Trâm 3: Tình Lang Hờ - Chương 21: Sen hồng lóa mắt
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
179


Trâm 3: Tình Lang Hờ


Chương 21: Sen hồng lóa mắt


Chân tướng đã lộ, song mọi người vẫn im phăng phắc.

Chu Tường là quận thú, đành hắng giọng lên tiếng: “Công Tôn Diên tuy đã giết Tề phán quan, nhưng… Tề phán quan tay vấy máu ba người, thậm chí để đổ vạ cho kẻ khác, dám xuống tay giết cả người đã đổ tú tài như Ôn Dương, thật không thể tha thứ được.”

Ông ta đang mừng thầm vì con gái chưa gả cho hạng lang sói này, nên có phần đồng tình với Công Tôn Diên.

Vương Uẩn biết Công Tôn Diên là chị em với Vương hoàng hậu, cũng cười nói: “Công Tôn đại nương cũng coi như báo thù cho tiểu muội, nhiệt tình hào sảng như thế, quả có mấy phần phong thái của hiệp khách ngày xưa.”

Thấy hai người nói đỡ cho Công Tôn Diên, Phạm Ứng Tích giận dữ: “Từ xưa tới nay, đúng là giết người phải đền mạng, nhưng muốn đền mạng cũng phải do quan phủ đứng ra, nếu kẻ nào âm thầm giết người báo thù riêng thì luật pháp để làm gì, quan uy có còn nữa hay không?”

Thấy họ Phạm ăn nói hùng hồn đanh thép, câu nào cũng nhắc đến luật pháp, đến triều đình, mọi người ở đó cứng họng, đành nghe ông ta khảng khái nói tiếp: “Huống hồ Tề Đằng là phán quan trong phủ ta, bị bỏ mạng ngay trước mặt bấy nhiêu người, há chẳng phải là không coi quân Tây Xuyên vào đâu ư?”

Dẫu biết Phạm Ứng Tích giận dữ như vậy, quá nửa là vì Công Tôn Diên đã lau lưỡi kiếm vào áo Phạm Nguyên Long, giá họa cho hắn, nhưng vừa nhắc đến quân Tây Xuyên, mọi người đều nín lặng.

Lý Thư Bạch chỉ làm thinh không nói, cúi xuống ngắm chén trà trong tay.

Thấy tất cả im phăng phắc đợi mình định đoạt, Lý Thư Bạch mới đặt chén trà xuống bàn, hờ hững nói: “Theo lời Phạm tiết độ, vụ này quả là liên can rất rộng, phải đợi nha môn phủ Thành Đô sơ thẩm xong mới định đoạt được. Bản vương tuy kiêm Đại Lý Tự khanh, san sẻ ưu tư cho thánh thượng, song không thông thạo các sự vụ ở địa phương, không tiện nhúng tay vào.”

Thấy y nói kín kẽ như thế, mọi người đành cúi đầu khen phải.

Công Tôn Diên và Ân Lộ Y tạm thời bị dẫn vào nhà lao giam lại. Chu Tử Tần chu đáo dặn người chọn cho họ một phòng giam sạch sẽ, lại sai cất tất cả vật chứng vào kho niêm phong.

“Hôm nay Sùng Cổ suy luận phá án thật chặt chẽ sắc sảo. Nhanh như vậy đã phán được vụ kỳ án này, đủ thấy tài trí thần diệu phi thường.” Đêm đã khuya song Lý Thư Bạch vẫn ngồi yên chưa đứng dậy, lặng lẽ quay sang hỏi Hoàng Tử Hà, “Không biết tiếp theo còn tiết mục gì hay không?”

Chu Tường nhăn mặt. Sắp đến canh ba, đèn lồng đã phải thay nến một lượt, hai vụ án rối rắm phức tạp cũng đã phá xong, sao Quỳ vương vẫn chưa chịu đi nghỉ, còn muốn xem trò nữa?

“Việc này… xin gia đợi cho một lát, ty chức sẽ lập tức cho truyền ca kỹ tới ca hát giúp vui…”

Lý Thư Bạch giơ tay lên ngăn Chu Tường, đứng dậy nói: “Từ khi đến Thành Đô, bản vương đã quấy rầy Phạm tiết độ và Chu quận thú nhiều rồi. Hôm nay Chu quận thú chưa kịp chuẩn bị, chi bằng để bản vương thay các vị sắp xếp một màn, mời các vị rời gót tới thưởng thức.”

Mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ Quỳ vương lại chuẩn bị một tiết mục, mời Chu quận thú và Phạm tiết độ xem. Nhưng khi đến nơi biểu diễn, mọi người còn kinh ngạc hơn, bởi địa điểm chính là khu nhà phía Tây, nơi ở của Chu Tử Tần.

Lý Thư Bạch dẫn mọi người thả bộ đến nhà Tây, ngoái lại quan sát những kẻ theo sau.

Phạm Ứng Tích nhìn quanh một lượt, đánh giá khu vườn nhỏ; Chu Tường lộ vẻ nghi hoặc; Mộc Thiện đại sư ủ rũ song vẫn gượng cười; Vương Uẩn kéo một nhánh dây leo mới nhú ngắm nghía; Vũ Tuyên trở về chốn cũ, trầm lặng mà bình thản.

Hoàng Tử Hà đi cuối cùng, thong thả bước vào vườn, nhìn những phiến lá sen sáng lên lờ mờ trong bóng tối. Các thị nữ giơ cao nến đỏ, thắp sáng chùm nến ngàn nhánh trong góc, chiếu sáng cả sảnh đường. Lý Thư Bạch ngồi xuống, ngước nhìn Chu Tử Tần, họ Chu vội gật đầu, tuy chưa hiểu rõ đầu đuôi, song vẫn thưa: “Đã chuẩn bị xong cả rồi.”

Chỉ thấy hai ngọn đèn treo lơ lửng ngoài hành lang trên hồ sen bị gỡ xuống, chùm nến ngàn nhánh cũng được dời ra hành lang, đằng trước đặt một bình phong lụa.

Theo lệnh Quỳ vương, mọi người lần lượt ngồi xuống ghế được đám người hầu bày ra, hướng về phía bình phong. Đang lúc ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì một nghệ nhân già ngồi xuống bên cạnh bình phong, tay cầm cái trống nhỏ gõ thùng thùng hai tiếng. Dưới ánh nến sáng choang, lão giở cuốn sách trong tay ra, bắt đầu cao giọng hát:

“Chuyện cũ Trường An luống ngổn ngang

Hôm nay rảnh rỗi kể rõ ràng

Có phường Hưng Đức thành Tây ấy

Án lạ khó lòng tỏ ngay gian.”

Vừa hát, ông ta vừa phô bày hình ảnh các phường ở Trường An lên tấm bình phong lụa trắng, rồi nháy mắt đã lật sang hoa đỏ liễu xanh, cầu nhỏ cửa con, một toán người ngựa lộp cộp phi qua cầu, đến trước một gian nhà.

Bấy giờ mọi người mới nhận ra đây là một nghệ nhân rối bóng, đang diễn vở cho họ xem.

Phạm Ứng Tích và Chu Tường không ngờ Quỳ vương lại thích món này, nửa đêm còn mời họ tới xem, bất giác phì cười, rồi chợt nghĩ bên trong biết đâu còn dụng ý khác, lại định thần chăm chú xem.

Cửa mở ra, đám sai nha xuống ngựa ùa vào. Lại chuyển sang cảnh trong nhà, bóng một người phụ nữ lủng lẳng trên xà ngang.

“Rằng phường Hưng Đức có nàng dâu

Nghỉ quẩn lo quanh tự tủi sầu

Tiếng lại lời qua thành cãi cọ

Ma xui quỷ khiến mạng còn đâu

Một dây treo cổ âu đành phận

Ngàn dặm âm tào dứt buồn đau

Ngỗ tác sai nha cùng nghiệm xác

Rành rành chứng cứ án quyết mau.”

Một viên quan mặc áo đỏ ung dung bước vào phòng ngồi xuống. Theo sau là một bé gái chừng 11 12 tuổi vận áo thêu hoa, búi tóc hai bên, đáng yêu hết sức.

Giọng ông lão đã già, lại nhại tiếng đứa trẻ, mà vẫn toát lên vẻ ngây thơ: “Cha, cha, chờ con với.”

Viên quan áo đỏ ngoái lại nhìn rồi phẩy tay áo: “Con bé này, đến đây làm gì? Cha là thị lang bộ Hình, phải đến nghe thẩm vấn rồi kết án!”

Xem đến đây, Vũ Tuyên chợt “à” lên khe khẽ.

Vương Uẩn liếc hắn, bấy giờ mới vỡ lẽ, gõ nhẹ vào trán: “Thì ra… là vụ án ấy.”

Nghệ nhân rối bóng lật sang trang, miệng lẩm nhẩm đọc lên. Cô bé trong tay cũng đi một vòng trên bình phong:

“Cha ơi, Đọc sách thêu thùa con chẳng ham

Chỉ mong phá giải những hàm oan

Nhìn thông sinh tử cùng manh mối

Đen trắng âm dương nhận rõ ràng!”

“Haha con bé này ăn to nói lớn quá nhỉ!” Theo tiếng trống, vị quan phất phất tay áo liền ba lần, “Đi, đi, đi! Đi chơi với bọn trẻ con ngoài đường kia kìa! Đợi cha kết án xong, sẽ đưa con về nhà!”

Ông lão hết sức tài tình, chỉ chớp mắt đã thấy thêm mấy người kéo đến xem náo nhiệt, mỗi người một giọng khác nhau, xôn xao xúm lại.

Một thương nhân tay ôm cuốn lụa bô bô:

“Không ngại nói cho các vị hay, Lúc xưa áo cưới cô nàng may, Chẳng mua vải tiệm ta cho đúng, Màu áo không tươi, rõ chẳng may!”

Chủ tiệm trang sức cầm một chuỗi nữ trang hỏi khổ chủ:

“Này huynh đệ, Chiều qua vợ cậu ghé đằng ta

Trâm bạc cô nàng chọn một đôi

Chưa kịp lấy thì đà tự vẫn

Cậu còn muốn lấy nữa hay thôi?”

Thầy bói tay cầm lá phướn vuốt chòm râu dê nhận xét:

“Thiên cơ không thể tiết lộ a! Năm nay nhà ấy lão tính ra, Đủ cả việc mừng lẫn tang ma, Không biết mà tìm đến lão sớm, Quả nhiên họa lớn ập vào nhà…”

Bấy giờ, ngay cả đám người Chu Tử Tần cũng nhận ra, lão nghệ nhân đang diễn vở rối bóng về vụ án đầu tiên Hoàng Tử Hà phá được năm 12 tuổi.

Quả nhiên, đợi đám người xốn xáo lui xuống, viên quan áo đỏ cầm bút nói: “Xem ra vụ này đã kết thúc, hẳn là tự vẫn không còn nghi ngờ gì nữa!”

Chưa nói dứt câu, cô bé áo hoa lại chạy ra gọi: “Cha, từ từ đã!”

Viên quan khựng lại, quay sang nhìn con: “Con gái ngoan đói rồi ư?”

“Thưa, chưa.”

“Hay là khát nước?”

“Cũng không ạ.”

“Muốn về nhà à?”

“Không ạ.”

“Bực quá đi mất, mau ra ngoài chơi cho khuất, đừng ở đây vướng cha kết án theo luật!”

“Cha à, cô nương ấy không phải tự tử, mà bị người ta giết rồi ngụy trang thành tự tử đó!”

Viên quan run bắn lên: “Con gái! Tuổi mới chừng ấy, sao dám nói bậy? Vụ này điều tra vòng vèo phức tạp, đứa bé như con, há lại biết rõ sự thật?”

“Cha ơi, cha ơi, chẳng lẽ cha chưa nghe người kia khai?” Cô bé trỏ sang bên cạnh, lập tức tay chủ tiệm trang sức ló ra, “Cha ơi, có lần chuyện vãn với đồng liêu ở nhà ta, cha từng nói người khi sắp chết, lòng lạnh như tro tàn. Vậy cha có thấy kẻ nào lòng đã như tro tàn mà trước khi tự vẫn còn đến tiệm trang sức đặt đánh trâm bạc hay không? Huống hồ chỉ mới chọn kiểu, chưa lấy về nữa chứ.”

“Ối chà!” Viên quan áo đỏ giật bắn mình đầy khoa trương, lão nghệ nhân cũng cất cao giọng hát:

“Một lời kịp nhắc nhở cha mình

Sáng suốt giải ngay mối oan tình

Đất Bắc trời Nam cùng nức tiếng

Tử Hà nhà họ Hoàng thông minh.”

Lão nghệ nhân xoay tay, thoắt cái bé gái đã trở thành thiếu nữ, băng qua trăm sông nghìn núi, đến phủ Thành Đô đầy phù dung và thục quỳ nở rộ.

Câu chuyện khép lại trong lớp hoa tươi. Ông lão đặt con rối bóng trong tay xuống, đứng lên chắp tay hành lễ với mọi người: “Các vị, vở rối bóng này mấy năm trước khá phổ biến ở Trường An, nay vì rất nhiều nguyên do, đã thôi không diễn nữa. Được Chu bổ đầu mời tới, lão phải đọc vội vở rồi diễn lại, nếu có chỗ nào chưa toàn vẹn, xin các vị bỏ qua cho!”

“Đâu có, lão diễn hay lắm!” Chu Tường cười khen.

Ngọn nến chùm ngàn nhánh lại được khiêng vào phòng, giữa căn phòng sáng trưng, Lý Thư Bạch ngoái đầu lạnh lùng quan sát nét mặt mọi người. Vở rối được đích thân Quỳ vương chọn, ai dám bảo không hay, duy có Vũ Tuyên ngồi bất động trên ghế, thẫn thờ nhìn ra hành lang, giờ đã chẳng còn bình phong lụa, chỉ có bóng tối sâu hút mênh mang, khiến người ta sởn tóc gáy.

Mặt hắn tái đến dị thường, thậm chí còn lờ mờ tím đen, rất đáng sợ, khiến khuôn mặt tuấn tú trở nên cứng đờ, vô hồn như tượng tạc.

Mọi người đều nhận ra hắn có vẻ khang khác. Mộc Thiện đại sư ngồi gần nhất đứng dậy vỗ vai hắn gọi khẽ: “Vũ thí chủ, kịch hạ màn rồi, sao chưa tỉnh lại?”

Vũ Tuyên ngơ ngác từ từ ngẩng lên, đang định nhìn Mộc Thiện đại sư thì nghe thấy Hoàng Tử Hà ngắt lời: “Đại sư, kịch còn chưa hết, sao đại sư không ngồi yên xem? Lại cản trở tiết mục vương gia đang muốn thưởng thức?”

Mộc Thiện đại sư giật thót, nhận ra dụng ý của mình đã bị cô phát hiện, bèn lẩm bẩm niệm Phật rồi lui ra.

Lý Thư Bạch gật đầu ra hiệu cho Hoàng Tử Hà.

Cô nhìn Vũ Tuyên ngồi dưới ngọn đèn sáng rực, ánh đèn vàng ấm áp như vàng lỏng chảy tràn trên gương mặt tuấn tú tái nhợt, đẹp đẽ đến quái dị.

Cùng lúc ấy, cơn đau không sao tả xiết cũng ập tới, khiến cô gần như nghẹt thở. Nỗi đau đớn pha lẫn kinh sợ, hoang mang, oán hận và thất vọng, thiêu đốt lồng ngực, tưởng chừng cô không còn sức mà lên tiếng nữa.

Nhưng cuối cùng cô vẫn lên tiếng, dùng hết sức lực, mở miệng cất lời.

Thật lạ, sau khi lên tiếng, dường như có một dòng sông ngân cuồn cuộn từ trong tim cô tuôn ra, lạnh lẽo chảy qua cổ họng, cơn đau thiêu đốt lồng ngực cũng tan biết, thay vào đó là cảm giác phấn khởi lạ thường, một nguồn năng lượng như mầm non giấu mình trong đất suốt cả mùa đông đằng đẵng cuối cùng cũng nhú lên, khiến cô bất chấp tất cả, thẳng thắn nhìn vào sự thật đãm máu phơi bày trước mặt, giống như nhìn thẳng vào vầng mặt trời chính ngọ, chẳng quản mù mắt.

“Các vị, đó là vụ án đầu tiên Hoàng Tử Hà phá được. Một vụ án khép lại, một kẻ phạm tội bị trừng phạt, nhưng một câu chuyện mới lại khởi đầu.” Giọng cô hơi nghèn nghẹn, song hết sức bình thản, điềm tĩnh đến mức gần như lạnh lùng, “Nếu không phải Quỳ vương năm xưa từng đọc qua hồ sơ, kể cho ta nghe những chuyện về sau, hẳn ta không thể biết được, thì ra người chồng nhất thời nổi giận thắt cổ vợ đến chết nọ từ nhỏ đã mồ côi cha, bên dưới còn một em trai. Người mẹ không nơi nương tựa, ngày ngày lưng cõng con nhỏ, tay dắt con lớn, dệt vải đem bán, mới ba mươi mấy tuổi đã võ vàng gầy quắt, tóc bạc đầy đầu. Một quả phụ bìu ríu nuôi hai con trưởng thành, chẳng nói cũng biết đã phải nếm trải bao nhiêu cực khổ, đến năm con trai cả 18 tuổi thì gặp vận. Con trưởng của bà ta rất mực thông minh, lăn lộn bán rong khắp phố lớn ngõ nhỏ cũng dành dụm được chút tiền, bèn mở quán rượu. Nhờ tài tháo vát, anh ta làm ăn phát đạt, chẳng mấy chốc đã phất lên, rồi mối mai tìm đến, lại cưới một cô vợ xinh đẹp. Cả nhà già trẻ cứ ngỡ thế là đến lúc khổ tận cam lai, đâu ngờ tai bay vạ gió lại ập đến, sau một trận cãi vã, anh con trai đã thắt cổ vợ đến chết, rồi ngụy trang thành tự vẫn, mọi chuyện bại lộ, bị xử trảm giữa phố. Chủ nợ lũ lượt kéo đến quán rượu đòi tiền, phải bán quán đi vẫn chưa trả hết nợ, đồ đạc trong nhà cũng bị vơ vét sạch. Quả phụ nọ vất vả nhẫn nhục mười mấy năm, mới được sung sướng mấy ngày thì trong một đêm con trai con dâu đều chết cả, không chịu đựng nổi, đúng hôm con trai bị xử trảm đã hóa điên…”

Kể đến đây, dù đã cố kìm nén, nhưng cô vẫn không dằn lòng được, quay sang nhìn Vũ Tuyên.

Thấy hắn đang run lên bần bật, huyệt thái dương của cô cũng nhói lên giần giật, như cảm nhận được nỗi tuyệt vọng chảy tràn trong huyết mạch.

Nhưng cuối cùng cô vẫn nghiến răng quay đi, tàn nhẫn kể tiếp: “Sau khi phát điên, một hôm, bà ta treo cổ lên xà nhà, đúng chỗ cô con dâu khi trước từng bị treo lên. Đứa con trai út bấy giờ mới 14 tuổi, sáng sớm trở dậy, thấy xác mẹ đã lủng lẳng trên xà nhà. Chẳng biết là sợ quá hay tại sao, nó bèn đỡ thi thể mẹ xuống, ngồi bên trông giữ suốt 3 ngày 3 đêm, không nói không rằng. Nếu không phải là hàng xóm thấy lạ, phá cửa xông vào, có lẽ nó đã lặng lẽ chết đi bên cạnh bà mẹ rồi.”

Mộc Thiện đại sư khẽ niệm “A di đà Phật” rồi lặng lẽ đứng dậy, như không đành lòng nghe tiếp, muốn bỏ đi.

Nào ngờ Chư Tử Tần ngồi phía trước giơ tay ngăn lại: “Đại sư, đã đến đây thì, xin ở lại nghe xong hẵng đi?”

Mộc Thiện đại sư bất đắc dĩ đành cụp mắt ngồi xuống.

Hoàng Tử Hà chẳng buồn để tâm đến mọi chuyện bên dưới, vẫn chậm rãi kể bằng giọng gần như tàn khốc: “Láng giềng khiêng thằng bé đã mê man đến tiệm thuốc, rồi chung tay chôn mẹ nó bên cạnh đứa con lớn. Cuối cùng, thầy thuốc cũng cứu được mạng thằng bé, nhưng lúc trước bó đã hấp hối, nên sau khi tỉnh lại cứ ngơ ngẩn bần thần, như mất trí, rồi một hôm nó trốn khỏi tiệm thuốc, đi đâu không biết. Có lẽ đã trở thành một trong ngàn vạn kẻ ăn mày lê la khắp đầu đường xó chợ.”

Kể đến đây, cô ngừng lại thật lâu mới tiếp: “Đây là tất cả những gì ghi lại trong hồ sơ lưu ở Đại Lý Tự mà Quỳ vương gia đọc được. Nhưng, gần đây sau khi đến Thành Đô, gặp mấy vụ án khác, ta tình cờ chắp ghép được đoạn sau của câu chuyện này.”

Cả phòng im phăng phắc, Phạm Ứng Tích và Chu Tường tuy vẫn chưa rõ tại sao cô lại nhắc tới vụ án nhiều năm trước, nhưng thấy Lý Thư Bạch vẫn ngồi yên trên ghế, chăm chú lắng nghe, cả hai cũng chẳng dám động cựa, đành ngoan ngoãn ngồi hai bên họ Lý, nghe thật kỹ.

“Những điều ta nói sau đây đều là suy đoán, không có chứng cứ xác thực, nên các vị cứ nghe cho vui vậy thôi.” Tuy Hoàng Tử Hà nói là “suy đoán” và “chỉ nghe cho vui”, song nhìn nét mặt cô, mọi người đều hiểu những gì cô sắp nói có liên quan rất rộng, quan trọng vô cùng. Thế nên, ai nấy đều nín thở ngồi nghe, chẳng dám thở mạnh.

“Đứa con út nọ, trong nạn đói mấy năm trước, có lẽ đã theo dân đói lưu lạc đến phía Nam. Bấy giờ rất nhiều người lưu lạc ở phủ Thành Đô. Thời gian thấm thoắt, nó cũng dần tỉnh táo lại, nhưng lưu lạc tha phương, bơ vơ trôi dạt, chẳng còn cách nào trở về Trường An, đành ở lại Thành Đô lần hồi đầu đường xó chợ ăn xin qua ngày. Song nó thông tuệ hơn người, dốc lòng cầu học, lúc ở nhà đã học vỡ lòng, bèn đến trường nhặt mấy cuốn sách cũ người ta vứt đi, rồi ngồi nép dưới gõ tường nghe lén thầy giáo giảng bài, chẳng bao lâu đã vượt cả đám học trò được học hành tử tế, khiến các thầy giáo tấm tắc khen ngợi không thôi, còn được xưng tụng là thần đồng, đến nỗi…” Kể đến đây, giọng cô không kìm được run lên, “Ngay Hoàng sứ quân vừa nhậm chức quận thú Xuyên Thục cũng nghe danh, sau khi tìm gặp hỏi han, kinh ngạc trước tài năng lỗi lạc, bèn nhận làm con nuôi, đưa về phủ.”

Nghe tới đó, Chu Tường và Phạm Ứng Tích đều hít sâu một hơi. Trương Hành Anh vẫn đứng thẳng tắp sau lưng Lý Thư Bạch như một cây thương, lúc này không kìm được buột lòng “ồ” lên khe khẽ.

Song Lý Thư Bạch chỉ lặng lẽ ngồi nghe, mắt nhìn chăm chăm vào bóng sen ngoài cửa sổ.

Vương Uẩn đã buông quạt xuống từ lâu, đăm đăm nhìn Hoàng Tử Hà đến quên cả chớp mắt.

Chỉ riêng Vũ Tuyên vẫn ngồi yên tại chỗ, bất động. Ánh nến bập bùng hắt lên mặt hắn khi tỏ khi mờ, khiến nét mặt trở nên âm u vô hạn, cũng đáng sợ vô cùng.

“Một kẻ mồ côi, được quận thú dốc lòng nuôi dạy, từ đó cuộc đời cũng thay đổi hoàn toàn. Vào Hoàng phủ, được thầy giáo giỏi nhất hết lòng chỉ dạy, chẳng bao lâu đã trở thành tài tử lừng danh quận Thục, được người người ngưỡng mộ; lại thêm tính tình hiền hoà chu đáo, luôn chăm sóc cho con gái Hoàng quận thú, khiến cô ta đem lòng si mê quên hết mọi thứ; 3 năm sau thì thi đỗ cử nhân, gió xuân đắc ý, rộng bước đường mây. Kẻ đó biết, mình không cần lợi dụng kẻ thù nữa, bèn dọn ra khỏi phủ quận thú, rồi tặng cho Hoàng Tử Hà một chiếc vòng ngọc chạm đôi cá.”

Nghe nhắc đến vòng, Chu Tử Tần thoáng ngây ra rồi chạy sang phòng bên lấy vòng đặt xuống bàn, không quên dặn: “Cẩn thận, bên trên có thể có độc đấy.”

“Một chiếc vòng chứa kịch độc.” Hoàng Tử Hà không mảy may sợ hãi, thản nhiên cầm nó bằng tay không, rồi chìa ra cho mọi người xem. Chiếc vòng lấp lánh trong suốt, ngàn vạn tia sáng rọi vào theo những lỗ rỗng trên vòng, rồi lại từ lỗ rỗng phản xạ ra, tạo thành một vầng hào quang lung linh mỹ lệ, đẹp không tả xiết.

Cô hít sâu một hơi, trỏ vào 8 chữ viết trên đó, “Vạn mộc chi trường, hà phương vi hà. Chiếc vòng này được thiết kế dựa theo đường vân của miếng ngọc, hàng chữ này cũng do kẻ nọ chính tay khắc lên, có thể nói là độc nhất vô nhị, thiên hạ vô song. Sau khi Hoàng Tử Hà bỏ trốn, chúng ta tìm thấy nó ở nhà Phó Tân Nguyễn. Chu bổ đầu kiểm nghiệm phát hiện, chất độc mà Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương dùng khi tự vẫn, không phải tỳ sương như ngỗ tác báo cáo ban đầu, mà là trẩm độc cực kỳ hiếm gặp, từ trong cung truyền ra.”

Lần này, chẳng những Chu Tường và Phạm Ứng Tích buột miệng “à” lên khe khẽ, mà đến Vương Uẩn cũng tái mặt, nhíu mày.

“Nhờ vậy, ta nghĩ tới một chuyện. Phó Tân Nguyễn trước khi qua đời, thường đeo chiếc vòng này. Mà khi cả nhà Hoàng quận thú gặp nạn, Hoàng Tử Hà cũng đeo chiếc vòng Vũ Tuyên tặng, không rời một khắc. Nạn nhân trong cả hai vụ án, đều có triệu chứng trúng độc tỳ sương. Hai vụ này, liệu có liên quan gì tới nhau không?” Cô thong thả đặt chiếc vòng xuống, dịu giọng kể: “Chu bổ đầu sinh lòng nghi ngờ, bèn đi đào mộ cả nhà Hoàng quận thú lên, cắt tóc của 3 người đem về kiểm nghiệm, quả nhiên, họ đều chết vì trẩm độc!”

Ánh mắt cô xuyên qua đám đông sững sờ, nhìn xoáy vào Vũ Tuyên, kể rành rọt từng câu: “Người nhà Hoàng quận thú và Phó Tân Nguyễn thuộc hai loại người hoàn toàn khác nhau, chẳng có liên quan gì, vậy mà lại cùng bỏ mạng bởi một loại độc hiếm thấy. Bởi thế, rất có khả năng trẩm độc đến từ chiếc vòng này, điểm chung duy nhất giữa hai vụ án. Mà nó lại do Vũ Tuyên, con nuôi Hoàng quận thú chính tay vẽ mẫu, giao cho thợ khéo làm, rồi tặng cho Hoàng Tử Hà.”

Thân hình Vũ Tuyên run lên bần bật, rồi bất giác co rúm lại, hắn giơ tay day mạnh vào huyệt thái dương, gắng hết sức giữ tư thế ngồi nhưng vô ích. Gân xanh gồ lên trên huyệt thái dương và mu bàn tay Vũ Tuyên, hắn cắn thật mạnh vào môi đến tái ngắt, song vẫn không kìm nổi tiếng rên rỉ.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn hắn quằn quại đau đớn như sắp hấp hối, gắng hít thở thật sâu, lòng tiết hết căm hận và đau đớn kìm nén trong lòng bấy lâu ra ngoài qua hơi thở run rẩy, bằng không, e rằng ý thức của cô sẽ bị những thứ đó xâu xé.

Hoang mang rối loạn âm thầm cuộn lên.

Chu Tử Tần đột ngột lên tiếng, phá tan bầu không khí ngột ngạt: “Sùng Cổ, ta có điều này không hiểu. Có lần công công cầm chiếc vòng đó, rồi lại cho Phú Quý liếm tay, ta cũng từng kiểm nghiệm trong ngoài cái vòng, khẳng định nó không có độc. Huống hồ chuyện Vũ Tuyên tặng vòng cho Hoàng Tử Hà, Tề Đằng tặng cho Phó Tân Nguyễn, đều là trước khi xảy ra chuyện cả mấy tháng. Nếu chiếc vòng này bị hạ độc, chẳng lẽ chất độc trên đó lúc có lúc không ư? Hay là có thể điều chỉnh thời gian hạ độc?”

“Đúng thế, độc trên vòng này đúng là có thể điều chỉnh, chỉ cần một động tác nhỏ thôi.” Nói rồi Hoàng Tử Hà ung dung cầm chiếc vòng giơ lên trước mắt, ngắm nhìn hai con cá nhỏ, nhẹ giọng nói: “Chất ngọc không tốt, nên phải chạm rỗng để tăng độ trong trẻo. Trên cái vòng này có vô số lỗ hổng và nét khắc, không thể tra xét từng cái một được. Hung thủ chỉ cần giấu một giọt trẩm độc vào lỗ hổng trên vòng, đợi nó khô đi thì nhỏ sáp mỏng bọc ngoài là ổn. Nếu không có gì bất ngờ, có lẽ cả đời, giọt kịch độc ấy cũng sẽ ở bên bầu bạn với chủ nhân, không ai hay biết.”

Đoạn cô cụp mi, rời mắt nhìn đi chỗ khác. Cái gai nhức nhối trong tim hơn nửa năm nay, khiến cô đau đớn như lóc da xẻ thịt, nhưng cũng giúp tâm trí cô càng lúc càng sáng suốt, thậm chí trở nên lạnh lẽo thê lương, mặc cho người cứng lại vì sợ hãi, cô vẫn đứng vững vàng, lưng thẳng tắp.

“Nhà Hoàng quận thú xảy ra chuyện vào một hôm trời đổ tuyết, hoa mai nở rộ.”

Sáng ấy Vũ Tuyên đến tìm, tặng cho cô một cành mai lục ngạc. Vào lúc cô tươi cười nhận lấy, hoặc cùng hắn ra vườn hái hoa mai, hoặc cũng có thể là khi cả hai ôm hoa nắm tay nhau quay về, hắn đã dùng móng tay hoặc cành hoa khảy nhẹ vào chiếc vòng của cô, làm lớp sáp bọc ngoài bong tróc, trẩm độc giấu bên trong lộ ra.

Sau đó, Vũ Tuyên ra về, người nhà họ Hoàng quây quần bên bàn dùng bữa. Là cháu gái được chiều chuộng nhất trong dòng họ, cô thường múc canh ra các bát, rồi lần lượt bưng từng bát tới trước mặt mọi người.

Nhưng hôm ấy, vì cô cãi lời gây rối, nên phải nghe lời mẹ dặn, xuống bếp bưng tô canh móng dê lên phòng ăn.

Ra khỏi cửa nhà bếp, băng qua gốc tỳ bà trước sân, qua cánh cửa nhỏ đã nứt nẻ, trước mặt là hành lang dài lát đá xanh đã mòn vẹt, nhẵn bóng.

Tô canh rất nặng, nếu đậy cả nắp lên thì không thể bưng nổi, cô bèn bỏ nắp ra.

Nước canh nóng bốc khói nghi ngút giữa ngày đông, hơi nước đọng đầy chiếc vòng trên tay cô. Thỉnh thoảng nó lại va vào miệng tô, thành tiếng leng keng khe khẽ.

Hơi nước đọng trên vòng nhỏ xuống, đem theo cả trẩm độc không ai cứu nổi, hoà vào tô canh.

Như ý hắn, cô ân cần múc canh xin lỗi từng người, cũng chia trẩm độc tới từng người một.

Điều duy nhất chưa được như ý hắn là, cô ấm ức trong lòng, lại không thích canh móng dê tanh, nên không ăn.

Hắn biến cô thành lưỡi dao, mượn tay cô trả mối thù nhà tan cửa nát, cũng khiến cô rơi vào cảnh ngộ nhà tan cửa nát như hắn năm đó, phải một thân một mìn lưu lạc khắp nơi.

Hoàng Tử Hà kể đến đây, cả phòng im phăng phắc, mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Vũ Tuyên.

Mồ hôi lạnh đã túa ra đầm đìa, ướt đẫm vạt áo hắn, vì day huyệt thái dương quá mạnh, mấy sợi tóc rối bù rủ xuống trán hắn cũng bết mồ hôi, dính vào gương mặt tái nhợt, càng làm nổi bật sắc mặt trắng bệch.

Song Hoàng Tử Hà không hề nhìn hắn. Cô vẫn nhìn chằm chằm vào khoảng không, giọng nói nhẹ nhàng chậm rãi, song hết sức chắc chắn: “Trên vòng nhiều lỗ hổng như thế, để đề phòng bất trắc, sợ nhất thời không tìm được chỗ giấu chất độc, ngươi đã giấu làm nhiều chỗ. Hôm ấy, có lẽ ngươi đã nạy một hoặc hai chỗ ra, nhưng hẳn vẫn còn một hai chỗ khác. Sau khi Tề Đằng cứu sống ngươi, rất có thể đã nghe ngóng được chuyện này. Lúc quyết tâm diệt trừ Phó Tân Nguyễn để cưới Chu tiểu thư, hắn nhớ đến phương pháp này, bèn đòi tiệm cầm đồ chiếc vòng, rồi lừa Ôn Dương đến nhà họ Phó, nạy một mảng sáp ra, để Phó Tân Nguyễn chính tay nấu một nồi canh độc rồi chết oan. Còn ta, trong lúc dựng lại hiện trường, đã nạy nốt mảng sáp cuối cùng rồi.”

Chu Tử Tần gật đầu, bấy giờ mới vỡ lẽ: “Đúng thật! Hèn chi bấy giờ ta thấy công công dùng móng tay nạy ra. Nếu không phải vừa rồi công công giải thích, ta còn không biết lúc ấy công công làm gì nữa!”

Vũ Tuyên khó nhọc hít thở, nhìn trừng trừng Hoàng Tử Hà, rất lâu sau mới chậm rãi nặn ra mấy tiếng khàn đặc: “Không thể nào…”

Hoàng Tử Hà hếch cằm, đợi hắn phân trần.

Vũ Tuyên cắn môi, hỏi khẽ bằng giọng khàn khàn: “Nếu… Nếu ta là kẻ giết người, vậy bức thư sám hối xuất hiện trong thư phòng ta là sao đây?”

Mọi người không hiểu thư sám hối hắn nhắc tới là gì, song thấy vẻ đau đớn và hoang mang của hắn, cũng cảm thấy có lẽ hắn không biết gì cả, bèn chụm đầu lại xì xào bàn tán.

Lý Thư Bạch giơ tay ra hiệu cho tất cả im lặng rồi nói: “Ta nhớ nội dung bức thư ấy.”

Đoạn y cầm giấy bút lên, viết lại bức thư đó, dùng đúng thể chữ khải trâm hoa của Vệ phu nhân.

Mười mấy năm vui vầy, qua một đêm sóng gió bất ngờ, cả nhà chỉ còn một thân côi cút giữa đời, cũng chẳng muốn hai tay vấy máu sống nốt kiếp tàn. Yêu mà chẳng được, việc đời thường trái ý, muôn mối nghiệt duyên, vận mệnh hay đùa cợt. Kiếp sau chẳng biết, kiếp này đành thôi, hạ bút thành thư, cùng người từ biệt, trời xanh mưa gió, lìa bỏ thế gian.

Nét chữ như đúc một khuôn, ngay hai nét ngang bộ “hiệt” cũng giống y bức thư gốc, một nét ngàn choán mất nửa ô, nét kia chiếm nốt nửa ô còn lại, nhìn như viết thêm vào.

Y chìa bức thư ra cho mọi người xem, Phạm Ứng Tích nói ngay: “Đây… Đây là nét chữ của con gái Hoàng quận thú! Lẽ nào là thư sám hối của ả?”

Chu Tường gật đầu: “Đúng đấy, Phạm tướng đọc nội dung mà xem, cha mẹ nuôi nấng mười mấy năm, chỉ trong một đêm cả nhà chỉ còn mình cô ta, tay vấy máu tanh, đều vì chuyện tình ái mà ra. Còn chẳng phải thư tự sám hối của Hoàng Tử Hà ư?”

Vũ Tuyên cũng gật đầu xác nhận: “Ta và Hoàng Tử Hà quen biết đã lâu, đã quen với nét chữ cô ấy, đây… quả thật là thủ bút của Hoàng Tử Hà, không còn nghi ngờ gì nữa?”

“Ngươi dám chắc không?” Hoàng Tử Hà hít một hơi thật sâu, cầm lấy tờ thư, “Xin hỏi ngươi tìm thấy lá thư này vào lúc nào?”

Nhìn vào cặp mắt kiên định mà bình tĩnh của cô, Vũ Tuyên chợt thấy suy nghĩ mình vẫn khẳng định lâu nay bắt đầu dao động: “Vào… ngày 16 tháng 4 năm nay, hôm xây xong mộ Hoàng quận thú.”

“Có phải ngươi tìm thấy phong thư sám hối này vào lúc tự vẫn trước mộ, rồi được Tề Đằng cứu không?” Cô vặn lại.

Vũ Tuyên gật đầu. Nghe hai tiếng “tự vẫn” từ miệng cô, hắn bỗng thấy lưng cứng lại, cơn đau buốt lan ra theo cột sống, rồi xoáy sâu vào não.

Nỗi kinh hoàng chưa từng thấy khiến hơi thở của hắn dồn dập hẳn lên.

“Bức thư đó xuất hiện thế nào? Ngươi nói sau khi ngươi được đưa về nhà, thì thấy nó ở trên bàn. Nhưng trong nhà không suy chuyển gì, rốt cuộc là kẻ nào lẻn vào, chỉ đưa bức thư nọ cho ngươi rồi lại chuồn đi?”

Hơi thở của Vũ Tuyên nặng nề mà khó nhọc, như một con thú đang hấp hối. Hắn trông thấy thứ mình sợ nhất đang từng bước áp sát lại gần, không mảy may nương tình, chỉ chực ập xuống, huỷ hoại hắn hoàn toàn.

Giọng Hoàng Tử Hà trong trẻo mà quả quyết, từng câu từng chữ, truyền vào tai hắn: “Từ khi Hoàng Tử Hà trốn khỏi phủ Thành Đô, tháng 3 thì tới kinh thành, tháng 4 cô ta còn đang mai danh ẩn tích, hỗ trợ vương gia phá án vương phi mất tích, lấy đâu ra cơ hội đưa thư cho ngươi?”

Đoạn cô chậm rãi nhìn sang Mộc Thiện đại sư, bình thản nói: “Danh tiếng đại sư, cả Thành Đô ai cũng xưng tụng. Người người đều biết đại sư Phập pháp vô biên, có thể xoay chuyển tâm tư kẻ khác. Bởi thế ta nghĩ, Vũ Tuyên bấy giờ vì sao tự vẫn, Tề Đằng vì sao lại mời đại sư đến thăm Vũ Tuyên vừa được cứu sống, thậm chí đại sư đã làm gì với Vũ Tuyên, ta cũng đoán được đôi phần.”

Mộc Thiện đại sư chắp tay nhìn sắc mặt Quỳ vương, đôi mày rũ xuống vẻ buồn rầu: “A di đà Phật… Tề thí chủ hôm ấy mời lão nạp tới, chỉ nói là có người bạn nghĩ quẩn, nhờ lão nạp cứu giúp. Lúc lão nạp đến thì Vũ Tuyên đang kích động, không thể kìm chế, cứu một mạng người hơn xây toà tháp bảy tầng, lão nạp há có thể khoanh tay đứng nhìn, đành phải giúp Vũ thí chủ quên hết những chuyện đáng sợ nhất trong quá khứ.”

Chùm nến ngàn nhánh sáng rực, ánh lửa lập loè tạo thành vô số những cái bóng mờ lắc lư theo gió.

Ánh mắt mọi người đổ dồn vào Vũ Tuyên, nhưng chẳng một ai nói gì. Còn hắn chỉ nhìn chằm chằm Mộc Thiện đại sư, chút hy vọng nhỏ nhoi còn lại cũng từ từ tan biến như tuyết mùa xuân, tuyệt vọng và đau đớn dần dần ăn mòn tất cả khí sắc trên mặt hắn, để lại một màu trắng bệch.

Hắn đi theo Hoàng Tử Hà, từng bước lần theo dấu chân hung thủ đến tận bây giờ, song có nằm mơ vạn lần hắn cũng không ngờ, mình chính là hung thủ.

Giữa không khí im lặng chết chóc, Hoàng Tử Hà nhìn Vũ Tuyên, thấy lòng hoang mang đau đớn, hoang mang căm hận, song trên hết thảy hoang mang, là tuyệt vọng.

Cô đăm đăm nhìn nam nhân mình từng yêu hơn hết thảy, bỗng dưng nỗi tuyệt vọng và đau đớn oà lên trong lòng, khiến cô gần như cuồng loạn, vớ lá thư sám hối trên tay Lý Thư Bạch, ném thẳng vào Vũ Tuyên: “Đúng thế, ngươi quên rồi, quên hết cả những việc ác độc mình đã làm rồi!”

Cả người cô run bắn, tâm tư rối loạn, chỉ biết nấc lên nức nở, cơ hồ không nói nổi thành lời: “Ngươi tự viết thư sám hối, đặt sẵn trong phòng rồi tự vẫn, song vẫn muốn giữ thanh danh, nên phải giả nét chữ Hoàng Tử Hà! Rõ ràng là thư sám hối ngươi viết, nhưng khi quên hết mọi thứ, ngươi lại khăng khăng cho rằng đó là do Hoàng Tử Hà viết, coi như một tội chứng khác của cô ấy!”

Mọi người không thể hiểu tại sao cô lại kích động đến thế, nhất thời đều kinh hoàng.

Lý Thư Bạch bèn đứng dậy, vỗ nhẹ vào vai cô, rồi quay sang bảo tất cả: “Hoàng quận thú và phu nhân có ơn lớn với Sùng Cổ.”

Mọi người lũ lượt gật đầu, đua nhau than thở.

Chỉ riêng Vũ Tuyên vẫn nhìn sững Hoàng Tử Hà, trên gương mặt tái nhợt, đôi con ngươi như hai miệng hang đen ngòm, không có mảy may ánh sáng. Một hồi lâu sau, hắn mới chậm rãi lắc đầu, nghẹn ngào nói: “Không phải.”

Hoàng Tử Hà nghe thấy hơi thở run rẩy của mình, cô há miệng định nói gì đó, song không thốt ra nổi một chữ, đành căm hận trừng mắt nhìn hắn, thở dồn dập.

“Ta không cố ý giả nét chữ của Hoàng Tử Hà… Bấy giờ ta chỉ muốn chết theo cả nhà quận thú, tâm tình kích động, chẳng biết mình đã làm gì nữa… Chữ viết ra giống Tử Hà, hoàn toàn là vô thức… Cũng có lẽ, bấy giờ trong lòng ta, luôn nhớ tới… cô ấy. Trên đời này chẳng ai quen thuộc nét chữ của cô ấy hơn ta, ta từng chép sách hộ cô ấy vô số lần, ngay cả chữ thiếu nét cũng giống nhau…” Giọng hắn khản đặc đầy khó nhọc, nhưng càng nói càng rành rọt. “Còn nữa, lúc trước công công nói, ta đã đủ lông đủ cánh, không cần lợi dụng kẻ thù, nên mới dọn ra khỏi phủ quận thú… Thật ra không phải. Bấy giờ ta không biết… bé gái chỉ nói một câu mà làm ta tan nát nhà cửa ấy, chính là Hoàng Tử Hà…”

Hắn trốn khỏi hiệu thuốc, trở thành ăn mày, theo dòng người chạy nạn xuống phía Nam, cuối cùng ở lại phủ Thành Đô, được mấy thầy giáo tư thục nâng đỡ, giới thiệu với quận thú Hoàng Mẫn.

Hoàng Mẫn rất quý mến hắn, thấy hắn trôi dạt lênh đênh đến quên cả tên thật, bèn đặt tên cho hắn là Vũ Tuyên, dẫn về nhà.

Hôm ấy, dưới bóng chiều đỏ như máu, lần đầu tiên hắn gặp Hoàng Tử Hà.

Mảng rêu ở chỗ tối tăm ẩm thấp lần đầu tiên trông thấy một đoá hoa nở rộ dưới ánh dương. Hắn loá cả mắt trước hào quang của Hoàng Tử Hà thơ ấu, gần như không dám nhìn thẳng vào cô. Hắn quỳ xuống giúp cô nhặt những bông sen rơi, vô tình chạm phải gấu váy vấy bùn của cô, không kìm được bèn nắm chặt lấy, đánh bạo ngước lên nhìn cô, liền trông thấy dung mạo mình in trong đáy mắt cô, rõ mồn một như soi gương. Từ ấy, hắn đã quyết suốt đời sống trong đôi mắt đắm đuối ấy.

Khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong đời hắn chỉ vẻn vẹn 3 năm. Tuy hình ảnh mẹ treo cổ tự tử thỉnh thoảng vẫn trở về trong mộng, song hắn đã có cha mẹ và huynh trưởng mới, có cuộc sống cơm no áo ấm, có một mái hiên che mưa chắn gió, một khu nhà rủ đầy dây leo.

Còn cả một thiếu nữ hắn hết dạ si mê.

3 năm sau hắn đỗ cử nhân, đắc ý quay về, thầm nghĩ có lẽ đã đến lúc, bèn âm thầm tính cách thưa với cha mẹ nuôi xin được cưới Hoàng Tử Hà.

Nhưng hắn chẳng ngờ, chỉ trong một đêm, cha mẹ nuôi đã ra quyết định để hắn dọn khỏi phủ quận thú, sang căn nhà quận Thục cấp cho.

Hoàng Tử Hà cãi vã kịch liệt với cha mẹ, song hắn đối với hai người vừa kính trọng lại vừa cảm kích, không tiện chống đối, đành dọn ra khỏi phủ.

Hôm tân gia nhà mới, đám người quen hẹn hắn ra ngoài uống rượu đến tận nửa đêm. Trời đổ tuyết lác đác, hắn từ biệt đám bạn bè say khướt, một mình đạp tuyết quay về.

Hắn cố ý đi đường vòng qua phủ quận thú, đứng giữa phố ngước lên nhìn ngôi lầu nhỏ Hoàng Tử Hà ở, thấy đèn trên lầu đã tắt.

Thiếu nữ hắn hết dạ si mê, đang nghỉ ngơi.

Hắn mỉm cười đứng giữa trời tuyết, ngoái lại nhìn quanh phố xá. Đêm tuyết lạnh căm, rất ít người ra đường, các sạp hàng cũng hối hả thu dọn. Bên đường chỉ có một ông lão diễn rối bóng vẫn đang ngồi trước bình phong lụa diễn một vở ngắn.

Hắn vốn đã đi qua, nghĩ thế nào lại động lòng thương ông lão, vòng lại đặt ít tiền xuống trước bình phong. Nghe ông lão hát đến câu “phường Hưng Đức Trường An”, dường như chạm tới thứ gì đó xa xôi trong ký ức.

Hắn dừng chân, đứng xem trọn vở diễn.

Tuyết lã chã rơi đậu lên tóc, lên vai, hắn thẫn thờ đứng đó.

Trơ mắt nhìn thảm cảnh đầy máu và nước mắt khiến mình tan cửa nát nhà, trở thành vở kịch phô diễn ngoài phố, thành câu chuyện phiếm của kẻ khác, cuối cùng tất cả chỉ tấm tắc một câu: “Hoàng Tử Hà nhỏ tuổi mà thông tuệ.”

Hoàng Tử Hà.

Đoá hoa nở bừng rực rỡ dưới ánh dương.

Vụ án giết vợ của huynh trưởng hắn vốn đã sắp kết án. Cả nhà hắn khổ tận cam lai, cuối cùng cũng có ngày nhìn thấy ánh sáng.

Vậy mà tại sao, cô bé 12 tuổi ấy lại đứng bên gọi một tiếng “cha”.

Xác mẹ lủng lẳng trên xà nhà, dường như vẫn đung đưa nhè nhẹ. Ánh nắng mai theo song cửa rọi vào, nhuốm đỏ cả người mẹ hắn, đỏ cả căn nhà xập xệ, cả đất trời đều nhuộm một màu đỏ thắm.

Hắn vừa tỉnh giấc, còn đang mơ màng, tâm trí trống rỗng, đứng trước mặt mẹ, thẫn thờ ôm lấy chân bà, phát hiện cả người bà đã lạnh ngắt cứng đờ.

Sau khi cha qua đời, mẹ hắn không quản ngày đêm dệt vải kiếm tiền, trải bao khổ nhọc mới nuôi hai anh em hắn lớn đến chừng ấy tuổi; tuy cảnh nhà nghèo khó, nhưng mỗi khi ra ngoài về, bà lại dúi cho hắn quả đào trái táo. Mẹ từng cười bảo hắn rằng, từ nay về sau cả nhà ta sẽ được quây quần ấm no, vui vẻ sống qua ngày. Ngờ đâu sau khi anh trai hắn bị xử chém, mẹ đã phát điên phát dại, cuối cùng lặng lẽ treo cổ tự vẫn trong lúc hắn đang say ngủ.

Hắn không còn gia đình nữa.

Hắn đỡ mẹ xuống, đặt lên giường, đắp lại chăn cho bà rồi nhắm mắt nằm xuống bên cạnh thầm nhủ, cứ thế này mà chết đi, giống như ngủ vậy, mãi mãi không bao giờ mở mắt nữa.

Tuyết dồn dập đổ xuống nặng trĩu trên vai hắn, khiến hắn lờ mờ cảm giác được máu huyết toàn thân như đông cứng lại.

Hắn chẳng biết mình đã đứng trước cửa phủ quận thú bao lâu. Mãi tới khi trời sáng, có người mở cửa đi ra, thấy hắn thì giật bắn mình, cuống quýt phủi tuyết trên người cho hắn, phát hiện lớp tuyết bên dưới đã tan ra, rồi đông lại thành băng, kết dính quần áo vào da thịt hắn.

Bóng tối mờ mịt trước mắt tan dần, hắn thấp thoáng trông thấy gương mặt cô.

Thiếu nữ hắn si mê, đoá hoa rực rỡ trong cuộc đời hoang vu quạnh quẽ của hắn, Hoàng Tử Hà của hắn.

Người hắn hận nhất, thù nhất, yêu nhất.

Cái lạnh đêm đó làm hắn đổ bệnh nằm liệt.

Hắn không muốn gặp lại Hoàng Tử Hà nữa. Cô đến thăm bệnh, hắn bèn đậy sách lên mặt, mặc cho cô ríu rít hỏi han gợi chuyện, hắn cũng chẳng nói nửa câu.

Đương nhiên cô cũng nhận ra, rầu rĩ ngồi xuống bên sập gặng hỏi, tại sao vừa chuyển ra đã xa cách phớt lờ cô như thế.

Hắn nhắm nghiền mắt, trầm giọng nói, A Hà, nếu muội không biết phá án có phải tốt không.

Câu nói này đã xoá sạch niềm kiêu hãnh bấy lâu nay của Hoàng Tử Hà, làm cô đùng đùng nổi giận bỏ về. Lần đầu tiên, hắn không giữ cô lại, mặc cho tình cảm đôi bên rạn nứt.

Bởi hắn nghĩ, đời này kiếp này, có lẽ chỉ có thể thế này thôi.

Bệnh vừa đỡ, hắn bèn lên chùa Quảng Độ núi Minh Nguyệt để nghe giảng pháp.

Ở đó, hắn gặp Tề Đằng, rồi được giới thiệu với Mộc Thiện đại sư. Đại sư nhìn hắn cười. Chẳng hiểu sao, hắn lại thổ lộ hết ra những ẩn ức chồng chất những tưởng sẽ để cho mục rữa trong lòng bấy lâu. Hắn kể về Hoàng Tử Hà, về Hoàng quận thú, về người mẹ ruột của mình.

Cuối cùng Mộc Thiện đại sư hỏi: “Trong lòng thí chủ có một con rồng dữ, đã chẳng thể kiềm chế, sao không để nó bay ra, trổ hết oai phong cho nhẹ lòng?”

Hắn ngơ ngẩn đứng dậy, ra khỏi thiền phòng, ngang qua tường vôi, qua hành lang.

Trông thấy hai câu thơ khắc rành rành trên bia.

Chiều buông đầm quạnh vắng

Thiền định trị rồng dữ.

Nhưng, hắn chẳng có cách nào cả. Con rồng dữ trong lòng đã quẫy mình vọt ra khỏi thân thể hắn, gầm rít vang trời khiến máu toàn thân hắn sôi lên, chỉ muốn bước lên đón nhận khoái cảm tanh mùi máu ấy.

Vũ Tuyên kể đến đó, ánh mắt mọi người không hẹn mà cùng đổ dồn vào Mộc Thiện đại sư.

“A di đà Phật… Vũ thí chủ tâm trí không ổn định, lão nạp vốn muốn lấy độc trị độc, phá huỷ tâm ma của thí chủ, ngờ đâu thí chủ lại hiểu lầm, gây ra đại hoạ thế này!” Mộc Thiện đại sư cúi đầu chắp tay nói, “Hôm đó gặp thí chủ tại nhà họ Tề, lão nạp cứ ngỡ thí chủ chưa quên hết cừu hận khi trước nên mới nghĩ quẩn, chứ đâu có ngờ thí chủ lại nảy sát tâm, giết chết cha mẹ nuôi mang ơn nặng như núi!”

Mộc Thiện đại sư thản nhiên phủi sạch tội trạng, hẳn là đã chuẩn bị từ trước, nhất định bên trong có nội tình. Song giờ đây vụ án Vũ Tuyên còn chưa kết thúc nên Lý Thư Bạch cũng chẳng tiện vạch trần, chỉ lạnh lùng ngồi xem.

Vũ Tuyên thấy lồng ngực lạnh thấu xương, rồi lại nóng như sôi, bị hai thái cực nóng lạnh giày vò, hắn đã gần như suy sụp, nhìn chằm chằm Mộc Thiện đại sư trước mặt thật lâu, cuối cùng mỉm cười tuyệt vọng, đôi môi thâm tím vẫn đẹp hoàn mỹ, khiến mọi người nhìn hắn chỉ thấy thê lương vô hạn.

“Đã đến nước này, liên luỵ kẻ khác cũng chẳng để làm gì… Chẳng qua ta không thắng được hận thù, ra tay hạ sát cả nhà Hoàng quận thú có ơn nặng như núi với ta mà thôi…”

Rời chùa Quảng Độ, hắn mua một miếng ngọc, tìm đến dỗ dành cô. Trong lúc đôi bên bàn bạc vẽ mẫu vòng, trước mắt hắn bỗng hiện lên con cá Tề Đằng thường mang theo bên người.

Đỏ thắm như máu, phiêu hốt như khói.

A Già Thập Niết do Long Nữ lơ đãng hoá thành, thường xuất hiện bên cạnh những kẻ chết oan.

“Chạm đôi cá đi.” Hắn cầm bút vẽ ra giấy, “Hai chúng ra cũng giống như đôi cá, con này ngậm đuôi con kia thành một vòng tròn, muội không thoát được ta, ta cũng không thoát được muội, đời đời kiếp kiếp, quấn quýt bên nhau.”

Đời đời kiếp kiếp.

Hắn lấy trẩm độc từ chỗ Tề Đằng, nhỏ vào ba hốc lõm trong thân vòng, rồi dùng sáp nến, chuốt phẳng, thành ba đốm vàng nhạt như có như không, lẫn vào sắc trắng ngà như chiếc vòng.

Chiếc vòng mang điềm gở, từ ấy đeo lên cổ tay cô.

Nghe nhà họ Hoàng nhắc đến việc đính hôn giữa cô và Vương Uẩn, hắn bèn đánh cuộc với cô như mọi khi, dụ cô đi mua một gói tỳ sương. Mấy hôm sau, tuyết tạnh mai nở, thấy bà nội và chú cô đến thăm, đoán rằng họ nhất định sẽ giục giã việc thành hôn, nhân lúc giúp cô ôm một ôm hoa mai, hắn tiện thể nắn nắn chiếc vòng trên tay cô, lần tay tìm đến mắt cá, chọc cành hoa vào một cục sáp bên trong.

Cô nắm tay bà nội đi vào nhà, thân thiết ân cần, cười tươi như hoa.

Còn hắn ôm hoa mai ra khỏi vườn nhà cô, băng qua căn gác nhỏ nơi cô ở mà biết bao lần hắn từng đứng dưới nhìn lên, băng qua hồ sen tàn héo nơi họ gặp nhau lần đầu, rời phủ quận thú.

Đi đến con hẻm nhỏ vắng vẻ phía sau phủ, hắn dừng bước, đứng ngẩn ra. Gió tuyết đầu xuân thốc vào người lạnh cóng, song hắn cứ đứng đờ bất động, ngẩng đầu nhìn trời.

Sau cùng hắn buông thõng hai tay, bó hoa mai hai người cùng hái rớt xuống, rơi tung toé ra đất. Nào đỏ nào hồng, máu tươi và son phấn đều rơi xuống bùn lầy, hương thầm tan tác.

Tựa như thời gian quay ngược về ngày đó, hắn nằm xuống bên thi thể lạnh cứng của mẹ, bất động.

Hắn đến vườn Tình dự hội thơ, lại bắt đầu nói cười chuốc chén, cảm thấy mình cơ hồ không gắng gượng nổi nữa, song thật lạ là chẳng ai nhận ra cả. Thật ra hắn không say, hắn chỉ giả vờ say để thoát khỏi bọn họ, quay về nhà đờ đẫn nằm xuống, đợi tin tang tóc truyền đến.

Sáng sớm hôm sau, cha mẹ nuôi của hắn đã qua đời, Hoàng Tử Hà trở thành người duy nhất còn sống sót ở nhà họ Hoàng.

Hắn bèn đem bức thư cô gửi mấy hôm trước đến phủ tiết độ, trình lên Phạm Ứng Tích vốn có hiềm khích với Hoàng Tử Hà. Con trai Phạm Ứng Tích đã mấy lần bị cô vạch trần, Phạm tướng phải ra sức che chở mới thoát nạn, nhưng cháu trai lão, vì Hoàng Tử Hà mà bị đày đến xứ khỉ ho cò gáy, chẳng biết bao giờ mới được trở về.

Quả như dự tính, Phạm Ứng Tích có thể tuỳ ý định đoạt mọi việc ở Xuyên Thục không cần trình lên triều đình, lập tức định tội Hoàng Tử Hà đầu độc cả nhà, sau khi cô bỏ trốn còn bẩm báo lên trên, xin lệnh truy nã toàn quốc.

Tâm nguyện đã thành, hắn gom góp tiền bạc, tu sửa phần mộ cho cả nhà Hoàng quận thú rồi để lại di thư, tự vẫn trước mộ.

“Bức di thư ấy, chính là bức thư thứ hai, mà ngươi cho là thư nhận tội của Hoàng Tử Hà ư?”

Hoàng Tử Hà khàn khàn hỏi.

Vũ Tuyên nhắm nghiền mắt, gật đầu: “Phải. Ta nghĩ lần này mình ắt sẽ chết, nào ngờ lại được Tề Đằng cứu. Hắn khuyên ta đã diệt trừ cả nhà Hoàng quận thú rồi thì dốc sức cho Phạm tiết độ đi, ngày sau sẽ được nở mày nở mặt, nhưng ta từ chối, chỉ một lòng muốn chết. Sau đó ta ngất đi, đến khi tỉnh lại đã quên hết những việc ác độc mình làm khi trước. Có lẽ đó là bản năng tự vệ của ý thức, khiến ta không ngừng thuyết phục bản thân rằng tất cả đều do Hoàng Tử Hà gây ra, chứng cứ rành rành. Càng ngày ta càng quả quyết rằng cô ấy đã giết chết cha mẹ, thậm chí còn cảm thấy mình từng chính mắt nhìn thấy cô ấy cầm gói tỳ sương, còn ví như…”

Hắn nghiến răng khó nhọc tiếp: “Ta về nhà, trông thấy bức di thư đặt trên bàn. Nội dung trong đó cũng khiến ta ngỡ là do cô ấy viết.”

Mười mấy năm vui vầy, qua một đêm sóng gió bất ngờ, cả nhà chỉ còn một thân côi cút giữa đời, cũng chẳng muốn hai tay vấy máu sống nốt kiếp tàn. Yêu mà chẳng được, việc đời thường trái ý, muôn mối nghiệt duyên…

Là hắn, cũng là cô.

Vận mệnh giống nhau, cảnh ngộ giống nhau, luân hồi tuần hoàn, như hai con cá trên chiếc vòng kia, ngậm đuôi nhau quấn quýt, không bao giờ chia lìa.

Giọng hắn dần xa xăm, đã chẳng màng che đậy thân phận cô trước mặt bấy nhiêu người nữa, chỉ đăm đăm nhìn cô, tha thiết nói: “Ta đã quên hết những việc mình làm, không nhận ra được bức thư ấy là muội viết cho ta, hay ta viết cho muội nữa. Nào ngờ chúng ta đều tập theo thư pháp của Vệ phu nhân, xưa nay ta luôn giúp muội chép bài, bắt chước nét chữ muội thành quen, đến chữ thiếu nét cũng viết giống nhau…”

Giọng hắn giờ đây khàn đặc nghẹn ngào, không còn dịu dàng thanh nhã như mọi ngày. Hắn từ từ đứng dậy, rưng rưng nhìn cô.

Trên gương mặt trắng bệch như tuyết, chỉ còn đôi mắt đen thẫm và bờ môi tím ngắt là còn chút màu sắc. Giống như một người vẽ trên bức tường vôi vậy, dẫu đường nét hoàn mỹ, song không có thần thái của người sống.

Hắn đắm đuối nhìn cô, như nhiều năm trước họ gặp nhau lần đầu, khi hắn quỳ xuống giúp cô nhặt hoa sen, thình lình ngẩng lên, bỗng hoa cả mắt.

Những cánh chuồn la đà bên tai họ bấy giờ đều đã chết, sen hồng khắp hồ cũng chẳng thể nở lại, chỉ có đôi mắt này, cùng những điều ẩn chứa trong ánh mắt, là không bao giờ thay đổi.

Thời gian bồi đắp cho kẻ ăn mày lang thang thành nam tử tài hoa lừng danh thiên hạ, cho cô bé ngây thơ thành thiếu nữ xinh đẹp thông minh.

Song vận mệnh tàn khốc lại xui khiến hai người họ đời này kiếp này trở thành kẻ thù lớn nhất của nhau.

“A Hà…” Hắn khe khẽ gọi, vươn tay về phía cô.

Lý Thư Bạch và Vương Uẩn đều biết rõ sự tình, chỉ riêng Chu Tử Tần chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, thấy Vũ Tuyên đột ngột gọi Dương Sùng Cổ là A Hà thì kinh ngạc hết sức.

Hoàng Tử Hà đứng trước mặt hắn, bất động, cũng không giơ tay chạm vào bàn tay đang chìa ra.

Thấy vậy, hắn chỉ yếu ớt mỉm cười, nói khẽ: “Phải, ta vĩnh viễn… cũng không chạm được đến muội.”

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN