Mộng Thấy Sư Tử
Chương 7: Biển lớn vô tình
Lúc cho con hamster Chít Chít ăn, Quan Cửu mới nhớ ra hôm nay lại quên mua bánh mì mới cho đám sâu rồi.
Cô ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, phát hiện ra trước mặt Tiểu Phất Điệp đặt một cái túi bên trong có mẩu bánh mì buổi sáng chưa ăn hết.
Cô đi qua dùng hai đầu ngón tay nhón lấy túi bánh mì, vươn tay kia ra nhéo một cái lên mặt Tiểu Phất Điệp, nói: “Bảo bối, bữa trưa chị mời cưng, túi bánh mì này cho chị nhé.”
Tiểu Phất Điệp nhe răng ôm lấy tay mình, “xoạt” cái nổi da gà khắp người, dựng ngón tay chỉ lên trời thề độc: “Gớm quá đi, sau này còn mua bánh mì nữa em sẽ tăng thêm mười cân.”
Quan Cửu nguýt Tiểu Phất Điệp một cái. Cô mở một cái hộp nhỏ đặt trên chỗ ngồi của mình ra, bên trong lít nha lít nhít một đống sâu trắng ngọ nguậy. Bánh mì vừa thả vào, đám sâu đã uốn éo động thân chen nhau bu lấy. Quan Cửu chọn ra ba bốn con đem cho Chít Chít ăn.
Bỏ mẩu bánh mì sâu bám vào lồng Chít Chít rồi, Quan Cửu chợt đảo mắt một vòng, lại lấy một con sâu béo mập nhất ra, cầm trong tay. Đến bên cạnh Tiểu Phất Điệp, cô cúi người, một tay ôm chặt Tiểu Phất Điệp, mặt kề sát má con bé, giọng đến là dịu dàng: “Yura…”
Mỗi ngóc ngách trong phòng làm việc đều buông ra một tiếng thở dài: “Hầy…”
Tiểu Phất Điệp mặt đỏ tim dồn, lo ngay ngáy: “Cửu ca… Chị muốn làm gì?”
Quan Cửu chìa tay trái ra, mở lòng bàn tay huơ huơ hai cái trước mặt Tiểu Phất Điệp rồi nắm tay lại đặt hờ trên cổ áo con bé.
“Á!!” Tiếng kêu thảm thiết của Tiểu Phất Điệp nháy mắt nổ tung, vang vọng khắp phòng làm việc của studio Cưu Bạch.
Nó giãy giụa như sắp chết tới nơi, Quan Cửu sớm đã đề phòng trước, đè chặt nó lại, thấp giọng nói bên tai nó: “Bảo bối, nói cho chị biết chị họ cưng đang ở đâu, chị sẽ không bỏ sâu vào áo em.”
Tiểu Phất Điệp đã sợ đến mất hồn mất vía, hoảng loạn la lên: “Em không biết! Cửu ca! Em thật sự không biết mà!”
Nắm tay Quan Cửu thoáng thả lỏng, mở thành một cái lỗ nhỏ, nửa thân sâu thò ra, vừa mập vừa trắng, mềm oặt ngo ngoe phía trên xương quai xanh của Tiểu Phất Điệp. Tiểu Phất Điệp cảm nhận được cảm giác mềm nhũn kinh khủng này, cả người gần như vỡ tan, nước mắt trào ra, khóc lóc: “Cửu ca! Em sợ thật mà! Mau lấy ra đi! Lấy ra đi! Hu hu hu hu…”
Quan Cửu hỏi: “Không chịu nói thật à? Vậy chị thả…”
Tiểu Phất Điệp chỉ còn biết khóc, thở cũng không nổi, chừng như sẽ ngất đi ngay giây tiếp theo.
Mã Phóng Nam Sơn che kín hai mắt lại: “Quá tàn nhẫn.”
Quan Cửu thu lại bàn tay nắm sâu, trong lòng thầm thở dài.
Chuyện ép cung Tiểu Phất Điệp cũng không phải mới ngày một ngày hai. Lúc đầu Tiểu Phất Điệp cái gì cũng không nói, cô đem hết vốn liếng ra sử dụng, Tiểu Phất Điệp mới chịu khai báo rằng chị họ con bé tên thật là Dư Uyển Nghi, hát kinh kịch ở Bắc Kinh, rất ít khi về nhà. Những cái khác, hỏi thế nào cũng không ra.
Phản ứng tự nhiên không thể gạt người. Hiện giờ có thể thấy được, Tiểu Phất Điệp quả thật biết rất ít về Dư Uyển Nghi.
Tám tháng trước, mồng chín tháng Tư đêm đó, sau khi biểu diễn xong ở triển lãm tự do thành phố Y, giữa Bạch Phỉ Lệ và Dư Uyển Nghi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, cô hoàn toàn không biết.
Điều duy nhất cô biết là, đêm đó, bốn người Ly Hận Thiên, Âm Độ Tư bên studio Phi Ngã bị đánh trọng thương. Studio Phi Ngã báo công an, khai rằng hung thủ có quan hệ với một cô gái trẻ tên là Ngôn Bội San. Cảnh sát sau khi kiểm chứng, phát hiện ra người phụ nữ tên “Ngôn Bội San” mà họ chỉ điểm, tuổi thật bốn mươi bảy, đêm đó lúc xảy ra án đã bệnh nặng qua đời ở bệnh viện nhân dân số một thành phố Y, không có khả năng là người gây án.
Vì vụ án xảy ra ở một con hẻm cũ, không có camera giám sát, vậy nên không thể dò ra được đoạn băng ghi hình đầy đủ hữu hiệu nào.
Chuyện đêm đó, mấy người bên studio Phi Ngã không đề cập tới, Bạch Phỉ Lệ cũng không hé răng nửa lời, những người khác bởi vậy mà chưa hề hay biết gì.
Nhưng đêm đó, cô đã nhặt Bạch Phỉ Lệ về từ luống hoa của bệnh viện.
Trong buổi tiệc mừng công, cô đã cảm giác được Bạch Phỉ Lệ không yên lòng, sau tiệc, anh nói có việc phải ra ngoài một chút. Sau đó, cô nhận được một cuộc gọi của bệnh viện nhân dân số một thành phố Y, báo cô mau tới đón Bạch Phỉ Lệ về, cũng nghiêm túc nhắc nhở cô, Nếu bạn cô bị choáng máu thì sau này đừng để cậu ta vào khu cấp cứu của bệnh viện nữa, chỗ này máu me khắp phía như thế, sao cậu ta chịu được?
Lúc cô vội vã chạy đến nơi thì Bạch Phỉ Lệ đã không còn trong đó nữa. Trong luống hoa lớn bên ngoài khu cấp cứu trồng một cây hoa chuối tiên cao hơn mét, hoa lá um tùm, nồng nàn hương sắc, dường như đang nỗ lực át đi mùi nước khử trùng nồng nặc tỏa ra trong bệnh viện.
Cô tìm được Bạch Phỉ Lệ đang núp trong luống hoa này – tình trạng của anh cực kỳ không ổn – đây không còn chỉ đơn giản là choáng máu nữa. Cô xua đám theo đuôi Doãn Tuyết Diễm và Quỷ Đăng đi, mang Bạch Phỉ Lệ về.
Cởi chuông phải tìm người buộc chuông. Cô biết chuyện này chắc chắn là có liên quan tới Dư Uyển Nghi, nhưng lúc đó đã không thể liên hệ được với Dư Uyển Nghi nữa. Thứ Cơ thì ngoài một cái Weibo ra cũng không để lại phương thức liên lạc nào khác. Cô lên Weibo nhắn tin riêng cho Thứ Cơ, Thứ Cơ đáp lại chỉ có đúng bốn chữ: Hãy để tùy duyên.
Manh mối đứt đoạn, chỉ còn lại mỗi Tiểu Phất Điệp. Nhưng Tiểu Phất Điệp khoảng thời gian đó cũng mất liên lạc, sau khi kỳ thi đại học kết thúc mới nối lại liên lạc với cô, nói là bị mẹ thu mất điện thoại. Nhưng ngoài họ tên thật của Dư Uyển Nghi ra thì Tiểu Phất Điệp cũng không đưa ra được tin tức có giá trị nào khác.
Cô trước sau vẫn chưa từ bỏ ý định, sau khi Tiểu Phất Điệp đỗ vào Học viện Thời trang Bắc Kinh rồi lên thủ đô, cô và Tiểu Phất Điệp đã thông đồng với nhau định dụ Dư Uyển Nghi ra, kết quả là qua ba tháng vẫn không thấy Dư Uyển Nghi xuất hiện. Dư Uyển Nghi cũng không phải là chưa từng tới thăm Tiểu Phất Điệp, nhưng theo những gì Tiểu Phất Điệp khai báo, mỗi lần Dư Uyển Nghi xuất hiện đều không có bất kỳ dấu hiệu nào mà cứ thế đột nhiên tập kích, còn để lại cho Tiểu Phất Điệp một câu: Gặp lại thấy mi ngày càng béo ra, chị đây yên tâm rồi.
Những lời này nói ra khiến cô không hiểu sao cảm thấy Dư Uyển Nghi như một kẻ bạc tình.
Sau đêm đó, Bạch Phỉ Lệ đóng cửa nghỉ ngơi một tháng, lúc quay lại thì gầy đi rất nhiều. Cô mỗi ngày đều kéo anh đến phòng gym, ăn đồ ăn dinh dưỡng bồi bổ, một thời gian dài sau đó mới khôi phục lại được thể trạng ban đầu.
Dư Uyển Nghi triệt để bặt vô âm tín, anh cũng kín miệng không nhắc nhỏm gì đến cái tên này. Vậy nhưng dự án kịch “Công tử trong hồ”, lại hoàn toàn bị gác sang một bên. Oán niệm trên Weibo liên miên không dứt, đến nay vẫn có người mỗi ngày đều lên Weibo chính chủ của studio Cưu Bạch yêu cầu diễn nốt nửa phần sau, còn tuyên bố sẽ gửi dao lam và chuột chết đến studio Cưu Bạch.
Studio cũng không phải chưa từng nghĩ đến chuyện thay người, còn đề cử không ít người trong giới thay thế vào vai Lưu Hí Thiềm. Nhưng từ đầu tới cuối Bạch Phỉ Lệ đều một lời không nói, những người khác cũng cảm thấy hết hứng. Những người tự tiến cử hoặc được đề cử đều rất có hứng thú với nhân vật này, nhưng sau khi xem video diễn thử của họ gửi đến, mọi người trong studio đều chẳng nói câu nào.
Cái chuyện từng qua biển lớn này, vốn vẫn luôn vô cùng đáng sợ. Đáng sợ hơn hết là, biển lớn lại chưa từng ý thức được mình là biển lớn.
(*) Nguyên văn 曾经沧海 (tằng kinh thương hải), xuất phát từ hai câu trong bài thơ “Ly tứ” kỳ bốn của nhà thơ Nguyên Chấn đời Đường: “Tằng kinh thương hải nan vi thủy, trừ khước Vu Sơn bất thị vân. (Dịch nghĩa: Ai từng qua biển lớn sẽ cảm thấy khó còn thứ gì đáng được gọi là nước. Trừ phi từng đến Vu Sơn, nếu không coi như là chưa từng thấy mây.)”, sau được dùng với ý đã từng nếm trải biến cố thì sẽ không còn để mắt mấy chuyện nhỏ nhặt nữa, hoặc, như ở đây thì là, nếu từng được thấy thứ tốt nhất thì sẽ không còn lọt mắt được những thứ kém hơn nữa.
Biển lớn vô tình.
Tiểu Phất Điệp vẫn còn nằm gục trên bàn khóc rấm rứt: “Em hận chị… Chị không còn là Cửu ca của em nữa rồi…”
Quan Cửu nói: “Cục cưng xinh đẹp à, đừng khóc nữa, chị dù không còn là Cửu ca của cưng nữa thì vẫn có thể là Cửu má của cưng mà.”
Tiếng khóc của Tiểu Phất Điệp lại to thêm một nấc, đứng dậy ôm laptop chạy sang phía Mã Phóng Nam Sơn.
Mã Phóng Nam Sơn bình phẩm: “Cảm giác cứ như vợ chồng son cãi nhau tức mình chạy về nhà mẹ đẻ ấy nhỉ.” Nói xong, cảm hứng viếng thăm, lạch cà lạch cạch gõ ra một đoạn ca từ dài dằng dặc.
Mộng Nhập Thần Cơ qua tìm Quan Cửu: “Cửu ca, buổi diễn thử của “Long lân” bên kia đã có phản hồi sơ bộ, cả công ty game lẫn fans đều đánh giá là rất tốt. Đây có thể coi là một thành quả giai đoạn lớn, chúng ta trưa nay ra ngoài nhậu một bữa được không?”
Quan Cửu liếc qua laptop, ban nãy có thông báo email mới, chính là phản hồi cho buổi diễn thử “Long Lân” mà công ty game “Đôi cánh vương giả” gửi tới, cô đã lướt sơ qua, bên ấy đúng là tỏ ra tương đối vui mừng, đồng thời cũng đề xuất một vài ý kiến sửa đổi, độ áp dụng không phải quá khó.
Cô hỏi Mộng Nhập Thần Cơ: “Ăn đâu đây?”
Mộng Nhập Thần Cơ hí hửng nói: “Quảng trường mua sắm bên ga tàu hỏa mới mở một quán lẩu Trùng Khánh, bọn tôi vừa đặt một bàn lớn đó.”
Quan Cửu liếc xéo Mộng Nhấp Thần Cơ: “Lẩu Trùng Khánh? Mấy cậu đã hỏi ý kiến Quan Sơn chưa?”
Mộng Nhập Thần Cơ bĩu môi nhìn về phía phòng tập: “Cọp Cái còn trong đó đấy, ai dám vào chứ?”
Quan Cửu hừ một tiếng: “Đừng có lôi Cọp Cái ra làm bia đỡ đạn! Đã biết Quan Sơn ăn nhạt rồi lại còn chọn lẩu Trùng Khánh, tôi thấy các cậu rõ ràng là cố ý không muốn cho nó đi cùng, sợ lúc ăn cơm bị nó càm ràm chứ gì?”
Mộng Nhập Thần Cơ nhức hết cả đầu, mặt mày đau khổ nói: “Cửu ca, cô cũng đâu phải là không biết Quan Sơn không thích dự án “Long lân” này chứ? Từ lúc mới bắt đầu viết kịch bản cậu ta đã không ngừng bới móc, mấy người bọn tôi chạy dự án mấy tháng nay đều sắp bị cậu ta bức điên tới nơi rồi, còn tưởng nhận dự án này sẽ được thoải mái hơn đôi chút, ai biết lại vẫn khổ như vậy chứ! Diễn thử cũng đã diễn xong rồi, ý kiến sửa đổi của cậu ta còn nhiều hơn cả công ty game nữa!…”
Mộng Nhập Thần Cơ bắt đầu thao thao bất tuyệt kể khổ. Chuyện này cũng không thể trách bọn họ, Bạch Phỉ Lệ không gặp mặt chung đụng với họ ngay từ buổi đầu lập studio. Nhưng đó là tại khi ấy anh còn đang du học ở nước ngoài, đa số thời gian tiếp xúc trò chuyện với những người khác trong studio đều là qua mạng, cảm giác giữa mọi người với nhau còn chưa rõ ràng lắm. Tháng Bảy năm ngoái anh về nước, bắt tay vào dựng vở “Công tử trong hồ”, đến lúc ấy toàn bộ nhân tài của studio mới biết mùi nhân vật này ra sao. Những người này ban đầu đều do Quan Cửu kéo vào, vậy nên người nào người nấy đều lôi Quan Cửu ra làm ô bảo hộ, động một chút là lại tố khổ với cô, đối với Quan Sơn Thiên Trọng oán hận thấu trời.
Quan Cửu dựng mày, nói: “Nếu không có Quan Sơn bới ra được lắm khuyết điểm như vậy ngay từ đầu thì hiện giờ người xoi mói chúng ta chính là đại kim chủ đấy. Cậu cảm thấy để Quan Sơn bới móc tốt hơn hay để kim chủ bới móc thì tốt hơn hả?”
Mộng Nhập Thần Cơ miệng méo xệch. Quan Cửu thoáng liếc ra ngoài cửa sổ, trên bầu trời xám xịt lất phất rơi xuống một trận tuyết nhỏ. Cô nói: “Lạnh thế này, Quan Sơn chắc không muốn ra ngoài đâu. Cậu dẫn mọi người đi đi, ăn một bữa hăng say vào, nhớ vào sổ cho Quan Sơn. Tôi qua tâm sự với Quan Sơn một chút, giải thoát cho đám các người.”
Mộng Nhập Thần Cơ mừng rơn, hô hào đám còn lại, cả phòng làm việc nháy mắt trống không.
Chỉ còn lại mỗi Quan Cửu, và Chít Chít đang rào rạo ăn gì đó. Chít Chít đã được hai tuổi rồi, đối với hamster thì đã thuộc loại chuột già, chẳng những bắt đầu rụng lông gầy đi mà hai chân trước cầm bánh mì còn không ngừng run rẩy, sâu trên bánh béo mập giãy giụa rơi trên vụn gỗ.
Quan Cửu lấy kéo cắt nhỏ sâu bánh mì ra rồi dùng nhíp đút cho Chít Chít ăn.
Chít Chít được nuôi trong studio Cưu Bạch ngay từ buổi đầu thành lập, cô mua nó từ một người bán hàng rong bên ngoài cục công thương. Đây là con Chít Chít thứ ba, hai con trước đều nuôi không được bao lâu thì chết yểu, con Chít Chít này, xem ra cuối cùng cũng có thể sống mãn tuổi thọ.
Trước đây Bạch Phỉ Lệ từng nói, nuôi một con hamster trong studio cũng tốt. Tuổi thọ của hamster cũng không kém tuổi thọ của đại đa số các vở kịch hiện thời là bao. Tuổi trẻ nhanh hết, con người không thể sống tốt ngàn ngày, đó chính là sự tuần hoàn. Nhìn hamster mỗi ngày chạy bánh xe trong studio, người cũng nên lấy đó mà mỗi giây mỗi phút đều biết rằng không thể buông thả.
Cô tốt nghiệp trước Bạch Phỉ Lệ hai năm. Trước đây, vì đi theo anh, cô đã bỏ nghề kiến trúc mà mình học năm năm, thay vào đó cùng Bạch Phỉ Lệ lập ra studio này.
Quan Cửu cầm tờ email phản hồi cho vở “Long Lân” vừa mới in ra, đi sang phòng tập bên cạnh phòng làm việc.
***
Sau thành công của buổi diễn “Công tử trong hồ”, có vài nhà đầu tư mạo hiểm đã để mắt đến studio Cưu Bạch.
Nguyên nhân họ coi trọng studio Cưu Bạch rất đơn giản: Hiện giờ ngành công nghiệp giải trí tuy sôi nổi thịnh thế, nhưng trong giới 2D này, những studio phù hợp với mô hình xí nghiệp lại ngày càng ít, cơ cấu cổ phần hỗn loạn, tạo thành một bất tiện lớn đối với các nhà đầu tư mạo hiểm.
Nhưng Cưu Bạch thì lại khá kì diệu, con chim sẻ này tuy nhỏ nhưng ngũ tạng đầy đủ, tuy mang danh là một studio nhưng cơ cấu cổ phần lại vô cùng rõ ràng, nói nghiêm chỉnh thì chính là một công ty văn hóa kiểu mẫu mô hình nhỏ. Hơn nữa, trình độ dựng kịch sân khấu của họ xuất sắc như vậy, có lý do gì mà lại không đầu tư?
Trong số những nhà đầu tư này, có một công ty tên là SE như hạc giữa bầy gà. SE là nhà đầu tư hàng đầu đẳng cấp thế giới, được SE đầu tư gần như là một loại vinh dự. Không chỉ thu được sự chú ý cao độ của giới tư bản mà ở phương diện quản lý công ty, mạng lưới giao thiệp, tài nguyên thương mại cũng đều nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ SE.
Giám đốc của SE rất thành tâm, không hề có chút thái độ ăn trên ngồi trước cả vú lấp miệng em nào, trước sau đến studio Cưu Bạch thăm hỏi ba lần, gặp mặt nói chuyện với Quan Cửu và tứ đại thần thú.
Điều kiện SE đưa ra cũng rất phong phú, trị giá ước tính đối với studio Cưu Bạch cao hơn hẳn so với dự liệu của mỗi người.
Những nhân vật trọng yếu như Quan Cửu và tứ đại thần thú, không ai là không muốn tranh thủ sự đầu tư của SE.
Nhưng SE có một yêu cầu đặc biệt: Họ muốn ký một thỏa thuận đặt cược.
Thỏa thuận đặt cược này cũng rất đơn giản: Bắt đầu từ ngày ký thỏa thuận, liên tục trong vòng ba năm, studio Cưu Bạch phải thực hiện sinh lãi, nếu không SE sẽ có quyền yêu cầu studio Cưu Bạch phải mua lại số cổ phần SE nắm giữ với giá cao hơn 30%. Nếu giữa chừng có thành viên chủ chốt rời đi, ví dụ như một lần nữa xảy ra trường hợp như của Lăng Tửu, cũng có thể thực hiện điều khoản mua lại.
Thỏa thuận đặt cược này giống như chuyện Đường Tăng đi thỉnh kinh lấy về được một đống kinh thư, nhưng kèm theo đó là một xiềng xích.
Chỉ là cái xiềng xích này, thoạt nhìn cũng không phải là quá chặt. Tuy studio Cưu Bạch thành lập được ba năm, cũng bị lỗ vốn suốt ba năm, nhưng chỉ cần bằng lòng tiếp nhận các dự án thương mại thì việc dần dần sinh lời cũng không phải chuyện gì khó nhằn cho lắm.
Bởi vậy nên Quan Cửu muốn tìm Bạch Phỉ Lệ thương lượng.
Khoảng thời gian đó Bạch Phỉ Lệ đang đóng cửa an dưỡng, mãi vẫn không trả lời cô. Cuối cùng, Quan Cửu đợi không nổi, đem thỏa thuận đầu tư tới cửa thúc giục, bám theo Bạch Phỉ Lệ nói liên tiếp ba giờ phân tích lợi hại, trong ba giờ đó Bạch Phỉ Lệ cắt tỉa sửa sang toàn bộ cây cảnh hoa cỏ trong vườn hết một lượt, không nói một lời.
Quan Cửu rốt cuộc nổi nóng, nói: “Dù mày không để ý đến danh tiếng và tiền tài thì cũng phải suy nghĩ cho những người khác trong studio với chứ? Bọn họ tuổi đều còn trẻ, không tìm công việc đàng hoàng để kiếm tiền mà lại bước lên con đường này, là muốn theo nghiệp này cả đời đó! Mọi người đều có tình có nghĩa cả, nhưng có ai lại muốn cả đời làm ma đói đâu!”
Bạch Phỉ Lệ còn ngắm nghía kiểm tra hang sóc trong vườn một lượt rồi mới trả lời: “Cũng được, ký đi.”
Quan Cửu thở dài nhẹ nhõm.
Nhận được sự đầu tư của SE rồi, họ nhanh chóng có được mối làm ăn dự án kịch “Long lân”. Sau khi Bạch Phỉ Lệ quay lại studio Cưu Bạch, lập tức ngựa không ngừng vó bắt tay vào trù bị.
“Long lân” là một sản phẩm game e-sport quy mô lớn nhất nhì trong nước do công ty game “Đôi cánh vương giả” sản xuất. “Đôi cánh vương giả” hiện giờ đang cạnh tranh rất mạnh ở mảng này, để phối hợp tuyên truyền và mở rộng sức ảnh hưởng, họ tìm tới studio Cưu Bạch giúp đỡ sản xuất quảng cáo, phim ngắn và kịch sân khấu cosplay chính thức.
Đây chính là một dự án kiếm được bộn tiền mà không lo bị lỗ.
Hiện giờ đã là hạ tuần tháng Mười hai, Quan Cửu lật xem tin nhắn bộ phận tài vụ của studio gửi cho cô trước, chuyện thực hiện sinh lãi năm nay gần như không có gì phải nghi ngại.
Tháng Mười, vì studio mở rộng quy mô nên Cưu Bạch đã dời trụ sở đến văn phòng này, nằm trong khuôn viên công nghiệp văn hóa phía Đông thành phố. Trong tình huống như vậy mà vẫn có thể thực hiện sinh lời đúng yêu cầu theo thỏa thuận đặt cược của SE, trong lòng Quan Cửu quả thực có phần ngầm sảng khoái.
Đẩy cửa phòng tập ra, chỉ thấy tất cả rèm cửa sổ đều bị kéo xuống, toàn bộ phòng tập chìm trong tối mù.
Khoảng trống chính giữa phòng đặt một cái đệm luyện tập, một người một mèo ngồi xoay lưng về phía cô. Đối diện mèo và người là một màn chiếu, trên đó đang phát hình một video kịch sân khấu, toàn là tiếng Nhật, không có phụ đề, Quan Cửu nghe không hiểu, nhưng nhìn logo và thời gian trên đó, có thể đoán được là vở kịch mới ra tháng trước của Takarazuka Revue (*).
(*) Ahuhu mãi mới có một cái đúng tủ để chú thích mà không cần đi search =))) Takarazuka Revue là một đoàn nhạc kịch toàn phụ nữ của Nhật Bản, được thành lập vào năm 1913, có trụ sở đặt tại Takarazuka, Hyougo Prefecture, Nhật Bản. Ở đây mọi vai diễn đều do phụ nữ đóng, các vở kịch thường là dựng lại từ những tác phẩm nhạc kịch của Broadway và châu Âu, đôi lúc là cả những kịch bản phỏng theo các bộ manga hoặc những câu chuyện cổ tích của Nhật Bản.
Bạch Phỉ Lệ mặc một chiếc áo phông màu trắng, thoạt nhìn tưởng là chỉ thuần trắng, nhưng nhìn kỹ lại mới thấy trên đó còn có hình một con cá nhỏ sặc sỡ, rất nhỏ, cũng không biết in trên áo có ý nghĩa gì. Anh đang ngồi xếp bằng trên đệm luyện tập, tay cầm một quả dưa chuột chấm tương ăn. Sát bên anh là một con mèo đang ngồi chồm hổm, cúi đầu ăn thức ăn cho mèo trong cái đĩa nhỏ trước mặt. Con mèo này thoạt nhìn là một con mèo trắng vằn hổ, nhưng chẳng hiểu sao lại lớn hơn rất nhiều so với mèo thường, hình thể vô cùng lực lưỡng, đuôi và tứ chi đều chắc nịch mạnh mẽ.
Một người một mèo cùng nhau ăn nghe rôm rốp.
Cảm nhận được có người đi vào, con mèo đột nhiên nhả thức ăn cho mèo trong miệng ra, xoay người trừng mắt nhìn Quan Cửu, toàn thân tỏa ra dày đặc khí thế “người lạ chớ lại gần”.
Thấy cặp tai dựng thẳng kia, Quan Cửu lập tức trở nên khẩn trương. Cô bấu vào khung cửa, nỗ lực giao tiếp với nó: “Hey… Cọp Cái?”
Cọp Cái thấy cô không những không đi mà còn gắng mở mồm, tức khắc xù lông, thân mình cong lên, ánh mắt hung ác, dáng vẻ như chỉ chực nhào lên xé nát Quan Cửu bất cứ lúc nào, trong miệng còn phát ra những tiếng gầm gừ khe khẽ.
Quan Cửu sợ đến mức sởn hết cả tóc gáy, hô: “Bạch Phỉ Lệ! Giữ mèo nhà mày lại!”
Bạch Phỉ Lệ đang đưa lưng về phía cô vòng tay ra, ôm Cọp Cái vào lòng. Con mèo bị anh ôm lấy, cả người lập tức mềm xuống, thoải mái cọ vào bụng anh.
Quan Cửu cẩn thận dè dặt ngồi xuống cạnh anh, thấy trên ngực áo phông của anh là một con cá nhỏ khác.
Quan Cửu hỏi: “Đến bao giờ mày mới thôi mang Cọp Cái tới phòng làm việc hả? Ba tháng rồi, hamster nhà tao bị dọa đến già sớm mất thôi.”
Bạch Phỉ Lệ không chớp mắt nhìn lên màn chiếu, đáp: “Nhanh thôi, đến Giáng Sinh ngoại tao sẽ về.”
Quan Cửu cúi đầu nhìn di động, hôm nay là hai mươi hai tháng Mười hai, Giáng Sinh là hai mươi lăm, tức là chỉ còn hai ngày, Cọp Cái sẽ không còn tới văn phòng nữa. Cô thở phào một hơi.
Con mèo này đã đến đây từ mồng chín tháng Chín. Về việc này, Bạch Phỉ Lệ giải thích là “Ông bà ngoại phải sang một trường đại học ở Nhật Bản làm giáo sư thỉnh giảng một học kỳ, Cọp Cái một mình một mèo ở nhà sẽ mắc chứng trầm cảm, nên mang tới phòng làm việc của studio.”
Nhưng mỗi người ở Cưu Bạch đều biết, phía sau lời giải thích chính thức của cậu Bạch Phỉ Lệ này, tất nhiên là còn có một chân tướng không muốn cho ai biết khác.
Cả nhà đều nhất trí cho rằng, động thái này của Bạch Phỉ Lệ là để từ chối một cô gái đang nhiệt tình theo đuổi anh trong studio.
Cô gái đó là một ca sĩ mới tới tham gia vào dự án “Long lân”, ngoại hình khá giống Lăng Tửu, tính tình ngoan ngoãn đáng yêu hơn một chút. Mỗi ngày cô nàng đều ân cần bưng trà rót nước cho Bạch Phỉ Lệ, mua quà tặng hoa cho anh, thỉnh thoảng còn cầm kịch bản đi tìm anh thỉnh giáo, có một lần thậm chí còn giả bộ lơ đãng nắm tay Bạch Phỉ Lệ trong lúc luyện tập.
Mỗi người trong studio đều nhìn ra được, cô gái này rất có ý với Bạch Phỉ Lệ.
Có thành viên lâu năm thấy không nỡ đã bóng gió kể chuyện Lăng Tửu để khuyên cô gái này đừng giẫm vào vết xe đổ, nói rằng năm đó khi Lăng Tửu mới vào studio Cưu Bạch, là một người mới, cũng đã dùng những chiêu trò này để theo đuổi Bạch Phỉ Lệ. Khi đó Bạch Phỉ Lệ còn đang học ở nước ngoài, Lăng Tửu thường lên mạng pm anh hỏi rất nhiều thứ, hết cos, ca xướng lại đến giọng điệu khi diễn cổ phong, vân vân. Khi đó Bạch Phỉ Lệ còn chưa ôn hòa như bây giờ, tính tình sáng nắng chiều mưa, lúc nóng lúc lạnh. Tuy vậy nhưng vẫn không dọa được Lăng Tửu chùn bước.
Sinh nhật Lăng Tửu năm đó, tất cả mọi người trong studio đều lên kênh YY (*) chúc mừng cô ta, cô ả lại gây nên một bất ngờ lớn – đến đoạn ước nguyện sinh nhật, cô ả đã nức nở tỏ tình với Bạch Phỉ Lệ một tràng dài, lời nói vô cùng thật lòng thật dạ.
(*) Một trang web, ứng dụng live stream.
Giọng cô ả run rẩy, ai cũng nghe ra được, cô ta đã phải gom rất nhiều dũng khí. Nếu lúc đó Bạch Phỉ Lệ mà không nhận lời, chẳng nghi ngờ gì nữa nhất định cô ả sẽ òa khóc. Sau đó còn có thể gây ra hậu quả gì cũng không ai lường được.
Khi ấy, bầu không khí rất căng thẳng, trong YY không ai dám hé răng cười nhạo.
Bạch Phỉ Lệ trầm mặc rất lâu, rồi nói một chữ: Được.
Lăng Tửu hao hết tâm tư để theo đuổi được Bạch Phỉ Lệ, nhưng sau đó thì sao? Rốt cuộc là dưa hái xanh không ngọt, chuyện chia tay sau cùng, đều đã nằm trong dự liệu của mọi người.
Bạch Phỉ Lệ, không phải là một người mà chỉ cần chịu gian khổ là có thể đạt được.
Thành viên lâu năm khuyên cô gái kia một câu: Quan Cửu đã sớm nói, “Cậu Bạch Phỉ Lệ này, chỉ có thể nhìn từ xa chứ không thể sờ vào.”
Cô gái kia vẫn cứ khăng khăng không chịu tin, nói là cô nàng không giống Lăng Tửu, rất vững tin vào chuyện người thành tâm thì đá cũng phải mòn; cũng tin rằng khối băng này rồi sẽ tan chảy vì cô nàng.
Thấy nghé con mới sinh không sợ cọp, trẻ con không dạy được, thành viên lâu năm lắc đầu thở dài, chỉ có thể lùi xuống một bước, sống chết mặc bây.
Quả nhiên, không đến một tuần, Cọp Cái liền long trọng ra trận.
Con mèo này rất dính Bạch Phỉ Lệ, Bạch Phỉ Lệ đi đâu nó đi đó, ngay cả đi vệ sinh cũng muốn đi theo. Một con mèo tám, chín cân mà thân thủ lại hết sức linh hoạt, thích nhất là nhảy lên vai lưng Bạch Phỉ Lệ. Đối với người sống luôn bày ra dáng vẻ hung thần ác sát, cứ thấy có người lại gần Bạch Phỉ Lệ trong vòng năm mét là tấn công.
Ban đầu Doãn Tuyết Diễm còn không tin, phớt lờ sự đe dọa của con mèo, đi tới vỗ một cái vào lưng Bạch Phỉ Lệ. Kết quả là trong chớp mắt ấy khi tay anh ta chạm tới Bạch Phỉ Lệ, đã bị con mèo cào cho năm vết máu sâu hoắm.
Bạch Phỉ Lệ đưa lưng về phía anh ta, bình tĩnh nói Đừng lo, mèo nhà tôi được tiêm vắc-xin từ nhỏ, nhưng vẫn cho anh ta bảy trăm tệ đến bệnh viện tiêm vắc-xin phòng dại, nói là coi như tai nạn lao động. Doãn Tuyết Diễm khóc không ra nước mắt.
Nhưng lần đó sau khi Doãn Tuyết Diễm quay lại đã thề thốt nói, Bạch Phỉ Lệ coi sóc con mèo này cũng rất thảm, tôi ngửi thấy mùi trên người cậu ta thay đổi, trước kia là hương nhai bách, giờ đã biến thành mùi xạ hương long cốt của cao giảm đau. Mấy người xem, cậu ta cứ động một chút là phải xoa bóp gáy, nhất định là bị con mèo kia cưỡi đến mắc bệnh xương cổ rồi.
Nhưng dù thế nào, cô gái kia cũng thật sự không thể tới gần Bạch Phỉ Lệ.
Không riêng gì cô ấy, cả studio đều không ai có thể tới gần Bạch Phỉ Lệ.
Quan Cửu than phiền: “Nuôi một con mèo như vậy, dù Dư Uyển Nghi có trở lại, chỉ sợ cũng sẽ bị dọa chạy mất thôi.”
Bạch Phỉ Lệ nãy giờ vẫn nhìn chằm chằm màn chiếu, lúc này bỗng liếc sang cô.
Cái nhìn này hơi sâu, lại cũng hơi sắc bén, Quan Cửu nhất thời cảm thấy có chút không đỡ được, che kín mặt lại, nói: “Đừng nhìn tao thế, mọi người đều nhìn ra cả, nể mặt mũi mày nên mới không gây khó dễ nói thẳng ra trước mặt mày thôi. Không dựng nửa phần sau của “Công tử trong hồ”, chạy đến nhà người ta hỏi thì không nói, còn len lén đến các phường hí kịch và gánh hát ở Bắc Kinh để điều tra những nữ diễn viên có tuổi tác tương xứng nữa… Hết lần này tới lần khác vẫn mãi không tra ra được. Đêm đó ở thành phố Y, lúc tao nhặt mày từ luống hoa trong bệnh viện về, có nhớ mày trông thảm mức nào không? Còn tưởng người ta chết thật rồi, chậc chậc, yêu với chả đương, yêu đến hỏng cả óc luôn, thật mất mặt!”
Bạch Phỉ Lệ thả con mèo trong lòng ra.
Quan Cửu hét một tiếng, nhảy dựng lên như lò xo. “Bạch Phỉ Lệ!!”
Bạch Phỉ Lệ thu lại phép thần thông.
Quan Cửu ngồi vững lại xuống đệm. Rốt cuộc cũng có cơ hội đưa tờ giấy in email cho anh xem. Bạch Phỉ Lệ tạm dừng video, bật đèn, xem lướt qua email.
Quan Cửu nói: “Mày xem chút đi, “Đôi cánh vương giả” cũng không ý kiến nhiều như mày. Mày cũng đừng bới lông tìm vết đám Mã Phóng Nam Sơn quá mức thế chứ? Mọi người đều đã nỗ lực hết sức rồi.”
Bạch Phỉ Lệ từ chối cho ý kiến, điện thoại của anh rung một cái, anh cầm lên xem, là một tin nhắn rất dài. Lát sau, anh hỏi Quan Cửu:
“Thiện Đăng Đĩnh là chỗ nào thế?”
***
Bạch Phỉ Lệ dừng xe bên Phật Hải.
Vừa mở cửa xe, gió lạnh như cuốn theo băng đá quất vào mặt, Bạch Phỉ Lệ lập tức hắt hơi một cái.
Trận tuyết ban ngày còn nhẹ nhàng lất phất giờ đã bắt đầu bay loạn tứ tung, anh cầm khăn tay lau nước mũi, cảm giác như mình sắp bị cúm tới nơi rồi.
Nhưng biết làm sao được, chuyện ông cụ giao cho, không làm không xong.
Đã là chín giờ tối, sắc trời đen kịt một màu, nhìn không thấy trăng sao. Khắp Phật Hải đều sáng ánh đèn lồng xưa cũ, nối thành một hàng đỏ nhạt, rọi lên những hạt tuyết nhỏ bé đang bay múa, chợt đem lại một cảm giác vượt thời gian về thời cổ xưa.
So với sự phồn hoa của những con phố quán bar trong chợ Hà Hoa ở Thập Sát Hải, Phật Hải này tuy cũng được coi là một địa điểm văn hóa du lịch, nhưng lại vắng vẻ hơn nhiều.
Nơi này còn giữ lại những khu nhà kiến trúc cổ từ thời Minh Thanh, xung quanh có Văn Thù Viện, nhà cũ của các danh nhân, phố xá cũ kỹ và một vương phủ. Cây cổ thụ che trời, hương tùng xanh bách biếc phả vào mũi lành lạnh, mặt đất không mấy bằng phẳng bởi rất nhiều những mảnh gạch đá long ra từ những tấm bia khắc chữ cổ kính nứt vỡ. Mọi thứ đều còn giữ nguyên dáng vẻ xa xưa nhất, không chịu để quá nhiều sự hiện đại của văn hóa thương mại ăn mòn.
Vượt qua Phật Hải đang nổi lên tầng tầng sắc băng, từ xa có thể nhìn thấy một tòa thuyền đá. Trên thuyền đá là một lầu hí kịch ba tầng tọa bắc triêu nam, nóc lầu xây kiểu quyển bằng hiết sơn (*), mái nhà cong cong vươn ra khỏi phạm vi tường, trong lầu ngoài đường đều sáng rực, đình lầu hiên ngang đứng trong màn tuyết, lung linh lấp lánh, tựa như một ngọn thanh đăng trôi nổi trên Phật Hải.
(*) Nguyên văn là 棚歇山顶, một kiểu nóc nhà trong kiến trúc cổ Trung Hoa, không có sống nóc, vị trí các bộ phận của nóc nhà tạo thành một mặt cong hình cung.
Đó chính là Thiện Đăng Đĩnh.
Lúc này buổi diễn hí đặc sắc nhất đã tan cuộc, tốp năm tốp ba những khán giả đến xem hí kịch đang đi ra từ con đường men theo Phật Hải. Bạch Phỉ Lệ đi ngược lại dòng người, hướng về phía Thiện Đăng Đĩnh.
Bạch Phỉ Lệ rất ít khi tới Phật Hải. Anh ở Bắc Kinh nhiều năm như vậy, mới chỉ biết đến những phường kinh kịch nổi tiếng như viện hí kịch Trường An, rạp hát Mai Lan Phương…, cho tới giờ vẫn chưa từng nghe nói đến Thiện Đăng Đĩnh.
Quan Cửu nói với anh, Thiện Đăng Đĩnh rất có danh tiếng trong giới hí khúc kinh kỳ, anh đột nhiên nhớ ra, cái tên này trước đây ông bà ngoại anh từng nhắc đến rất nhiều lần, chỉ là nghe thực sự không giống tên của một rạp hát, vậy nên anh không để tâm lắm.
Khi còn học các khóa nghệ thuật ở trường, Quan Cửu từng nghiên cứu về các phường hí kịch ở Bắc Kinh. Thiên Đăng Đĩnh là “phường kịch hóa thạch” còn lưu giữ lại đa số lề thói cũ của giới Lê viên, là gánh hát duy nhất không sử dụng đèn điện và các thiết bị khuếch đại âm thanh trong các buổi biểu diễn ở lầu hí cổ, hiển nhiên đã trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu trọng điểm của cô.
Quan Cửu nói với anh, phường hí kịch Thiện Đăng Đĩnh này có lịch sử rất lâu đời, là do các quan viên, sĩ phu và cả thương nhân đến từ phủ Quảng Châu góp vốn xây dựng. Cô nói Bạch Phỉ Lệ là người thành phố Y, hẳn là biết người hát việt kịch được gọi là “đệ tử hồng thuyền”, là bởi ngày xưa khi các phường việt kịch ra ngoài biểu diễn đều ngồi trên một con thuyền màu đỏ. Khi khởi công xây dựng Thiện Đăng Đĩnh, để thể hiện đặc trưng của phủ Quảng Châu, tòa lầu hí này được xây theo kiến trúc thuyền đá, cũng được đặt tên là “Thiện Đăng Đĩnh”.
Bạch Phỉ Lệ đi lên thuyền đá, chỉ thấy ba chữ lớn “Thiện Đăng Đĩnh” trên tấm biển treo trước lầu hí kịch được viết theo lối cổ xưa mạnh mẽ, lạc khoản đề “Sầm Xuân Huyên”. Quả nhiên đúng như Quan Cửu nói, người viết tấm biển này là một người họ Sầm đảm nhiệm chức vụ tổng đốc Lưỡng Quảng vào năm Quang Tự thứ ba mươi mốt.
Cổng lầu hí kịch mở rộng, con đường nhỏ dẫn vào trong đèn lồng san sát, bên ngoài hàng đèn lồng là đủ các loại chậu hoa cao thấp lớn nhỏ khác nhau, đa số cây cảnh đều đã tàn lụi, chỉ còn trơ lại những cành cây khẳng khiu hình thù quái dị. Ngoài ra còn có một vài cây tùng la hán và nhai bách đứng thẳng tắp, cứng cáp ngạo nghễ.
Dọc con đường này, cỏ, cây, chậu, đá, không hằn bất kỳ dấu tích năm tháng nào. Nền gạch lát đá hiển nhiên là đã được vẩy nước chải quét nhiều lần, Bắc Kinh lắm bụi như vậy mà nơi đây, thậm chí đến nền đất cũng không dính một hạt bụi. Gạch đá bị giẫm lên quanh năm suốt tháng, mòn thành một màu xanh nhàn nhạt, ấm nhuận phát sáng.
Tới sảnh chính, giữa sảnh treo một tấm hình lớn, là một bức họa cũ từ thời dân quốc. Quan Cửu có nói đến, người này là ông tổ của Thiện Đăng Đĩnh, sáng lập nên “Nghê phái”, Nghê Khả.
Sở trường của Nghê Khả là vai đán, trong bức họa, dung mạo ông phong lưu mỹ lệ, mặc tây trang đeo cravat, nụ cười ẩn chứa nét hào hoa.
Dưới bức họa của Nghê Khả, lại là một câu đề từ của tổng đốc Lưỡng Quảng Sầm Xuân Huyên trước đây: Thiện Đăng giới Lê Viên, đậu thuyền nơi biển Phật.
Bạch Phỉ Lệ nghiền ngẫm mười chữ này, tưởng tượng cảnh Thiện Đăng Đĩnh sừng sững trên Phật Hải tối như mực, mơ hồ cảm thấy rất hàm súc.
Suốt một đường không gặp ai, anh đi thẳng vào trong rạp hát, chỉ thấy vài ba người đàn ông trung niên mặc áo tàu hai lớp đang dọn dẹp sân khấu, và một số cô gái thì đang quét tước sàn nhà, xếp đặt lại bàn ghế.
Rạp hát chia làm hai tầng, hai bên tầng hai đều có mái hiên và lối đi nhỏ, hai bên sân khấu dưới tầng một thì có bệ nhìn như ở bến tàu, thẳng tắp dẫn vào khu vực ghế dân. Toàn bộ không gian đều được tô điểm bằng ánh đèn, nhưng không thấy có lấy một cái đèn điện nào. Ngoài một màn hình điện tử ra thì cũng không có bất kỳ thiết bị khuếch đại âm thanh nào khác.
Phía trước sân khấu có hai cái cột, mỗi bên trái phải đều treo một bức câu đối, viết:
Thế sự vốn chìm nổi, trông người lên đài làm rối, chẳng có gì ngoài giết chó phong hầu, mổ dê lập úy;
Núi sông cùng cổ xúy, mặc ngươi phong vân biến ảo, cũng chỉ là hạng phú quý thô thiển, bịp bợm a dua.
Anh nghe mấy cô gái xì xầm với nhau:
“Gần đây càng ngày càng ít khách, hôm nay lượng người đến cũng chỉ được một phần ba số ghế ngồi.”
“Trời càng ngày càng lạnh, hôm nay lại còn có tuyết rơi, ai lại muốn ra ngoài chứ?”
“Tôi thấy giá vé phải trả thấp quá, có hơn mười tệ một vé, khán giả không đến thì thôi, cũng chẳng ai tiếc hơn mười tệ cả.”
“Ai quản bọn họ tới hay không làm gì? Đằng nào cũng không trả lại tiền, kiếm được là được.”
“Mấy cô nghĩ đơn giản quá rồi, tôi nghe bạn tôi nói, gần đây nhà hát Thiên Kiều đang diễn vở nhạc kịch “Bóng ma trong nhà hát”, rạp Hải Điện thì diễn hài kịch, nhà hát lớn quốc gia thì diễn vở kịch mới của đạo diễn Điền, không chỗ nào không chật kín. Theo tôi, vẫn là do người xem kinh kịch càng ngày càng ít.”
“Đúng vậy, giờ đến cả “Đạo mộ bút ký” và “Tiên kiếm kỳ hiệp truyện” cũng bắt đầu dựng thành kịch sân khấu, ai ai cũng xông tới đoạt bát cơm này, ai còn tới xem kinh kịch chứ… Ăn cơm nhà nước cũng chẳng dễ dàng, huống hồ chúng ta…”
Bạch Phỉ Lệ nghe họ nói từ kinh kịch đến kịch sân khấu, tới kịch 2D thì không khỏi tập trung lắng nghe. Chợt nghe có người gọi anh:
“Cậu là ai?”
Giọng nói trầm ấm, tựa như sắc nước trong ngọc, vừa nghe là biết của người kiếm cơm bằng giọng nói, cũng không biết giọng nói như nước, mài giũa tinh tế này phải luyện mất bao nhiêu năm.
Bạch Phỉ Lệ quay đầu lại, chỉ thấy một người đàn ông ngoài ba mươi, trên người vận trường sam màu xanh nhạt, dáng người tiêu sái gọn ghẽ.
Người đó nhìn Bạch Phỉ Lệ, dường như hơi nhướng mày, chỉ là y đứng ngược sáng, Bạch Phỉ Lệ không nhìn được rõ ràng cho lắm.
Bạch Phỉ Lệ tất nhiên không biết là bộ trang phục rất bình thường mình đang mặc này có vấn đề, vẫn khách khí hỏi: “Chào ngài, xin hỏi ở đây có ai tên Dư Phi không ạ?”
Ban ngày ông ngoại gửi cho anh một tin nhắn, bảo anh mua cho họ hai vé xem vở “Du long hí phượng” ở Thiện Đăng Đĩnh, thời gian càng sớm càng tốt, cũng chỉ mặt gọi tên nói muốn xem diễn viên đóng chính là Dư Phi.
Anh tìm trên một trang mua sắm, phát hiện ra Thiện Đăng Đĩnh quả thật đúng là đang diễn vở “Du long hí phượng”, nhưng diễn viên chính lại không phải cái người tên Dư Phi này.
Anh báo lại cho ông ngoại, hơn một tiếng sau, ông ngoại gọi cho anh, nói đã hỏi được một phiếu hữu quen biết, họ bảo là Dư Phi đã không còn ở Thiện Đăng Đĩnh nữa, cũng không biết đã xảy ra chuyện gì. Ông ngoại kêu Bạch Phỉ Lệ đến Thiện Đăng Đĩnh một chuyến, tự hỏi thăm chút xem, còn cố ý nhấn mạnh với anh, Dư Phi là một cô gái, đừng hỏi nhầm người.
Ông ngoại là người nóng tính, bảo anh đi thì nhất định là phải đi ngay trong hôm nay, không thể để sang ngày mai, càng không thể để ngày kia.
Buổi chiều, Bạch Phỉ Lệ tham gia buổi tập “Long lân” xong thì đi ăn cơm, rồi lại bị Quan Cửu kéo đi đánh tennis hai tiếng, đợi đến lúc anh thay quần áo ra ngoài, đã là hơn chín giờ, lúc này mới nhớ còn phải đi hỏi thăm về Dư Phi cho ông ngoại.
Bấy giờ, dù tuyết có lớn hơn nữa, dù anh sợ lạnh bao nhiêu, cũng không thể không đi chuyến này.
Người đàn ông kia nói: “Cậu tìm Dư Phi làm gì?”, lời nói loáng thoáng có phần cao ngạo và nghiêm nghị.
Bạch Phỉ Lệ nghĩ bụng, nếu giờ mà giải thích chuyện ông ngoại bảo anh đến hỏi về người này thì không khỏi phiền phức quá rồi, huống chi anh vốn cũng chẳng biết tại sao ông ngoại lại đột nhiên hứng chí lên muốn tới nghe cô “Dư Phi” này hát hí khúc như thế. Vì vậy anh đơn giản hóa phức tạp, nói: “Trước đây từng được nghe Dư Phi hát “Du long hí phượng”, giờ lại không thấy cô ấy diễn nữa nên muốn hỏi thăm ạ.”
Người đàn ông kia “à” một tiếng, hỏi: “Cậu thích xem cô ấy diễn sao?”
Bạch Phỉ Lệ thầm nghĩ cái người này hỏi lắm thật, có điều vẫn nhẫn nhịn trả lời: “Dạ phải. Hát rất khá.”
Người đàn ông kia nói: “Cậu thích cô ấy hát vai Lý Phượng Thư à?”
Bạch Phỉ Lệ theo bản năng nghĩ, nếu cô Dư Phi này là nữ, vậy thì đương nhiên là hát vai Lý Phượng Thư rồi, y hỏi nhiều vậy làm gì? Bèn gật đầu.
Chỉ thấy người đàn ông kia cười lạnh một tiếng, nói: “Hết câu này tới câu khác toàn lời dối trá. Dư Phi không còn hát hí khúc ở đây lâu rồi, Thiện Đăng Đĩnh diễn xong không giữ người ngoài, cậu đi đi.”
Bạch Phỉ Lệ ngẩn ra, cũng không biết rốt cuộc mình để lộ sơ hở chỗ nào, lại vẫn cố hỏi thăm nốt: “Sao cô ấy lại rời đi? Ngài có biết cô ấy đi đâu không?”
Người đàn ông kia không thèm để ý đến anh nữa, duỗi tay ra, ý bảo anh ra ngoài.
Bạch Phỉ Lệ thấy chất liệu chiếc trường sam người đàn ông này mặc rất tốt, sau khi y xuất hiện, mấy cô gái vẩy nước quét nhà cũng im bặt không dám nói tiếp nữa, lủi đi thật xa, liền biết địa vị của người đàn ông này ở Thiện Đăng Đĩnh không thấp.
Anh đang vừa ra ngoài vừa tìm cách khác thì chợt nghe một tiếng kẽo kẹt, cửa rạp đóng lại. Gần như đồng thời, mấy cánh cửa ra sảnh và sang chái nhà cũng đều đóng theo. Lúc này, một ông lão chạy vặt xách một ngọn đèn bão bằng sắt đi qua, anh vội hỏi: “Bác ơi, ở chỗ các bác có một cô gái tên là Dư Phi phải không ạ?”
Ông già gật đầu: “Đúng vậy, nhưng bị chủ thuyền đuổi ra ngoài rồi.”
“Tại sao vậy ạ?”
“Không nghe lời, phạm vào nội quy của thuyền thôi.”
“Giờ cô ấy đi đâu, bác có biết không ạ?”
“Sao tôi biết được?”
Bạch Phỉ Lệ nghĩ thầm ít nhất thì cũng đã biết được vì sao cô ấy không còn ở đây nữa, bèn cảm ơn ông già chạy vặt, chuẩn bị trở về. Đi được hai bước, bỗng nhiên một ý tưởng lóe lên, nhớ tới một chuyện vô cùng quan trọng, vội trở bước quay lại, hỏi ông già kia:
“Bác ơi, chỗ bác có cô gái nào biết diễn hát tên là Dư Uyển Nghi không ạ? Tuổi hơn hai mươi, thích mặc xường xám, tóc ngắn thế này này…” anh phác họa chiều dài.
Ông già lắc đầu, đáp chắc như đinh đóng cột:
“Chưa từng có người nào như vậy.”
***
Bạch Phỉ Lệ đi trong gió tuyết, vừa đi vừa hắt hơi liên tục. Trận tuyết này càng rơi càng lớn, tuyết bắt đầu tích lại trên mặt đất, bước đi đón gió mà gian nan.
Trong lòng anh cảm thấy mất mát. Lúc mới biết Thiện Đăng Đĩnh là một phường hí kịch, trong lòng anh chợt dấy lên một tia hi vọng. Trước đó, đến cả quán trà Lão Xá, rạp hát Lê viên, tất tần tật những nơi có biểu diễn kinh kịch anh đều đã điều tra, không thấy tồn tại cái tên Dư Uyển Nghi. Thiện Đăng Đĩnh này đúng là một con cá lọt lưới.
Nhưng ông già chạy vặt ban nãy hẳn là đã ở Thiện Đăng Đĩnh rất lâu rồi, cảm giác mang trên người như hòa làm một với những chậu cây đá tảng hai bên lối đi vậy. Ông ấy hoàn toàn phủ nhận, nói không có ai tên Dư Uyển Nghi cả, khiến chút hy vọng vừa dấy lên trong lòng anh lần thứ hai tắt ngóm.
Anh nghĩ, ước gì cái duyên số này lại linh thêm một lần nữa, chỉ một lần thôi cũng đủ rồi.
Ở thành phố Y năm ngày, duyên phận giữa anh và cô dày đậm đến chính anh cũng không tin được.
Nhưng đến cuối cùng lại hỏng bét chỉ vì một hành động nông nổi như vậy, khiến duyên phận này chỉ còn là quá khứ.
Gió to ào ào thổi, táp vào cành khô nghe xào xạc. Hàng đèn lồng trên bên Phật Hải đung đưa trong gió lớn tuyết dày, con đường ven mép nước không có lấy một bóng người.
Anh đi một hồi, chợt từ xa trông thấy cạnh xe anh có một bóng người lưng còng, vụng trộm lét lút nhìn chung quanh, rồi giơ một vật không rõ là gì trong tay lên, bắt đầu rạch một đường từ đuôi xe hướng ra đầu xe anh. Hắn rạch nghe “két…” một tiếng dài, khoảng cách xa như vậy mà Bạch Phỉ Lệ cũng nghe được.
“Mẹ kiếp…” Bất kể Bạch Phỉ Lệ có được giáo dưỡng tốt đến mức nào, tính tình hiện giờ có ôn hòa ra sao, gặp phải chuyện rạch xe xui xẻo này, cũng không nhịn được chửi thề thành tiếng.
Anh chạy vội về phía xe mình. Còn cách mấy chục mét, bước chân anh chợt khựng lại.
Anh thấy bên xe mình có thêm một cô gái mặc áo lông dáng dài chạy tới, cầm cặp sách gắng sức đập cái tên hèn hạ kia, vừa đánh vừa mắng to:
“Cái đồ biến thái nhà bây! Hôm nay lại để bà đây đụng phải bây! Bây còn rạch xe người ta nữa à! Biến thái!!! Cút mau!!!”
Giọng nói này đanh đá, hung hãn lại hào hiệp, đầy vẻ chửi bới dọa dẫm.
Nhưng vào tai anh lại thành dễ nghe hơn bất kỳ từ khúc nào.
Chớp mắt ấy, anh đứng lặng tại chỗ, trong đầu chỉ có mười chữ: Không dám cao giọng nói, chỉ sợ kinh người trên.
Đúng lúc này, chòi canh của Văn Thù Viện gõ trống thúc giục tăng nhân đi ngủ, tiếng trống mạch lạc như gõ vào tim, lại nghe hòa thượng gõ trống tụng:
“Phật ngày một rọi… Pháp luân xoay vòng… Mưa thuận gió hòa… Quốc thái dân an…”
Một câu lại một dùi, là đang xướng “Chú Đại Bi”.
Bạch Phỉ Lệ nghĩ, anh hẳn là nên đến trước mặt Văn Thù Bồ Tát bái tạ đi thôi.
***
Bạch Phỉ Lệ nhìn “cô gái” kia, chính xác, đúng là Dư Phi. Cô cầm cặp sách, hung hãn đập tên rạch xe nọ. Cặp sách rất nặng, có thể thấy được bên trong đựng không ít sách, góc sách chọc vào cặp tạo thành một đỉnh nhọn cứng.
Tên đàn ông kia chật vật giơ hai tay lên che chắn cho đầu, cong lưng tránh né, thoạt nhìn như đang kinh sợ. Đột nhiên, hắn vô cùng giảo hoạt vươn tay ra kéo một cái, ôm lấy cặp sách của Dư Phi vào lòng. Trong lúc Dư Phi cố giật lại cặp với hắn, hắn kéo khóa ngăn đựng sách, lôi hết sách bên trong ra ném bừa bãi.
Trong cặp ngoài sách thì còn có một vài tờ giấy đơn, bị tên bỉ ổi kia ném lung tung, lượn vòng trong gió, càng thổi càng bay tán loạn. Dư Phi thấy có mấy tờ giấy sắp bị thổi xuống Phật Hải, cuống cuồng buông quai cặp sách ra, đuổi theo mấy tờ giấy đang chao liệng.
Lúc này Bạch Phỉ Lệ đã chạy tới, bước một bước thật dài, cầm lấy cặp sách của Dư Phi, lại đạp một cước khiến tên kia ngã lăn xuống đất. Tên này nhìn tưởng tàn tạ thô tục, vậy nhưng thân thủ lại cực kỳ linh hoạt, thấy có thêm người tới, lập tức bật dậy như cá chép nhảy lên mặt nước, nhanh chân bỏ chạy. Bạch Phỉ Lệ định đuổi theo thì nghe Dư Phi bên kia kêu lên một tiếng đau đớn, quay đầu nhìn lại, thấy cô giẫm phải một khối băng bên Phật Hải, trượt chân ngã nhào. Mắt thấy cô sắp lăn xuống Phật Hải tới nơi, anh ba chân bốn cẳng chạy lại, bắt lấy tay Dư Phi kéo cô về.
Dư Phi chật vật nằm bò trên mặt đất, hai tay chống xuống đất ngẩng đầu lên. Bên hồ treo một hàng đèn lồng, dưới ánh đèn sáng rõ, Bạch Phỉ Lệ thấy cô đã đổi một kiểu tóc mới nhìn khá nữ sinh, tóc mái phủ ngang trước trán, phía sau, mái tóc đen nhánh đã dài đến ngang lưng. Chỉ có điều, tóc cô không những dày mà còn vừa thô vừa cứng, không được duỗi thẳng mà cũng chẳng ra kiểu mì sợi, lúc này lại còn rối bù, vừa giống ổ gà lại vừa giống bờm sư tử bị gió thổi tung.
Bạch Phỉ Lệ ngồi xổm xuống trước mặt Dư Phi, thưởng thức vẻ mặt hóa đá của cô. Anh nhặt lại những tờ giấy cô ra sức giữ vừa nãy lên, là bằng tốt nghiệp và giấy chứng nhận học vị, còn có cả phiếu điểm tốt nghiệp ra trường có đóng dấu. Trường học trên đó Bạch Phỉ Lệ chưa từng nghe đến, là bằng tốt nghiệp hệ cử nhân đại học.
Ngoài ra còn một bản in giấy báo thi, ghi danh làm nghiên cứu sinh học thạc sĩ toàn thời gian ở Học viện Hí khúc Trung Hoa. Ảnh trên giấy báo thi là hình ảnh của cô bây giờ, tóc mái ngay ngắn, gương mặt không trang điểm nhìn giản dị thanh tú, thậm chí còn có phần ngoan hiền, so với hình ảnh đầy kiêu ngạo anh gặp vào tám tháng trước, tưởng chừng như hai người khác nhau, nhưng mái tóc đầy phản nghịch không chịu vào nếp này, lại vẫn làm tiết lộ bản chất thật của cô.
Dư Phi trân trân nhìn người trước mặt nửa ngày, tin chắc rằng mình không nằm mơ, cũng không phải nửa đêm gặp ma, người trước mắt này, đích thị là giấc mộng hoàng lương của cô, Bạch Phỉ Lệ.
Hơn tám tháng không gặp, ngoại hình của anh cũng không thay đổi là bao, chỉ là dường như càng ngày càng đẹp thêm một chút. Mắt mày sắc nét hơn, như hàm chứa ánh sáng rực chói. Tóc dài ra không ít, rẽ ngôi bên, buộc lại. Tóc mái dài ôm lấy đường nét khuôn mặt tạo thành một độ cong mềm mại, ở giữa có vài lọn nhuộm màu xanh nhạt ngả trắng. Trên tai trái vẫn đeo khuyên, có điều đã đổi thành hình cá nhỏ, Dư Phi cảm thấy con cá dài nhỏ này nhìn giống cá thu, được tạo hình bằng hai đường. Hai đường kim loại này chiết thành hình cá thu tuy nhỏ, nhưng trên bụng cá vẫn nạm được những hoa văn mỏng như trên cửa sổ của giáo đường, màu gạch men, phối cùng màu tóc của anh, cực kỳ khéo léo.
Dư Phi ngẩn ngơ nghĩ, nếu cô cũng ăn mặc đầu tóc thế này ở Thiện Đăng Đĩnh, nhất định sẽ bị lôi ra đánh.
Ngón tay Bạch Phỉ Lệ chậm rãi lướt qua cái tên giấy trắng mực đen trên giấy báo thi, Dư, Uyển, Nghi.
Chữ số đầu tiên của dãy số căn cước giống hệt của anh.
Anh ngẩng đầu, cười đầy vô hại:
“Cô tên là gì?”
Dư Phi nhìn anh, ngẩn ra, tức khắc chửi ầm lên: “Con gà độc ác chết toi Bạch Phỉ Lệ! Trả đồ lại cho tôi!”
Bạch Phỉ Lệ nhìn vào mắt cô, khoan thai dùng lối nói vần đáp lại: “Thế này mà mắt đi mày lại với ta, há chăng cô có ý dzới qua?”
Anh nhớ rất sâu sắc câu nói này, lúc thuận miệng nói ra, có thể chỉ là vô ý. Nhưng anh lại không biết, lời này vào tai Dư Phi, giống như ngày đó anh chặn tay trước ngực A Quang, bàn tay xinh đẹp, không dùng chút sức nào, nhưng lại nhẹ nhàng linh hoạt đẩy được A Quang ra, cũng ầm ầm đẩy ra những chuyện mất lòng mà cô để phủ bụi suốt mấy tháng nay.
Bạch Phỉ Lệ, cái người đã cùng cô điên long đảo phượng trong bóng đêm, rồi lại chặn cô ra ngàn dặm vào ban ngày. Bạch Phỉ Lệ, cái người rõ ràng đã đuổi theo, vậy nhưng lại có thể núp một bên trơ mắt nhìn cô bị người của studio Phi Ngã ức hiếp. Bạch Phỉ Lệ, cái người vẫn lập lờ nước đôi trong khi cô đã buông hết thảy do dự để đến gần hết mức thăm dò.
Bạch Phỉ Lệ đương nhiên là rất có năng lực, trong khi cô thì vẫn còn đang giãy giụa vì chuyện ăn chuyện mặc, ngoài mạnh trong yếu, tử thủ lấy chút tôn nghiêm chẳng đáng một đồng.
Dư Phi nghĩ vậy, ánh mắt dần tối đi. Hoa tuyết rơi lên mặt, thấm hơi lạnh vào da, khiến cô từng chút từng chút tỉnh táo lại.
Cũng may trong kế hoạch đời cô không có Bạch Phỉ Lệ. Năm ngày thảm hại nhất đời cô, Bạch Phỉ Lệ đã xuất hiện, cô thừa nhận rằng cô đã có những giây phút động lòng trong chớp mắt. Trong màn mưa đen thẫm, cô đã ôm chặt lấy Bạch Phỉ Lệ, đơn phương tình nguyện mà coi anh là một cái phao cứu mạng, nhưng rất nhanh sau đó, cô liền biết đấy chỉ là một giấc chiêm bao, một ảo ảnh hư vô của cõi mộng.
Sư tử gì chứ. Chỉ là mộng thôi.
Cũng may cô chưa từng nói tên thật của mình cho họ biết, càng không nhắc đến cái tên “Dư Phi” này. Mẹ đã qua đời, Tiểu Phất Điệp thì gần như hoàn toàn mù tịt về cuộc sống của cô ở Bắc Kinh.
Trở lại Bắc Kinh, cô chỉ có hai bàn tay trắng, ngay cả hí khúc cũng không thể hát. Cô đành mặt dày đi tìm người cha đẻ cho tới giờ cũng chưa từng nói câu nào với cô để vay tiền, thuê một căn phòng cũ nát làm chỗ ở tạm thời, làm một vài công việc tạm thời để duy trì cuộc sống. Cô không muốn buông bỏ con đường kinh kịch này, vì vậy bắt đầu xin vào học viện hí khúc làm nghiên cứu sinh.
Vì lớn lên trong Thiện Đăng Đĩnh nên cô không trải qua hệ thống giáo dục chính quy. Con đường này không dễ đi, nhưng còn may, vẫn có chút hy vọng.
Cô tự nói với mình, cũng chỉ là ba năm mà thôi. Cô vẫn còn có thể bắt đầu lại từ đầu.
Cô bò dậy khỏi mặt đất, không nhìn Bạch Phỉ Lệ nữa, nhặt những cuốn sách xung quanh lên, bỏ lại vào cặp.
Bạch Phỉ Lệ qua ánh mắt cô cũng cảm giác được bầu không khí đã phai nhạt đi rất nhiều, điều này khiến anh hơi hoang mang. Anh nhìn những quyển sách kia, đều là tài liệu tham khảo ôn thi. Những trang sách bị gió thổi mở ra những màu sắc sặc sỡ, rất dễ nhìn ra được, chủ nhân của chúng đã bỏ ra rất nhiều công sức.
Anh hỏi: “Cô muốn học nghiên cứu sinh?”
Dư Phi lờ anh đi. Thu xong sách và tư liệu rồi thì đi về phía Phật Hải.
Bạch Phỉ Lệ đuổi theo kéo cô lại: “Cô đi đâu vậy?”
Dư Phi cựa khỏi tay anh, nói: “Không liên quan đến anh.”
Giọng cô rất lạnh nhạt, Bạch Phỉ Lệ thoáng sững sờ, hỏi: “Cô lại giận gì tôi à?”
Dư Phi đáp: “Không dám. Tôi không quen anh.”
Bạch Phỉ Lệ nói: “Mới nãy cô còn gọi tên tôi mà.”
Dư Phi lạnh lùng bỏ lại hai chữ: “Ảo giác.” rồi tránh khỏi anh, vội vã đi mất.
Cách đó mấy chục mét chính là ngôi đền thờ cổ kính đồ sộ của Phật Hải, đã nhiều năm chưa tu sửa, vôi sơn bong tróc, lộ ra màu sắc vốn có của gỗ đá xây dựng, nhưng cũng không làm tăng thêm mùi vị bị thời gian bào mòn mà hòa thành một thể với phong cách cổ xưa thanh bần của cả Phật Hải. Bên ngoài đền thờ chính là đường cái, xe cộ đang đi lại trong màn gió tuyết cuồn cuộn.
Dư Phi giơ tay ra chặn lại cái xe trống tiếp theo, lúc mở cửa định lên xe, đằng sau chợt vươn ra một cánh tay, đẩy mạnh một cái đóng cửa xe lại.
Tim Dư Phi mãnh liệt đập loạn, quay đầu lại. Tài xế thò đầu ra từ cửa sổ cạnh ghế lái, không nhịn được hô: “Rốt cuộc có lên hay không đây?”
Bạch Phỉ Lệ đáp: “Không ạ.”
Tài xế chửi thề một tiếng, quay cửa xe lên, nhanh chóng bỏ đi.
Dư Phi đẩy Bạch Phỉ Lệ một cái: “Anh làm gì vậy hả!”
Bạch Phỉ Lệ kéo cô đi về phía xe mình: “Tôi đưa cô về.”
Dư Phi ra sức giãy giụa, nhưng trang phục anh mặc trên người không mỏng, cô muốn cắn cũng không có chỗ nào mà cắn. Giọng cô rít lên, quát: “Tôi không cần anh giúp! Anh là gì của tôi hả? Đừng tưởng ngủ với tôi một đêm là có quyền tham dự vào cuộc sống của tôi! Muốn chơi gái thì tìm người khác đi, đừng có gây chuyện với tôi!”
Bạch Phỉ Lệ chợt dừng bước, hỏi: “Cô cảm thấy tôi đang “chơi” cô?”
Mắt Dư Phi đỏ hoe, trong lòng lại luống cuống, nói: “Ngủ cũng ngủ rồi, hôn cũng hôn rồi, vậy mà chớp mắt liền trở mặt, đến cả một câu tử tế cũng không nói với tôi, anh cảm thấy tôi chính là loại người mà anh dùng ba vạn tệ là có thể đuổi được đúng không? Là loại ai cũng hôn được ai cũng sờ được, chẳng khác gì gái đứng đường đúng không?”
Bạch Phỉ Lệ nghe mà ngực phập phồng, hít một hơi thật sâu, môi mím chặt, quay đầu sang phía khác, trong mắt lấp lánh sóng nước.
Thấy anh phản ứng như vậy, cũng không biết là tức giận hay làm sao, trong lòng Dư Phi càng thêm lạnh lẽo, giống như bị một con dao nhỏ cứa qua, giãy khỏi tay anh, nghiến răng nói: “Tôi giờ sống rất ổn, không cần anh giúp đỡ, thật đấy. Tối đó lúc đám Ly Hận Thiên đánh tôi anh không giúp, giờ dù có giúp, tôi cũng…”
Anh bỗng dưng quay mặt lại, nói: “Khi đó tôi không phải là không muốn giúp cô…” anh dừng lại nhìn cô, trong mắt vừa đen vừa sâu, lại như mang một vẻ được ăn cả ngã về không.
Anh nói:
“Nếu tôi nói tôi có bệnh, bệnh tâm lí, cô có tin không?”
Dư Phi lạnh lùng cười khẩy, ném trả anh một câu: “Tôi thấy anh đúng là bệnh thật.” Cô quay người bỏ đi, lại chỉ ngón tay vào anh:
“Đừng có theo tôi.”
Cô cản một chiếc xe lại. Bạch Phỉ Lệ đuổi tới, cô cố sức tay đấm chân đá, gỡ tay anh ra, trèo lên xe, nói với bác tài: “Đi mau!”
Nhưng xe đi khỏi chưa được bao xa, cô lại xuống.
Cô đang lục lại cặp sách.
Bạch Phỉ Lệ vốn đã quay lại xe, định lái xe đuổi theo, thấy cô vội vội vàng vàng chạy về bên Phật Hải, bèn xuống xe lần nữa.
Dư Phi ôm cặp sách, cúi người tìm kiếm tỉ mỉ trên bờ Phật Hải, dáng vẻ vô cùng lo lắng.
Anh đuổi tới hỏi: “Cô tìm gì vậy?”
Dư Phi xoay người lại, mắt đỏ ngầu, nắm lấy ngực áo anh hỏi: “Anh có lấy ví tiền và điện thoại của tôi không hả?”
Mặt cô đỏ ửng nôn nóng và xúc động, đỏ bừng bừng. Bạch Phỉ Lệ ngẩn ra, lắc đầu.
Dư Phi buông tay, tỉnh táo lại, nhụt chí nói: “Cũng đúng, anh cũng không phải người như vậy.”
Bạch Phỉ Lệ hỏi: “Mất rồi à?”
Dư Phi cúi đầu cắn răng, ôm chặt cặp sách: “Nhất định là do tên trộm khốn kiếp kia thó mất rồi. Lần sau mà để tôi bắt được hắn, phải đánh cho gần chết trước đã rồi mới đưa đến đồn cảnh sát.”
Cô nghiến răng nghiến lợi, rồi lại cảm thấy bất lực tột cùng. Cả hai đều im lặng, rơi vào một bầu không khí gượng gạo khó nói.
Cuối cùng, Bạch Phỉ Lệ đưa điện thoại cho cô: “Gọi báo mất thẻ ngân hàng và điện thoại đi.”
Dư Phi thấp giọng nói: “Cũng chẳng có gì để mà báo mất.” nhưng vẫn cầm lấy điện thoại anh đưa, lần lượt gọi điện cho ngân hàng và nhà mạng.
Bạch Phỉ Lệ hỏi: “Báo cảnh sát chưa?”
Dư Phi đáp: “Vô dụng.”
Lòng cô ủ rũ. Những người cô thường liên lạc vốn không nhiều lắm, dạo gần đây đang chạy nước rút cho kỳ thi, càng không đụng gì tới máy móc, chỉ để máy dưới đáy cặp.
Trong ví cũng không có bao nhiêu tiền, nhưng có thẻ căn cước. Quan trọng nhất là, còn có một cái chìa khóa và thẻ vào cửa khu chung cư.
Bạch Phỉ Lệ hỏi: “Tôi đưa cô về nhé?”
Cô cúi đầu, lần này không nói gì.
Cô cảm thấy sợ hãi chết đi được, xui xẻo chết đi được. Có cao ngạo tự tôn hơn nữa ở trước mặt Bạch Phỉ Lệ cũng đều vỡ nát thành vụn thủy tinh rơi đầy đất cả.
Cô vẫn như cũ vô thức mở cửa sau ra. Bạch Phỉ Lệ hắt hơi một cái, vươn tay ra đè chặt cửa sau lại: “Ngồi lên trên.”
Dư Phi nhớ trước đây anh từng nói: Tôi không thích có người ngồi sau lưng tôi.
Mọi thứ dường như hiện rõ mồn một ra trước mắt. Cô cũng không biết vì sao mình còn nhớ rõ ràng đến vậy.
Ngồi vào cạnh ghế lái, kéo dây an toàn xong xuôi, Dư Phi nghe thấy có tiếng động trên ghế. Quay đầu lại nhìn, thấy một cái lồng sắt, bên trong là bóng dáng đen thùi lùi của một con mèo.
Bạch Phỉ Lệ nói: “Nó tên là Cọp Cái.”
Cô hỏi: “Cái à?”
Bạch Phỉ Lệ: “Đực.”
Dư Phi: “…”
Bạch Phỉ Lệ lái xe, Dư Phi thấy mu bàn tay trắng nõn của anh bị móng tay cô cào cho mấy vệt dài hồng hồng, tuy còn may chưa chảy máu, nhưng cũng vô cùng chói mắt.
Cô vẫn đầy một bụng buồn bực. Cục tức này hiện giờ dường như đã tiêu bớt đôi chút, nhưng cô vẫn không hé răng nửa lời.
Cô chỉ đường cho Bạch Phỉ Lệ lái xe đến cửa khu chung cư. Khu chung cư là một tòa nhà cũ xây từ những năm tám mươi, phần lớn toàn người già ở, đâu đâu cũng là cửa chống trộm; tường gạch cao vút, trên tường cắm những mảnh chai vỡ phòng có người trèo tường.
Dư Phi không có thẻ vào cửa, xớ rớ hồi lâu ngoài cổng khu chung cư, vẫn không thấy có bảo vệ đi ra. Xuyên qua khe cửa sắt nhìn vào, phòng bảo vệ đã tắt đèn. Cô hà hơi vào hai tay, chuẩn bị trèo cổng. Đối với hành vi không đi đường thường này của cô, Bạch Phỉ Lệ không tỏ ý kiến gì, đứng bên cạnh đỡ cô một tay.
Cổng sắt lạnh thấu xương. Dư Phi mới đặt hai tay lên đỉnh cổng đã có cảm giác như tay sắp dính luôn vào cổng sắt rồi. Đúng lúc này chợt thấy một luồng ánh sáng trắng xóa rọi lên người, giọng hai người đàn ông vang dội xuyên qua màn tuyết tán loạn vọng đến: “Ai đó!”, “Có trộm!”
Dư Phi bấu lấy một điểm cao cao trên cổng sắt, nương theo ánh đèn nhìn thấy có hai người chạy tới, loáng thoáng có thể thấy được đều mặc đồng phục, trong tay cầm côn cảnh sát. Gần đây tần suất xảy ra trộm cắp ở khu này tăng vọt, cô biết họ là cảnh sát tuần tra ở khu vực quanh đây, trong lòng thầm mắng một câu: Chuyện quái gì thế này!
Cô không muốn vào đồn cảnh sát, sắp thi tới nơi rồi, nhiều một chuyện không bằng bớt một chuyện. Nhảy xuống, cô kéo Bạch Phỉ Lệ bỏ chạy! Ánh đèn sau lưng lung lay tít mù, chói chang khiến cô hãi hùng. Cũng may xe Bạch Phỉ Lệ chỉ cách có mấy bước bên ngoài, hai người trèo lên xe, anh cho xe chạy, nhanh chóng hòa vào dòng xe trên đường lớn.
Dư Phi ấn tay lên lồng ngực đang nảy lên thình thịch, thở dốc vài hơi, nói: “Bạch Phỉ Lệ, gặp anh cái là chẳng chuyện gì tốt lành.”
Bạch Phỉ Lệ giữ tay lái, nhìn thẳng về phía trước, giọng nói nhàn nhạt: “Lời này nên là của tôi.”
Hai người đồng thời im lặng trong chốc lát. Bạch Phỉ Lệ lên tiếng: “Hay tôi đưa cô quay lại thử thêm lần nữa? Nói không chừng lại có người về.”
Dư Phi uể oải lắc đầu: “Về rồi còn phải tìm người mở khóa đổi khóa nữa, muộn thế này rồi, lại còn đổ tuyết, chưa chắc đã tìm được ai.” Cô ngừng lại, giọng ỉu xìu, nói: “Mượn anh vài trăm tệ được không? Tôi tìm một khách sạn ở tạm, mai sẽ trả lại tiền cho anh.”
Như sợ bị anh cười nhạo, cô lại tự giễu lẩm bẩm: “Mới nãy nói không cần anh giúp đỡ, toàn là mạnh miệng, tôi giống hệt kẻ ngu vậy.”
Bạch Phỉ Lệ không cười nhạo cô. Qua thêm vài phút, cô cho rằng anh là đang từ chối trong im lặng, xấu hổ vô cùng, đang định xuống xe, lại nghe anh hỏi:
“Không có thẻ căn cước sao ở được?”
Cô nhất thời nghẹn lời.
Xe đang ở trên cầu vượt vòng cung bao quanh thành phố. Ngoài cửa sổ, cầu vượt cao thấp giao thoa như một con rồng thân dài lượn quanh những công trình kiến trúc san sát. Đèn đường đều tăm tắp soi rọi, xe cộ qua lại như tô điểm lên thân rồng những cái vẩy lấp lánh, trong màn tuyết tung bay, đẹp đến nao lòng.
Dư Phi ghé vào cửa sổ ngắm cảnh sắc tráng lệ ấy. Thành phố này cô đã ở hơn mười sáu năm, đã trở thành ngôi nhà thứ hai của cô. Thành phố này phồn hoa như vậy, ngày đêm đều chưa từng có lúc nào tối tăm quạnh quẽ, đèn đóm đỏ vàng, trên cao ốc lúc lúc lại lóe lên đèn báo hiệu hàng không, rõ ràng ấm áp là vậy, nhưng cũng có thể phút chốc khiến cô mất chốn dung thân.
Cô có chút bất lực, lẩm bẩm nói: “Cho tôi mượn xe ngủ một đêm nhé.”
Bạch Phỉ Lệ không đáp lời, Dư Phi cũng sức cùng lực kiệt, từ từ nhắm hai mắt lại, uể oải dựa lên cửa sổ xe. Cũng không biết là bao lâu sau, lúc mở mắt ra, xe đang đi qua một trạm gác. Cần chắn đỏ trắng đan xen dựng thẳng lên, Bạch Phỉ Lệ lái xe vào một xứ sở tĩnh mịch.
Bốn phía đều là cây lớn, ngoài công viên ra, Dư Phi rất hiếm khi thấy ở Bắc Kinh có chỗ nào có nhiều cây cao như vậy.
Giữa cây cối và bãi cỏ, rải rác có những tòa nhà gạch nho nhỏ, kiến trúc kiểu Tây Dương thời Dân quốc, thoạt nhìn rất cổ kính, trên mặt tường bám đầy những dây thường xuân khô héo.
Xe dừng lại trước một căn nhà hai tầng. Bạch Phỉ Lệ xuống xe, xách lồng mèo ở ghế sau ra, đặt vào tay Dư Phi. Tay Dư Phi trầm xuống, cô hỏi: “Đây là đâu?”
Bạch Phỉ Lệ lấy chìa khóa ra mở cửa: “Nhà bà ngoại tôi.”
Dư Phi cả kinh: “Anh dẫn tôi đến đây làm gì?”
Bạch Phỉ Lệ đáp: “Trên nóc có một gác xép, cô ở tạm đêm nay đi.”
Dư Phi lưỡng lự. Cọp Cái chừng như ngửi được mùi nhà, bắt đầu chạy loạn trong lồng, trọng tâm lồng sắt đổi qua đổi lại, Dư Phi nhấc lồng sắt lên, chỉ thấy một đôi mắt đen láy lanh lợi đang nhìn mình lom lom, đầy vẻ hiếu kỳ.
Bạch Phỉ Lệ nói: “Ông bà tôi không có nhà. Nếu cô cảm thấy có tôi ở đây khiến cô không thoải mái, tôi sẽ sang chỗ khác.”
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!