nhận biết từ, chữ, có giới thiệu các từ có liên quan đến chữ “tử – chết”: thay áo, thay chiếu, tất cả đều dùng để chỉ từ “tử – chết”; người cổ, tên trong sổ ma, là nói đến từ “vong – đã chết”, chính là nó. Chung Tự, người triều Nguyên trở thành bậc văn nhân quá cố với sở trường về văn từ, tác phẩm của ông với tên gọi Lục quỷ bạ – Danh bạ quỷ, chính là lấy từ nghĩa đó.

Người thời xưa sinh con cái cũng cần đăng ký nhập sổ, ngoài một bản hồ sơ lưu, còn cần một bản để trình báo lên chính quyền. Đó là quyển sổ hộ khẩu sớm nhất được gặp trong Lễ ký – Nội tắc, có thể đó cũng là quyển sổ hộ khẩu đầu tiên trên thế giới, tuy nó mang chút tư tưởng trọng nam khinh nữ nhưng cũng rất đáng để chúng ta tự hào.

Cũng với lập luận này, hộ khẩu ở cõi âm cũng có vai trò quan trọng đối với người chết. Nếu linh hồn nào không có hộ khẩu, tức là không được ghi tên vào trong sổ nhân khẩu dưới âm ti thì linh hồn đó chỉ có thể làm một hồn ma lang thang. Và hậu quả của nó, nếu xét theo mặt tốt, có lẽ hồn ma đó sẽ được miễn nộp thuế và lao dịch cho Diêm phủ, nhưng nếu xét theo mặt hại, có thể hồn ma đó sẽ mất nhiều hơn được, linh hồn đó sẽ không nhận được một chút đãi ngộ nào từ phía âm giới. tuy đến bây giờ tôi cũng không rõ lắm về cái lợi thế khi đăng ký hộ khẩu ở âm giới rốt cuộc là gì, nhưng đến khi quan niệm luân hồi ở Tây phương hòa trộn với quan niệm của Trung Quốc, thì những điều không phải là lợi thế của việc đăng ký hộ khẩu âm giới đã “lộ rõ”, chính là hồn ma đó sẽ mất tư cách được đầu thai chuyển thế. Những điều này tôi sẽ không bàn luận nữa, dẫu sao thì dù lựa chọn cõi âm ti kiểu Trung Quốc hay của Tây phương, hay chế độ âm phủ Trung Quốc – Tây phương kết hợp thì những hồn ma lang thang và những u hồn luôn hy vọng được Diêm phủ tiếp nhận vào danh sách quỷ, nếu không được chấp nhận, linh hồn của họ sẽ không được yên ổn, phải làm kẻ xấu tại chốn dương gian, mang đến sự bất an, lo lắng cho người sống. Tại sao vậy? Bởi vì người sống cần phải chịu trách nhiệm trong việc họ sa đọa thành nhân vật xã hội đen ở thế giới âm phủ. Quyển ba, tập tiếp quyển Dậu dương tạp trở của Đoạn Thành Thức có kể, có một anh chàng lỗ mãng, ban ngày chuyên đi phá đám người khác, một hôm sau khi uống say, anh ta ra nghĩa địa, ngã vật lên một ngôi mộ đắp cao rồi ngủ lúc nào không biết, nửa đêm tỉnh dậy, anh ta nhìn thấy một căn phòng rách nát, dưới ánh đèn vàng mờ ảo có một phụ nữ sắc mặt tiều tụy, đó rõ ràng là một ma nữ. Ma nữ kể cho anh ta nghe về thân thế của mình, rằng: “Chồng đi tòng quân không thấy trở về, bản thân ta mắc bệnh mà chết, ngoài ra ta chẳng còn họ hàng thân thích, được hàng xóm giúp nhập quan nhưng chưa đem chôn mà vùi xác tại đây, đã hơn mười năm rồi không có người đến chuyển mộ cho ta. Phàm là người đã chết, nếu xương cốt không được chôn cất lần thứ hai, thì linh hồn của họ sẽ không được âm ti ghi nhận vào sổ, linh hồn sẽ hoang mang, mơ hồ. Nếu huynh thương cảm cho u hồn này, xin hãy chuyển hài cốt của ta tới khu đất bên bờ suối, để linh hồn ta được siêu thoát, đây là tâm nguyện duy nhất của ta.”

Tại sao hài cốt “chưa được chôn cất lần hai” thì linh hồn đó sẽ không được âm ti ghi tên vào sổ? Lý do có lẽ là vì âm ti không coi anh ta như người đã thực sự chết, mà lý do của dương gian lại là người chết cần phải được mai táng kịp thời, phải chôn cất thì người chết mới được yên ổn. Nếu vùi xác đã lâu mà không được chôn thì tinh khí và hồn phách không được siêu thoát. Cảm giác “lo lắng, li tán” rốt cuộc là cảm giác như thế nào? Nếu không phải “năm loại được ghi trong danh sách đen” (là địa chủ, phú nông, phần tử phản cách mạng, phần tử xấu, phần tử cánh hữu), chỉ có cảm giác cô đơn, lạnh lẽo nơi đồng không mông quạnh, như thế chắc vẫn chưa thực sự cảm nhận được hết cái cảm giác đó. Cũng may vào thời Đường, ma quỷ vẫn còn hiền lành tử tế, chỉ lặng lẽ ở bên cạnh con người, chứ đến thời Minh – Thanh, chúng ta đã biến thành những xác chết di động chuyên đi gây chuyện rồi.

Một lý do khác để âm ti không ghi nhận người đã chết, đó là người này vẫn chưa đến lúc phải chết. Quyển Quế Lâm phong thổ ký của Mạc Hưu Phù, người đời Đường có ghi lại câu chuyện như sau:

Tô Thái Huyền là nông phu, người vùng Dương Sóc. Vợ ông ta họ Từ, sau khi sinh được ba người con trai thì qua đời. Thái Huyền đưa xác vợ đi an táng. Bỗng một ngày, Thái Huyền trở về nhà, ông nghe thấy tiếng vợ mà không nhìn thấy bóng dáng vợ đâu, người vợ nói: “Mạng thiếp vẫn chưa hết, nên Diêm phủ không chấp nhận cho thiếp ở dưới đó.”

Thọ của con người chưa hết, Diêm phủ sẽ không đón nhận hồn ma của người đó, điều này là hoàn toàn đúng. Nhưng khi đang muốn quay trở lại, thì bên này người ta đã kịp thời đưa người vợ “nhập thổ”. Không chôn không được, mà chôn nhanh quá cũng không đúng, hai giới âm dương đều phạm phải chủ nghĩa quan liêu, chỉ khổ cho những linh hồn chẳng phải sống mà cũng chẳng phải chết, bị mắc kẹt ở giữa hai thế giới này.

Nếu có người cho rằng ma quỷ có thể được tự do tự tại tại chốn âm ti, giống như những vị tiên bay lượn trên bầu trời, vậy thì người đó đã quá ngây thơ rồi. Hóa ra thần Thành Hoàng lại có trách nhiệm thu nhận những u hồn và những hồn ma lang thang không được ghi tên vào danh sách ma, coi họ là những kẻ lưu manh mù quáng, sợ họ sẽ gây chuyện khi đêm về, vì vậy cần giam họ lại. Chương Nguyễn Công Minh trong Di kiên chi đinh, quyển ba có một hồn ma đáng thương than thở rằng:

Ta xuống cõi âm từ lâu, nhưng do tuổi thọ của ta chưa hết, âm ti dứt khoát không chấp nhận, nhưng sau bị Thành Hoàng bắt giữ, ban ngày ta có thể ra ngoài, nhưng ban đêm lại nhốt trong chiếc giếng cạn ở Ngô Sơn. Những người giống như ta ở đô thành rất nhiều, mỗi khi hoàng hôn buông xuống, tất cả những người thắt dây buộc lưng vàng trên đường, đầu và người cúi thấp xuống đất mà đi, đó chính là những người như ta.

Vào thời Nam Tống, miếu Thành Hoàng tại Hàng Châu được xây dựng trên núi Kim Địa ở phía nam núi Ngô Sơn, hiện nay miếu Thành Hoàng mới được tu sửa lại ở trên đỉnh núi Ngô Sơn, chắc cách ngôi miếu cũ không xa, có điều không biết chiếc giếng cạn đó nằm ở nơi nào[8]. Hoàng hôn là thời điểm những hồn ma này được “hít thở không khí trong lành”, “thắt dây buộc lưng vàng” có lẽ là để đánh dấu quỷ xấu, “cúi đầu, người rạp xuống đất để đi” chính là chỉ loại “cắp đuôi làm người” của dương thế.

[8] Dưới núi Ngô Sơn còn có một chiếc giếng có nước, chiếc giếng này cũng rất nổi tiếng. Trong quyển Tiền thị tư chí của Tiền Thế Chiêu, người thời Nam Tống đã đặc biệt nhắc tới chiếc giếng này, nói rằng bên trong có một hồn ma trượt chân rơi xuống, nó thường xuyên lôi người xuống đó, cuối cùng người ta lấy một khối đá lớn chèn miệng giếng lại.

Những linh hồn lang thang vốn chưa đến lúc chết mà đã phải chết, họ không có suất hộ khẩu tại âm ti. Cách giải quyết cuối cùng chỉ có thể là đợi ngày dương thọ của mình kết thúc, lúc đó Diêm phủ mới cho phép họ đăng ký hộ khẩu. Nếu thời gian chờ đợi quá dài, họ chỉ có thể nhờ bạn bè, người thân hoặc những người tốt bụng trên dương gian chuẩn bị một bữa cơm chay tế cúng, giúp linh hồn họ được siêu độ nơi âm giới, có thể nói đây như việc đi cửa sau, tìm quan hệ cới các quan ở âm giới, để thời gian chờ đợi được rút ngắn. Nhưng trong chương Mao liệt âm ngục, quyển mười chín, cuốn Di Kiên giáp chí lại có chút mâu thuẫn với cách nói trên. Chương này nói rằng, những linh hồn lang thang không thể hưởng công đức từ những người ở dương gian: “Vốn dĩ chưa phải chết nên không đăng ký được hộ khẩu ở chốn âm ti, muốn nhờ người trên dương thế giúp đỡ để được nhận phúc lợi từ cõi âm, đó là điều không thể.” Những quan điểm này tuy có khác nhau, nhưng thống nhất với nhau khi nói những linh hồn lang thang không có hộ khẩu dưới âm phủ và không có những ngày tháng êm đẹp dưới đó. Đến sau đời Nguyên – Minh, người ta quyết định lập ra “thành oan hồn” ở dưới âm phủ, coi như giúp những linh hồn lang thang tìm thấy một nơi không thể nói là tốt đẹp để trú mình.

Nói về thành oan hồn, ở đây tôi cần làm rõ một chút, coi như bổ sung cho “m sơn bát cảnh”, cũng coi như tạm thời đưa “điện Diêm Vương” làm cảnh thứ mười dành cho những người yêu thích “Thập toàn”, đồng thời cũng là vì, người ta luôn cho rằng ở đó chỉ chấp nhận những linh hồn chết oan, nhưng suy nghĩ này thực sự không chính xác.

Từ “thành oan hồn” có lẽ có nguồn gốc từ dân gian, tất nhiên những bậc quan lại sẽ không dùng nó, vì thế nó xuất hiện nhiều trong các cuốn tiểu thuyết hay ca kịch, mà sớm nhất là xuất hiện trong các điệu hò. Nói về tên và ý nghĩa của nó, thành oan hồn là trại tập trung dành cho những người chết oan phải xuống âm phủ. Nhưng tổng hợp tất cả những tài liệu có liên quan thì sự thực lại không hoàn toàn như vậy. Tất cả những linh hồn có dương thọ chưa hết, bao gồm chết vì hình, chết trận, chết bờ bụi, chết vì gặp phải thầy lang dởm, cho đến những người chết vì tình cũng đều được vào thành oan hồn. Hơn nữa hãy xem một vài ví dụ sau:

Trong vở tạp kịch thời Nguyên Mạnh nương đạo cốt, Dương lệnh công đâm vào bia Lý Lăng mà chết, linh hồn của ông bị đưa vào thành oan hồn. Trong Tây du ký, tập mười, Lý Thế Dân đến cõi âm, “đi qua sông Nại, huyết bồn khổ giới, rồi lại đến thành oan hồn”, nhìn thấy một đám hồn ma mất tay mất chân, hoặc có tay chân mà không có đầu, tất cả đều là hồn ma của những tên giặc cỏ và những người chết trận. Trong chương Thẩm Tiểu Hà tương hội xuất sư biểu trong Dụ thế minh ngôn, Thẩm Cổn, Thẩm Bảo chịu đựng không nổi, cả hai chết dưới cán roi, đây là chết do bị dùng hình, đương nhiên cũng thuộc loại gánh oan mà chết. Còn trong Viết tiếp Kim Bình Mai của Đinh Nhiêu Cang viết sau khi Phan Kim Liên bị Võ Tòng giết, linh hồn của ả được đưa đến khu thắt cổ tại thành oan hồn, sự việc này không thể coi là quá oan uổng được. Tiểu thuyết Đều là do ảo giác, chương một có kể, vụ vỡ đê tại sông Vô Triều dìm chết vô số dân thường, tất cả linh hồn họ đều gia nhập thành oan hồn. Trong thành oan hồn, người đẹp nổi tiếng nhất tất nhiên là Đỗ Lệ Nương chết vì tình. Còn trong Hữu đài tiên quán bút ký, quyển bảy có kể, một người chết dưới tay lang băm khi dương thọ vẫn còn, nhưng “theo luật âm, phàm là những người dương thọ chưa hết, tất phải đến thành oan hồn”.

Ngoài ra, thành oan hồn còn có hai điểm đặc biệt không thể không nói. Một là bên trong toàn là ma đói. Đương nhiên không phải cứ gặp ma đói là bắt vào thành, mà là những hồn ma vào thành đều bị cấm ăn uống, ngay cả những hồn ma có hộ khẩu bên ngoài thành được ăn ba bữa một năm cũng không có. Trong Thố hồ lô của Phục Thư giáo chủ, chương hai mươi viết, hồn ma trong thành oan hồn không được lo cho ăn cho mặc, vô cùng đau khổ. Còn Dã tẩu bộc ngôn của Hạ Kính Cừ, chương mười tám đem những đạo sĩ khi nhìn thấy đậu phụ rau xanh là lao vào tranh cướp so sánh với những “ma đói trong thành oan hồn”.

Đặc điểm thứ hai của nó là hồn ma trong thành oan hồn rất khó được hóa kiếp. Trong vở tạp kích thời Nguyên Bao đãi chế trí trám sinh kim các nói: “Không một oan hồn nào được tiêu tán, ngày đêm vất vưởng trong thành oan hồn. Chỉ đến khi báo được oan, giải được hận, lúc đó mới thoát khỏi âm ti rồi hóa kiếp.” Trong Viết tiếp Kim Bình Mai, Võ Đại Lang sau khi bị giết đã đến khu thuốc độc tại thành oan hồn, cũng giống như Phan Kim Liên bị đưa đến khu treo cổ, mười mấy năm không được đầu thai. Trong Thuyết nhạc toàn truyện, người phục vụ nói: “Phía trước là quỷ môn quan, bên phải là thành oan hồn. Tất cả những kẻ phạm tội đều phải vào thành oan hồn, vào đó rồi thì khó mà được chuyển kiếp.”

Những linh hồn chết bờ chết bụi hoặc chết thảm lại bị đưa đến thành oan hồn chịu đói nhịn khát, oan khuất không được giải thì không thể hóa kiếp chuyển thế. Đạo lý này quả có chút bất công. Nhưng nghĩ kỹ lại, đây chính là bản sao của tù ngục ở trần gian, trừ phi gặp được Bao Thanh Thiên thì những tù nhân bị bắt oan này mới có thể thoát khỏi bể khổ, nếu không họ đành phải ngồi trong đó chịu đói, chịu rét cho đến chết. Vì thế, tác phẩm thích nói những điều mờ ám Ngọc lịch bảo sao có chương Thành oan hồn thỉnh thoảng nói được vài câu khá thấu tình, tuy rằng nó vẫn có chút “mờ ám”:

Phong Đô đại đế nói: Thành oan hồn ở phía bên phải điện ta. Người đời hiểu nhầm đó là nơi đón nhận tất cả những hồn ma bị chết oan, rồi truyền tai nhau làm người ta tưởng thật. Phải biết rằng những người đã chết oan liệu có thể bắt họ chịu những nỗi khổ vô cớ nũa được không? Xưa nay vẫn cho phép các oan hồn đi tìm hung thủ, tận mắt nhìn thấy hắn chịu khổ, từ đó giải tỏa được mối hận trong lòng, cho đến khi oan hồn của họ được đầu thai. Nếu là những người trung hiếu, nghĩa khí hoặc những quân binh xả thân vì nước, hoặc sau khi chết sẽ thành thần, hoặc ban phước cho họ được đầu thai, như vậy há chẳng phải có lý khi để họ vào thành oan hồn chịu khổ sao?

3

Chỉ có một quyển sổ âm ti mà tôi đã huyên thuyên quá nhiều, những độc giả nóng ruột có lẽ đã đặt ra câu hỏi: “Liệu ông sắp nói xong chưa vậy?” Nói thực, sổ sách ở dưới âm ti nhiều vô kể, những quyển sổ được nói trên đây chỉ là một phần trong đó thôi. Ví như trong Mai hương ảo, tiểu thư Trương Doanh Doanh hát “phu thê hoạn nạn do trời định, trên sổ nhân duyên sớm ghi tên”, khi đó “sổ nhân duyên” vẫn chưa được con người biết tới. Đáng tiếc người xưa quá cẩn thận, việc này lại được liệt vào danh mục “chuyện riêng tư khó nói”. Thực ra sổ nhân duyên của người xưa đơn giản hơn rất nhiều so với sổ đăng ký kết hôn ngày nay, hiện nay con người dành rất ít thời gian để lo cái ăn cái mặc, vấn đề nam nữ được đưa ra bàn luận nhiều hơn. Cơ quan phát hành sổ nhân duyên của âm phủ chắc chắn cũng phải làm việc căng thẳng hơn nhiều, biết bao nhiêu “sổ chính”, “sổ phụ” khó phân loại rõ, rồi thì “vợ bé thứ nhất”, “vợ bé thứ hai”, cách sắp xếp này cũng bị chê là quá đơn giản rồi. Còn trong những ghi chép của người xưa, tôi nhớ ngoài quyển sổ chính ra chỉ có một quyển “sổ phu thê sương mai”. Viết tiếp Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển ba có câu chuyện về một ma nữ nói với nhân vật nam rằng: “Tra trên sổ phu thê sương mai, có nói đến duyên phận với huynh, nhưng được chỉ định chỉ nên giao cấu một trăm mười sáu lần. Nếu chuyện này không ai biết, thì sẽ ở với nhau lâu dài được, còn không thì duyên phận sẽ hết, cả hai phải ly tan.” Một trăm mười sáu lần vẫn được coi là “sương mai”, không sợ người ta cười anh là quá “phóng khoáng” hay sao? Dẫn ra ví dụ này là để điểm xuyết một chút thôi, bởi đề tài này thực sự quá rộng, thôi thì để dành cho các học giả thời Xuân Thu đi viết những tác phẩm chuyên sâu về nó.

Cùng là chết, chỉ có điều cách chết của từng người không giống nhau, chúng cũng cần được phân làm các loại sổ khác nhau, từ đó có thể thấy được tính tỉ mỉ trong công việc ở âm giới. Tác phẩm Hiện quả tùy bút của Giới Hiển, người đời Thanh có ghi, Ngụy Ứng Chi mơ mình đi xuống âm phủ, anh ta tìm trong sổ sinh tử, không thấy có tên mình, hóa ra nó nằm trong “sổ chết do thắt cổ”, bên dưới ghi chú “một ngày ba năm sau thắt cổ tự tử trong thư phòng”. Tử bất ngữ, quyển tám viết, dưới âm phủ, ngoài “sổ chính mệnh” ra, còn có “sổ hỏa tự”, tức chết trong hỏa hoạn. Nói một có thể suy rộng ra ba mươi thứ, âm phủ có “sổ thủy tự”, “sổ thổ tự”, từ đó có thể suy ra người ta sẽ chết bằng cách nào, còn “chính mệnh”, tức là chỉ những người khi hết dương thọ sẽ được chết trên chiếc giường của mình, còn chết trên giường trong khách sạn sẽ bị liệt vào một loại sổ khác (theo cách nói bất nhã của Đinh Nhiêu Cang, thành oan hồn nên để loại người này xuống một khu biệt lập cho chúng). Trong quyển hai mươi tư lại nói, linh hồn người chết ở nơi biên ải, khi đưa vào “sổ họa hoắc vân” sẽ được phân ra làm hai loại, tức “sổ người” và “sổ thú”, thú chết nhiều hơn người, vì thế có câu “nhân tam thú ngũ”. Trong Duyệt vi thảo đường bút ký của Kỷ Tuân, quyển mười, “sổ người” được chia ra làm các loại sổ vàng, đỏ, tím, đen: “Hy sinh vì nước, phấn đấu quên mình, người này được ghi vào sổ vàng . Làm theo quân lệnh, thà chết không lui, người này được ghi vào sổ đỏ. Làm theo số đông, chuyển chiến mà chết, được ghi vào sổ tím, chết khi chạy trốn, không còn đường lui, được ghi vào sổ đen.” Phân ra kỹ như vậy, xem ra nếu Diêm phủ có ngành hồ sơ học, thì nhất định phải người tài cao mới đảm nhận được vị trí này.

Không chỉ vậy, các loại sản phẩm dưới âm phủ cũng tăng dần theo thời gian. Đến thời nhà Thanh, thuốc phiện du nhập vào Trung Quốc, Diêm phủ lại hình thành “sổ khói đen”, trong số này có “sổ họa khói đen”. Trong Dực quynh bề biên, quyển bảy, chương Họa khói đen nói về sổ họa khói đen như sau:

Chính điện dùng ngói lưu ly, cao tới tận thiên hà. Trên điện có năm vị thần ngồi hàng ngang, có người mặc áo mũ thời cổ đại, có người mặc trang phục của hiện tại, người ngồi chính giữa có chòm râu dài bạc trắng, khuôn mặt nghiêm nghị của bậc đế vương. Phía dưới bày hàng trăm chiếc chum lớn, bên trong chứa nước đen. Các hồn ma nườm nượp đi vào, Thẩm Tư hỏi trong chum chứa thứ gì, trả lời: “Là dầu gạo, ở dương gian gọi là khói thuốc phiện. Tất cả những kẻ gây tai họa được lệnh phải uống một chút nước này, sau khi nhập thế hễ ngửi thấy mùi là nghiện ngay tức khắc.”

Tất cả những người chết do tai họa, Diêm phủ đều cho vào một quyển sổ riêng, chỉ có điếu người chết quá nhiều, nhập sổ không kịp, đành phải thuê người viết từ dương gian. Câu chuyện này được viết với mục đích trào phúng thời thế hiện tại, nhưng từ đó cũng thấy được rằng, con người đã tìm ra một nhận thức chung, chỉ cần có nhu cầu thì loại sổ sách nào Diêm phủ cũng có thể tạo ra được. Những loại sổ sách được tạo ta một cách ngẫu hứng này rất hay xuất hiện trong tiểu thuyết, như trong Viết tiếp Kim Bình Mai có hai loại sổ “nguyên hội kiếp vận” và sổ “chu thiên nhân quả”, từ tên gọi của chúng có thể thấy, chúng thuộc vào loại văn hóa vĩ mô, nằm ngoài năng lực hiểu biết của kẻ tiểu dân.

Những loại sổ trên đều được phân loại theo nội dung, còn về mặt hình thức bên ngoài, sổ âm phủ cũng có sự phân biệt khác nhau. Nghe nói sổ âm phủ được phân ra làm ba loại vải lụa mỏng, lụa dai, và giấy. Ba loại nguyên liệu này được phân theo giá trị đắt rẻ, người được ghi tên trong đó đương nhiên cũng có sự phân biệt như vậy. Ở đây nội dung quyết định hình thức: quý nhân thì ghi vào sổ lụa mỏng, tiếp đến ghi vào sổ lụa dai, còn sổ giấy dành cho những thường dân nghèo hèn. Việc phân loại như thế này có tác dụng gì? Suy nghĩ một chút là hiểu ra ngay thôi. Trong Di kiên đỉnh chí, quyển hai mươi của Hồng Mại có chương Ô sơn uẩn, ghi lại dịch ôn dịch, đói khát hoành hành liên tục trong thời gian dài tại huyện Tân Kiến, tỉnh Giang Tây vào năm Can Đạo đời vua Tống Hiếu Tông, đó là do ông trời muốn “thu” tất cả người của nơi này. Đầu tiên “thu” hết những người trong sổ giấy, nếu chưa đủ số lượng, tiếp tục thu người thuộc sổ lụa dai, thu được một nửa là đạt số lượng yêu cầu, thì những người trong sổ lụa mỏng đương nhiên sẽ không bị lấy đi mạng sống. Tất nhiên, nếu trên trời có hạ xuống chính sách ưu đãi nào đó, thì chắc chắn phải bắt đầu từ những người trong sổ lụa mỏng.

Diêm phủ quản lý sổ âm phủ, nhưng ở Trung Quốc, từ nhà Tần cho đến triều đại Minh – Thanh, hình thái của Diêm phủ luôn có sự thay đổi. Như “thổ phủ” được nói ở phía trên chỉ là một trong những hình thái của nó. Tuy thể chế của nó được truyền lại và kế thừa sang hình thái khác nhưng xét từ danh mục, thời gian tồn tại của chúng rất ngắn, hơn nữa chúng thường biến mất ở thế hệ sau. Nhưng một số hình thái Diêm phủ lại có sức sống mãnh liệt, hình thái mới đã có rồi, nhưng hình thái cũ vẫn chưa biến mất, ví như hình thái Diêm phủ sớm nhất được quy cho Bắc Đẩu tư mệnh quản lý dưới sự giám sát của Thiên đế, giữa thời Hán Ngụy xuất hiện Thái Sơn phủ quân, thời kỳ Lục triều xuất hiện Diêm La Vương, những hình thái Diêm phủ này lại cùng lúc tồn tại ở thời Đường, gọi là “nhất quốc tam công”[9] có vẻ không ổn lắm, nên sau đó được gọi thành “nhất quốc tam chế”[10] nghe có vẻ xác đáng hơn.Vậy thì sổ âm phủ lúc bấy giờ cũng sẽ được chia làm ba loại, và tất nhiên anh tin ai thì sổ âm phủ của anh sẽ do người đó quản lý. Cũng ví như môn đồ của Nguyên thủy thiên tôn sẽ không bao giờ đến điểm danh chỗ của thần Jehovah hay thần Allah. Nhưng nếu gặp phải những người không có tín ngưỡng, vậy thì sau khi chết linh hồn của họ sẽ phải đối mặt với sự lựa chọn cuối cùng, nhưng cũng không cần phải lo lắng về việc sẽ không ai thu nhận anh.

[9] Nhất quốc tam công: một quốc gia ba hoàng đế.

[10] Nhất quốc tam chế: một quốc gia ba chế độ.

Trong Quảng di ký của Đới Phù có chương Trương Dao kể rằng, Trương Dao rất thích sát sinh, linh hồn của anh ta sau khi chết được áp tải về chỗ Diêm La Vương. Anh ta nhìn thấy tất cả những con vật mà mình đã giết tập trung tại sảnh chính của điện Diêm La, tất cả bọn chúng đều kêu oan đòi mạng. Nhưng một vị hòa thượng bệnh tật mà khi còn sống anh ta đã từng nuôi dưỡng cũng có mặt tại đó, hòa thượng nói rằng, Trương Dao đã đọc rất nhiều kinh Phật, phúc nhiều tội ít, vì vậy anh ta không đáng phải chết như thế này. Có phải chết hay không chỉ cần nhìn vào sổ sinh tử. Thế là Diêm Vương lệnh cho người tra “sổ tư mệnh”. Quyển sổ này được quản lý bởi đại thần tư mệnh, thuộc hạ của Thiên đế. Tra xong, tên của Trương Dao đã bị che mất, phải chết, lại lấy quyển sổ thứ hai là “sổ Thái Sơn”, cũng chính là sổ thuộc quyền quản lý của Thái Sơn phủ quân, cái tên đó cũng bị che mất, phải chết, cuối cùng lấy quyển sổ bản các, tức sổ của điện Diêm La, không ngờ: “Tên của ngươi bị che một nửa, ngươi chưa chết được.” Thế là Trương Dao được thả về dương gian, tiếp tục vùa sát sinh vừa đọc kinh Phật.

Câu chuyện này có vẻ như “tam giáo sống chung”, trong con mắt của các tín đồ Phật giáo, hai vùng Diêm phủ của tư mệnh và Thái Sơn phủ quân đều tồn tại tính hợp lý, mỗi người đều có sổ âm phủ ở ba nơi, giống như một người mà có trong tay hộ chiếu của ba nước vậy. Nhưng hiện nay anh ta đã phạm lỗi rồi, chiếu theo pháp luật của tư mệnh và Thái Sơn thì anh ta phải chịu hình phạt xử bắn, nhưng theo luật của Diêm La Vương anh ta chỉ là tội không che được phúc, không có tội thì phải thả ra, vậy thì anh ta phải tới đâu để mở phiên tòa đây? Một sự tiến hành so sánh giữa ba nhà, ba loại tôn giáo, vậy là dụng tâm của câu chuyện đã được hé lộ, hóa ra câu chuyện đã dùng sự tuyên truyền về sổ âm phủ làm vũ khí, để mở ra một trận chiến không chính thức, lôi kéo khách hàng đọc kinh Phật. Kết quả của cuộc đấu tranh này là, đến đời sau, người ta không còn nghe thấy có loại sổ tư mệnh hay sổ Thái Sơn nào nữa, từ đó, sổ âm phủ do một mình điện Diêm La lũng đoạn, không biết nó còn chính sách ưu đãi như trước kia không, lại xem những việc cúng tế, siêu độ vong hồn, lại là hòa thượng và đạo sĩ mỗi người chiếm một bên, hóa ra họ đã liên hợp với nhau để chèn ép dân thường.

Tất cả những loại sổ âm phủ trên đều được xây dựng trên quan điểm “không thể thay đổi”, tất cả thọ, lộc, công danh của con người đều do thiên mệnh sắp đặt sẵn, không có một khe hở để thay đổi. Thực chất không phải như vậy, dưới Diêm phủ cũng có một chính sách gọi là “trọng biểu hiện”, nếu một người đang sống có biểu hiện không tốt thì phúc, lộc, sinh, tử của người đó đều bị ảnh hưởng. Cái gọi là biểu hiện ở đây có các tiêu chuẩn khác nhau, trong đó, mục quan trọng nhất cần phải chú ý đó là “phái tính”. Ví như để một hòa thượng ra phán xét, mặc dù anh tham ô vô độ nhưng chỉ cần anh thích đọc kinh (đương nhiên phải là kinh của Phật Như Lai), anh sẽ được tăng lộc thọ. Vì thế, trong các câu chuyện do các tín đồ Phật giáo biên soạn, Diêm Vương nhìn thấy linh hồn đã được bắt về, câu đầu tiên ông ta hỏi là: “Nhà ngươi có đọc kinh không?” Nghiễm nhiên đó là ranh giới giữa người tốt và người xấu, ít nhất thì người đọc kinh cũng sẽ được giảm tội một bậc. Xin độc giả đừng nghĩ Diêm Vương là kẻ ngờ nghệch, thực ra ông ta cũng giống chúng ta những năm tháng trước đây, cứ có người tới thành phố là hỏi “xuất thân của cậu thế nào?” mà thôi. Những năm đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đi trên con đường lớn ở trung tâm thành phố nhỏ này, một người nông dân già đi một chiếc xe đạp không phanh, không chuông đâm vào một bà lão khiến bà không đứng dậy được. Cảnh sát tới giải quyết, định giữ xe đạp của người nông dân lại, nhưng dù họ có hỏi anh ta cái gì, anh ta đều giữ chặt tay lái chiếc xe đạp miệng lặp đi lặp lại một câu: “Tôi là nông dân nghèo”, khiến những người đứng xem xung quanh và cảnh sát đều không nhịn được cười. Người nông dân già mặt mày tái nhợt, có lẽ trong bụng cũng đang thắc mắc: “Mình đã nói mình là nông dân nghèo rồi, sao họ vẫn còn muốn truy cứu nhỉ? Người thành phố thật chẳng hiểu đạo lý gì cả!” Vì thế Diêm Vương hỏi một câu: “Ngươi có đọc kinh không?”, chính là muốn xác định rõ xem anh ta là người nhà hay người ngoài, chứng tỏ tính giác ngộ giai cấp của Diêm phủ vẫn rất cao.

4

Sổ sách dưới Diêm phủ nhiều như vậy, tạm thời không quản chúng nữa, để có những tài liệu đó, Diêm phủ phải sắp xếp biết bao nhiêu quan sai, mật thám ở dương gian, nếu như muốn ghi chép tất cả những tài liệu đó vào trong các loại sổ sách, e rằng hàng vạn người viết cũng không kịp. Nếu cho rằng tất cả mọi thứ ở thế giới ma quỷ đều thần kỳ khó đoán, vậy thì những tài liệu kia không cần có người ghi chép, tự nó sẽ hiện lên trên sổ một cách kỳ lạ và khó hiểu, nhưng thực tế đâu có được như vậy. Phía trên chúng ta đang nói tới “sổ họa khói đen”, chẳng phải nhờ người ở dương gian viết giúp đấy sao? Thực ra đây là quy tắc cũ, chỉ cần Diêm phủ bắt nhiều sinh linh trên dương gian, cũng chính là lúc dương gian gặp nhiều tai họa lớn nhất, số lượng người lo sổ âm phủ luôn không đủ, lúc này cần tìm sự giúp đỡ từ phía dương gian.

Tác phẩm Quảng dị ký của Đới Phù có chương Lý Cập, kể rằng Lý Cập bị bắt nhầm xuống Diêm phủ:

Lý Cập nhìn thấy hàng trăm chiếc xe bò đang chở thứ gì đó, bèn hỏi viên quan lại, những cái đó để làm gì. Viên lại đáp: “Phía Lộc Sơn đang tạo phảm, dân thường bị giết nhiều vô kể, hôm nay xe bỏ chở hồ sơ người chết tới đây.” Khi đó Lộc Sơn vẫn chưa xảy ra sự cố tạo phản, nên Lý Cập hỏi vặn: “Lộc Sơn vẫn chưa tạo phản, làm sao ngài biết?” Viên lại nói: “Sẽ tạo phản ngay thôi.” Rồi Lý Cập lại nhìn thấy hàng trăm người, tất cả đều đang vội vàng lo xử lý hồ sơ người chết.

“Hồ sơ người chết” nói tới ở đây chính là danh sách người sống chuẩn bị bị câu hồn, mấy trăm người vùi đầu vào sao chép danh sách, số sổ sách đó nhiều đến mức cần hàng trăm chiếc xe bò để vận chuyển. Quyển Hữu đài tiên quán bút ký, quyển tám của Du Việt, người đời Thanh ghi:

Trong nhân gian, mỗi lần gặp tai họa như lũ lụt, hạn hán, binh đao… đều có người nằm mơ thấy dưới Diêm phủ đang ghi chép sổ sách, nên có lẽ chuyện này là có thật. Đầu năm Hàm Phong, đám giặc cỏ ở Quảng Đông tạo phản, một người ở Hải Diêm nằm mơ thấy mình đi đến một nơi, ở đó văn thư chất cao như núi, mấy chục người đang cặm cụi viết lách.

Câu chuyện này chỉ là cuộc chiến tranh giữa Thái Bình Thiên Quốc và chính quyền nhà Thanh khiến rất nhiều người thiệt mạng. Liêu trai chí dị, quyển tám, chương Chiếc quan tài nhỏ có phần Ngô đường phụ ký kể, trước khi vụ án Thanh Hà bị bại lộ, “liên tiếp có người bị ma ám, nói rằng Diêm phủ đang cấp bách làm sổ”, ý chỉ những người chết trong vụ án này sẽ rất nhiều nên Diêm phủ đang gấp gáp làm sổ hồ sơ cho họ. Sau khi làm xong, sổ sách đó sẽ được dùng xe chở tới chỗ Diêm Vương và các Phán quan, có thể còn cần thêm mấy trăm người viết thẻ câu hồn. Còn trường hợp cầm sổ đến hiện trường điểm danh mà chúng tôi đã nhắc tới trước đó lại mang tính chất bán buôn, có thể bỏ qua việc viết thẻ câu hồn.

Cần phải nói rõ một chút, đó là đã có sổ sinh tử, sổ ẩm thực, tuổi thọ của con người đã được hạn định, đến lúc đó chỉ cần đưa số người hết dương thọ đã có mặt vào một tờ danh sách, như thế cũng được rồi. Vậy việc gì phải “làm sổ” nữa? Có lẽ nó được áp dụng theo trình tự của “ngục Hưng Đại” trên dương gian. Ngục Hưng Đại triều nào cũng có, nhưng hình như cứ cách vài năm mới có một lần sẽ không đủ để thể hiện uy phong của hoàng quyền. Một nhà ngục được xây lên là hàng trăm, hàng vạn người được đưa vào đó, cho dù số lượng đó chỉ chiếm năm phần trăm tổng dân số nhưng cũng đã đủ mệt cho bậc làm quan lo xử lý công tác làm sổ, nhưng cũng may dương gian không cần làm sổ vẫn có thể bắt giết tùy tiện, không sợ làm lỡ việc, cho dù sau này có phát hiện ra sai sót thì cũng chỉ long ân đại xá cho một chút, đưa tất cả những nhân vật tên tuổi viết vào các bản chính văn, liệt vào bậc anh hùng trung hậu, viết đến mức những tên tuổi đó rất huy hoàng trong cả hai mươi lăm bộ sử của Trung Quốc, còn những người khác sẽ là người được các bậc anh hùng trên đại diện.

Thực ra, ngoài những đợt tai họa lớn mấy năm nay xảy ra một lần, ngay cả lúc bình thường, việc làm sổ dưới âm ti vẫn rất tất bật. Chỉ có điều, sổ câu hồn được làm đơn giản hơn, bỗng chốc câu kéo hồn của mấy chục người, mấy trăm người cũng không thành vấn đề. Vấn đề ở chỗ Diêm phủ có nhiều loại sổ sách như vậy, đặc biệt là các loại sổ thiện ác, sổ công danh tội lỗi, bình thường đã cần một lượng lớn đặc vụ và thư lại… thật khó để tưởng tượng ra một lượng công việc lớn như vậy. Theo quan điểm trong phần Sổ thổ địa, quyển ba, cuốn Tập di tân sao của Lý Hạc Lâm, người đời Thanh, loại sổ này cần được làm từ chỗ thần Thổ Địa, nhưng thần Thổ Địa thỉnh thoảng cũng đi bắt người trên dương gian. Nghe nói trong miếu thổ địa:

Hơn chục người ngày đêm không ngừng viết lách, theo báo cáo của Táo Quân trong các gia đình, tất cả những điều thiện ác lớn nhỏ đều được thông báo từng ngày, từng giờ, ngay cả những điều xảy ra trong lúc ăn, lúc uống, thậm chí ngay cả những lời thủ thỉ trong màn, tất cả đều được ghi lại không thiếu một từ.

Phạm vi cai quản của thần Thổ Địa có thể tương đương với ủy ban khu dân cư hoặc cảnh sát phường. Ông ta lại đặt tai mắt ở từng nhà dân một, các vị Táo Quân ngày ngày đến thông báo những công to việc nhỏ, không sót thứ gì. Nếu dùng những quyển sổ này để ghi chép lại thì không biết kiếm nơi nào để chất cho hết chỗ sổ sách, nhưng phí hỗ trợ công tác lại tương đối khả quan.

Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là những việc nhỏ, thư lại vất vả cực nhọc, chí ít cũng chỉ đến mức “cổ tay” rã rời, thực sự vất vả phải là những biệt phái viên ở dưới làm công tác thu thập thông tin tình báo. Chỉ riêng ghi chép việc “xem sách khi đại tiện”, thì họ phải “bám sát” các nhà vệ sinh, đối với Táo Quân, ông làm việc trong nhà dân, mấy nhân khẩu trong nhà đi vệ sinh lúc nào Táo Quân đã nắm rõ mồn một, vì thề ông không cần làm một chiếc “hố xí lá” nữa, ông chỉ cần để ý một chút là xong. Nhưng đáng thương là những anh đặc vụ ngồi trong các nhà vệ sinh công cộng, đặc biệt là nhà vệ sinh ở các thành phố sầm uất, các cơ quan, trường học, người nhiều phức tạp không cần nói, cái chính là mùi ở những nơi đó khiến anh càng cảm thấy khó chịu, nên công việc thu thập tình báo này thực sự rất vất vả, ít nhất người thường như chúng ta sẽ không thể chịu đựng được trong mấy phút. Chắc chắn sẽ có không ít quỷ mật thám oán hận luật “cấm mang sách vào nhà xí” thật nhiều chuyện, họ nhớ nhung những ngày tháng thái bình khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi, ai lẩm bẩm sách thơ là bị chặt đầu, nhưng chắc chắn cũng không có người ham vui mà không thấy mệt bao giờ. Viết vẽ đến đây, rồi không chịu được cũng phải lệch dòng vẹo chữ.

Đương nhiên vẫn chưa có kẻ ngu ngốc đi bám sát đến cùng chỉ để ghi chép việc “xem sách khi đi vệ sinh”, nhưng những việc tương tự cũng không phải không có, đó là để có được những thông tin tình báo quan trọng hơn. Một cậu học sinh bị theo dõi vừa từ nhà vệ sinh đi ra, lập tức có một đôi chăm chú nhìn một người bạn học khác của cậu ta đi vào, cậu ta lần tìm một trang giấy đã dùng qua trong cuộn giấy đang cầm trên tay, nghiên cứu một chút xem trên tờ giấy đó viết gì. Bởi hồi đó, sinh viên nghèo đi vệ sinh chỉ dùng giấy nháp đã viết chữ, còn những chỗ trống trên tờ giấy nháp cũng được dùng để luyện chữ, việc này có khả năng vô tình tiết lộ ra điều gì đó. Ngày này qua ngày khác. Cũng không phải những vất vả như vậy không nhận được thành quả. Nghe nói sau này phòng cất giữ hồ sơ của khoa chúng tôi đã phát hiện ra một bao “tài liệu” được cất giấu rất kỹ càng, sau khi tháo bỏ liên tiếp mấy lớp giấy, cuối cùng bên trong là một chiếc khăn tay giấy bên trên có viết chữ. Tôi thường nghĩ, ông trời nếu thật sự giáng xuống trần gian những nhân tài bất đắc dĩ, có những sinh viên thường ngày không phân biệt được rõ đâu là tân ngữ đâu là bổ ngữ, khi gặp phải những việc có gian tế như thế này, học lại có một linh cảm sắc xảo, có thể đưa ra những phương án rất kỳ diệu.

Khăn giấy trở thành thông tin tình báo, việc này không phải không có khả năng xảy ra. Nếu đối phương là đặc vụ Tưởng của quân Mỹ, thì có lẽ chiếc khăn giấy này có thể tiết lộ một vụ án lớn kinh thiên động địa như các vụ án phản Đảng phản quốc, vậy thì việc này còn có trở thành một đề tài để các cây viết sắc xảo phát triển thành một bài văn hay, biên soạn vào sách giáo khoa trung học. Thử nghĩ mà xem, hằng ngày cậu sinh viên bị theo dõi này đều âm thầm nghiên cứu, kiểm tra, nhận biết mọi thứ, cậu ta làm việc chăm chú, quên mình, mà người này thực ra lại trung hậu đến mức không đọc hiểu những ám hiệu của bọn phản cách mạng, vì thế chỉ có thể đưa cậu ta đến chỗ lãnh đạo chờ định đoạt, và rồi trên bàn làm việc của lãnh đạo có bày hàng đống các loại giấy tờ như vậy, do các nhà chơi trò đầu tranh giai cấp với khứu giác siêu phàm nghiên cứu, phân tích từng chữ, từng câu một, cuối cùng đã lựa chọn được ra tờ giấy này. Cả một quá trình thật khiến người ta cảm động! Chỉ đáng tiếc, tờ giấy ăn đó không hề để lộ ra những thông tin kinh thiên động địa của bất kỳ vụ trọng án nào, vì nó chỉ tạm thời phải nằm trong phòng hồ sơ, chờ đợi các thông tin tình báo khác có được sau này, sau đó gắn lại thành án, lúc đó mới thực hiện việc mưu sát cả cuộc đời người thanh niên kia.

Tôi ghi chép những điều này, để độc giả biết được rằng chúng tôi đã từng sống trong một thời đại như vậy, đã từng tự hào được làm một việc dơ bẩn như vậy. Những người chủ trì công tác đó nay cũng đã bảy, tám mươi tuổi, có lẽ cũng sắp đến lúc “để anh nhớ lại chuyện xưa” như Ostrovsky đã nói, vậy các bạn có nên nghiêm túc kiểm điểm mình khi nghĩ lại những việc trong quá khứ, quốc gia và nhân dân giao con cái của họ cho các anh, hy vọng các anh đào tạo chúng trở thành những nhân tài có ích cho đất nước, còn các anh – những “giáo viên”, các anh đã làm những gì? Các anh huấn luyện một số người trở thành mật thám, để lợi dụng họ tìm cách cho một số người khác trở thành kẻ thù giai cấp, từ đó dạy dỗ đa số sinh viên còn lại thành những người dân ngoan ngoãn mất khả năng tư duy, đó là sự nghiệp mà các anh từng thề sẽ cống hiến “cả tính mạng và toàn bộ tinh lực của mình” cho nó ư? Hoặc đó chỉ vì muốn nhuộm đỏ chiếc mũ trên đầu và thỏa mãn việc vận dụng những biến thái tinh thần, căn cứ theo nhu cầu các anh có thể tùy lúc chi phối điên đảo thủ đoạn xu thời?

Sau thời kỳ cải cách văn học, nghe nói những thứ trong túi hồ sơ đã được thanh lý đi nhiều, những tài liệu mật giả tạo để vu cáo kia cũng bị tiêu hủy. Lúc đó, lòng người thảnh thơi, nhưng sau đó nghĩ lại không tránh khỏi cảm giác lỗ mãng, thực ra nên lưu lại chút chứng cứ mang tính đại diện thì hơn. Bởi chúng không chỉ chứng thực rằng con người có thể đê tiện đến mức độ nào, mà còn ghi lại sự hy sinh xương máu của biết bao người vô tội do sự đê tiện đó gây ra.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN