Điều Lệnh Thứ Mười Một
Chương 26
Nguồn: thuquan
Mụ Giám đốc hỏi:
– Anh đang nói với tôi là cả ba người đã biến mất khỏi mặt đất sao?
Gutenburg đáp:
– CÓ vẻ như vậy. Việc đó được thực hiện lành nghề đến nỗi nếu như không biết Chắc là hắn đã chết thì tôi đã cho rằng ở đó có dấu ấn bàn tay Connor Fitzgerald.
– Và vì chúng ta biết chắc là không thể có điều đó, vậy thì là ai?
– Tôi cuộc đó vẫn là Jackson.
– Vậy thì nếu hắn đã trở về nước thì vợ Fitzgerald sẽ biết là chồng cô ta đã chết. Vậy thì từ giờ trở đi chúng ta có thể nghĩ là cuốn băng video gia đình đó sẽ được trưng lên bản tin buổi sáng bất cứ lúc nào.
Gutenburg cười tự mãn:
– Không thể – Hắn ta đưa cho chủ một gói nhỏ gắn xi- Cuối cùng đêm qua một trong các điệp viên của tôi đã tìm thấy cuốn băng, trước khi thư viện trường đại học đóng cửa vài phút.
Mụ Giám đốc vừa xé cái gói vừa nói:
– Vậy là một vấn đề đã được giải quyết. Nhưng điều gì khiến cho Jackson chưa nói cho Lloyd biết ai vừa bị giết ở Crucifflx kia chứ?
Gutenburg nhún vai:
– Dẫu cho hắn có báo cáo rồi đi chăng nữa thì thông tin đó có tác dụng gì đối với Wawrence kia chứ? Chẳng lẽ ông ta lại dám gọi điện cho ông bạn vàng Zerimski – người mà chỉ mấy ngày nữa sẽ sang thăm Washington trong một chuyến đi thăm thiện chí – để nói rằng kẻ vừa bị treo cổ vì đang định ám sát ông ta không hề là cái tên khủng bố người Nam Phi do bọn Mafya thuê, mà là một điệp viên CIA đang thi hành nhiệm vụ do chính Nhà Trắng trực tiếp yêu cầu?
Dexter nói:
– CÓ thể là ông ta không dám. Nhưng một khi Jackson cùng bọn đàn bà nhà Fitzgerald vẫn còn đó thì chúng ta còn vướng víu. Vì thế tôi cho là anh nên chọn lấy khoảng một tá điệp viên giỏi nhất để lùng cho ra bọn chúng, tôi không cần quan tâm họ làm việc ở bộ phận nào hay ai chịu trách nhiệm giao việc cho họ. Nếu Lawrence có thể chứng minh được là thật sự điều gì đã xảy ra ở St.Petersburg thì ông ta đã có quá đủ lý do để yêu cầu ai đó từ chức.
Gutenburg im lặng. Mụ Giám đốc nói tiếp:
– Và vì anh có chữ ký ở tất cả những tài liệu có liên quan, cho nên – lạy Chúa tôi – tôi không có cách nào khác là phải để anh ra đi.
Những giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán Gutenburg.
.
Stuart nghĩ rằng anh vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ tồi tệ Anh cố gắng nhớ lại những điều đã xảy ra. Mẹ của Tara ra đón họ ở sân bay rồi bà lái xe đưa họ về Washington. Nhưng rồi cảnh sát giao thông chặn xe họ lại, và yêu cầu anh hạ cửa kính xuống. Thế rồi…
Stuan nhìn quanh. Anh đang ở trong một chiếc máy bay khác, nhưng nó đang bay tới đâu? Tara đang ngồi ngả đầu lên vai anh, bên cạnh là mẹ cô, cả hai đều đang ngủ rất say. Tất cả các ghế khác trên máy bay đều rỗng không.
Anh bắt đầu điểm lại tình hình thực tế, như vẫn thường làm trong mọi vụ án. Anh và Tara đã đáp xuống sân bay Ðul1es, Maggie đang đứng chờ ở cổng…
Anh đang cố nhớ xem có chuyện gì xảy ra thì một người đàn ông trung niên ăn mặc rất lịch sự đến bên anh và cúi xuống bắt mạch.
Stuart hỏi:
Chúng tôi đang đi đâu thế này?
Nhưng ông ta không trả lời. Ông ta cũng bắt mạch cả Tara và Maggie, sau đó biến mất về phía cuối máy bay.
Stuart cởi dây an toàn nhưng không đủ sức đứng lên.
Tara cũng đã bắt đầu cựa quậy, nhưng Maggie vẫn ngủ mê mệt. Anh sờ vào túi. Bọn chúng đã lấy đi chiếc ví và hộ chiếu.Anh cố nghĩ để thử tìm một ý nghĩa nào đó của việc này. Ai lại có thể làm những việc quá khó khăn như thế này chỉ vì vài trăm đôla và một tấm hộ chiếu Austral1a kia chứ? Lạ hơn nữa là thay cho cuốn hộ chiếu thì họ lại đặt vào túi anh một tập thơ bình thường của Yeats. Trước khi gặp Tara anh chưa bao giờ đọc thơ của Yeats, nhưng sau khi cô trở về Stanfold thì anh bắt đầu thích các tác phẩm của ông. Anh mở quyển sách và đọc bài thơ đầu tiên. Ðối thoại giữa bản ngã và linh hồn.
Câu: Tôi sẵn lòng sống lại từ đầu, lại từ đầu được gạch dưới. Anh lật qua vài trang và nhận thấy có một số câu khác cũng được gạch dưới.
Trong khi anh đang nghĩ ngợi về những dấu hiệu này thì một người đàn ông cao to nặng nề đến bên cạnh anh.
Không nói câu nào, ông ta giật lấy cuốn sách trong tay anh và quay về phía đầu máy bay.
Tara chạm vào tay anh. Anh quay nhanh lại và nói thầm vào tai cô:
– Ðừng nói gì cả.
Tara liếc nhìn sang mẹ. Maggìe vẫn ngủ say, dường như đang trong một thế giới thanh bình.
.
sau khi Connor đặt hai chiếc vào vào giá và kiểm tra để tin chắc ba người hành khách vẫn sống và không bị đau đớn gì, gã bèn rời khỏi máy bay và chui vào trong chiếc BMW đã nổ máy sẵn.
Alexei Romanov ngồi bên cạnh, nói:
Chúng tôi vẫn tiếp tục giữ lời hứa về phía mình.
Connor gật đầu trong khi chiếc BMW chạy ra khỏi cổng và bắt đầu chạy về phía sân bay quốc gia Ronald Reagan.
Sau bài học ở Frankfurt, tay điệp viên CIA suýt nữa phát hiện được gã chỉ vì Romanov cùng hai tên đồng bọn đã quá lộ liễu, chỉ còn thiếu nước thông báo cho công chúng biết sự có mặt của bọn họ nữa mà thôi, Connor đã hiểu ra rằng nếu muốn thực hiện kế hoạch cứu Trưa và Maggie thì gã sẽ phải tự tay thi hành. Cuối cùng Romanov cũng chấp nhận điều đó, sau khi Connor nhắc đến một điều kiện mà cha hắn đã nhận. Giờ đây Connor chỉ hy vọng một điều là Stuart có khả năng như đã tỏ ra hồi ở trên bãi biển Austral1a. Gã cầu nguyện để Stuart chú ý đến những từ gạch chân trong cuốn sách gã đã bỏ vào túi áo anh ta.
Chiếc BMW dừng lại ở bên ngoài lối vào phòng chờ của sân bay nội địa Washington. Connor bước ra, Romanov đi bên cạnh. Hai người khác cũng nhập vào bọn họ và đi theo Connor trong khi gã bình thản bước vào sân bay và đi về phía quấy. Gã cần để cho họ chùng lại một chút trước khi có một động thái tiếp theo.
Lúc Connor đưa vé ra, người đàn ông ngồi sau bàn của hãng Hàng không Mỹ nói:
– Xin lỗi, ngài Radford, nhưng chuyến bay số 383 đi Dal1as hơi chậm lại một chút, tuy nhiên chúng tôi hy vọng sẽ sắp xếp được thời gian như thường lệ. Xin mời ngài ra cổng 32 để lên máy bay.
Connor bước đi một cách bình thường về phía phòng cách ly, nhưng gã dừng lại khi nhìn thấy dãy buồng điện thoại. Gã chọn một buồng kẹp giữa hai buồng khác.
Romanov và hai tên kia đứng lại chờ cách đó vài bước, trông Romanov có vẻ không hài lòng. Connor mỉm cười với bọn chúng vẻ rất vô tư, sau đó nhét tấm thẻ gọi điện thoại quốc tế của Stuart vào khe và quay để gọi một số ở Cape Town.
Chuông đổ hồi lâu mới thấy có người trả lời:
– Tôi nghe.
Connor đây.
Một hồi im lặng kéo dài, cuối cùng Can đáp:
– Tôi nghĩ chỉ có Chúa Jesu mới có thể sống lại sau khi đã chết mà thôi.
Connor đáp:
– Tôi đã chuộc tội một thời gian rồi mới sống lại được đấy.
– Vậy, ít nhất thì anh cũng đang còn sống, bạn của tôi.
Tôi có thể làm gì cho anh đây?
– Trước hết, theo như Công ty hiểu thì không có sự sống lại đâu.
Carl đáp:
– Tôi hiểu.
Connor vừa trả lời xong câu hỏi cuối cùng của Carl thì nghe thấy lần gọi cuối cùng cho chuyến bay 383 đi Dallas. Gã đặt ống nghe xuống, lại mỉm cười với Romanov rồi nhanh chóng đi về phía cổng 32.
Cuối cùng khi Maggie tỉnh dậy, Stuart nhoài tới và bảo chị không được nói gì hết trước khi tỉnh hẳn. Mấy phút sau một tiếp viên hàng không hiện ra và yêu cầu họ hạ bàn ăn xuống. Mấy món ăn được đem tới, cứ như họ đang ngồi ghế hạng nhất trong một chuyến bay bình thường.
Trong khi ăn một con cá, Stuart thì thầm với Maggie và Tara:
– Cháu không hề có khái niệm chúng ta đang ở đâu hoặc đang đi đâu, nhưng cháu tin là chuyện này có liên quan đến Connor.
Maggie gật đầu và khẽ nói cho họ biết những gì chị phát hiện được sau cái chết của Joan. Chị nói:
Nhưng mẹ không nghĩ bọn người đang giữ chúng ta đây lại là CIA, bởi vì mẹ đã nói với Gutenburg là nếu như mẹ mất tích lâu hơn bảy ngày thì cuốn băng video đó sẽ được chuyển cho các hãng truyền hình.
Stuart nói:
– Trừ phi bọn chúng đã tìm thấy cuốn băng.
Maggie nhấn mạnh:
– Nhưng chúng không thể tìm thấy được.
Tara nói:
– Vậy chúng là bọn quái quỷ nào?
Không ai nói gì nữa bởi vì cô tiếp viên đã quay lại và im lặng dọn các khay của họ. Sau khi cô tiếp viên đã đi khỏi, Maggie hỏi:
– Còn chuyện gì nữa không?
Stuart nói:
Chỉ còn một điều nữa, đó là không biết có ai đó đã nhét vào túi áo cháu một cuốn thơ của Yeats.
Tara nhận thấy Maggie giật mình. CÔ lo lắng hỏi khi thấy mẹ ứa nước mắt:
– Sao thế mẹ?
– Con không hiểu điều đó có nghĩa là gì?
Tara có vẻ bối rối:
– Không, con không hiểu.
Maggie nói:
Nhất định cha con còn sống. Ðưa mẹ xem nào. CÓ thể cha con nhắn gì ở trong đó.
Stuart nói:
– Rất tiếc là cháu không còn cầm nó nữa. Cháu vừa mới mở nó ra thì một người to lớn từ phía đầu máy bay đi tới và tước mất cuốn sách rồi. Nhưng cháu để ý thấy có mấy từ được gạch chân.
Maggie hỏi dồn:
– Những từ gì?
– Cháu chẳng hiểu từ nào trong đó cả.
– Không sao. Cháu có nhớ từ nào không? Stuart nhắm mắt và cố tập trung tư tưởng, cuối cùng bật ra “sẵn lòng”.
Maggie mỉm cười:
– Tôi sẵn lòng sống lại từ đầu, lại từ đầu…
.
Chuyến bay số 383 hạ cánh xuống Dallas đúng giờ, khi Connor và Romanov ra khỏi máy bay thì một chiếc BMW màu trắng khác đã chờ sẵn để đón họ. Chẳng lẽ bọn Mafya đặt cả một lô xe này hay sao? Connor phân vân Hai tên lực lưỡng hộ tống bọn họ gần đây nhất trông như vừa được thuê từ một lò luyện võ – thậm chí dưới áo khoác mà vai chúng cũng u lên từng tảng.
Gã chỉ hy vọng ở chi nhánh Cape Town vừa được thành lập, mặc dầu gã không tin rằng Canl không làm nổi việc giữ mấy người này cẩn thận – anh ta đã có hai mươi năm kinh nghiệm, và là một điệp viên lâu năm của CIA.
Hành trình đến trung tâm thành phố Dal1as chỉ mất hơn hai mươi phút. Connor im lặng ngồi phía sau xe, biết rằng mình sắp phải đối mặt với một kẻ khác cũng đã làm việc cho CIA. Mặc dầu hai bên chưa bao giờ gặp nhau:
nhưng gã biết đây là sự mạo hiểm lớn nhất kể từ khi gã trở về Mỹ. Nhưng nêu như bọn Nga muốn gã tôn trọng điều khoản chính yếu nhất của hợp đồng thì gã sẽ phải sử dụng khẩu súng lý tưởng duy nhất đó để tiến hành ám sát.
Sau một quãng đường im lặng nữa họ đỗ lại bên ngoài Trung tâm thương mại Harding Bia Game. Connor nhanh chóng bước vào cửa hàng, Romanov và hai cái bóng của hắn theo sát gã từng bước. Gã tiến đến trước quầy bán hàng trong khi mấy người kia giả vờ như rất thích thú ngắm nghía dãy súng ngắn tự động bày ở cuối cửa hàng.
Connor nhìn quanh. Gã cần quan sát nhanh, kín đáo nhưng phải bao quát. Mấy giây sau gã đã tin rằng trong cửa hiệu không đặt camera quan sát.
Một người bán hàng trẻ tuổi mặc chiếc áo khoác dài màu nâu hỏi:
– Xin chào ngài. Ngài cần thứ gì ạ?
Tôi định đi săn, và muốn mua một khẩu súng trường.
– Ngài đã định loại nào chưa ạ?
CÓ một khẩu Remington 700.
– Vậy thì không có vấn đề gì khó khăn cả, thưa ngài.
Connor nói:
– CÓ lẽ cần phải gia công thêm một chút.
Người bán hàng lưỡng lự:
– Xin ngài chờ cho một phút.
Anh ta biến mất qua một tấm rèm để vào phòng phía trong.
Một phút sau một ông già, cũng mặc áo khoác nâu, bước ra. Connor hơi giật mình: gã đã hy vọng là sẽ mua được khẩu súng mà không cần phải làm việc trực tiếp với Jim Harding huyền thoại.
ông già nhìn kỹ người khách, nói:
– Xin chào ngài. Tôi được biết ngài quan tâm đến một khẩu Remington 700 – ông ta ngừng lại một phút – với một chút cải tiến, phải không ạ?
Connor nói:
– Vâng, một người bạn đã giới thiệu tôi đến đây.
Harding nói:
– Bạn của ngài chắc phải là một tay chuyên môn.
Vừa nghe đến từ “chuyên môn” Connor đã biết ông ta đang thử mình. Nếu như Harđing không phải là một strradivarius (thợ làm đàn violon nổi tiếng của Italia) của những khẩu súng huyền thoại thì có lẽ gã đã rời khỏi cửa hàng mà không nói thêm một lời nào.
Harding hỏi, mắt vần khống rời người khách:
– Ngài muốn sửa đổi như thế nào?
Connor tả kỹ lại khẩu súng mà gã đã bỏ lại ở Bogotá và quan sát thật kỹ xem ông ta có phản ứng gì không.
Khuôn mặt Harding vẫn thản nhiên:
– Thưa ngài, có lẽ tôi có một vật sẽ làm ngài vừa lòng – ông ta nói và biến mất vào sau bức rèm.
Một lần nữa Connor tính chuyện đi ra, nhưng chỉ mấy giây sau Harding đã trở lại, mang theo chiếc van đa quen thuộc và đặt lên bàn quầy.. ông ta nói:
– Chúng tôi mua lại được khẩu súng này sau khi chủ nhân của nó mới chết gần đây.
ông ta bật khóa, mở nắp và nghiêng van để Connor có thể nhìn thấy khẩu súng.
– Tất cả để được chế tạo bằng tay, và tôi tin là ngài sẽ không thể tìm được một khẩu súng nào tốt hơn khẩu này trong tất cả các cửa hàng bán đồ kỹ nghệ loại này ở khắp vùng Mississippi này đâu. – Harding vuốt ve khẩu súng vẻ trìu mến – Báng làm bằng sợi thuỷ tinh, như vậy nhẹ nhất và thăng bằng nhất. Nòng thì nhập từ Ðức – tôi nghĩ là vẫn chỉ có nhà Krauts làm được những nòng súng tốt nhất hiện nay. Kinh ngắm là loại Leupold 10 Power với thước ngắm chia thành từng milimét, vì thế thậm chí không cần điều chỉnh độ gió nữa kia. Với khẩu súng này ngài có thể bắn chết một con chuột cách xa bốn trăm mét, chứ đừng nói đến một con nai sừng. Nếu ngài có kỹ thuật thì sẽ có thể chỉnh được góc ba mươi độ cách với khoảng cách một trăm mét nữa kia – ông ta ngước lên để xem vị khách có hiểu được những gì mình đang nói không, nhưng vẻ mặt Connor không cho thấy điều gì – Một khẩu Remington 700 với một chút sửa đổi như vậy thì chỉ những khách hàng tinh mắt nhất mới hiểu được giá trị mà thôi – ông ta kết luận.
Connor không lấy mấy mẩu chi tiết kia ra khỏi vali vì sợ rằng Harding sẽ nhận ra gã là một khách hàng tinh mắt đến thế nào.
– Bao nhiêu tiền? – Gã hỏi và chợt nhận ra mình chẳng có ý niệm gì về giá cả một khẩu Remington làm bằng tay cả.
Harding nói:
– Hai mươi mốt ngàn đô la. Mặc dầu vậy chúng tôi cũng có những khẩu thông thường khác mà nếu ngài…
Connor nói:
– Không, khẩu này rất tuyệt.
Và ngài sẽ trả bằng gì ạ?
– Tiền mặt.
Harding nói:
– Vậy thì tôi sẽ cần một thứ giấy tờ gì đó. Tôi e là từ khi ta thông qua Luật về Ðăng ký và Thẻ Chứng minh thay cho luật Brady thì người ta còn phải có nhiều thứ giấy tờ hơn trước nhiều.
Connor lấy ra một bằng lái xe của bang Virginia mà hôm qua gã đã mua với giá hai trăm đôla của một tênmóc túi ở Washington.
Harding kiểm tra tấm bằng và gật đầu:
– Ngài Radford, bây giờ chỉ còn cần ngài điền vào ba mẫu tờ khai này nữa thôi.
Connor viết tên, địa chỉ và số thẻ An ninh Xã hội của viên trợ lý giám đốc một cửa hiệu bán giày ở Richmond.
Trong khi Harding đánh mấy con số vào máy tính.
Connor cố tỏ ra chán ngấy, nhưng gã chỉ thầm cầu nguyện cho trong hai mươi tư giờ qua ngài Radford chưa kịp trình báo việc mất bằng lái xe.
Chợt Harding ngước lên khỏi màn hình:
– Tên ngài là tên đúp à?
Connor đáp:
– Không, George mới là tên riêng của tôi. Mẹ tôi hồi đó nghĩ đến George Peck.
Harding mỉm cười:
– Tôi cũng nghĩ vậy.
Sau mấy phút nữa Harding nói:
– Ngài Radford, có vẻ như mọi việc đều ổn cả.
Connor quay lại và gật đầu cho Romanov, tên này bước tới và lấy từ một cái túi trong ra một tập đô la dày cộp Hắn cố ý để lộ như khoe tập tiền toàn tờ một trăm đô la rồi mới đếm lấy 21 tờ trong số đó và đưa cho Harding. Việc mà Connor chỉ mong sẽ diễn ra như một cuộc mua bán bình thường thì Romanov lại biến thành như biểu diễn kịch câm. Hai tên hộ vệ thì cũng cứ như đang đứng ở cửa nhà hát để bán vé cho một buổi biểu diễn.
Harding viết giấy biên nhận và đưa cho Connor, gã nhận rồi đi ra không nói thêm tiếng nào. Một trong hai thằng ngớ ngẩn vổ lấy khẩu súng rồi chạy ra khỏi cửa hàng cứ như vừa cướp xong nhà băng. Connor chui vào ghế sau chiếc BMVV, tự hỏi không hiểu bọn họ có thể làm thế nào để hút sự chú ý của mọi người vào mình hơn thế nữa không. Chiếc xe vọt khỏi lề đường và lao vút vào dòng xe cộ đang lao nhanh vun vút, lại còn nhấn còi inh ỏi, Connor nghĩ, họ vẫn tìm được cách để ầm ĩ hơn.
Gã vẫn không nói năng gì khi thấy suốt dọc đường trở về sân bay tên tài xế luôn cho xe chạy vượt quá tốc độ cho phép. Ngay cả Romanov cũng có vẻ bắt đầu e ngại.
Connor đã nhanh chóng phát hiện ra một điều rằng bọn Mafia mới ở Mỹ hoạt động còn nghiệp dư hơn nhiều so với bà con của chúng ở Italia. Phải còn lâu nữa bọn chúng mới đuổi kịp trình độ của bọn italia, nhưng một khi bọn chúng đã đuổi kịp thì có trời giúp nổi FBI.
Mười lăm phút sau chiếc BMW trắng đỗ lại trước cửa sân bay. Connor chui ra khỏi xe trong khi đó Inomanop còn ngồi lại để ra lệnh cho hai tên kia, và cuối cùng xỉa ra một nắm tiền một trăm đô la còn nhiều hơn lúc nãy đưa cho bọn chúng. Lúc gặp Connor ở bàn kiểm tra. hắn thì thầm:
– Trong vòng bốn tám tiếng nữa khẩu súng sẽ có mặt ở Washington.
– Tôi không cuộc điều đó đâu – Connor nói trong khi cả hai đi về phía phòng chờ dành cho khách đi.
.
Stuart ngỡ ngàng hỏi:
Bác thuộc lòng cả quyển thơ Yeats ư?
– à, gần như thế – Maggie thừa nhận – Nhưng đó là vì có những bài thơ mà hầu như tối nào trước khi đi ngủ bác cũng đọc lại.
Tara nói:
Stuart, anh còn rất nhiều thứ nữa cần biết về người Irish kia. Bây giờ anh thử cố nhớ ra thêm vài từ nữa đi.
Stuart cố nghĩ một lúc, sau đó anh nói vẻ rất thành công:
– Hollow.
Maggie đọc:
– Qua những mảnh đất hoang vắng, những mảnh đất và đồi. Thế thôi.
Tara nói.
– Như vậy có thể chúng ta đang đi tới Hà lan.
Stuart nói:
– Em thôi đi, đừng giả vờ khôi hài nữa đi.
Tara nói:
– Vậy anh cố nhớ ra thêm nữa đi.
Stuart lại cố gắng tập trung, một lúc sau anh bật ra:
– Bạn bè.
Maggie đọc:
– Bao giờ chúng ta cũng có bạn bè mới gặp bạn bè cũ.
Tara nói:
– Vậy là chúng ta sẽ đến một đất nước mới và gặp những người bạn mới.
– Nhưng đó là ai kia chứ? – Maggie hỏi. Trong lúc đó chiếc máy bay vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong đêm
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!