Cây Thập Tự Ven Đường - Chương 16
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
164


Cây Thập Tự Ven Đường


Chương 16


Trên đường xa lộ tới Salinas, cách đường đua tuyệt đẹp Laguna Seca không xa lắm, Kathryn Dance đạp phanh dừng chiếc Ford không mang phù hiệu của cô lại trước một công nhân xây dựng đang giơ biển báo dừng. Hai chiếc xe ủi lớn chậm chạp chạy qua trước mặt cô, làm cuộn một đám bụi đỏ quạch lên không trung.

Nữ đặc vụ đang nói chuyện điện thoại với điều tra viên David Reinhold, chàng cảnh sát trẻ đã mang máy tính của Tammy Foster đến cho cô và Boling. Rey Carraneo đã phóng xe tới chỗ đơn vị Điều tra Hiện trường của MCSO ở Salinas đưa chiếc máy tính Dell của Travis cho họ để đăng ký vào danh sách bằng chứng.

“Tôi đã cho nó vào danh mục rồi,” Reinhold nói với cô. “Và kiểm tra vân tay cũng như các dấu vết khác. À, chuyện này nhiều khả năng không cần thiết, đặc vụ Dance, nhưng tôi cũng đã thử dò tìm nitrat để kiểm tra chất nổ nữa.”

Máy tính vẫn thỉnh thoảng bị cài chất nổ – không phải để làm vũ khí sát thương, mà để phi tang những dữ liệu có thể gây rắc rối chứa trong đó.

“Làm tốt lắm, điều tra viên.”

Chàng trai này hiển nhiên là người có óc sáng tạo. Cô nhớ lại đôi mắt xanh nhanh nhẹn của anh ta, cũng như quyết định thông minh khi tháo pin khỏi máy tính của Tammy lúc trước.

“Một số vân tay thuộc về Travis,” người điều tra viên trẻ nói. “Nhưng còn có dấu vân của người khác nữa. Tôi đã kiểm tra. Có sáu vết của Samuel Brigham.”

“Em trai cậu ấy.”

“Đúng thế. Và vài kẻ khác. Không phù hợp với bất kỳ ai trong cơ sở dữ liệu. Nhưng chúng lớn hơn, nhiều khả năng là vân tay đàn ông.”

Dance tự hỏi liệu có phải ông bố cậu ta đã tìm cách truy nhập vào.

Reinhold nói, “Tôi rất sẵn lòng bẻ khóa máy tính của cậu ta, nếu cô muốn. Tôi đã tham gia vài khóa đào tạo rồi.”

“Tôi đánh giá rất cao đề xuất của anh, nhưng tôi đã có Jonathan Boling để giải quyết chuyện đó – người anh đã gặp tại phòng làm việc của tôi.”

“Chắc chắn rồi, đặc vụ Dance. Như cô muốn. Cô đang ở đâu vậy?”

“Tôi hiện đang ở ngoài, nhưng anh có thể đưa máy tính đến chỗ CBI. Hãy để đặc vụ Scanlon tiếp nhận. Ông ấy sẽ ký lên thẻ và biên bản giao nhận.”

“Tôi sẽ làm ngay, Kathryn.”

Hai người ngừng liên lạc, và cô sốt ruột nhìn quanh, chờ đợi người công nhân xây dựng cho phép đi qua. Dance ngạc nhiên khi thấy cả khu vực bị xới tung hết lên như thế – rất nhiều xe tải và thiết bị bạt đường đang xé toang mặt đất ra. Cô từng lái xe qua đoạn này tuần trước, lúc đó việc này thậm chí còn chưa bắt đầu.

Đây chính là dự án xa lộ lớn Chilton đã nhắc tới trên blog, con đường tắt dẫn sang Xa lộ 101, trong chủ đề Con Đường Lát Gạch Vàng, ám chỉ bóng gió tới vàng, và cô tự hỏi liệu có phải ai đó đang thủ lợi bất chính trong dự án này hay không.

Dance để ý thấy máy móc thiết bị thuộc về công ty xây dựng Clint Avery Construction, một trong những công ty lớn nhất khu vực Bán đảo Monterey. Các công nhân ở đây là những người to con, làm việc cần mẫn, mồ hôi nhễ nhại. Họ chủ yếu là người da trắng – một điều bất thường. Bởi phần lớn công việc lao động chân tay tại khu vực Bán đảo Monterey là do các công nhân gốc La Tinh thực hiện.

Một trong số công nhân nghiêm nghị nhìn cô – rõ ràng anh ta nhận ra xe cô là một chiếc thuộc về lực lượng thực thi pháp luật không mang phù hiệu – nhưng không hề thể hiện nỗ lực đặc biệt nào để cô có thể nhanh chóng đi qua.

Cuối cùng, anh ta không chút vội vã vẫy tay ra hiệu cho xe tiếp tục đi, nhìn Dance chăm chú, cô cảm thấy hình như là vậy.

Cô bỏ đoạn đường đang thi công ngổn ngang lại sau lưng, lao đi trên xa lộ rồi rẽ vào các dãy phố cho đến khi tới Central Coast College, nơi đang có các lớp học hè. Một học sinh chỉ cho cô thấy Caitlin Gardner đang ngồi tại một băng ghế với mấy cô gái khác xúm quanh ra vẻ chở che. Caitlin khá xinh, tóc vàng buộc thành đuôi ngựa. Hai bên tai đeo hoa tai và khuyên rất cá tính. Cô bé trông chẳng khác gì hàng trăm học viên ở đây.

Sau khi rời khỏi nhà Brigham, Dance đã gọi điện tới gia đình Gardner và được mẹ Caitlin cho biết cô bé đang theo học vài môn tại đây để lấy tín chỉ nộp cho trường trung học Robert Louis Stevenson, nơi cô bé sẽ bắt đầu vào năm cuối sau mấy tháng nữa.

Dance để ý thấy đôi mắt Caitlin đang chăm chú nhìn ra xa, sau đó di chuyển về phía cô. Không biết cô là ai – nhiều khả năng là một phóng viên nữa – cô bé bắt đầu xếp sách vở của mình lại. Hai cô gái khác nhìn theo hướng ánh mắt đầy lo lắng của bạn họ và đứng dậy làm rào chắn để Caitlin có thể thoát đi.

Nhưng khi mấy đứa trông thấy áo giáp chống đạn và vũ khí của Dance. Cả ba trở nên dè chừng.

“Caitlin,” Dance gọi.

Cô bé dừng lại.

Dance đến gần, chìa thẻ công vụ của cô ra và giới thiệu bản thân. “Chị muốn nói chuyện với em.”

“Bạn ấy đang rất mệt,” một cô gái lên tiếng.

“Và bực bội.”

Dance mỉm cười. Cô nói với Caitlin, “Chị biết chắc là thế. Nhưng chị cần nói chuyện với em, việc này rất quan trọng. Nếu em không thấy phiền.”

“Đáng lẽ bạn ấy thậm chí không nên đến trường,” một cô gái khác nói. “Nhưng bạn ấy vẫn tham dự vì tôn trọng Trish và Vanessa.”

“Thật tốt vì em làm vậy.”

Dance tự hỏi từ bao giờ có mặt trong lớp học hè lại là hành động tưởng niệm người đã khuất.

Những biểu đạt kỳ lạ của giới trẻ…

Cô bạn thứ nhất kiên quyết nói, “Caitlin thực sự, thực sự…”.

Dance quay sang cô bé có mái tóc đen uốn quăn, thái độ thay đổi hẳn, thu lại nụ cười và thẳng thừng nghiêm giọng, “Chị đang nói chuyện với Caitlin.”

Cô bé im bặt.

Caitlin lí nhí, “Em đoán thế.”

“Lại đây nào,” Dance nói bằng giọng vui vẻ. Caitlin đi theo cô qua bãi cỏ, hai người ngồi xuống bên một cái bàn dã ngoại khác. Cô bé ôm chặt túi đựng sách vở vào ngực và nhìn quanh khuôn viên trường với vẻ bồn chồn. Giậm giậm chân, cô bé đưa tay giật khẽ dái tai.

Cô bé có vẻ khiếp sợ, thậm chí còn hơn cả Tammy.

Dance cố gắng trấn an Caitlin. “Vậy là em đang tham gia học hè.”

“Vâng. Các bạn em và em. Còn hơn đi làm thêm hay ngồi ở nhà.”

Những từ cuối cùng được nói ra với giọng điệu cho phép Dance suy đoán về mối quan hệ không ít sóng gió với bố mẹ.

“Em đang học gì vậy?”

“Hóa học và Sinh học.”

“Một cách rất hay để làm hỏng kỳ nghỉ hè của em.”

Cô bé bật cười. “Không kinh khủng đến mức ấy đâu. Em có vẻ cũng khá về khoa học.”

“Định nhằm tới trường y chắc?”

“Em hy vọng là thế.”

“Ở đâu?”

“Ồ, em cũng chưa biết. Có thể là Berkeley. Sau đó em sẽ nghĩ tiếp.”

“Chị từng có thời gian ở đó. Thành phố tuyệt vời.”

“Thật thế ạ? Chị học ngành gì?”

Dance mỉm cười và nói. “m nhạc.”

Kỳ thực cô chưa từng học một lớp nào tại phân hiệu đó của Đại học California. Hồi ấy cô là một người hát rong – một nghệ sĩ chơi guitar và hát để kiếm tiền trên các con phố của Berkeley – thường kiếm được rất ít tiền, trong trường hợp của cô.

“Vậy, em trải qua tất cả những chuyện vừa rồi thế nào?”

Đôi mắt Caitlin trở nên ủ dột. Cô bé lúng búng, “Cũng không tốt lắm. Ý em là chuyện đó thật khủng khiếp. Vụ tai nạn đã đành. Nhưng sau đó lại còn những việc xảy đến với Tammy và Kelley… thật kinh khủng. Bạn ấy thế nào rồi ạ?”

“Về Kelley à? Bọn chị vẫn chưa biết. Vẫn đang hôn mê.”

Một trong những người bạn cô bé đã nghe thấy và nói với đến, “Travis mua thứ khí độc đó trên mạng. Có vẻ là từ bọn Quốc xã mới.”

Sự thật? Hay tin đồn?

Dance nói, “Caitlin, cậu ấy biến mất rồi. Travis đang ẩn nấp đâu đó và bọn chị cần tìm cho ra trước khi cậu ấy lại gây thêm nhiều chuyện xấu nữa. Em biết cậu ấy rõ đến mức nào?”

“Không nhiều. Bọn em học chung một hay hai lớp. Thỉnh thoảng em lại bắt gặp bạn ấy ngoài sảnh. Chỉ có thế thôi.”

Đột nhiên cô bé giật mình hoảng hốt và đưa mắt nhìn vào mấy bụi cây gần đó. Một cậu con trai đang luồn lách trong bụi. Cậu ta nhìn quanh, cầm một quả bóng lên rồi lách qua các tán lá trở về lại sân bóng nằm phía bên kia.

“Travis thích em, đúng vậy không?” Dance tiếp tục hỏi.

“Không!” cô bé nói. Và Dance cho rằng con bé thực sự nghĩ vậy. Vì cô có thể đọc được từ cao độ giọng nói của đối phương, một trong số ít ỏi chỉ thị phát hiện nói dối có thể phân tích mà không cần đánh giá vạch ranh giới trước.

“Chỉ một chút thôi cũng không à?”

“Có thể là có. Nhưng rất nhiều cậu con trai… Chị cũng biết chuyện đó thế nào mà.”

Đôi mắt Caitlin liếc qua Dance một lượt – có nghĩa là: Bọn con trai có thể đã có cảm tình cả với chị nữa. Cho dù từ rất, rất lâu rồi.

“Em và cậu ấy có nói chuyện không?”

“Thỉnh thoảng về bài tập. Chỉ vậy thôi.”

“Có bao giờ cậu ấy đề cập đến bất cứ chỗ nào cậu ấy thích tới không?”

“Thực sự thì không. Không có gì cụ thể. Bạn ấy nói rất muốn đến vài chỗ. Hầu hết là ở gần bờ biển. Bờ biển gợi cho cậu ấy nhớ về một nơi nào đó trong trò chơi đã từng chơi qua.”

Việc Travis thích đại dương cũng là một điều đáng lưu tâm. Cậu ta có thể trốn tại một trong những khu công viên bên bờ biển. Point Lobos chẳng hạn. Trong điều kiện khí hậu dễ chịu của vùng này, thằng bé sẽ dễ dàng sống sót với một cái túi ngủ không thấm nước.

“Travis có thể đang ở cùng người bạn nào không?”

“Thực sự thì em cũng không biết rõ lắm về bạn ấy. Nhưng bạn ấy không có người bạn nào em từng nhìn thấy, không có ai giống như các bạn nữ của em và em. Có vẻ Travis hầu như thường xuyên ở trên mạng. Bạn ấy rất thông minh và biết nhiều thứ. Nhưng không giao lưu rộng rãi ở trường. Thậm chí cả vào giờ ăn trưa và kỳ tự học, Travis cũng chỉ ngồi bên ngoài với máy tính của mình. Nếu bắt được tín hiệu bạn ấy sẽ vào mạng ngay.”

“Em có sợ cậu ấy không, Caitlin?”

“À, có,” như thể đó là chuyện hiển nhiên vậy.

“Nhưng em đã không nói gì xấu về cậu ấy trên Bản tin Chilton hay các mạng xã hội khác, đúng không?”

“Không.”

Cái gì làm cô bé kích động đến thế? Dance không thể nắm bắt được cảm xúc của cô bé, có vẻ lúc này đang bị đẩy đến cực độ. Không chỉ đơn thuần là sợ hãi mà còn hơn thế. “Tại sao em không đăng bài viết nào về cậu ấy?”

“Em không đăng nhập vào đó. Chỗ đó chỉ toàn rác rưởi.”

“Vì em thấy ái ngại cho cậu ấy.”

“Vâng,” Caitlin bồn chồn mân mê một trong bốn cái hoa tai bên tai trái. “Bởi vì…”

“Sao cơ?”

Lúc này cô bé đang rất kích động. Vẻ căng thẳng bùng nổ. Hai mắt cô bé ướt nhòe. Caitlin thì thầm, “Bởi vì những gì đã xảy ra là lỗi của em.”

“Ý em là sao?”

“Vụ tai nạn. Đó là lỗi của em.”

“Kể tiếp đi, Caitlin.”

“Chị biết có một cậu con trai ở bữa tiệc không? Một anh chàng em có cảm tình. Mike D’Angelo.”

“Ở bữa tiệc?”

“Phải. Và anh ta hoàn toàn tảng lờ em. Luôn quấn lấy cô nàng đó, Brianna, xoa lưng cô ta, chị biết đấy. Ngay trước mặt em. Em muốn làm anh ta ghen, vậy là em tới bên Travis và nấn ná cạnh bạn ấy. Em đưa chìa khóa xe của em cho bạn ấy và nhờ đưa em về nhà ngay trước mặt Mike. Lúc đó em nói, à, hãy chở Trish và Vanessa về, sau đó cậu và mình có thể lang thang đi chơi.”

“Và em nghĩ làm thế sẽ khiến Mike ghen?”

Cô bé gật đầu, nước mắt giàn giụa. “Thật ngốc nghếch! Nhưng anh ta cư xử như đồ rác rưởi vậy, cợt nhả với Brianna,” hai vai cô bé gồng lên căng thẳng. “Đáng ra không nên thế. Nhưng em thấy bị tổn thương nặng nề. Nếu em không làm vậy, hẳn đã chẳng có gì xảy ra.”

Lời thú nhận này cho phép giải thích tại sao Travis lại lái xe tối hôm đó.

Tất cả chỉ để làm một cậu con trai khác ghen.

Những lời giải thích của cô bé cũng gợi ý tới một kịch bản hoàn toàn mới. Nhiều khả năng trên đường lái xe về Travis đã nhận ra cậu ta đang bị Caitlin lợi dụng, có thể cậu ta đã nổi giận vì cô bé có cảm tình với Mike. Liệu cậu ta có cố tình làm chiếc xe bị tai nạn? Giết người hay tự sát – một hành động bồng bột nhất thời – không phải chuyện chưa từng nghe tới trong tình yêu của giới trẻ.

“Vậy là bạn ấy nổi điên lên với em. Điều chị sẽ làm là cử một nhân viên cảnh sát tới bên ngoài nhà em.”

“Thật sao?”

“Đúng thế. Bây giờ các lớp học hè mới chỉ bắt đầu thôi, đúng không? Em vẫn chưa có bài thi nào sắp đến chứ?”

“Chưa. Bọn em mới bắt đầu thôi.”

“Vậy thì sao em không về nhà ngay bây giờ đi?”

“Chị nghĩ nên thế ạ?”

“Phải. Và ở yên trong nhà cho tới khi bọn chị tìm ra cậu ấy.” Dance ghi lại địa chỉ nhà cô bé. “Nếu em nhớ ra thêm điều gì – về nơi cậu ấy có thể đến – làm ơn hãy cho chị biết.”

“Tất nhiên rồi ạ,” cô bé cầm lấy danh thiếp của Dance. Cả hai cùng quay lại chỗ mấy người bạn của cô bé.

~*~

Tiếng sáo quena[1] buồn man mác của Jorge Cumbo, cùng nhóm nhạc Nam Phi Urubamba du dương bên tai Dance. âm nhạc giúp cô nhẹ nhõm. Cô cảm thấy chút tiếc rẻ khi lái vào trong bãi đỗ bệnh viện vịnh Monterey, đậu xe lại và dừng nhạc.

[1. Một loại sáo truyền thống của vùng Andes (Nam Mỹ).]

Chỉ chừng một nửa số người tham gia phản đối còn nán lại. Mục sư Fisk và tay vệ sĩ tóc đỏ của ông ta đều vắng bóng.

Rất có thể họ đang cố gắng lần tìm dấu vết của mẹ cô.

Dance bước vào trong bệnh viện.

Vài người y tá và bác sĩ đến bên tỏ vẻ thông cảm – có hai y tá đã khóc khi nhìn thấy con gái đồng nghiệp của họ.

Cô đi xuống cầu thang tới phòng người phụ trách an ninh. Trong phòng không có ai. Cô liếc mắt nhìn lên sảnh về phía khu Điều trị tích cực. Dance đi theo hướng đó và đẩy cửa bước qua.

Dance chớp mắt khi rẽ vào căn phòng nơi Juan Millar đã qua đời. Nó đã bị niêm phong bằng băng dính vàng của cảnh sát. Biển báo ghi “Cấm vào. Hiện trường tội ác”. Đây là tác phẩm của Harper, cô phẫn nộ thầm nghĩ. Một trò ngu ngốc. Tại đây chỉ có năm phòng Điều trị tích cực – ba phòng đang có bệnh nhân điều trị – và ông ta đã niêm phong một phòng lại? Sẽ thế nào nếu hai bệnh nhân nữa nhập viện? Rồi cô thầm nghĩ, hành động phạm tội diễn ra từ gần một tháng trước, và kể từ lúc đó có lẽ căn phòng đã tiếp nhận thêm một tá bệnh nhân khác, chưa kể đến việc được đội ngũ nhân viên nghiêm túc liên tục làm vệ sinh. Không thể còn bất cứ bằng chứng nào để thu thập.

Tất cả chỉ để tạo ấn tượng và quan hệ công chúng.

Cô quay đi.

Và gần như đâm sầm vào anh trai Juan Millar, Julio, người đã tấn công cô trước đó trong tháng.

Người đàn ông nước da ngăm ngăm, chắc nịch, mặc bộ vest sẫm màu đột ngột dừng lại, mắt hướng thẳng vào cô. Anh ta đang cầm một tập giấy tờ nằm xộc xệch trong tay trong khi nhìn Dance chằm chằm, chỉ cách cô hơn một mét.

Dance căng người cảnh giác, hơi lùi lại để dành cho mình thời gian lấy bình xịt hơi cay hoặc còng tay. Nếu anh ta xông tới cô lần nữa, cô đã sẵn sàng để tự vệ, cho dù cô có thể hình dung những gì giới truyền thông sẽ chế biến ra từ câu chuyện con gái của nghi phạm giết người vì lý do nhân đạo hành hung anh trai nạn nhân.

Nhưng Julio nhìn cô chằm chằm với ánh mắt kỳ cục đó – không hề có vẻ phẫn nộ hay căm ghét, mà gần như thú vị với sự ngẫu nhiên tình cờ khiến anh gặp cô. Anh ta thì thầm, “Mẹ cô… làm sao bà ta có thể làm vậy chứ?”

Những lời nói nghe có vẻ đã được tập dượt trước, như thể anh ta đã chờ đợi cơ hội để được nói ra chúng.

Dance định lên tiếng, song rõ ràng Julio không hề trông đợi một câu trả lời. Anh chậm rãi bước qua cánh cửa dẫn tới lối ra phía sau.

Và chỉ có vậy.

Không lời lẽ nghiệt ngã, không đe dọa, không bạo lực.

Làm sao mẹ cô có thể làm vậy?

Tim cô đập dữ dội sau cuộc đối đầu khó hiểu, Dance nhớ có lần mẹ cô từng nói Julio lúc trước đã ghé qua đây. Dance tự hỏi tại sao giờ này anh ta lại quay trở lại. Đưa mắt nhìn lần cuối cùng về dải băng dính của cảnh sát, Dance rời khỏi khu Điều trị tích cực và đi tới phòng của người phụ trách an ninh.

“Ồ, đặc vụ Dance,” Henry Bascomb vừa nói vừa chớp mắt.

Cô mỉm cười chào ông. “Họ đã cho dán băng dính căn phòng rồi à?”

“Cô đã quay lại chỗ đó?” Bascomb hỏi.

Dance lập tức nhận ra vẻ căng thẳng trong giọng nói và tư thế của ông. Người đàn ông đang suy nghĩ rất nhanh và trông không được thoải mái. Vì cái gì đây? Dance băn khoăn tự hỏi.

“Ý ông muốn nói là niêm phong?” cô lặp lại.

“Phải rồi, đúng thế, thưa quý cô.”

Quý cô? Dance thiếu chút nữa đã bật cười trước cách xưng hô khách sáo đột ngột. Cô, O’Neil, Bascomb và vài người bạn từng làm cảnh sát của ông ta mới cùng nhau uống bia và quesadilas dưới quán Fisher’s Wharf chỉ mấy tháng trước. Cô quyết định đi thẳng vào việc, “Tôi chỉ có một hay hai phút thôi, Henry. Tôi muốn tìm hiểu về vụ của mẹ tôi.”

“Bà ấy thế nào rồi?”

Dance đang nghĩ: Tôi cũng chẳng biết rõ hơn ông đâu, Henry. Cô nói, “Không tốt lắm.”

“Cho tôi gửi lời hỏi thăm bà.”

“Tôi sẽ chuyển lời. Còn bây giờ, tôi muốn xem danh sách nhân viên và sổ đăng ký ra vào để biết những ai có mặt tại bệnh viện khi Juan chết.”

“Hiểu rồi,” ông nói tiếp, “Nhưng vấn đề là tôi không thể.”

“Sao vậy, Henry?”

“Tôi được chỉ thị không để cô xem bất cứ thứ gì. Không giấy tờ nào. Thậm chí chúng tôi còn không được phép nói chuyện với cô.”

“Lệnh của ai vậy?”

“Ban quản lý,” Bascomb dè dặt nói.

“Và?” Dance tiếp tục gặng hỏi.

“Được rồi, là ông Harper, cái ông công tố viên đó. Ông ta nói chuyện với ban quản lý, và người quản lý nhân viên.”

“Nhưng đó là thông tin được phép tìm hiểu. Luật sư bào chữa cho bị can có quyền làm điều đó.”

“Ồ, tôi biết thế. Nhưng ông ấy nói để lấy được chúng cô cần thực hiện theo cách này.”

“Tôi không muốn lấy chúng. Chỉ xem qua thôi, Henry.”

Hoàn toàn không có gì bất hợp pháp với việc cô xem qua các giấy tờ, và hành động này xét cho cùng sẽ không ảnh hưởng gì đến vụ án vì nội dung của các sổ đăng ký và bản ký tên điểm danh cuối cùng kiểu gì cũng sẽ được công bố.

Khuôn mặt Bascomb cho thấy ông ta đang bị lâm vào thế khó xử ra sao. “Tôi hiểu. Nhưng tôi không thể. Trừ khi có trát đòi hầu tòa.”

Harper đã nói chuyện với người phụ trách an ninh nhằm một mục đích duy nhất: Để gây khó khăn cho Dance và gia đình cô.

“Tôi xin lỗi,” ông ngượng ngập nói.

“Không sao đâu, Henry. Ông ta có nói cho ông một lý do nào không?”

“Không,” ông nói ra câu trả lời quá nhanh, và Dance có thể dễ dàng thấy vẻ căm ghét trong mắt Bascomb, khác hẳn những gì cô biết về chuẩn mực trong ứng xử của ông.

“Ông ta nói gì, Henry?”

Một khoảng im lặng.

Dance cúi người về phía Bascomb.

Người phụ trách an ninh cúi mặt xuống. “Ông ta nói… ông ta nói không tin cô. Và ông ta không thích cô.”

Dance cố đưa ra nụ cười khá nhất cô có thể. “À, đó quả là một tin tốt, tôi cho là thế. Ông ta là người cuối cùng trên thế giới này tôi muốn nhận được sự tán thưởng.”

~*~

Lúc này đã năm giờ chiều.

Dance gọi về văn phòng khi ở bãi để xe của bệnh viện, và biết được quá trình truy lùng Travis Brigham chưa có tiến triển đáng kể nào. Lực lượng Tuần cảnh Xa lộ và văn phòng Sở Cảnh sát đang chỉ đạo cuộc tìm kiếm, tập trung vào những địa điểm quen thuộc trong vùng, các nguồn thông tin về những cuộc đào tẩu và những đối tượng vị thành niên đang lẩn trốn: trường học của cậu ta, đám bạn học và các khu mua sắm. Về mặt lý thuyết, việc phương tiện di chuyển của cậu thiếu niên bị giới hạn ở một chiếc xe đạp là một điều hữu ích, song vẫn chưa dẫn tới bất cứ manh mối nào.

Rey Carraneo đã tìm hiểu được rất ít từ những ghi chú và hình vẽ nguệch ngoạc của Travis, nhưng vẫn đang tiếp tục lần tìm trong đó những manh mối về nơi ẩn náu của cậu ta. TJ đang cố lần tìm nguồn gốc của chiếc mặt nạ, đồng thời gọi điện cho những người tham gia blog có nguy cơ trở thành nạn nhân. Kể từ lúc Dance biết được từ Caitlin chuyện Travis thích bờ biển, cô đã giao cho anh thêm nhiệm vụ liên lạc với ban quản lý các công viên, cảnh báo cho họ cậu ta có thể đang lẩn trốn đâu đó tại một trong hàng nghìn mẫu đất thuộc sở hữu của tiểu bang khu vực này.

“Vâng, thưa sếp,” Rey uể oải nói, không phải vì mệt mỏi mà đang ở tâm trạng vô vọng giống Dance.

Tiếp sau đó là cuộc trò chuyện với Jon Boling.

“Tôi đã nhận được máy tính của Travis. Vẫn người điều tra viên lúc trước, Reinhold, mang nó đến. Chắc anh ta biết phải làm gì khi nói về máy tính.”

“Cậu ta có vẻ sáng tạo đấy. Sẽ tiến xa. Anh đã có chút may mắn nào chưa?”

“Chưa. Travis rất thông minh. Cậu ấy không chỉ trông cậy đơn thuần vào việc bảo vệ nhờ mật khẩu. Một chương trình mã hóa có bản quyền nào đó đã khóa ổ cứng lại. Chúng ta có thể không bẻ khóa được nó, nhưng tôi đã gọi cho một đồng nghiệp ở trường. Nếu có ai đó có khả năng xâm nhập được vào trong, thì đó chính là người này.”

Hừm, Dance thầm nghĩ, thật là trung lập về giới: “đồng nghiệp” và “người này”. Dance dịch hai từ này thành “nữ nghiên cứu sinh trẻ trung, lộng lẫy, nhiều khả năng tóc vàng và rất hấp dẫn”. Boling nói thêm bằng thứ ngôn ngữ sặc mùi chuyên môn rằng một cuộc tấn công theo kiểu dùng sức mạnh thuần túy đang được triển khai thông qua đường truyền tín hiệu tới một siêu máy tính ở Đại học California – Santa Cruz. “Hệ thống có thể bẻ được mật mã trong vòng một giờ tới…”

“Thật sao?” cô hỏi đầy hy vọng.

“Hoặc, tôi đang định nói tiếp, trong vòng hai giờ hay ba trăm năm nữa. Còn tùy.”

Dance cảm ơn và bảo anh hãy quay về nhà nghỉ ngơi. Anh ta có vẻ thất vọng. Sau khi giải thích rằng bản thân không có kế hoạch nào cho tối hôm đó, anh nói sẽ tiếp tục tìm kiếm tên những người đăng bài có thể đang gặp nguy hiểm.

Việc tiếp theo của cô là tới nhà Martine đón các con mình rồi cả ba sẽ cùng đến nhà trọ nơi bố mẹ cô đang ẩn náu.

Trong lúc lái xe, cô hồi tưởng lại những biến cố xảy ra quanh cái chết của người cảnh sát trẻ Juan Millar, nhưng thực sự vào thời điểm đó, cô đã không chú ý mấy đến việc này. Cuộc truy lùng đòi hỏi mọi sự tập trung của cô: Daniel Pell – thủ lĩnh giáo phái, tên sát nhân và là kẻ lôi kéo kích động đầy nguy hiểm – cùng đối tác của gã – một người đàn bà cũng nguy hiểm không kém – đã lẩn trốn tại Bán đảo Monterey sau khi tay này trốn thoát, đồng thời tiếp tục săn đuổi, giết hại những nạn nhân mới. Dance và O’Neil đã nỗ lực không ngơi nghỉ để truy nã chúng. Chính vậy mà cái chết của Juan Millar đã không xuất hiện nhiều trong tâm trí cô, ngoài cảm giác ân hận nhói buốt về phần trách nhiệm, dù rất nhỏ, của bản thân trong bi kịch đó.

Nếu Dance đoán được mẹ mình có khả năng bị cuốn vào vụ việc, hẳn cô đã để tâm chú ý hơn.

Mười phút sau, Dance đậu xe trong bãi đỗ rải sỏi của nhà trọ. Maggie thốt lên, “Ái chà” rồi nhảy bật lên trên ghế ngồi trong lúc ngắm nghía xung quanh.

“Phải, tuyệt”, Wes reo lên dù có phần chừng mực hơn.

Căn phòng mang phong cách đồng quê kiểu cổ – một phần của Carmel Inn sang trọng – là một trong mười hai căn nằm tách biệt khỏi tòa nhà chính.

“Có một bể bơi!” Maggie reo lên. “Con muốn đi bơi.”

“Xin lỗi, nhưng mẹ quên mất đồ bơi của con rồi”, Dance thiếu chút nữa đã buột miệng nói bố mẹ cô có thể đưa hai đứa đi mua đồ bơi, nhưng rồi chợt nhớ họ không được lộ diện chỗ đông người – chừng nào mục sư Fisk và đám kền kền của ông ta còn đang lượn lờ khắp nơi. “Mai mẹ sẽ mang đến. Và, này, Wes, có một sân tennis. Con có thể chơi với ông ngoại.”

“Vâng.”

Ba mẹ con ra khỏi xe, Dance lấy va li của lũ trẻ mà cô đã chuẩn bị trước đó. Các con cô sẽ ở lại đây tối nay với ông bà ngoại của chúng.

Họ rảo bước theo lối đi hai bên có viền cây leo và những cây xương rồng họ Cảnh thiên thân lùn màu xanh lục.

“Ông bà ở phòng nào ạ?” Maggie hỏi, nhảy chân sáo theo lối đi.

Dance chỉ và cô bé lập tức chạy vụt lên trước thật nhanh. Con bé đến bên cửa phòng bấm chuông, rồi cánh cửa mở ra vừa đúng lúc Dance và Wes tới nơi. Edie mỉm cười với bọn trẻ rồi dẫn chúng vào trong.

“Bà ơi”, Maggie gọi, “Ở đây tuyệt quá!”

“Chỗ này rất đẹp. Vào đi cháu.”

Edie mỉm cười với Dance, trong khi cô cố đoán ý nghĩa của nó. Nhưng nụ cười đó chẳng chứa đựng lượng thông tin nhiều nhặn gì hơn so với một tờ giấy trắng.

Stuart ôm chầm lấy các cháu.

Wes hỏi, “Bà khỏe chứ ạ?”.

“Bà rất khỏe. Thế Martine và Steve thế nào?”

“Ổn cả ạ”, cậu bé đáp.

“Hai anh em sinh đôi và cháu đã dùng gối xây một ngọn núi”, Maggie nói. “Có cả hang động nữa.”

“Cháu phải kể cho bà nghe đấy nhé.”

Dance nhận ra bố mẹ cô đang có một vị khách. Vị luật sư bào chữa danh tiếng George Sheedy đứng dậy bước tới bắt tay Dance và chào hỏi bằng chất giọng nam trầm. Một chiếc cặp đang để mở trên mặt bàn cà phê kê ở khu vực tiếp khách của căn nhà, cạnh đó là những tờ giấy ghi chú màu vàng và tờ bản in được xếp thành chồng. Người luật sư chào hai đứa trẻ. Ông rất lịch sự, song từ cử chỉ và thái độ của ông, Dance có thể lập tức nhận ra cuộc trao đổi cô vừa làm gián đoạn rất nặng nề căng thẳng. Wes nhìn Sheedy ngờ vực.

Sau khi Edie đã lấy bánh kẹo ra thết đãi bọn trẻ, chúng đi tới một sân chơi.

“Ở bên cạnh em gái con đấy”, Dance ra lệnh.

“Vâng. Đi nào”, cậu bé nói với Maggie, hai đứa vừa tung hứng những hộp nước ép trai cây cùng bánh kẹo vừa rời đi. Dance liếc nhìn qua cửa sổ và nhận ra cô có thể nhìn thấy sân chơi từ đây. Bể bơi nằm sau một cánh cổng được khóa. Với lũ trẻ, cảnh giác bao nhiêu cũng không thừa.

Edie và Stuart quay lại ngồi xuống xa lông. Ba tách cà phê, hầu như chưa được đụng đến, nằm trên chiếc bàn gỗ thấp. Bà hẳn đã chuẩn bị chúng theo bản năng ngay khi Sheedy đến.

Sheedy hỏi về vụ án và cuộc truy lùng Travis Brigham.

Dance cung cấp những câu trả lời khá sơ sài, mà trên thực tế cũng là những gì tốt nhất cô có thể cung cấp.

“Còn cô đó, Kelley Morgan?”

“Có vẻ vẫn đang bất tỉnh.”

Stuart lắc đầu.

Chủ đề những vụ tấn công liên quan tới Cây thập tự ven đường được dẹp sang bên, rồi Sheedy đưa mắt nhìn Edie và Stuart, lông mày nhướng lên. Bố Dance nói, “Ông có thể nói cho con gái tôi. Bắt đầu đi. Tất cả.”

Sheedy giải thích, “Chúng tôi đang bàn xem kế hoạch trò chơi của Harper có vẻ sẽ như thế nào. Ông ta là một nhân vật rất bảo thủ, sùng đạo và được biết là người chống đối đạo luật Chết trong Nhân phẩm.”

Dự luật này liên tục gây ra sóng gió ở California. Giống như đạo luật ở Oregon, nó cho phép các bác sĩ được trợ giúp những người mong muốn kết thúc cuộc sống của họ. Tương tự phá thai, đây là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, và có sự phân hóa cao độ giữa phía ủng hộ và bên phản đối. Hiện tại ở California, nếu ai đó giúp một người tự sát, hành động đó bị coi là tội nghiêm trọng.

“Thế nên ông ta muốn dùng Edie làm gương. Vụ án không phải về việc trợ giúp tự sát – mẹ cô cho tôi biết Juan bị thương quá nặng để có thể tự đưa thuốc vào người mình. Nhưng Harper muốn gửi đi một thông điệp rằng tiểu bang sẽ đưa ra những hình phạt nghiêm khắc dành cho bất cứ ai giúp thực hiện một vụ tự sát. Ý của ông ta là: Đừng có ủng hộ đạo luật đó vì các công tố viên sẽ để mắt thực sự sát sao tới từng trường hợp. Chỉ cần đi một bước khỏi giới hạn và các bác sĩ hay bất cứ ai giúp người khác chết sẽ bị truy tố. Một cách nghiêm khắc.”

Giọng nói quen thuộc tiếp tục một cách nặng nề, hướng về phía Dance.

“Có nghĩa là ông ta sẽ không quan tâm tới việc thương lượng về lời biện hộ của bị cáo. Ông ta muốn có một phiên tòa và thực hiện một màn trình diễn lớn, hấp dẫn nhằm thu hút công chúng. Trong trường hợp cụ thể này, vì ai đó đã giết Juan, hành động trên là tội giết người.”

“Cấp độ một”, Dance nói. Cô biết rõ luật hình sự tới mức chẳng khác gì một số người thuộc lòng cuốn Niềm vui trong nấu ăn.

Sheedy gật đầu. “Vì hành động là có chủ đích và Millar là một nhân viên công lực.”

“Nhưng không phải trong hoàn cảnh đặc biệt,” Dance nói, nhìn vào khuôn mặt nhợt nhạt của mẹ cô. Hoàn cảnh đặc biệt sẽ cho phép tuyên án tử hình. Nhưng để áp dụng hình phạt đó, Millar cần phải đang thi hành công vụ vào thời điểm anh ta bị giết.

Sheedy nói vào đầy mỉa mai, “Cô có thể tin hay không cũng được, nhưng ông ta đang cân nhắc tới khả năng đó.”

“Bằng cách nào? Làm thế nào ông ta có thể?” Dance nóng nảy hỏi.

“Vì chính thức thì Millar chưa bao giờ báo cáo kết thúc nhiệm vụ.”

“Ông ta đang giở trò tiểu xảo như thế sao?” Dance gằn giọng, không giấu nổi vẻ ghê tởm.

“Harper có điên không vậy?” Stuart lẩm bẩm.

“Không, ông ta được thúc đẩy và tự cho mình là đúng. Một thứ còn kinh khủng hơn cả sự điên rồ. Ông ta sẽ có được màn quảng cáo tốt hơn với một án tử hình. Và đó là thứ ông ta muốn. Đừng lo, không thể có chuyện bà bị kết án giết người trong hoàn cảnh đặc biệt,” vị luật sư nói, quay sang phía Edie. “Song tôi nghĩ ông ấy sẽ bắt đầu với tội trạng này.”

Dẫu thế, giết người cấp độ một cũng đã đủ khủng khiếp. Như vậy có thể đồng nghĩa là hai mươi lăm năm tù cho Edie.

Ông nói tiếp, “Bây giờ, cho phần bào chữa của chúng ta, không thể biện minh hành động này có lý do chính đáng, nhầm lẫn hay tự vệ. Kết thúc nỗi đau đớn và thống khổ của nạn nhân sẽ là yếu tố được cân nhắc tới khi kết án. Nhưng nếu bồi thẩm đoàn tin bà cố ý kết thúc cuộc sống của anh ta, cho dù lý do của bà có nhân đạo đến đâu đi chăng nữa, họ cũng sẽ phải đưa ra phán quyết bà phạm tội giết người cấp độ một.”

“Vậy là việc biện hộ,” Dance nói, “sẽ dựa vào các dữ kiện thực tế”.

“Chính xác. Thứ nhất, chúng ta tấn công vào kết quả giải phẫu tử thi và kết luận về nguyên nhân tử vong. Kết luận của người phụ trách điều tra là Millar chết do van ống truyền morphin bị mở quá rộng và thuốc kháng histamin[2] đã bị cho thêm vào dịch truyền. Điều đó đã dẫn tới tình trạng suy hô hấp, và sau đó là trụy tim. Chúng ta sẽ tìm kiếm chuyên gia để nói rằng điều đó không đúng. Nạn nhân đã chết vì các nguyên nhân tự nhiên do bị bỏng nặng. Các loại thuốc không có liên quan gì.”

[2. Là một loại thuốc dùng để ngăn chặn tác dụng của một chất hoá học tự nhiên được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch có tên là histamine. Loại thuốc này được dùng nhiều nhất trong việc điều trị những triệu chứng dị ứng, đặc biệt là sốt cỏ khô, và những phản ứng do bị cắn hay bị đốt.]

“Thứ hai, chúng ta khẳng định Edie không hề làm việc đó. Người nào khác đã đưa thuốc vào người nạn nhân, có thể với ý định để nạn nhân chết, có thể do nhầm lẫn. Chúng ta mong muốn tìm ra những người có thể đã hiện diện quanh nơi xảy ra vụ án – một người nào đó có khả năng đã trông thấy hung thủ. Hoặc ai khác rất có thể chính là thủ phạm. Về chuyện này thì thế nào, Edie? Có bất cứ ai ở gần khu Điều trị tích cực vào khoảng thời gian Juan chết hay không?”

Bà trả lời, “Có một số y tá ở đó. Ngoài ra không còn ai khác. Gia đình cậu ta đã về. Và không có người nào tới thăm.”

“Được rồi, tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu việc này,” gương mặt Sheedy trở nên nghiêm trọng. “Còn bây giờ, chúng ta bàn tới rắc rối lớn nhất. Thứ thuốc được thêm vào dịch truyền tĩnh mạch là diphenhydramin.”

“Loại thuốc kháng histamine,” Edie nói.

“Khi cảnh sát tới khám nhà bà, họ tìm thấy một lọ biệt dược của diphenhydramin. Lọ thuốc đã rỗng không.”

“Cái gì?” Stuart sững sờ.

“Cái lọ được tìm thấy trong gara, giấu dưới mấy tấm giẻ lau.”

“Không thể nào.”

“Và một xi lanh có vết morphin đã khô trên đó. Cùng loại morphin có trong ống truyền tĩnh mạch của Juan Millar.”

Edie lắp bắp, “Tôi không để nó ở đó. Tất nhiên tôi không làm thế.”

“Chúng ta đều biết vậy mà mẹ.”

Ông nói thêm, “Có vẻ không hề có dấu vân tay hay dấu vết đáng kể nào.”

Dance nói, “Thủ phạm đã sắp đặt chúng.”

“Đó là điều chúng ta sẽ cố gắng chứng minh. Hoặc người đó đã cố ý giết Millar, hoặc gây ra chuyện này do nhầm lẫn. Dù là trường hợp nào đi nữa, thủ phạm đã giấu lọ thuốc và xi lanh vào ga ra của ông bà để tránh tội.”

Edie cau mày. Bà nhìn sang con gái. “Chắc con còn nhớ hồi đầu tháng, ngay sau khi Juan chết, mẹ có nói với con mẹ nghe thấy tiếng động bên ngoài. Tiếng động đó vọng lại từ ga ra. Mẹ dám cược có người đã vào trong.”

“Đúng thế,” Dance đồng ý, cho dù cô không thực sự nhớ nổi chuyện này – khi ấy cuộc truy lùng Daniel Pell đã chiếm hết tâm trí cô.

“Tất nhiên…” Dance đột nhiên im lặng.

“Cái gì?”

“Thế này nhé, có một việc chúng ta cần thực hiện. Con đã cử một cảnh sát tới thăm dò bên ngoài ngôi nhà của gia đình họ để đảm bảo an ninh. Harper sẽ muốn biết tại sao anh ta không nhìn thấy bất cứ điều gì.”

“Hoặc,” Edie chen vào, “chúng ta cần tìm ra xem anh ta có thấy kẻ xâm nhập hay không.”

“Đúng thế”, Dance hối hả nói. Cô cho Sheedy biết tên người cảnh sát.

“Tôi cũng sẽ kiểm tra chuyện đó”, ông ta nói thêm, “Điều duy nhất còn lại chúng ta có là một báo cáo rằng bệnh nhân đã nói với bà, ‘Hãy giết tôi đi’. Và bà đã kể lại cho vài người. Có nhân chứng về việc này.”

“Đúng thế”, Edie nói, nghe có vẻ thủ thế, đôi mắt bà đưa sang nhìn Dance.

Đột nhiên cô có một ý nghĩ khủng khiếp: Liệu cô có bị gọi ra làm chứng chống lại mẹ mình không? Cô cảm thấy thực sự buồn nôn trước ý nghĩ đó. Dance lạc giọng, “Nhưng mẹ tôi không hề nói với ai về việc bà thực sự có ý định giết một người nào đó.”

“Phải. Nhưng hãy nhớ, Harper đang tìm cách làm to chuyện, chứ không cần sự hợp lý. Một lời viện dẫn như thế… Thôi được, hãy hy vọng Harper không tìm ra chi tiết này.”

Ông đứng dậy. “Khi tôi có được hồi đáp từ các chuyên gia và những chi tiết trong báo cáo khám nghiệm tử thi, tôi sẽ cho gia đình cô biết. Còn câu hỏi nào nữa không?”

Khuôn mặt Edie cho thấy rõ ràng, có, bà đang có cả nghìn câu hỏi. Nhưng rồi bà chỉ lắc đầu.

“Tình hình không phải là vô vọng, Edie. Bằng chứng tìm thấy trong ga ra quả thực đáng lo ngại, nhưng chúng ta sẽ làm tốt nhất có thể với điều đó”, Sheedy thu dọn giấy tờ của ông, sắp xếp lại rồi cho vào cặp. Ông bắt tay từng người và dành cho tất cả họ những nụ cười động viên. Stuart tiễn ông ta ra cửa, sàn nhà kêu cót két dưới sức nặng của ông.

Dance cũng đứng dậy. Cô nói với mẹ, “Mẹ có chắc bọn trẻ sẽ không làm mẹ mệt quá không? Con có thể đưa hai đứa quay lại chỗ Martine.”

“Không, không. Mẹ đã rất mong được gặp các cháu.” Bà mặc vào người một chiếc áo nỉ. “Mà thực ra, mẹ nghĩ mẹ sẽ ra thăm thú bên ngoài một chút.”

Dance ôm lấy mẹ cô trong giây lát, cảm thấy đôi vai bà căng cứng. Trong một khoảnh khắc lúng túng, hai người phụ nữ nhìn thẳng vào mắt nhau. Sau đó Edie bước ra ngoài.

Dance cũng ôm hôn bố cô. “Mai bố mẹ đến ăn tối cùng con nhé?” cô hỏi ông.

“Để chúng ta xem sao đã.”

“Thật đấy. Sẽ rất tốt. Cho mẹ, cho bố, cho mọi người.”

“Bố sẽ nói chuyện với mẹ con.”

Dance quay trở lại văn phòng, tại đây cô dành vài giờ đồng hồ tiếp theo điều phối lực lượng giám sát tại nhà những người có thể trở thành nạn nhân và nơi ở của gia đình Brigham, triển khai nhân lực tốt nhất có thể. Và chỉ huy cuộc săn lùng vô vọng nhằm tìm ra Travis, một đối tượng đã chứng tỏ cậu ta cũng vô hình chẳng kém gì khối chuỗi điện tử đã tạo nên những thông điệp đầy ác ý, đẩy bản thân vào cuộc hành trình chết chóc của chính mình.

~*~

Thư giãn.

Dance dừng xe trước nhà mình ở Pacific Grove lúc mười một giờ đêm, cảm thấy tâm trạng khá nhẹ nhõm. Sau ngày dài, thật dài, vừa trải qua, cô thực sự mừng khi được trở về nhà.

Ngôi nhà theo phong cách Victoria cổ điển có màu lục sẫm với những lan can xám, những cánh cửa chớp và bờ rào cây xén tỉa gọn ghẽ – nằm ở khu tây bắc Pacific Grove; nếu đúng thời điểm trong năm, gió và suy nghĩ của bạn về việc tựa người trên một hàng rào lung lay trùng hợp với nhau, bạn có thể nhìn thấy đại dương.

Cô bước vào trong lối đi nhỏ, bật đèn lên và khóa cửa lại. Hai con chó lao ra chào đón cô. Dylan, giống chăn cừu Đức có bộ lông đen pha nâu vàng, và Patsy, một cô ả kiêu kỳ thuộc giống chó săn có bộ lông mượt mà. Chúng được đặt lần lượt theo tên người sáng tác nhạc rock vĩ đại nhất và ca sĩ nhạc đồng quê xuất sắc nhất trong một trăm năm qua.

Dance kiểm tra email, không có tiến triển mới nào trong cuộc điều tra. Cô vào bếp – một nơi rộng rãi nhưng được trang bị những dụng cụ từ một thập kỷ khác – rót một ly rượu vang và bắt tay vào tìm kiếm chút đồ ăn còn lại, lựa chọn nửa chiếc sandwich kẹp gà tây chưa nằm trong tủ lạnh quá lâu.

Cô cho hai con chó ăn, rồi thả chúng ra phía sau. Nhưng đúng lúc định quay lại chỗ máy tính, cô giật mình trước những âm thanh ồn ào giận dữ của chúng, vừa sủa váng lên vừa lao xuống cầu thang. Lũ chó vẫn thỉnh thoảng có phản ứng này khi một con sóc hay một chú mèo vô tình muốn ghé thăm ngôi nhà. Song chuyện đó hiếm khi xảy đến vào thời gian này trong đêm. Dance để ly rượu vang xuống, nắm lấy báng khẩu Glock của cô, và bước ra ngoài hiên.

Cô há hốc miệng sững sờ.

Một cây thập tự nằm trên mặt đất cách ngôi nhà chừng mười hai mét.

Không!

Dance rút súng ra, vớ lấy một cây đèn pin, gọi hai con chó lại bên mình và chiếu luồng sáng xuống sân sau. Đó là một không gian hẹp, nhưng dài tới mười lăm mét với chi chít hoa mặt khỉ, thích và những cây sồi nhỏ, rồi cả cúc tây, đậu lupine, khoai lang cảnh, cỏ ba lá và cả những mầm cỏ hoang nổi loạn. Những loài thực vật duy nhất có thể sinh sôi phát triển trên đất cát và bóng râm.

Cô không thấy ai, cho dù vẫn còn những nơi kẻ xâm nhập có thể náu mình để không bị trông thấy từ trên hiên.

Dance hối hả bước xuống cầu thang, tiến vào màn đêm lờ mờ tối, nhìn quanh về phía cả chục chiếc bóng của những cành cây đang ngả nghiêng không ngừng lay động trong gió.

Cô dừng lại, sau đó chậm rãi bước đi, mắt dõi theo các lối mòn và hai con chó, lúc này đang lần quanh sân, tỉnh táo, cảnh giác.

Bộ dạng bồn chồn, căng thẳng của chúng và những túm lông cổ dựng đứng lên của Dylan trông thật bất an.

Cô từ từ tiến lại chỗ góc sân. Vừa đi vừa tìm kiếm chuyển động, lắng nghe tiếng bước chân. Đến khi không nghe hay nhìn thấy bất cứ dấu hiệu nào của kẻ xâm nhập, Dance chiếu đèn pin xuống đất.

Vật đó dường như là một cây thập tự, nhưng khi lại gần, Dance không thể đoán chắc nó đã được để lại có chủ ý hay do những cành cây rơi xuống tạo thành. Nó không được buộc lại bằng dây và cũng chẳng có bông hoa nào ở cạnh. Nhưng cổng sau chỉ cách chỗ này vài mét, dẫu cho đã được khóa thì một cậu nhóc mười bảy tuổi vẫn dễ dàng trèo qua.

Cô nhớ là Travis Brigham biết tên cô. Và có thể dễ dàng tìm ra nơi cô sống.

Dance chậm rãi bước một vòng quanh cây thập tự. Có phải bên cạnh là những dấu chân lưu lại sau khi giẫm lên cỏ không? Cô không thể chắc chắn.

Việc không chắc chắn thậm chí còn bất an gấp bội nếu cây thập tự bị bỏ lại đó là một lời đe dọa. Dance trở lại nhà, nhét súng vào bao đựng.

Cô khóa cửa rồi đi vào phòng khách, nơi đầy ắp những món đồ cũng lộn xộn chẳng kém gì nhà Travis Brigham, nhưng đẹp đẽ và mang lại cảm giác ấm cúng hơn. Không có sự hiện diện của da hay chrom, phần lớn chúng được bọc vải có màu nâu đỏ nhạt hay màu đất. Tất cả đều được gom từ những lần đi mua sắm cùng người chồng quá cố của cô. Dance gieo mình xuống sô-pha và nhận thấy mình có một cuộc gọi nhỡ. Cô hối hả đăng nhập nhật ký cuộc gọi. Đó là Jon Boling, không phải mẹ cô. Boling thông báo “đồng nghiệp” của anh vẫn chưa gặp may trong việc bẻ mật mã. Chiếc siêu máy tính sẽ chạy cả đêm, và anh sẽ cho Dance biết tiến triển vào buổi sáng. Hoặc cô có thể gọi lại nếu muốn. Anh sẽ thức đến tận khuya.

Dance do dự – cảm thấy bị thôi thúc cần gọi lại – nhưng sau đó quyết định để đường dây được rảnh phòng trường hợp mẹ cô liên lạc. Một lát sau, cô gọi tới MCSO, gặp được người thanh tra trực ban và đề nghị đội Điều tra Hiện trường tới lấy cây thập tự. Cô nói cho người thanh tra biết vị trí của nó. Ông này cho biết sẽ cử người tới vào buổi sáng.

Gọi điện xong, Dance bật vòi hoa sen lên tắm. Bất chấp làn nước nóng nghi ngút hơi, cô vẫn thấy ớn lạnh, vì một hình ảnh thật không may cứ nhất định lởn vởn bám rễ lại trong tâm trí cô: Chiếc mặt nạ tìm thấy tại nhà Kelley Morgan, đôi mắt đen ngòm, cái miệng bị khâu kín mít.

Khi Dance lên giường, khẩu Glock được để cách cô gần một mét, trên mặt bàn đầu giường, tháo sẵn ra khỏi bao và được lắp một băng đạn và một viên “trong buồng ngủ” – nghĩa là đã lên nòng.

Cô nhắm mắt lại, nhưng cho dù mệt rã rời, cô vẫn không tài nào ngủ được.

Không phải cuộc truy đuổi Travis Brigham khiến cô trằn trọc, cũng chẳng phải lần kinh hoàng trước đó hay chiếc mặt nạ đáng nguyền rủa kia.

Không, những từ ngữ đơn giản của Edie cứ không ngừng quay cuồng trong đầu cô mới chính là nguyên nhân chủ yếu.

Chính câu trả lời của mẹ cô khi Sheedy hỏi về nhân chứng ở khu Điều trị tích cực vào buổi tối Juan Millar bị giết.

Có một số y tá ở đó. Ngoài ra không còn ai khác. Gia đình cậu ta đã về. Và không có ai tới thăm.

Dance không nhớ chắc chắn, nhưng gần như có thể khẳng định khi cô kể về cái chết của người cảnh sát trẻ với mẹ cô ngay sau khi chuyện này xảy ra, Edie đã vô cùng ngạc nhiên trước tin đó. Bà nói với cô rằng tối hôm đó bà rất bận tại khoa điều trị của mình nên đã không xuống khu Điều trị tích cực.

Nếu mẹ cô không có mặt ở khu Điều trị tích cực tối đó như đã nói, vậy thì làm sao bà có thể chắc chắn về việc nó hoàn toàn vắng vẻ đến thế?

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN