Hai vạn dặm dưới biển
Chương 29 - 30
Chương 29
Đường Ngầm A-ra-bi-a
Ngay hôm đó tôi kể lại cho Công-xây và Nét Len về cuộc nói chuyện giữa tôi và thuyền trưởng Nê-mô mà tôi chắc họ sẽ thích thú. Khi tôi nói hai ngày nữa tàu sẽ tới Địa Trung Hải thì Công-xây vỗ tay, còn Nét nhún vai nói:
-Đường ngầm à? Đường nối liền hai biển à? Chưa nghe ai nói bao giờ!
-Anh bạn Nét ơi, -Công-xây trả lời, -thế trước kia anh bạn có được nghe nói về tàu Nau-ti-lúx không? Không! Thế mà nó vẫn tồn tại. Vậy anh đừng nhún vai làm chi vô ích và đừng viện cớ chưa nghe thấy ai nói mà phủ nhận tồn tại của sự vật.
-Được, rồi xem!
-Nét lắc đầu phản đối.
-Mà nếu con đường ngầm mà Nê-mô nói là có thật thì còn gì bằng nữa. Cầu trời phù hộ cho Nê-mô đưa được chúng ta sang Địa Trung Hải! Chiều tối hôm đó, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước gần bờ biển A-ra-bi-a. Phía xa là thành phố Gít-đa, một trung tâm buôn bán quan trọng của nhiều nước như Ai Cập, Xi-ri, Thổ Nhĩ Kỳ và ấn Độ. Một lát sau, bóng tối trùm lên thành phố và tàu Nau-ti-lúx vội lặn xuống làn nước lấp lánh như lân tinh. Hôm sau, mùng mười tháng hai, xuất hiện những chiếc tàu chạy ngược chiều. Tàu Nau-ti-lúx lại lặn xuống. Nhưng đến giữa trưa, lúc cần xác định tọa độ, biển vắng lặng, tàu lại nổi lên mặt nước. Tôi cùng Nét và Công-xây lên boong. Dải bờ biển ẩn hiện trong sương mù phía đông. Chúng tôi đang tựa vào đáy xuồng và nói chuyện phiếm thì Nét bỗng chỉ vào một chấm đen trên mặt biển rồi hỏi:
-Giáo sư có nhìn thấy gì không?
-Chẳng thấy gì cả! ông cũng biết mắt tôi chẳng lấy gì làm tinh lắm.
-Giáo sư hãy nhìn kỹ xem. Phía trước mặt chúng ta đấy. Tôi chăm chú nhìn rồi nói:
-Đúng là trên mặt biển có một vật gì đen và dài đang chuyển động.
-Lại một tàu Nau-ti-lúx nữa!
-Công-xây nói.
-Đâu phải!
-Nét phản đối.
-Nếu tôi không lầm thì đó là một động vật. Chẳng lẽ ở biển Đỏ lại có cá voi?
-Công-xây hỏi.
-Có, anh bạn ạ, -Tôi trả lời.
-Thỉnh thoảng người ta cũng gặp cá voi ở vùng biển này.
-Nhưng đây không phải là cá voi, -Nét vẫn không rời mắt khỏi chấm đen.
-Cá voi thì tôi quen thuộc lắm. Tôi nhận ra chúng từ xa.
-Chúng ta hãy kiên nhẫn.
-Công-xây nói.
-Tàu đang chạy về phía đó. Chỉ một lát nữa ta sẽ biết nó là cái gì. Tàu còn cách vật đen đen đó một hải lý. Vật đó giống phần trên của một dải đá ngầm. Nhưng nó là cái gì thì tôi chưa thể xác định được. Công-xây bỗng reo lên:
-A! Bò nước! Một chú bò nước thực sự! Bò nước! Đúng là chúng ta đã gặp một con thuộc họ bò nước mà truyền thuyết đã biến thành một động vật biển hoang đường nửa cá nửa phụ nữ.
-Không phải bò nước đâu mà là một động vật khác thỉnh thoảng còn thấy ở biển Đỏ. Đó là con đuy-gông, thuộc họ bò nước. Nét Len sẵn sàng chiến đấu. Mắt anh ta rực lửa. Anh thợ săn cá voi này đang đợi thời cơ để nhảy xuống biển quyết chiến với con vật! Anh ta nói giọng run run vì xúc động:
-ại, tôi chưa từng được “đánh” những con như thế này bao giờ! Cả con người Nét thể hiện trong câu nói đó. Vừa lúc ấy, thuyền trưởng Nê-mô lên boong. ông ta nhìn thấy ngay con đuy-gông, thông cảm với sự xúc động của Nét và hỏi anh ta:
-Nếu trong tay ông có súng thì có lẽ ông chẳng chịu để yên đâu nhỉ?
-Thưa thuyền trưởng đúng vậy.
-Và có lẽ ông không từ chối nếu được trở lại làm thợ săn cá voi trong một ngày đâu nhỉ?
-Vâng, sao lại từ chối ạ!
-Thế thì được, ông hãy cố gắng nhé!
-Xin cảm ơn thuyền trưởng!
-Mắt Nét Len sáng ngời.
-Nhưng ông chớ bắn trượt nhé! Nếu trượt thì thiệt cho ông đó!
-Chẳng lẽ đuy-gông lại nguy hiểm đến thế cơ ạ?
-Tôi hỏi Nê-mô mà chẳng chú ý tới Nét đang nhún vai.
-Trong vài trường hợp, nó khá nguy hiểm.
-Nê-mô trả lời.
-Đôi khi nó xông thẳng tới kẻ thù rồi lật úp thuyền. Nhưng ông Nét thì chẳng có gì phải sợ nó vì có đôi mắt rất tinh và hai cánh tay vững chắc. Tôi chỉ mong ông đừng để nó thoát vì thịt nó rất ngon. Nê-mô vừa dứt lời thì bảy thủy thủ đã lặng lẽ lên boong. Một người mang chiếc lao buộc vào sợi dây, giống như loại lao vẫn dùng bắn cá voi. Họ tháo xuống rồi hạ xuống nước. Sáu người chèo, một người cầm lái. Nét, Công-xây và tôi ngồi ở phía sau.
-Thuyền trưởng có cùng đi không ạ?
-Tôi hỏi.
-Thưa ngài, không. Xin chúc các ngài thành công!
Xuồng bơi về phía con đuy-gông đang ở cách chúng tôi hai hải lý. Khi còn cách mấy trăm mét thì xuồng đi chậm lại. Nét Len cầm lao đứng ở mũi. Như ta đã biết, lao săn cá voi thường được buộc dây rất dài và dễ tháo ra khi con cá lặn xuống sâu. Nhưng ở đây sợi dây chỉ dài không quá hai chục mét, đầu kia buộc vào một chiếc thùng rỗng để báo hiệu con cá bị thương đang nằm ở chỗ nào dưới biển. Tôi nhỏm dậy và chăm chú nhìn đối thủ của Nét. Con đuy-gông này thật đồ sộ: nó dài ít nhất bảy mét và nằm im không nhúc nhích. Hình như nó đang ngủ. Chiếc xuồng lặng lẽ tới cách con cá chừng sáu mét. Tôi bật dậy. Nét Len hơi ngả người ra phía sau rồi phóng lao. Lao bay vút đi. Con đuy-gông biến mất. Mũi lao này phóng đi rất mạnh nhưng rơi xuống nước.
-Khổ quá! Trượt rồi!
-Nét phát điên.
-Trượt đâu?
-Tôi nói.
-Nó bị thương rồi, có vệt máu trên mặt nước kia.
Con đuy-gông thỉnh thoảng lại nổi lên để thở. Rõ ràng vết thương chưa làm nó kiệt sức, vì nó còn bơi rất nhanh. Chiếc xuồng lướt theo vết con cá. Đôi lúc chúng tôi đuổi gần kịp và Nét đã chuẩn bị phóng lao nhưng nó lại lặn xuống ngay. Các bạn có thể hình dung được rằng Nét đã cáu kỉnh, giận dữ đến mức nào! Còn tôi thì thất vọng vì con đuy-gông đã phá vỡ mưu kế của chúng tôi. Chúng tôi rượt theo nó suốt một tiếng đồng hồ. Bỗng nó có ý định trả thù những người đuổi bắt, nó quay lại và xông thẳng tới chiếc xuồng. Hành động của con đuy-gông không lọt qua mắt Nét Len. Anh ta hô lên:
-Coi chừng! Người cầm lái nói mấy lời bằng thổ ngữ khó hiểu chắc là ra lệnh cho các thủy thủ khác cảnh giác. Tới cách xuồng chừng hơn mười mét, con cá hít không khí vào qua hai lỗ mũi rất rộng rồi lại tiếp tục lao tới. Chúng tôi không kịp tránh đòn. Chiếc xuồng tròng trành. Nước ùa vào, chúng tôi phải tát ngay ra, nhưng nhờ sự khéo léo của người lái mà xuồng không bị lật úp. Nét Len phóng lao liên tiếp vào con vật khổng lồ. Nó bèn đội thuyền lên khỏi mặt biển tựa như con sư tử tung con dê lên trời. Chúng tôi xô vào nhau. Tôi không biết sự thể sẽ diễn ra thế nào nếu như Nét không phóng lao trúng tim con cá. Con đuy-gông lặn xuống nhưng chỉ một lát sau xác nó bị lật ngửa, nổi bềnh lên mặt biển. Chúng tôi liền lôi nó về tàu Nau-ti-lúx. Con đuy-gông nặng năm tấn. Việc mổ cá được tiến hành dưới sự hướng dẫn của Nét. Hôm ấy, người phục vụ dọn cho chúng tôi món cá đuy-gông được đầu bếp trên tàu nấu rất khéo. Theo tôi, cá này ăn ngon hơn thịt bò. Hôm sau, 11 tháng 2, tàu từ từ chạy vào vùng Xuy-ê. Tôi thấy càng gần Xuy-ê nước biển Đỏ càng bớt mặn.
Tàu vượt qua eo Gu-ban rồi vào vịnh Xuy-ê. Đến sáu giờ, tàu chạy ngang qua thành phố To-rơ nằm sâu trong vũng biển có sắc nước đo đỏ như thuyền trưởng Nê-mô đã quan sát. Đêm đã tới. Cảnh tịch mịch chỉ thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng kêu của bồ nông hay một loài chim đêm nào khác, bởi tiếng sóng vỗ bờ hay tiếng còi tàu phía xa. Từ tám đến chín giờ, tàu chạy dưới mặt biển chừng vài mét. Theo sự tính toán của tôi, tàu đang ở gần eo đất Xuy-ê. Qua ô cửa phòng khách, tôi nhìn thấy chân các mỏm đá gần bờ được đèn pha trên tàu rọi sáng. Tôi cảm thấy eo biển hẹp dần lại. Chín giờ mười lăm phút, tàu nổi lên mặt nước. Tôi vội chạy lên boong vì nóng lòng muốn được vào ngay con đường ngầm của thuyền trưởng Nê-mô. Tôi tranh thủ hít thở không khí trong lành ban đêm. Một lúc sau, cách chúng tôi một hải lý, có ánh lửa thấp thoáng sau làn sương đêm.
-Đó là hải đăng nổi, -có tiếng người nói sau lưng tôi. Tôi quay lại thì thấy thuyền trưởng. Nê-mô nói tiếp:
-Đó là hải đăng nổi Xuy-ê. Chúng ta sắp tới cửa đường ngầm.
-Thưa thuyền trưởng, có lẽ vào đường ngầm cũng không dễ?
-Tôi hỏi.
-Vâng, tất nhiên không dễ. Vì vậy tôi phải lên phòng hoa tiêu để tự tay lái tàu. Và bây giờ xin mời giáo sư xuống phòng vì tàu sắp lặn và sẽ chỉ nổi lên khi vượt qua hết đường ngầm. Tôi đi theo thuyền trưởng. Các ô cửa đóng lại. Các bể chứa được bơm đầy nước. Tàu lặn xuống sâu mười mét. Tôi định về phòng riêng thì Nê-mô ngăn lại:
-Giáo sư có muốn lên phòng hoa tiêu với tôi không?
-Thế thì còn gì bằng nữa ạ!
-Ta đi thôi! ở đó ngài sẽ được thấy tất cả những gì có thể thấy được trong chặng đường ngầm dưới biển và dưới mặt đất này. Phòng hoa tiêu của tàu Nau-ti-lúx hình vuông mỗi bề gần hai mét. ở chính giữa là tay lái, xung quanh lắp kính cho phép người lái nhìn được cả bốn phía. Trong phòng tối om, nhưng một phút sau tôi nhận ra bóng người hoa tiêu hai tay đang cầm lái. Biển được chiếu đèn pha ở phía sau rọi sáng trưng.
-Nào, bây giờ ta hãy tìm cửa vào đường ngầm. Phòng hoa tiêu được nối với buồng lái bằng dây điện, giúp thuyền trưởng có thể vừa trực tiếp lái tàu, vừa điều khiển tốc độ của tàu. Nê-mô ấn nút, chân vịt liền quay chậm lại. Tôi lặng nhìn bức tường đá hoa cương dựng đứng. Tàu chạy dọc bức tường đó suốt một tiếng đồng hồ. Thuyền trưởng Nê-mô không rời mắt khỏi chiếc địa bàn. Theo hiệu của thuyền trưởng, người lái tàu thay đổi hướng tàu chạy từng phút. Đúng mười giờ mười lăm phút, thuyền trưởng bắt đầu đích thân cầm lái. Một hành lang rộng, sâu thẳm và ngoằn ngoèo đang hiện ra trước mắt chúng tôi. Tàu Nau-ti-lúx dũng cảm đi vào dưới vòm cuốn tối đen của hành lang đó. ở mạn tàu bên kia, có tiếng ào ào khác thường. Đó là nước biển Đỏ đang theo đường ngầm đổ vào Địa Trung Hải. Con tàu theo dòng nước lao đi như mũi tên, mặc dù máy móc trên tàu đã làm việc hết sức để giảm tốc độ bằng cách cho chân vịt quay ngược lại. Tim tôi đập thình thịch. Bất giác tôi đưa tay lên ngực. Đến mười giờ ba mươi lăm phút, thuyền trưởng Nê-mô trao tay lái cho hoa tiêu rồi bảo tôi:
-Địa Trung Hải rồi đó! Tàu Nau-ti-lúx bị nước cuốn qua eo Xuy-ê mất không đầy hai mươi phút.
Chương 30
Quần Đảo Hy Lạp
Rạng sáng hôm sau, 12 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước. Tôi chạy lên boong. ở chân trời phía nam, hiện lên hình dáng của thành phố Pê-lu-đi-om cổ kính. Gần 7 giờ sáng Nét Len và Công-xây cũng lên boong. Hai người bạn cố tri ngủ một mạch suốt đêm, chẳng quan tâm chút nào tới chiến công của tàu Nau-ti-lúx cả.
-Thưa nhà tự nhiên học, -Nét hỏi tôi bằng một giọng hài hước, -Địa Trung Hải đâu ạ?
-Chúng ta đang ở Địa Trung Hải rồi đó, ông bạn ạ.
-Chà chà! Thế là đêm qua…
-Đêm qua trong ít phút chúng ta đã vượt qua eo đất hiểm.
-Tôi không tin, -Nét trả lời.
-Không tin sao được, ông Nét!
-Tôi phản đối.
-Bờ biển thấp ở phía nam kia là bờ biển Ai Cập đó! Nét vẫn bướng bỉnh chưa tin. Tôi bảo Nét:
-ông hãy nghe tôi. Thuyền trưởng đã cho tôi vinh dự được lên phòng hoa tiêu xem con đường ngầm. ông ta tự tay lái tàu qua cái hành lang hẹp đó.
-Nghe thấy chưa, anh Nét?
-Công-xây hỏi.
-ông Nét ạ, -tôi nói tiếp, -mắt ông rất tinh. ông có thể phân biệt một cách dễ dàng con đê chạy dài ra biển của cảng Po Xa-ít. Nét chăm chú nhìn rồi nói:
-Giáo sư nói đúng, còn thuyền trưởng của ngài quả là tài năng kiệt xuất. Chúng ta đang ở Địa Trung Hải thật. Bây giờ, nếu có thể, ta hãy bàn việc riêng một chút, nhưng chớ để ai nghe trộm.
Tôi hiểu rõ ý đồ của Nét và nghĩ bụng:
“Dẫu sao cũng nên bàn bạc với anh ta vì anh ta muốn thế”. Thế là ba chúng tôi ngồi xuống gần đèn pha. Tôi nói:
-ông muốn nói gì thì nói đi, ông Nét. Tôi nghe đây.
-Thế này nhé. Chúng ta đang ở châu Âu. Trước khi Nê-mô có ý định cho tàu lặn xuống đáy biển Bắc cực hay quay lại châu Đại dương, ta phải chuồn khỏi tàu này! Thú thực là cuộc thảo luận với Nét về chuyện đó làm tôi lúng túng. Tôi không hề muốn gò bó Công-xây và Nét nhưng cũng chẳng có chút nguyện vọng nào chia tay với thuyền trưởng Nê-mô. Nhờ Nê-mô, nhờ con tàu của Nê-mô mà hằng ngày tôi bổ sung ình biết bao kiến thức về hải dương học, tôi viết lại cuốn sách của mình nói về những bí mật dưới đáy đại dương ở ngay trong lòng biển. Liệu tôi còn dịp được quan sát những kỳ quan ẩn giấu dưới đại dương không! Tất nhiên là không! Tôi không thể chấp nhận ý nghĩ rằng phải rời khỏi tàu Nau-ti-lúx mà chưa hoàn thành công trình nghiên cứu biển của chúng tôi.
-ông bạn Nét ạ, -tôi nói, -ông hãy trả lời tôi một cách thẳng thắn nhé. Chẳng lẽ trên tàu Nau-ti-lúx lại buồn sao? ông ân hận rằng số phận đã đẩy ông đến với thuyền trưởng Nê-mô à? Nét không trả lời ngay. Anh ta khoanh tay trước ngực rồi nói:
-Thực tình, tôi chẳng ân hận gì về việc được làm một chuyến đi chơi ngầm dưới biển. Tôi sẽ nhớ lại chuyến đi này một cách thú vị, nhưng cũng phải cho nó kết thúc chứ! Đấy, ý kiến của tôi là như vậy.
-Nó sẽ kết thúc, ông Nét ạ!
-Kết thúc ở đâu và bao giờ?
-ở đâu thì tôi không biết. Bao giờ, tôi không thể nói được, nhưng tôi nghĩ chuyến đi này sẽ kết thúc khi tất cả những vùng biển đã mở ra trước chúng ta mọi bí mật của mình. ở đời này cái gì chẳng có kết thúc!
-Tôi đồng ý với giáo sư, -Công-xây nói.
-Có lẽ sau khi đi khắp các biển trên trái đất, thuyền trưởng Nê-mô sẽ phóng thích tất cả ba người chúng ta.
-Phóng thích à?
-Nét nói như quát.
-Tống cổ đi thì đúng hơn!
-Hãy khoan, ông Nét!
-Tôi nói.
-Chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi thuyền trưởng, tuy vậy tôi cũng không đồng ý với Công-xây nghĩ rằng Nê-mô sẽ cho phép chúng ta loan tin ra khắp thế giới về chiếc tàu Nau-ti-lúx.
-Vậy ngài hy vọng vào cái gì?
-Nét hỏi.
-Tôi hy vọng trong tương lai tình hình sẽ thuận lợi hơn. Bây giờ, hay sáu tháng nữa cũng vậy thôi, phải không?
-Sao lại “cũng vậy thôi”?
-Nét mỉa mai.
-Xin giáo sư cho biết sáu tháng sau chúng ta sẽ ở đâu?
-Có thể là vẫn ở chỗ này, có thể là ở Trung Quốc. ông cũng biết tàu Nau-ti-lúx chạy rất nhanh. Nó vượt đại dương như én bay trên trời, hay tàu nhanh chạy trên lục địa!
Nó chẳng sợ gì các vùng biển châu Âu. Ai dám cam đoan rằng nó sẽ không đến gần bờ biển nước Pháp, nước Anh hay nước Mỹ, nơi mà những điều kiện chạy trốn sẽ còn thuận lợi hơn?
-Thưa ngài A-rô-nắc, -Nét trả lời, những lý lẽ của ngài ngược lại với lẽ phải. Ngài nói toàn chuyện tương lai:
“Chúng ta sẽ ở đây, chúng ta sẽ ở đó!”. Còn tôi thì nói chuyện hiện tại:
“Chúng ta đang ở đây, phải lợi dụng ngay thời cơ này!”. Lô-gich của Nét làm lập trường của tôi nghiêng ngả. Tôi cảm thấy mình bị thua vì đuối lý.
-Thưa giáo sư, -Nét nói tiếp, -giả sử ngay bây giờ thuyền trưởng Nê-mô yêu cầu chúng ta rời khỏi tàu Nau-ti-lúx, ngài có chấp nhận yêu cầu đó không?
-Tôi không biết.
-Nếu Nê-mô nói rằng sẽ không yêu cầu lần thứ hai nữa thì ngài tính sao? Tôi im lặng.
-Anh Công-xây tính sao? Công-xây bình thản trả lời:
-Công-xây thì không có ý kiến gì. Đối với anh ta thì thế nào cũng xong. Anh ta sống độc thân như chủ của anh ta, như bạn của anh ta. Chẳng ai mong đợi anh ta ở quê hương cả. Rất tiếc là trong vấn đề tranh luận này, không thể trông đợi gì ở anh ta được. ở đây chỉ có hai bên là giáo sư và Nét Len thôi. Anh ta sẵn sàng đứng làm trọng tài. Tôi bất giác mỉm cười khi nghe những lời khôi hài của Công-xây. Còn Nét trong thâm tâm chắc rất hài lòng vì đã loại ra được một đối thủ. Nét nói:
-Thưa giáo sư, nếu Công-xây không tham gia cuộc tranh luận này thì chỉ có tôi và ngài giải quyết vấn đề này. Tôi đã nói hết ý kiến và ngài cũng đã nghe hết. Thế bây giờ ngài thấy thế nào? Đành phải có ý kiến dứt khoát vì tôi không chịu nổi sự quanh co:
-ông bạn Nét ạ, tôi xin trả lời thế này. ông nói đúng, những lý lẽ của tôi không có trọng lượng bằng lý lẽ của ông. Thuyền trưởng Nê-mô không bao giờ tự nguyện thả chúng ta, không nên hy vọng gì vào điều đó. Vì bản năng tự vệ mà Nê-mô sẽ không trả lại tự do cho chúng ta. Nhưng cũng chính vì bản năng tự vệ mà khi có thời cơ là ta phải rời bỏ tàu Nau-ti-lúx ngay.
-Ngài nói thật là chí lý!
-Nhưng còn một điều nữa là phải đợi cơ hội thật thuận lợi. Đã hành động là phải thành công. Nếu thất bại là đi đứt! Nê-mô không bao giờ tha thứ cho ta đâu!
-Thưa giáo sư, vâng. Nhưng ý kiến của ngài quá chung chung. Vấn đề là thế này: nếu có thời cơ thuận lợi là phải chộp lấy ngay, phải không ạ?
-Đồng ý. Bây giờ ông hãy nói rõ thế nào là thời cơ thuận lợi.
-Giả sử có một đêm nào đó tối trời, tàu chạy gần bờ biển châu Âu… thời cơ thuận lợi là đó.
-Thế ông định bơi vào bờ à?
-Tất nhiên, tôi sẽ gắng bơi nếu tàu chạy trên mặt biển, còn nếu nó lặn xuống…
-Thì sao?
-Thì tôi sẽ cố chiếm cái xuồng. Tôi biết cách lấy nó rồi. Tên hoa tiêu trong phòng lái sẽ chẳng thấy ta chạy trốn đâu.
-Thế thì ông hãy đợi thời cơ! Nhưng ông chớ quên rằng nếu thất bại là nguy đấy.
-Thưa ngài, tôi sẽ không quên.
-ông Nét, bây giờ ông có muốn nghe ý kiến của tôi về kế hoạch của ông không?
-Xin giáo sư cứ nói.
-Tôi nghĩ rằng
-tôi không nói là “hy vọng rằng”
-sẽ không có thời cơ thuận lợi như vậy đâu.
-Vì sao?
-Vì thuyền trưởng Nê-mô nhìn sự việc rất tỉnh táo và tất nhiên sẽ đề phòng chúng ta, đặc biệt là khi gần bờ biển châu Âu.
-Tôi tán thành ý kiến của giáo sư, -Công-xây nói.
-Rồi xem!
-Nét lắc đầu.
-Ông Nét ạ, -tôi nói thêm.
-Chúng ta kết thúc câu chuyện này ở đây. Tuyệt đối không nên nói gì nữa! Hôm nào ông định chạy trốn thì báo trước cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ theo ông. Tôi hoàn toàn trông cậy vào ông.
Thế là kết thúc câu chuyện giữa ba chúng tôi, câu chuyện gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng sau này. Thật đau buồn cho Nét, những sự kiện xảy ra đã khẳng định ý kiến của tôi là đúng. Chẳng biết vì Nê-mô không tin chúng tôi hay vì ông ta tránh gặp các tàu thuyền ở Địa Trung Hải mà tàu Nau-ti-lúx phần lớn chạy ngầm dưới nước và cách xa bờ. Đôi khi tàu chỉ hơi nhô khỏi mặt nước, nhưng thường là lặn xuống khá sâu. Giữa quần đảo Hy Lạp và Tiểu á, tàu lặn xuống hai ngàn mét mà chưa chạm đáy. Tối hôm sau, 14 tháng 2, gặp thuyền trưởng Nê-mô ở phòng khách, tôi cảm thấy ông ta có nhiều điều tư lự không vui. Trái với lệ thường, Nê-mô ra lệnh mở rộng cả hai ô cửa sổ rồi vừa đi đi lại lại giữa hai ô cửa đó vừa chăm chú nhìn vào khoảng nước mênh mông. Việc làm đó có ý nghĩa gì? Thôi mặc ông ta, tôi quay ra nghiên cứu các loài cá đang tung tăng ngoài ô cửa. Tôi đang ngắm nhìn không chán mắt những kỳ quan của đáy biển thì một hiện tượng bỗng làm tôi giật mình. Có một người, một người thợ lặn xuất hiện, lưng đeo túi da. Đó không phải là một cái xác không hồn trôi theo dòng nước mà là một người còn sống đang bơi bằng đôi tay rất khỏe. Thỉnh thoảng anh ta ngoi lên mặt nước để thở rồi lại lặn xuống. Tôi quay về phía thuyền trưởng Nê-mô và kêu lên, xúc động:
-Có người sắp chết đuối! Phải cứu ngay! Phải cứu bằng mọi giá! Nê-mô chạy bổ tới ô cửa. Người đó bơi lại, áp mặt vào tấm kính và nhìn chúng tôi. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Nê-mô lấy tay ra hiệu cho người đó. Người đó gật đầu trả lời rồi ngoi lên đi mất.
-Giáo sư đừng lo!
-Nê-mô nói.
-Đó là anh Ni-cô-la ở mũi biển Ma-ta-pan, biệt hiệu là “Cá”. Anh ta nổi tiếng khắp vùng đảo ấy về tài bơi lặn. Ni-cô-la sống dưới nước nhiều hơn trên cạn! Anh ta thường bơi từ đảo này sang đảo khác.
-Thuyền trưởng biết anh ta ạ?
-Sao tôi lại không biết? Nói đoạn, Nê-mô bước tới chiếc tủ kê bên trái ô cửa. Gần tủ là một cái hòm bịt sắt, trên nắp có tấm biển nhỏ bằng đồng ghi phương châm của tàu Nau-ti-lúx: Mobilis in mobile Không đếm xỉa đến sự có mặt của tôi, Nê-mô mở tủ trong chứa đầy vàng thoi. Thứ kim loại quý đó lấy từ đâu ra? Và sao nhiều vậy? Nê-mô định dùng vàng để làm gì? Tôi chẳng nói một lời và trố mắt nhìn. Nê-mô lấy từng thoi vàng ra rồi xếp ngay ngắn vào hòm tới khi đầy ắp. Theo tôi, số vàng ấy phải nặng hơn một tấn, nói cách khác là bằng khoảng năm triệu phrăng. Nê-mô đậy nắp hòm lại rồi viết địa chỉ hình như bằng tiếng Hy Lạp lên trên. Sau đó, Nê-mô ấn nút điện có dây chạy xuống phòng thủy thủ. Bốn thủy thủ chạy tới và khá vất vả mới khiêng được hòm ra khỏi phòng khách. Thuyền trưởng quay lại hỏi tôi:
-Giáo sư nói gì vậy?
-Thưa thuyền trưởng, tôi chẳng nói gì.
-Thế thì xin chúc ngài ngủ ngon. Nói xong, Nê-mô bước ra khỏi phòng khách. Tôi quay về phòng riêng và cố gắng ngủ. Tôi rất thắc mắc về thái độ của thuyền trưởng. Giữa sự xuất hiện của người thợ lặn và cái hòm chứa đầy vàng có mối quan hệ gì? Một lúc sau, tàu Nau-ti-lúx từ lớp nước sâu nổi lên mặt biển. Tôi thấy tiếng chân lịch kịch trên boong. Người ta đang tháo xuồng ra và hạ xuống nước. Chiếc xuồng khẽ chạm vào thân tàu. Sau đó im lặng hẳn. Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Lại có tiếng chân thình thịch trên boong tàu. Xuồng được kéo lên. Tàu lại lặn. Thế là vàng đã được đưa tới địa chỉ, nhưng cụ thể là tới nơi nào trên lục địa này? Ai là người liên lạc của thuyền trưởng Nê-mô? Hôm sau, tôi trao đổi cảm tưởng đêm vừa rồi với Công-xây và Nét. Họ cũng ngạc nhiên chẳng kém gì tôi.
-Nê-mô lấy ở đâu ra nhiều vàng như vậy?
-Nét hỏi. Biết trả lời thế nào? †n sáng xong, tôi đến phòng khách làm việc. Tôi soạn lại những ghi chép của mình đến năm giờ. Tôi bỗng thấy nóng bức nên bỏ áo ngoài ra. Sao nóng thế này? Tàu đã cách xa vùng nhiệt đới và đang chạy dưới biển sâu, nơi nhiệt độ thấp. Đồng hồ chỉ độ sâu mười tám mét dưới mặt biển. ở độ sâu ấy, dù áp lực nước có tăng cũng chẳng có tác động gì. Tôi tiếp tục làm việc, nhưng nhiệt độ xung quanh tăng lên một cách đáng sợ. Tôi nghĩ bụng:
“Hay là tàu bị cháy?”.
Tôi đang định ra khỏi phòng khách thì thuyền trưởng Nê-mô xuất hiện ở ngưỡng cửa. ông ta bước tới chỗ đặt nhiệt kế, nhìn cột thủy ngân rồi bảo tôi:
-Bốn mươi hai độ!
-Vâng, nóng quá!
-Tôi trả lời.
-Nếu nhiệt độ còn tăng lên nữa thì chúng ta sẽ bị chín nhừ ra.
-Thưa giáo sư, nếu ta không muốn thì nhiệt độ sẽ không tăng nữa.
-Ngài có khả năng điều khiển cả nhiệt độ nữa à?
-Không phải! Nhưng tôi có thể ra khỏi cái lò lửa này.
-Đây là nhiệt độ của môi trường bên ngoài ạ?
-Tất nhiên! Tàu đang chạy trong nước sôi.
-Sao lại thế được!
-Tôi sửng sốt.
-Giáo sư hãy xem đây. ạ cửa ngoài mở ra khiến tôi trông thấy những ngọn sóng trắng xóa nổi lên quanh tàu. Từng đám hơi lưu huỳnh lan ra trong nước sôi sùng sục như trong chảo. Tôi vừa chạm tay vào ô kính thì phải rụt ngay lại vì nó nóng giãy.
-Chúng ta đang ở đâu vậy?
-Tôi hỏi.
-Đang ở quần đảo Xan-tô-rin, -Nê-mô trả lời.
-Tôi muốn để ngài xem núi lửa ngầm. Đó là một hiện tượng kỳ lạ!
-Tôi tưởng quá trình hình thành những đảo mới đã chấm dứt rồi.
-Trong lĩnh vực núi lửa thì quá trình hình thành đó không bao giờ chấm dứt. Ngọn lửa trong lòng đất hoạt động liên tục. Nếu ở Thái Bình Dương san hô có thể tạo nên các lục địa thì ở vùng biển này núi lửa cũng đóng vai trò như vậy. Ngài hãy nhìn xem hoạt động đó ở dưới biển sâu sôi nổi như thế nào! Tôi bước tới ô cửa. Tàu Nau-ti-lúx đứng tại chỗ. Không khí nóng bức khôn tả. Nước từ màu trắng đã chuyển thành màu đỏ. Dù cửa đóng rất kín, hơi lưu huỳnh ngột ngạt vẫn lọt vào phòng khách, và ô ngoài cửa thỉnh thoảng lại bùng lên những ngọn lửa đỏ rực làm mờ cả ánh sáng của chiếc đèn pha. Người tôi đẫm mồ hôi và thiếu không khí để thở. Tôi cảm thấy sắp bị chín nhừ, nên bảo Nê-mô:
-Ta không nên ở lâu trong cái chảo nước sôi này làm gì.
-Vâng, ở mãi đây cũng nguy hiểm, -Nê-mô bình thản trả lời. Theo lệnh Nê-mô, tàu Nau-ti-lúx chạy ngay ra khỏi vùng nước đó. Mười lăm phút sau, tàu nổi lên mặt biển. Chúng tôi được thở hít không khí trong lành một cách thỏa thích. Tôi nghĩ bụng:
“Nếu Nét chọn vùng biển lửa vừa rồi làm nơi bỏ trốn thì chúng tôi chẳng còn ai sống sót”. Hôm sau, 16 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx vòng qua mũi Ma-ta-pan rồi ra khơi, từ biệt quần đảo Hy Lạp.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!