Papillon - Người Tù Khổ Sai - Chương 21: Một người Ả Rập và đàn kiến
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
124


Papillon - Người Tù Khổ Sai


Chương 21: Một người Ả Rập và đàn kiến


Trong phòng giam này có hai người rất trầm lặng, không bao giờ nói chuyện với ai. Lúc nào cũng dính chặt vào nhau, họ chỉ nói chuyện riêng với nhau, và nói nhỏ đến nỗi không ai có thể nghe thấy gì được. Một hôm, được Sierra đem cho một bao thuốc lá Mỹ, tôi cho một trong hai người một điếu. Hắn cảm ơn tôi rồi nói:

– Francois Sierra là bạn anh phải không?

– Phải, đó là người bạn tốt nhất của tôi.

– Có lẽ một ngày kia, nếu mọi sự hỏng hết, chúng tôi sẽ nhờ anh ấy chuyển gia tài của chúng tôi cho anh.

– Gia tài gì thế?

– Tôi và bạn tôi đã quyết định là nếu bị đưa lên máy chém, chúng tôi sẽ chuyển plan của chúng tôi cho anh để anh dùng nó mà vượt ngục lần nữa.

– Hai anh nghĩ là sẽ bị xử tử à?

– Điều đó gần như chắc chắn, chúng tôi rất ít khả năng thoát khỏi.

– Nếu việc xử tử các anh đã chắc đến như vậy, sao họ lại để các anh trong phòng giam chung này?

– Tôi nghĩ là họ sợ chúng tôi tự tử nếu được giam xà-lim riêng.

– À phải, có thể như thế. Thế các anh đã làm gì mà bị xử tử?

– Chúng tôi đã cho một đàn kiến ăn thịt một thằng Ả-rập. Việc này tôi nói ra là vì họ có bằng chứng không thể chối cãi được. Chúng tôi đã bị bắt quả tang.

– Việc xảy ra ở đâu?

– Ở Cây số 42, ở trại tử thần cạnh vịnh Sparouine.

Bạn anh ta đã đến cạnh chúng tôi, đó là một người Toulouse. Tôi cho anh ta một điếu thuốc lá Mỹ. Anh ta ngồi xuống bên cạnh bạn, trước mặt tôi.

– Chúng tôi chưa bao giờ hỏi ý kiến ai cả, – người mới đến nói, – nhưng tôi rất muốn biết anh nghĩ về chúng tôi như thế nào.

– Anh bảo làm sao tôi có thể nói được, trong khi tôi chưa biết gì hết, về vấn đề các anh đúng hay sai khi cho kiến ăn một con người đang sống, dù là một người “giữ chìa khóa” Ả-rập? Muốn có ý kiến, tôi phải biết hết sự việc từ A đến Z.

– Để tôi kể cho anh nghe, — người Toulouse nói. Trại Cây số 42, Saint-Laurent bốn mươi hai cây số, là một trại lâm nghiệp. Ở đấy tù khổ sai phải đẵn mỗi ngày một mét khối gỗ cứng. Đến chiều anh phải đứng cạnh chỗ gỗ anh đã đẵn và xếp gọn lại. Bọn giám thị, có bọn giữ chìa khóa người Ả-rập đi theo, vào tận nơi ở trong rừng để kiểm tra xem anh đã đạt chỉ tiêu chưa. Nếu được coi là đạt, mỗi khối gỗ được đánh dấu bằng sơn đỏ, sơn xanh hay vàng, tùy từng ngày. Họ chấp nhận nếu mỗi thanh gỗ đều là gỗ cứng. Để làm việc tốt hơn, hai người lập thành một kíp. Nhiều khi chúng tôi không thể đạt chỉ tiêu được. Những lúc ấy tối về họ nhốt chúng tôi vào xà-lim không cho ăn, và sáng hôm sau, vẫn phải nhịn đói, chúng tôi lại bị đưa đi làm việc: ngày hôm ấy, ngoài chỉ tiêu bình thường ra còn phải làm thêm để bù cho gỗ thiếu hôm quạ Cứ cái đà ấy thì chẳng bao lâu mà chết vì kiệt sức. “Với cái tình trạng này, chúng tôi mỗi ngày một yếu đi và càng ít khả năng làm đủ chỉ tiêu. Thêm vào đấy, người ta cắt cho chúng tôi một tên gác riêng không phải là giám thị, mà là một thằng Ả-rập. Hắn đi với chúng tôi ra công trường, tìm chỗ ngồi thật thoải mái, cái roi [bad word] bò đặt giữa háng, mồm không ngớt chửi mắng chúng tôi. Khi ăn, hắn nhai chóp chép thật to để cho chúng tôi thèm. Nói tóm lại là một sự hành hạ liên tục. Chúng tôi có hai cái plan mỗi cái đựng ba ngàn frances, để dùng khi vượt ngục. Một hôm chúng tôi quyết định mua gã Ả-rập. Bấy giờ tình thế càng tệ hơn. Cũng may là từ trước tới nay hắn vẫn tưởng hai chúng tôi chỉ có một plan. Phương sách của hắn rất giản dị: chẳng hạn đưa cho hắn năm mươi francs thì hắn cho chúng tôi đến các khối gỗ đã được duyệt hôm trước, lấy trộm những thanh gỗ không dính sơn để thêm vào khối gỗ của ngày hôm ấy. Cứ như thế, lần thì năm mươi francs, lần thì một trăm, hắn đã bòn được của chúng tôi gần hai ngàn francs. “Thấy chúng tôi đã bắt đầu đạt được chỉ tiêu, họ rút thằng Ả-rập về. Nghĩ rằng hắn sẽ không tố giác chúng tôi vì đã bòn được của chúng tôi một số tiền lớn như vậy, chúng tôi tiếp tục lấy cắp gỗ ở các khối đã duyệt để thêm vào khối gỗ chỉ tiêu hàng ngày như khi còn thằng Ả-rập. Một hôm hắn ngấm ngầm theo dõi chúng tôi từng bước, để xem chúng tôi có lấy cắp gỗ không. Rồi hắn bỗng lộ mặt ra: “À! à. Vẫn lấy cắp gỗ mà không chịu trả tiền cho tao? Nếu mày không đưa tao năm trăm francs, tao sẽ tố giác”. Nghĩ rằng hắn chỉ dọa thế thôi, chúng tôi từ chối. Hôm sau hắn lại trở lại:

– Trả tiền đi không thì tối nay mày vào xà-lim.

Chúng tôi lại từ chối.

Đến chiều hắn trở lại có mấy tên lính đi theo. Thật kinh khủng, Papillon ạ! Sau khi lột trần truồng chúng tôi ra, họ dẫn tôi đến những khối gỗ mà chúng tôi đã lấy bớt, rồi bắt chúng tôi chạy về tháo tung các khối mới xếp được rồi lại chạy ra xếp gỗ vào những khối bị lấy bớt, còn chúng nó thì chạy theo sát gót chúng tôi, tên Ả-rập luôn tay quất roi [bad word] bò vào người chúng tôi. Cuộc “corrida” này kéo dài hai ngày, chẳng ăn uống gì hết. Mỗi lần chúng tôi ngã xuống, tên Ả-rập lại đá vào người hay dùng roi [bad word] bò quất chúng tôi túi bụi. Cuối cùng chúng tôi nằm ì ra đất, vì không còn sức đâu mà gượng dậy được nữa. Anh có biết nó làm thế nào để bắt chúng đứng dậy không? Nó đã lấy một cái tổ ong lửa, một loại ong vò vẽ hoang ở trong khu rừng này. Nó chặt cái cành có một bầy ong làm tổ và chà cái cành ấy lên người chúng tôi. Đau đến phát điên lên được, không những chúng tôi đứng dậy mà còn chạy như điên. Anh thừa biết ong vò vẽ đốt đau như thế nào. Thế mà mỗi chúng tôi bị đến năm sáu chục con đốt, anh cứ tưởng tượng xem. Ong lửa đốt đau nhức ghê gớm, còn hơn cả ong vò vẽ. Họ giam xà-lim, bắt chúng tôi ăn bánh mì chấm nước lã mười ngày liền, không chữa chạy gì hết. Chúng tôi đã bôi nước đái lên các vết đốt, nhưng vẫn bỏng rát suốt ba ngày liên tục. Tôi mù mất con mắt trái vì nó đến một chục con ong lửa bâu vào đấy. Khi họ cho chúng tôi trở về trại, các phạm nhân khác quyết định giúp chúng tôi. Mỗi người chia cho chúng tôi một thanh gỗ cứng có kích thước thống nhất. Gộp lại cũng được một khối, thành thử cả hai chúng tôi chỉ còn phải cắt một khối nữa thôi. Trong tình trạng của chúng tôi lúc bấy giờ, cắt được một khối cũng hết sức vất vả. Nhưng chúng tôi đã cắt được. Dần dà, chúng tôi cũng đã lấy lại sức. Chúng tôi đã cắt rất nhiều. Rồi cũng do sự tình cờ mà chúng tôi nảy ra cái ý trả thù tên Ả-rập bằng một đàn kiến. Trong khi đi tìm gỗ cứng, chúng tôi phát hiện một cái tổ kiến ăn thịt rất lớn trong một bụi rậm, đang ăn thịt một con hoẵng to bằng con dê. Thằng Ả-rập vẫn đi tuần để kiểm tra công việc chặt gỗ. Một hôm chúng tôi dùng cán rìu đánh vào đầu cho hắn ngất đi, rồi kéo lê hắn đến cạnh cái tổ kiến. Chúng tôi lột trần hắn ra và để hắn nằm thành hình cung quanh một góc cây, chân tay trói chặt vào gốc cây bằng những sợi thừng lớn dùng để buộc gỗ. Chúng tôi dùng rìu cửa đứt mấy chỗ trên người hắn. Chúng tôi lại nhét cỏ vào đầy mồm hắn để hắn không thể kêu được, rồi lấy khăn buộc chặt ra ngoài. Xong đâu đấy chúng tôi đứng đợi. Đàn kiến chỉ bắt đầu tấn công khi chúng tôi thọc một cái gậy vào tổ kiến và lay mạnh cho kiến rơi xuống người tên A-rập. Sự việc chẳng kéo dài được bao lâu. Một nửa giờ sau hàng ngàn kiến đã bâu lên tên Ả-rập. Anh bao giờ trông thấy loài kiến ăn thịt chưa?

– Chưa, chưa bao giờ. Tôi có thấy loại kiến đen rất lớn.

– Loài kiến này thì nhỏ li ti mà màu đỏ như máu. Chúng giật những mảnh thịt nhỏ xíu và tha về tổ. Nếu chúng tôi đã bị đau vì ong đốt, anh thử tưởng tượng hắn đã phải đau đớn như thế nào khi bị hàng ngàn con kiến như thế rứt thịt từng tí một trong khi còn sống. Cơn hấp hối của hắn đã kéo dài trọn hai ngày và một buổi sáng. Sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ, hắn không còn mắt nữa. Tôi thừa nhận rằng hai đứa chúng tôi đã tàn nhẫn trong cách trả thù, nhưng phải thấy rõ bản thân hắn đã tàn bạo đối với chúng tôi đến mức nào. Chúng tôi không chết cũng là chuyện thần kỳ. Dĩ nhiên người ta đi tìm tên Ả-rập khắp nơi, và bọn giữ chìa khóa Ả-rập khác, cũng như bọn lính gác, đều nghi ngờ rằng chúng tôi không phải không liên quan gì đến việc hắn mất tích. Trong một bụi rậm khác, mỗi ngày chúng tôi đào một ít để có một cái lỗ dùng để chôn xác hắn. Họ vẫn chưa biết gì về tên Ả-rập, thì một hôm có tên lính gác trông thấy chúng tôi đang đào lỗ. Đến hôm sau, khi đi làm hắn đi theo chúng tôi để xem thử chúng tôi làm gì. Chính vì thế mà chúng tôi bị lộ. Sáng hôm ấy, khi đến nơi làm việc, chúng tôi cởi dây trói thằng A-rập vẫn còn đầy kiến nhưng gần như chỉ còn xương, và trong khi chúng tôi đang lôi nó về phía cái hố (chúng tôi không khiêng nó được vì sợ bị kiến đốt đến trọng thương), chúng tôi bị ba tên Ả-rập giữa chìa khóa và hai tên giám thị bắt gặp. Họ đã nấp kín đợi một cách kiên nhẫn cho đến khi chúng tôi chôn nó. Thế đấy! Chúng tôi một mực khai rằng đã giết hắn chết rồi mới cho kiến ăn. Lời buộc tội căn cứ vào biên bản của bác sĩ pháp y nói rằng không thấy có một vết thương nào chết người trên mình hắn: người ta khẳng định rằng chúng tôi đã cho kiến ăn hắn trong khi hắn còn sống. Người lính canh được phân làm trạng sư cho chúng tôi theo tập quán xử án ở đây có nói với chúng tôi rằng nếu câu chuyện của chúng tôi được chấp nhận thì chúng tôi có thể thoát chết. Nếu không, có thể nắm chắc án tử hình. Nói thật, chúng tôi rất ít hy vọng. Chính vì thế mà tôi và bạn tôi đã chọn anh làm người thừa hưởng gia tài mà không nói cho anh biết.

– Ta hãy hy vọng rằng tôi sẽ không thừa hưởng gia tài của các anh, tôi thành tâm cầu mong như vậy.

Chúng tôi châm thuốc hút, và tôi thấy họ nhìn tôi có ý chờ đợi tôi nói rõ ý kiến của mình.

– Tôi biết hai anh đang đợi tôi nói rõ cách phán xét của tôi về trường hợp của hai anh, với tư cách một con người, như hai anh đã yêu cầu trước khi kể chuyện. Xin hỏi một câu cuối cùng – điều này sẽ không có ảnh đối với kết luận của tôi: số đông trong phòng này nghĩ thế nào, và tại sao hai anh không nói chuyện với ai cả?

– Số đông nghĩ rằng chúng tôi phải giết hắn, nhưng không nên để kiến ăn sống hắn. Còn sở dĩ chúng tôi im lặng không nói chuyện với ai là vì trước đây có một cơ hội vượt ngục bằng cách nổi loạn, thế mà họ không chịu làm.

– Bây giờ tôi xin nói ý kiến của tôi. Các anh trả lại gấp trăm những gì mà hắn đã làm cho các anh là đúng: cái vụ tổ ong lửa không thể nào tha thứ được. Nếu các anh lên máy chém, đến phút cuối cùng các anh hãy nghĩ thật tập trung về một điều duy nhất: Họ sắp chặt đầu tôi, việc này sẽ kéo dài ba mươi giây kể từ khi trói tay, đẩy vào cái cùm cổ cho đến khi lưỡi dao sập xuống. Còn hắn đã hấp hối trong sáu mươi tiếng đồng hồ. Tôi là người thắng cuộc”. Về phần có liên quan đến những người trong phòng này, tôi không biết các anh có đúng không, vì hồi ấy các anh tin rằng một cuộc nổi loạn vào hôm ấy có thể đưa đến cuộc vượt ngục chung, còn những người khác thì có thể không nghĩ như vậy. Mặt khác, trong một cuộc nổi loạn bao giờ người ta cũng có thể bị đặt vào tình thế phải giết người một cách bất đắc dĩ. Thế nhưng trong tất cả những người ở đây chỉ có hai anh và anh em Graville là có nguy cơ bị xử tử. Các bạn ạ, mỗi tình thế cá biệt đều đưa đến những phản ứng khác nhau, nhất định là như thế.

Thỏa mãn với buổi nói chuyện, hai con người đáng thương ấy lui về chỗ và lại bắt đầu sống trong sự im lặng mà họ vừa phá vỡ trong chốc lát để nói chuyện với tôi.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN