Anh Linh Thần Võ Tộc Việt
Chương 3: Kín cổng cao tường
Lão Khiếu quát lên:
– Chính mi mới là tên trộm. Hồi nãy mi cướp túi hành lý của ta rồi bỏ chạy. Bây giờ mi vu vạ cho ta, làm ta khổ sở thế này.
Kị mã ăn trộm cười lớn:
– Thực là cái đĩ già mồm, cái trộm già miệng. Hai ông võ công cao thế, mà bảo tôi cướp hành lý của hai ông thực quả là vô lý. Nhưng tôi hỏi thực: Cái túi này đích là của hai ông, có phải không?
– Đúng.
– Thôi được, coi như hai ông không ăn trộm đi. Nhưng này hai ông ơi! Hôm qua có kẻ trộm vào nhà tôi, tôi giật mình thức giấc tri hô lên, chúng bỏ chạy, trong lúc hoảng hốt chúng đánh rơi cái túi này. Tôi biết là đồ gian không dám mở ra định đi trình quan. Bây giờ gặp quan đây, tôi xin trao cho người.
Nói rồi y định trao cái túi cho Diêu Vạn.
Diêu Vạn hỏi:
– Chú em tên gì?
– Thưa đại tướng quân, tôi tên Đặng Tông.
Diêu Vạn hất hàm cho Sử-Vạn Na-vượng:
– Đây là túi của hai người. Hai người cầm lấy đi.
Hai tay Đặng Tông trịnh trọng đưa cái túi ra trước mặt. Sử-vạn Na-vượng đưa tay trái tiếp túi. Bỗng đầu ngón tay gã kị mã phóng ra hai chỉ véo, véo trúng huyệt Khúc-trì lão Sử. Tay lão trở thành vô lực, làm thiếu nữ áo xanh rơi xuống. Gã kị mã lạng mình chụp nàng nhảy đến bên An-Nan. Y trao nàng cho An-Nan:
– Xin Thái-tử bảo vệ vương phi.
An-Nan nói mấy câu cảm tạ.
Tay lão Sử-Vạn chỉ bị tê dại mà thôi. Lão cho rằng lấy lại được túi rồi, tự nhiên thân phận lão được chứng minh, lão không cần bắt thiếu nữ áo xanh nữa. Lão nói với Diêu Vạn:
– Diêu Chiêu-thảo sứ. Ta sẽ cho Chiêu-thảo sứ thấy ấn tín của ta, cùng lệnh bài của Thái-hậu.
Y mở túi ra, liếc nhìn đồ đạc vẫn y nguyên, không hề bị xáo trộn. Yên tâm y lấy ra chiếc ống bằng ngà trao cho Diêu Vạn:
– Đây là sắc chỉ của triều đình phong chức tước cho ta. Tướng quân hãy mở ra mà xem.
Diêu Vạn tiếp ống ngà mở nắp ra. Bên trong quả có cuốn trục lụa. Y mở cuốn trục cho mọi người coi. Bất giác mọi người bật lên tiếng ồ. Vì trên trục lụa vẽ hình hai lão Sử-vạn Na-vượng, Khiếu-tam-Bản. Nét vẽ sống động như người thực. Cạnh đó viết bản văn của Kinh-lược sứ Kinh-châu truy tầm hai tên đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản.
Diêu Vạn cười nhạt:
– Đây là sắc phong ư ?
Khiếu Tam Bản kinh ngạc, lão tức đến điên người lên được. Lão lạng mình đến giật trục lụa trên tay Diêu, rồi đọc bản văn. Bản văn giống hệt bản văn trong thành Tương-dương.
Khiếu Tam Bản mở tung túi ra. Trong trúi nào quần áo, nào vàng bạc lủng củng. Một chiếc hộp bằng ngà rơi xuống đất đến bộp một cái. An-Nan trông thấy hộp, mắt y sáng lên. Y quát:
– Mi còn chối không? Kia là chiếc hộp trong đựng cống bảo của bản quốc cống Thiên-tử. Mi ăn cắp hôm trước. Mi còn chối nữa không?
Chàng lạng người cầm chiếc hộp lên, rồi mở ra. Trong hộp có một tượng Phật Thích-ca mâu-ni bằng ngọc xanh biếc. Chàng trao cho vợ, rồi xòe tay hướng Khiếu:
– Đưa đây!
– Đưa cái gì?
– Ta đi sứ, có mang theo ba bảo vật. Một là tượng mười tám vị La-Hán bằng ngà. Hai là tượng Phật bằng ngọc, ba là chuỗi ngọc trai trăm viên. Mi lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp cả ba. Nay tượng Phật đây rồi. Còn hai bảo vật kia đâu? Mi có mau đem trả không ?
Lão Khiếu đưa mắt nhìn tên kị mã ăn trộm:
– Mi là ai mà dám hí lộng quỷ thần? Chính mi vào dinh Kinh-lược sứ ăn trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Rồi cũng chính mi đón đường ăn cướp bọc hành lý của chúng ta, sau đó bỏ bảo vật vào để vu oan giá họa cho ta.
Gã kị mã cười ha hả hỏi Diêu Vạn:
– Kính trình quan lớn xét cho. Khắp thành Tương-dương đều nói rằng hai tên trộm lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Chúng giao chiến với quan Tư-mã, cùng Chiêu-thảo sứ. Hai vị ấy nhận diện được chúng, rồi về họa hình. Hình là hình hai lão này, đâu phải hình tôi?
Diêu Vạn hỏi đám kị mã:
– Các người ta giao chiến với hai tên trộm. Phải chăng trong đó có hai tên này?
Một kị mã chỉ Sử-vạn:
– Tiểu nhân nhận diện được y. Võ công y rất cao.
Công chúa Nong-Nụt chỉ tay vào mặt với Sử-vạn Na-vượng, nói với anh:
– Chính lão này. Hôm ấy tại Liễu-châu, y cùng bộ hạ bắt em, giết tùy tùng, rồi đem em giam hãm tra khảo thương tích khắp người.
Diêu Vạn vẫy tay cho mọi người im lặng, rồi nói:
– Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Có bằng này chứng cớ rành rành ra, người nên chịu trói cho rồi.
Y chỉ vào Lê Văn:
– Tiểu huynh đệ đây tố đích danh người toan cướp ngựa giữa đường. Đó là một chứng cớ. Công chúa Nong-Nụt cùng tuỳ tòng du ngoạn tại Liễu-châu, bị người bắt đi, cùng cướp của. Đó là hai chứng cớ. Hai tên cướp võ công cực cao lẻn vào dinh Kinh- lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn. Trong khi giao chiến, bọn chúng đánh nhau với vệ sĩ, vô tình để rơi hai tấm thẻ bài mang tên Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Đó là ba chứng cớ. Bây giờ bọn mi bị kị mã kia tố bọn mi vào nhà y ăn trộm, bị bại lộ, đành để cái túi lại. Anh ta mang đi trình quan. Chính mi nhận túi đó của bọn mi, trong có bảo vật cống. Đó là bốn chứng cớ. Từ lâu, bản triều truy lùng dư đảng Hồng-thiết giáo cùng bang chúng bang Nhật-hồ. Mà nay hai mi lại là giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua, Chân-lạp, là năm chứng cớ ta phải bắt hai mi.
Sử-vạn Na-vượng biết rằng Đặng Tông là thủ phạm hại y. Y cần kiềm chế gã, ắt mọi việc ra ánh sáng. Y lạng mình chụp Đặng. Nhưng nhanh hơn, Đặng đánh một chưởng vào ngực Sử. Chưởng phong hùng hậu vô cùng. Sử tuyệt không ngờ một thiếu niên, mà võ công lại cao như vậy. Y vội biến trảo thành chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai người đều lảo đảo lui lại hai bước.
Mọi người đều la hoảng. Vì rõ ràng công lực Sử-vạn cao thâm vô cùng. Y đã làm tới giáo chủ Hồng-thiết giáo đâu có tầm thường thế mà đấu ngang tay với Đặng Tông.
Mỹ-Linh dùng lăng không truyền ngữ hỏi Khai-Quốc vương với Thanh-Mai:
– Chú đã nhận ra Đặng Tông là ai chưa?
– Tôn Đản. Nó đảo ngược tên Tôn Đản thành Đặng Tông chứ có gì lạ đâu. Ngay từ lúc nó xuất hiện chú đã nhận ra. Có điều ai cải trang cho nó giỏi quá, khuôn mặt đổi đã đành, mà tiếng nói cũng khác.
Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
– Lạ thực, sao công lực Tôn Đản cao đến thế kia. Có lẽ không thua gì mợ Thanh-Mai, trội hơn Hoàng Văn, ngang Vũ Nhất-Trụ.
Mỹ-Linh gõ tay vào đầu Thiệu-Thái:
– Anh quên việc Tôn Đản học được qui pháp âm dương của Bắc-bình vương rồi à. Trong trận đánh Tản-lĩnh nó hút công lực của hai đại cao thủ phái Hoa-sơn. Rồi trên đường sang đây, nó luyện Thái-cực quyền với điểm huyệt, nên công lực thâm hậu vô cùng.
Mọi người im lặng theo dõi Tôn Đản đấu với Sử-vạn Na-vượng. Tôn Đản dùng võ công Cửu-chân. Sử-vạn dùng võ công Sài-sơn pha lẫn Hồng-thiết. Diêu Vạn cho thiết kị bao vây kín hai lão.
Trừ sứ bộ Xiêm, còn lại mọi người đều biết Đặng Tông là Tôn Đản. Tất cả im lặng theo dõi trận đấu. Sử-Vạn bị Tôn Đản tấn công ráo riết quá, nên lão chưa có dịp vận Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng.
Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
– Thím có biết tại sao lão Sử-vạn lại xử dụng võ công Sài-sơn pha lẫn võ công Thiên-tượng không?
– Dễ hiểu! Khi xưa công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa vốn thuộc phái Sài-sơn. Hồi trấn thủ đất Thục, bà có trao đổi võ công với anh hùng Thiên-sơn. Cuối thời Lĩnh-Nam bà bị quân Vương Bá ép, phải lui về giữ Vạn-tượng. Sau khi bà tuẫn quốc, đệ tử lập ra phái Vạn-tượng. Vì vậy võ công phái Vạn-tượng pha lẫn Sài-sơn với Thiên-sơn.
Khiếu Tam Bản thấy Sử-vạn Na-vượng khó thắng nổi Đặng Tông. Y nhìn quanh để tìm kế thoát thân. Liếc qua thấy Nong-Nụt đứng bên Lê Văn. Y nghĩ thầm:
– Con nhỏ này là công chúa Xiêm đây. Nó đứng bên thằng bé kia, mình phải bắt sống nó, mới mong giải quyết được cục bộ.
Giữa lúc đó Mỹ-Linh vẫy Lê Văn lại gần. Nàng hỏi:
– Em thuộc võ công Cửu-chân, lẫn Sài-sơn. Em mách nước giúp Tôn Đản thắng lão Sử-vạn cho mau.
Lê Văn cũng đang định nhắc Tôn Đản, nhưng vì sợ lộ chân tướng nên nó chưa dám. Nghe Mỹ-Linh khuyên, nó khoan khoái nhìn trận đấu. Thấy Sử-vạn sắp ra chiêu Lôi giáng Nam-nhạc theo chiêu này, một tay đánh từ dưới lên. Một tay đánh vòng sang trái, như vậy để hở ngực. Nó la lớn:
– Đản! Kình ngư lăng ba.
Chiêu này đánh thẳng về trước như con cá kình vượt sóng. Tôn Đản đang muốn thắng lão Sử-vạn mà không được. Nghe Lê Văn nhắc, không nghĩ ngợi, nó chập hai tay vào nhau, đẩy về trước. Binh một tiếng, lão Sử-vạn bay bổng ra xa. Tuy nhiên, kinh nghiệm chiến đấu có dư, lão mượn đà lộn đi hai vòng.
Đúng ra sau khi thắng một chiêu, Tôn Đản rượt theo đánh tiếp mấy chiêu nữa, nó đã hạ được Sử-vạn. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm, nó chần chờ một chút, khiến lão lấy lại được thăng bằng, lão tung ra hai chiêu Thiên-sơn tuyết phi chưởng.
Lê Văn thấy Sử-vạn khoanh tròn hai tay, biết lão sắp xuất chiêu Lôi phục thiên ma , chiêu này tay phải như một cột khí đánh thẳng về trước. Tay trái chém ngang sang phải. Như vậy để hở hạ bàn. Nó hô lớn:
– Kình ngư trầm hải.
Tôn Đản lộn xuống đất, hai chân như đuôi cá quẫy quét trúng đầu gối Sử-vạn. Binh một tiếng, lão bị đánh văng ra xa. Lần này có kinh nghiệm, Tôn Đản phóng theo chiêu Loa-thành nguyệt ảnh.
Thấy sư huynh lâm nguy, lão Khiếu lạng người chụp Nong-Nụt, nhảy tới đưa nàng đỡ chiêu chưởng của Tôn Đản. Tôn Đản hoảng kinh vội chuyển chưởng lên trời.
Lão Khiếu quát lớn:
– Các người phải ngừng tay. Bằng không ta giết con nhỏ này liền.
Lê Văn hoảng kinh, nó lạng người chắn trước Tôn Đản, nó nói bằng giọng run run:
– Không… không nên hại nàng.
Lão Khiếu đã tụng thuộc lòng Hồng-thiết kinh, một đời xảo trá, nên chỉ liếc qua, lão cũng biết Lê Văn có tình ý với Nong-Nụt. Lão khoan thai nói với An-nan Tam-gia La-sun:
– Thái tử! Xin Thái-tử cho mở vòng vây, để anh em lão phu rời khỏi đây, bằng không lão phu đành chết với công chúa.
An-Nan là đấng trừ quân tộc Thái, chàng vốn thông minh tuyệt đỉnh, vì vậy liếc qua, chàng đã biết sứ đoàn Đại-Việt, Lê Văn, Đặng Tông cùng là một nhóm người. Phía Đại-Việt bầy ra vở kịch này để làm nhục hai lão Sử-vạn, Khiếu mà thôi. Chàng chắp tay nói với Khai-Quốc vương:
– Xin vương huynh tha cho họ.
Khai-Quốc vương nói với Diêu Vạn:
– Diêu tướng quân. Đất có chủ. Đây thuộc đất Tống, xin tướng quân định liệu.
Diêu Vạn nói với Tôn Đản:
– Đặng thiếu hiệp. Xin thiếu hiệp buông tha cho hai lão đạo tặc này.
Nói rồi y vẫy tay, thiết kị lùi ra. Hai lão Sử-vạn, Khiếu lườm lườm nhìn mọi người trong khi chân bước đi.
Lê Văn quát lên:
– Người phải để Nong-Nụt lại.
Lão Khiếu cười nhạt:
– Ta chỉ hứa không giết con nhỏ này, chứ ta đâu có hứa tha cho nó ?
Nói rồi hai lão cười khành khạch rảo bước ra đi. Mỹ-Linh gõ tay lên đầu Lê Văn:
– Cậu có muốn cứu Nong-Nụt không?
– Chị Mỹ-Linh! Chị cứu Nong-Nụt cho em đi.
– Cứu thì chị muốn cứu lắm. Song kể thì từ nay cậu không được gọi anh Thiệu-Thái bằng cái tên ông ỉn nữa. Rồi mỗi lần thấy bà chị phải khoanh tay cúi đầu ạ ba lần.
Lê Văn không nghĩ ngợi, nó khoanh tay như con nít:
– Ạ chị Mỹ-Linh! Ạ công chúa Bình-Dương, ạ giáo chủ. Ạ,ạ,ạ. Mau cứu Nong-Nụt.
Khai-Quốc vương không ngờ cậu em ngang tàng bậc nhất Đại-Việt, bác học, đa năng, mà lại si tình đến thế. Vương hướng Mỹ-Linh gật đầu.
Chỉ thấy bóng trắng vọt lên không như con hạc, thấp thoáng một cái, nàng đã đáp trước mặt hai lão Sử-vạn, Khiếu. Hai lão đang tự đắc bước đi, thì bị Mỹ-Linh chắn trước mặt. Hai lão gật mình, cùng nhảy lùi hai bước.
Lão Sử-Vạn tung một chưởng vào ngực Mỹ-Linh. Nàng không tránh né, tay rút kiếm chênh chếch đưa ra, nếu lão không thu tay về, thì tay lão bị đứt ngay. Lão vội thu tay nhảy lui. Hai tay Mỹ-Linh cầm hai thanh kiếm chĩa vào cổ hai lão. Hai lão kinh hãi, không biết bằng cách nào, mà nàng ra chiêu nhanh như vậy. Cả hai lão cũng nhảy lui lại. Nhưng Mỹ-Linh theo như bóng với hình, kiếm chĩa vào cổ hai lão.
Xoẹt xoẹt, hai cùi chỏ lão Khiếu bị trúng kiếm. Tay lão bị mất kình lực, để Nong-Nụt rơi xuống. Lê Văn lạng người tới ôm lấy nàng nhảy lùi lại.
Biết rằng mất con tin Nong-Nụt, thì tính mệnh coi như chấm dứt. Hai lão Sử, Khiếu đồng phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực hướng Lê Văn, với ý nghĩ chết cùng chết cả. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Mọi người kêu thét lên kinh hoảng.
Lê Văn ôm Nong-Nụt nhảy vọt về phía trước, để giảm áp lực hai chưởng. Tuy vậy, mọi người biết, cả hai khó toàn tính mệnh. Thấp thoáng hai bóng người vọt tới. Thanh-Mai xuất chiêu Đông-hải lưu phong đẩy vào lưng Lê Văn, cho người nó bay xa hơn. Trong khi Thiệu-Thái phát chiêu Nhân-ngưu câu vong trong Mục-ngưu thiền chưởng đỡ chưởng hai lão. Binh một tiếng, bụi bay mịt mờ. Hai lão Sử, Khiếu bật tung trở lại, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Hai lão cố nghiến răng, nín thở, nhưng cuối cùng khí vẫn trào lên, hai lão oẹ một tiếng, miệng phun máu.
Cả hai lão cảm thấy chưởng của Thiệu-Thái như có như không, sát thủ cực kỳ trầm trọng. Trong người hai lão bồn chồn khó chịu vô cùng. Lão Sử hướng An-Nan:
– Không ngờ đấng trừ quân mà lại nói hai lời. Thái-tử đã hứa để anh em lão phu đi, sao còn đánh lén? Rồi bây giờ còn bao vây?
An-Nan chỉ Mỹ-Linh:
– Ta hứa tha cho hai lão đi, nhưng công chúa Bình-Dương đâu có hứa?
Mỹ-Linh chỉ Diêu Vạn:
– Nhị vị giáo chủ tha lỗi. Chúng tôi đi sứ, nên không thể xử dụng võ công trên đất Tống. Vừa rồi tôi ra chiêu là do lời yêu cầu của Diêu Chiêu-thảo sứ đấy chứ! Từ mấy hôm nay nhị vị làm nhục, hành hạ chúng tôi đủ điều, nhưng chúng tôi nào có chống lại?
Khấu Kim-An tiếp:
– Cái thứ thuốc Di-hồn nhuyễn-cân ngũ-hoa độc của hai vị đâu có làm gì được sứ đoàn Đại-Việt. Hai vị cứ tưởng sứ đoàn tê liệt, nào ngờ sứ đoàn không muốn động thủ mà thôi.
Bây giờ hai lão mới thấy rùng mình kinh sợ, tự chửi thầm:
– Mình ngu thực. Đáng lẽ mình phải biết trước mới phải. Thằng Thiệu-Thái được tôn làm giáo chủ thay Nhật-Hồ lão nhân. Y đã dùng Hồng-thiết thần công giải độc cho hết giáo chúng, thì y có coi thứ thuốc độc của mình ra gì? Thì ra y âm thầm giải độc cho cả bọn mà mình không biết.
Cả hai lão đứng dậy chắp tay hướng Khai-Quốc vương:
– Đa tạ vương gia đại xá. Hậu hội hữu kỳ.
Hai lão phóng mình vào đêm tối.
Hai sứ đoàn nhập làm một, hướng Biện-kinh. Diêu Vạn cùng đoàn thiết kị theo bên cạnh hộ tống. Mấy hôm sau viên kị binh đi đầu trở lại báo với Diêu Vạn:
– Chỉ còn hai mươi dặm nữa tới Biện-kinh. Xin tướng quân định liệu.
Diêu Vạn nói với Khai-Quốc vương:
– Vương gia. Tiểu tướng được lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Rất xấu hổ không làm tròn bổn phận, phải nhờ vương gia giúp đỡ. Lệnh trên nói rằng tiểu tướng phải đưa sứ đoàn Xiêm vào điện Nam-thiên, rồi cáo với bộ Lễ. Còn sứ đoàn Việt…
Thanh-Mai vẫy tay an ủi y:
– Vì tướng quân không có nhiệm vụ tiếp chúng tôi nên không giám tự chuyên đưa chúng tôi vào thành phải không? Thôi thì thế này vậy: Tướng quân cứ lo tiếp thái tử An-Nan. Còn chúng tôi xin cho tự tiện.
An-Nan nắm tay Khai-Quốc vương:
– Đại ca! Hôm nay tạm chia tay. Sau khi đại ca có chỗ ở, anh em mình sẽ gặp nhau.
Lê Văn nhìn Nong-Nụt, rồi nhìn Khai-Quốc vương. Nó nửa muốn theo nàng, nửa muốn đi cùng vương. Tuy thương hại cậu em kết nghĩa, nhưng Khai-Quốc vương phải cương quyết, không để em mình làm mất quốc thể. Vương vỗ vai nó:
– Em tạm biệt Nong-Nụt, mai này gặp lại.
Hai thiếu niên nhìn nhau, tình yêu chứa chan, bịn rịn. Biết cậu em khó rời xa Nong-Nụt; Mỹ-Linh vung roi ngựa cuốn quanh mình Lê Văn, nàng rung động roi một cái, nó bay bổng lên lưng ngựa. Nàng hô:
– Đi!
Lê Văn, Tôn Đản cỡi ngựa đi trước, Bảo-Dân đánh xe tứ mã của sứ đoàn theo sau. Tất cả hướng cửa Đông thành. Trong khi sứ đoàn Xiêm hướng cửa Nam. Tôn Đản, Lê Văn cùng ngắm nhìn Thiệu-Thái. Hai người thấy Thiệu-Thái như có gì thay đổi, mà cả hai không đoán ra. Tôn Đản hỏi Mỹ-Linh:
– Bà chị xinh đẹp. Xa nhau có mấy tháng, mà em thấy dường như ông ỉ bớt ỉn đi nhiều quá. Không biết có gì lạ không?
Lê Văn là thầy thuốc. Nó ngắm Thiệu-Thái thực kỹ rồi nói:
– Lúc mới gặp lại giáo chủ ở Khúc-giang em đã thấy anh ấy thay đổi khá nhiều. Rồi từ Khúc-giang cách biệt, anh ấy thay đổi hơn nữa. Da sáng ra, mặt tươi hồng hơn trước. Nhất là cái bụng lợn sề không còn nữa. Cái mặt ụt ịt cũng biến đi. Bây giờ trông phong tư tiêu sái đáo để.
Nó nói với Mỹ-Linh:
– Bà chị coi chừng, bây giờ ông ỉn đẹp trai thế này, khi ổng tới Biện-kinh, công chúa Huệ-Nhu mà trông thấy, nhất định cô ta cưới làm chồng thì hỏng bét.
Nghe Tôn Đản, Lê Văn nói, Khai-Quốc vương mới chú ý đến cháu mình. Quả thực Thiệu-Thái đã thay đổi gần như hoàn toàn. Nếu so sánh với ngày chàng đến trấn Thanh-hóa thì thực là hai người khác nhau. Song vì Thiệu-Thái thay đổi dần dần, mà chàng lại luôn đi cạnh vương, nên vương không thấy. Nay Tôn Đản, Lê Văn xa chàng mấy tháng, chúng mới nhận ra.
Thanh-Mai bảo Lê Văn:
– Em thử đoán xem tại sao Thiệu-Thái lại thay đổi mau như vậy?
Lê Văn tung người lên, nó đã ngồi sau ngựa Thiệu-Thái. Nó chìa tay ra trước bắt mạch cho chàng. Khoảng nửa khắc sau, nó bật lên tiếng kêu:
– Tuyệt vời.
Nó vọt người về ngựa mình rồi nói với Mỹ-Linh:
– Bà chị phải ạ em ba lần em mới nói.
Mỹ-Linh bật cười:
– Chỉ có em ạ chị, chứ có bao giờ chị phải ạ em đâu?
Lê Văn chợt nhớ lại Mỹ-Linh cứu Nong-Nụt, nó không dám đùa nữa:
– Anh Thiệu-Thái bẩm sinh cốt lợn. Vì vậy từ bé ụt ịt. Ảnh lại ăn quá nhiều. Trong lần ở Hồng-hương mật cốc, ảnh được Bồ-tát Sùng-Phạm truyền cho một trăm năm Thiền-công. Thiền-công của ngài Sùng-Phạm là khô thiền. Đúng ra sau khi ảnh được truyền thiền công, thì gầy mau lẹ mới phải. Nhưng Đỗ phu nhân lại dậy anh ấy Hồng-thiết công, nên trong người Phật với ma lẫn lộn, ảnh chưa gầy được. Phải đợi đến khi ngài Huệ-Sinh dạy anh ấy tọa thiền cứu chị Thanh-Mai anh ấy mới biết vận thiền công. Rồi ngài Bố-đại dạy anh ấy Mục-ngưu thiền chưởng, hằng ngày anh ấy luôn tụng kinh Bát-nhã, bấy giờ Phật mới thắng ma. Vì vậy người anh ấy gầy dần.
Thanh-Mai khen Lê Văn:
– Em bác học thực. Trong mấy ông Thiên-lôi, trước kia em với Tự-Mai điển trai nhất, rồi tới Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Thiệu-Thái hạng bét. Bây giờ thì thứ tự đổi rồi.
Lê Văn tính đốt ngón tay một lúc, rồi nói:
– Nếu không có gì xẩy ra ngăn trở, thì chỉ hai tháng nữa ông ỉn mất ỉn. Ông ấy sẽ trở thành đẹp trai nhất trong bọn em. Nếu nói theo nhà Phật thì thiện duyên của bà chị Mỹ-Linh có chồng đẹp trai, nên dù bả ưng ông ỉn, rồi duyên may đến, ổng cũng thành tiên ông.
Cả sứ đoàn đồng gật đầu, công nhận lý luận của Lê Văn đúng.
Bây giờ Khai-Quốc vương mới có thời giờ cật vấn Tôn Đản, Lê Văn về những biến cố xẩy ra từ khi năm ông mãnh rời Khúc-giang.
Đoạn này Tôn Đản, Lê Văn tường thuật lại những biến chuyển từ khi năm ông mãnh vâng chỉ của Khai-Quốc vương, Định-vương theo Triệu Huy về Biện-kinh, và lý do nào lại trở ngược về Nam, rồi gặp sứ đoàn Khai-Quốc vương giữa đường.
Sau khi Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng Trần Kiệt, Nùng-Sơn tử hộ tống chiến thuyền chở kho tàng về đến lãnh hải Đại-Việt, thì gặp chiến thuyền chở Hoàng Hùng, Vũ Anh, Phạm Hào đi đón. Trên chiến thuyền có cả Hồng-Sơn đại phu, Trần Tự-An, Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh.
Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương vốn có thiện cảm, lại kính trọng Bảo-Hòa như một tiên cô. Vì vậy ba người ngồi riêng ra nói truyện. Hà-Thanh kể cho Bảo-Hòa nghe rằng sở dĩ nàng được đi thế này là do Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu muốn dẫn vợ thăm lại di tích đất tổ thời vua Hùng, nhất là di tích về những trận đánh thời vua Trưng.
Thế rồi thuyền của Bảo-Hòa, Thông-Mai chở Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu trở lại Quảng-Đông. Thuyền tới Khúc-giang giữa lúc Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn xuất hiện đem sứ đoàn về Biện-kinh. Tự-An giảng cho Bảo-Hòa, Thông-Mai tất cả kí hiệu liên lạc với hệ thống tế tác Đông-a. Thế là Bảo-Hòa phối hợp bốn hệ thống Lạc-long giáo, Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên lại. Vì vậy bề ngoài sứ đoàn chỉ có bốn người với năm ông thiên lôi. Nhưng thực sự bề trong hoàn toàn do Bảo-Hòa, Thông-Mai điều động.
Tất cả mọi hoạt động chìm nổi của Lưu thái hậu, Định-vương Nguyên-Nghiễm đối với sứ đoàn, Bảo-Hòa đều nắm rất vững. Chỉ qua mấy hoạt động, Bảo-Hòa thấy ngay rằng Định-vương Nguyên-Nghiễm là một chính nhân quân tử. Ông ta nhất tâm nhất trí với Tống triều, sau những thất bại tại Đại-Việt, ông không oán thù mà còn khâm phục Khai-Quốc vương. Ông lại biết đường tiến thoái, nhẫn nại với Lưu thái hậu. Dù Dư Tĩnh là cháu Lưu thái hậu, khi đi sứ Chiêm, ông mang y theo, hầu chứng minh rằng mình đường đường, chính chính.
Sau khi Lưu hậu thất bại liên tiếp trong vụ Trường-giang thất quỷ, vụ bang Nhật-hồ. Bà dùng tới khả năng cuối cùng là Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Trong bóng tối Bảo-Hòa, Thông-Mai dùng Trần Phụ-Quốc (Vương Văn), Trần Bảo-Dân cùng năm ông thiên lôi bầy ra vụ bắt sống mười trưởng lão bang Nhật-hồ, tiếp theo vụ con thuyền tấu nhạc, đưa sứ đoàn tới Tương-đài, Tam-sơn làm cho hai lão thành điên khùng.
Tại triều đình, Lưu hậu lấy lý rằng việc tiếp sứ đoàn không thuộc thẩm quyền Định-vương Nguyên-Nghiễm, mà thuộc tể tướng. Bà cho biết đã sai Tào Khánh đi đón. Sự thực bà sai bọn Trường-giang bắt giam Tào, rồi cưỡng sứ đoàn đi tìm kho tàng. Không ngờ bang Trường-giang lại bị sứ đoàn chinh phục. Bà vẫn không lùi, quyết nắm quyền trong vụ này. Bà loan báo với triều đình rằng đã sai quan tổng lĩnh thị vệ cùng quan tổng trấn Nam-biên thay Tào Khánh, sứ đoàn sẽ tới Kinh-châu. Không ngờ đúng ngày hẹn, kinh lược sứ Kinh-châu sai thiết kị dàn ở Bắc Trường-giang tiếp sứ đoàn, thì sứ đoàn biệt tăm. Cuối cùng tin cho biết hai lão Lê-lục-Vũ, Tôn-đức-Khắc bị một lực lượng bí mật bắt mất mười trưởng lão. Hai lão hóa điên khùng đuổi theo kẻ thù tới Giang-lăng.
Bà hoảng hốt, nhưng vẫn tự ái nắm quyền. Bà sai Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản đi tìm sứ đoàn. Bảo-Hòa được tin, quyết làm cho hai tên này thân tàn ma dại. Vì vậy nàng mới sai Tôn Đản, Lê Văn hóa trang làm hai lão Sử, Khiếu, đột nhập đinh kinh lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm, vờ đánh rơi kiếm lại. Trên kiếm khắc tên hai lão. Vì vậy kinh lược sứ mới niêm yết bẳng văn truy tầm.
Tôn Đản kể: Sau khi năm đứa trẻ nhận chỉ dụ của Khai-Quốc vương, Định-vương Nguyên-Nghiễm đi cùng Triệu Huy, Ngô-cẩm-Thi về Biện-kinh. Vì Huy là một chức quan võ cao cấp, lại mang lệnh bài của quan phụ-quốc thái úy, nên suốt dọc đường không có việc gì xẩy ra.
Trong khi đi đường, năm thiếu niên bàn về việc tuyển phò mã. Triệu Huy biết Thiện-Lãm, Thuận-Tông coi như trong tim đã có Kim-Thành, Trường-Ninh, nên đều rửng rưng. Nhưng y không hiểu tại sao cả Tự-Mai, Tôn Đản cũng không mấy thiết tha. Y hỏi:
– Trong ba công tử, tôi thấy từ võ công, nhân phẩm đều tuyệt vời. Tại sao không ghi danh ứng tuyển phò mã. Được làm phò mã chẳng sướng ư?
Tôn Đản biểu đồng tình:
– Võ công Lê Văn cao cường, lại bác học đa năng. Y thuật chú quán chúng. Chú mà ứng tuyển, nhất định thành phò mã.
Lê Văn cười khúc khích:
– Tôi không thích làm phò mã. Nếu như bố tôi tranh ngôi vua từ họ Lý, tôi cũng làm thái tử. Làm Thái tử không sướng bằng làm thầy thuốc, đi khắp nơi trị bệnh cho thiên hạ. Đến ngôi thái tử tôi còn không ham, huống chi ngôi phò mã? Thôi anh Đản ứng tuyển đi.
Tôn Đản liếc nhìn Cẩm-Thi. Bốn mắt gặp nhau, chỉ thoáng qua, nhưng cả hai đã nói với nhau rất nhiều.
Lê Văn hỏi:
– Công chúa Huệ-Nhu có đẹp bằng chị Mỹ-Linh, Thanh-Mai hay mẹ trẻ Huệ-Phương của tôi không?
– Tôi chưa thấy mặt Công-chúa, song nghe đâu võ công cũng vào hàng cao thủ. Hơn nữa xinh đẹp hơn Thái-hậu nhiều.
– Thái hậu đẹp lắm sao?
– Từ khi triều Tống thành lập đến giờ, chưa có cung nga nào sánh kịp. Chả vậy Thái-hậu xuất thân bần hàn, mà được sủng ái đặt lên làm hoàng hậu! Công-chúa lại văn hay chữ tốt.
Tự-Mai cho ngựa chạy ngang với ngựa Ngô Cẩm-Thi:
– Ngô tỷ tỷ. Tỷ tỷ cũng về Thăng-long treo bảng tuyển phò mã đi. Nhất định anh hùng thiên hạ sẽ đến dự đông đảo. Công-chúa Huệ-Nhu sao đẹp bằng tỷ tỷ. Còn võ công, e rằng anh hùng cũng khó bì kịp với tỷ tỷ, chứ đừng nói đến công chúa Huệ-Nhu.
Trong năm ông thiên lôi, Cẩm-Thi thích nhất Tự-Mai với Lê Văn. Hai đứa khi thì gọi nàng bằng chị, khi thì gọi nàng bằng tỷ tỷ. Chúng luôn đùa vui, khiến nàng bật cười. Còn Tôn Đản, tuổi y ngang với nàng, nên y có thái độ dè dặt nam nữ. Nàng để ý thấy Tôn Đản trầm tư khác những ngày ở Khúc-giang. Y chú ý săn sóc nàng từng ly từng tý. Khi ăn, lúc trọ ở khách điếm. Dọc đường y luôn ruổi ngựa sát cạnh nàng. Tôn Đản thì kinh nghiệm đời sống có thừa. Nàng lại chứa đầy một đầu những gì chép trong sách vở, hai người bổ khuyết cho nhau. Dần dà, anh hùng với giai nhân cảm nhau bao giờ, mà chính họ cũng không biết. Bây giờ nghe Tự-Mai bảo nàng mở võ đài tuyển phu, thấy đề nghị vui vui, nàng đáp:
– Tự-Mai này. Có lẽ chị sẽ mở võ đài ngay ở phủ Khai-phong, chứ không cần về Thăng-long.
Tự-Mai bật cười:
– Như vậy e rằng Công-chúa Huệ-Nhu ế chồng mất. Người ta ắt đổ xô sang võ đài của chị.
– Chị mở võ đài, nhưng không phải để tuyển phu.
– Vậy để tuyển gì đây?
– Tuyển lấy mấy cậu em. Cậu nào cũng phải ngoan như Tự-Mai, Lê Văn hay Thuận-Tông, Thiện-Lãm.
Tôn Đản bật cười:
– Ngô tiểu thư mắng vốn bốn chú phá phách đấy. Trên đời này nếu có cậu em nào phá phách nhất, cũng còn thua bốn chú.
Lê Văn nhăn mũi trêu Tôn Đản:
– Cái anh Đản nói như vậy mà không sợ méo mồm ư? Bọn này phá phách theo lệnh của anh. Anh mới chính là chúa đảng phá trời.
– Ta làm chúa mộc vị, chúa bù nhìn. Còn thực ra thì là Tự-Mai với Lê Văn.
Triệu Huy xen vào:
– Tôn công tử nói đúng đó.
Có tiếng vó ngựa lộp cộp. Từ phía sau hai kị mã phi như bay. Một người mặc áo da mầu nâu. Một người mặc áo da mầu xám. Hai người tới gần bọn Tôn Đản, thì ghì cương cho ngựa chạy chậm lại. Người áo nâu cung tay hành lễ quân cách với Triệu Huy:
– Hai chúng tôi là Tuyên-ứng sứ Lao Trấn và Tuyên-khánh sứ Hầu Định. Chúng tôi muốn thưa truyện với Triệu đại nhân.
Nói rồi hai người trình ra hai tấm thẻ bài. Triệu Huy hiện đã lên tới
Chiêu-thảo-sứ, một chức quan khá lớn trong hàng võ phẩm, nhưng y vẫn là quan ở ngoài. Còn hai tên Lao Trấn, Hầu Định tuy chỉ tới Tuyên-ứng, Tuyên-khánh, đẳng trật cách xa nhau. Nhưng bọn chúng là võ quan hầu cận hoàng đế. Vì vậy Huy phải nể vì. Huy cầm thẻ bài xem sơ rồi trả chúng.
Tuyên-ứng Lao Trấn nói:
– Chúng tôi được chỉ dụ của Thái-hậu giám sát Ngô Cẩm-Thi. Dụ ban ra rằng, khi y thị rời khỏi Khúc-giang, phải bắt trở về. Y thị không về, thì giết không tha. Lúc y thị rời Khúc-giang với đại nhân. Chúng tôi tưởng chỉ rời trấn ít dặm. Không ngờ cho đến hôm nay là bẩy ngày. Xin đại nhân cho biết y thị định đi đâu?
Triệu Huy liệu chừng hai tên này chưa biết cuộc liên kết giữa Khai-Quốc vương với Định-vương. Y đáp:
– Tôi được chỉ dụ của Định-vương đưa Ngô tiểu thư về kinh, thi hành sứ mạng quan trọng.
Hầu Định nói như ra lệnh:
– Xin đại nhân hiểu cho. Bắt buộc tôi phải cản trở. Nếu tôi không làm tròn sứ mệnh của Thái-hậu, e mạng sống không còn cũng chẳng tiếc. Nhưng tính mệnh toàn gia e nguy trong sớm tối.
Khi Triệu Huy nhận chỉ dụ đưa Ngô Cẩm-Thi về kinh, y đã được Định-vương cho biết dọc đường sẽ gặp nhiều sứ giả của Lưu hậu cản trở. Trường hợp này y cứ để Tự-Mai phản ứng. Nghĩ vậy y nói:
– Nếu hai vị đã nói vậy, xin cứ tùy tiện.
Hai gã Hầu, Lao không ngờ Triệu Huy đồng ý dễ dàng như vậy. Triệu Huy quay ngựa lại nói với Ngô Cẩm-Thi:
– Ngô tiểu thư! Tôi được chỉ dụ vương gia đưa tiểu thư về kinh. Nhưng hai vị đây là Điện-tiền thị vệ lại tuân chỉ Thái-hậu cấm tiểu thư rời Khúc-giang. Tôi không biết phải giải quyết ra sao.
Tự-Mai đứng ngoài nghe hai gã Lao, Hầu đối đáp với Triệu Huy, nó đã
ứa gan. Nó nói với Triệu Huy:
– Khi Triệu đại nhân nhận chỉ dụ của Định vương, anh em chúng tôi cũng có mặt, cùng nghe thấy. Bây giờ hai tên này cản trở thực vô lý. Chúng tôi chỉ biết Triệu đại nhân mà thôi. Còn hai gã kia biết đâu chẳng là gian tế.
Hầu Định quát:
– Tên ôn con kia, thế lệnh bài của Thái-hậu là gì đây?
Lê Văn cười nhạt:
– Lệnh bài đó không chừng là đồ giả. Để ta coi lại xem đã.
Nói rồi nó tiếp lệnh bài của hai gã Thị-vệ xem đi xem lại rồi bỏ vào túi:
– Ta chưa thấy lệnh bài của Thái-hậu bao giờ, nên nào có biết thực giả ra sao. Bây giờ thế này: Hai vị cùng chúng ta tới Kinh-châu vào yết kiến quan Tư-mã, để quan Tư-mã phân biệt chân giả.
Gã Lao nổi cơn điên lên:
– Đưa trả lệnh bài ngay. Bằng không ta giết mi liền.
Gã xuất chiêu ưng trảo chụp Lê Văn. Nó không tránh, chĩa ngón tay trỏ ra điểm hai cái véo, véo trúng huyệt Khúc-trì. Tay gã Lao tê liệt không cử động được. Gã kinh hoàng định há miệng chửi, thì nó điểm tiếp vào hai huyệt Hạ-quan, miệng gã cứng đơ không há ra được.
Gã Hầu kinh hãi phóng chưởng tấn công Lê Văn. Tự-Mai vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người gã Hầu bay bổng lên cao, rơi xuống trước ngựa Tôn Đản. Tôn Đản điểm vào huyệt Hoàn-khiêu, Kiên-ngung y. Chân tay y tê liệt, y rơi xuống đất đến bộp một tiếng.
Thuận-Tông lấy roi ngựa vung lên quấn quanh người gã. Nó giật mạnh, người gã bay bổng lên cao, rơi xuống lưng ngựa mình, y như gã nhảy lên vậy. Gã tức quá miệng hét be be:
– Mấy tên ôn con kia, bọn mi định làm gì ta đây?
Thuận-Tông cười:
– Chúng tôi kính mời hai vị Thị-vệ đại nhân theo hộ tống Ngô tiểu thư lai kinh chứ không làm gì khác.
Gã Hầu Định ngoạc mồm ra chửi:
– Bọn mi dùng tà thuật bắt Thị-vệ như thế này sẽ bị xử tử hình. Mi có biết không?
Tôn Đản hỏi Lê Văn:
– Trên người ta, đụng vào chỗ nào thì cười, chú có biết không?
– Biết chứ.
Nó phóng chỉ điểm vào huyệt Liêm-tuyền của Hầu-Định. Liêm-tuyền là huyệt nằm ngay dưới cằm. Hầu bật lên tiếng cười. Thấy kết quả, Lê Văn tháo giầy gã ra, điểm vào huyệt Dũng-tuyền dưới bàn chân gã. Lập tức gã cười dòn dã. Vì chân tay gã tê liệt, gã chỉ biết rụt cổ và lắc mình cười.
Ngô Cẩm-Thi hỏi Tôn Đản:
– Tôn đại ca này. Võ công mà Tôn đại ca với Lê Văn vừa xử dụng là võ công gì vậy?
– Nó là môn điểm huyệt. Môn này đo anh cả với chúng tôi mới chế ra gần đây thôi. Còn điểm vào hai huyệt cho gã kia cười là do Lê Văn dùng gã thí nghiệm, không ngờ lại có kết quả ngoài ý muốn.
Ngô Cẩm-Thi nói với Lê Văn:
– Lê đệ đệ ơi. Đệ đệ mau giải khai huyệt đạo cho gã Hầu Định bằng không gã cười mãi thế kia, e mệt quá thì gã chết mất.
Lê Văn dùng roi ngựa quất vào huyệt Khúc-tuyền, Khí-hải của Hầu Định, lập tức gã hết cười, miệng thở hổn hển.
Tôn Đản nói:
– Hai vị Hầu, Lao! Mong hai vị khuất thân đi với chúng tôi tới Kinh-châu để biệt chân giả rồi chúng tôi sẽ giải khai huyệt đạo cho hai vị. Bằng hai vị cứ la lối, buộc lòng chúng tôi phải điểm cho hai vị cười đến chết mới thôi.
Hai gã Hầu, Lao đành thúc thủ, ngậm miệng theo bọn Tôn Đản. Khi qua Kinh-châu, bọn Tôn Đản không ghé dinh Tư-mã, mà đi thẳng lên Tương-dương.
Nhưng dù sao bọn Tôn Đản vẫn còn trẻ, thiếu cẩn thận. Chúng quên mất phép điểm huyệt chỉ có giá trị hai giờ. Sau hai giờ các huyệt tự giải. Đêm đó, hai gã Lao, Hầu thấy chân tay cử động được, bèn lấy ngựa trốn đi.
Sáng thức dậy thấy mất hai gã Lao, Hầu, bọn trẻ vẫn thản nhiên như không có gì xẩy ra. Suốt dọc đường Tôn Đản, Ngô Cẩm-Thi luôn bên cạnh nhau. Tự-Mai kinh nghiệm về vụ Lý Long-Bồ, Thanh-Mai. Sau này đến Thiệu-Thái, Mỹ-Linh. Nó bàn cùng Lê Văn, Thuận-Tông, Thiện-Lãm luôn tìm cách lẩn tránh để hai người có dịp nói truyện riêng.
Một lần chợt nhớ tới Thuận-Tường, Tự-Mai hỏi Triệu Huy:
– Triệu huynh ơi. Không biết kỳ tuyển phò mã này phái Hoa-sơn có cử người tham dự không?
– Tôi nghĩ là có. Không chừng giờ này phái đoàn Hoa-sơn đã đến rồi, nhưng chả biết họ cư trú ở đâu?
Suốt dọc đường, Tôn Đản luôn đi cạnh Ngô Cẩm-Thi. Y nhiều kinh
nghiệm thực tiễn dân dã, nhưng lại thiếu kiến thức trong sách vở. Ngược lại Cẩm-Thi thì đọc thiên kinh vạn quyển, mà chưa từng ra đời. Vì vậy họ bổ khuyết cho nhau, rồi mối tình nảy sinh.
Tới Biện-kinh, năm quý khách được mời vào cư ngụ trong phủ Định-vương. Như chỉ dụ của Định-vương, năm thiếu niên được trình bầy tổ chức triều Tống cùng đường xá trong Biện-kinh.
Định-vương tuy chưa lập vương phi chính thức, nhưng trong phủ cũng có hơn chục mỹ nữ. Đa số họ là con quan trong triều, hoặc con nhà giầu. Một là họ thích được gần nhân vật quyền thế chỉ thua có Thiên-tử. Hai là họ hãnh diện vì Định-vương nổi danh tài trí vô song. Các nàng mỹ nữ thấy năm thiếu niên khôi ngô, nói năng lễ phép, kiến thức vô cùng rộng rãi, đều tỏ vẻ mến mộ.
Năm thiếu niên thấy các mỹ nữ, chúng đều cung tay gọi bằng vương-phi. Nên bà nào cũng hài lòng. Chúng thi nhau kể truyện những ngày vương sang Đại-Việt. Tự-Mai đã ước hẹn với các bạn, tất cả đều tránh kể những thất bại của vương, mà chỉ kể truyện vương hào phóng, khiến võ lâm danh sĩ Đại-Việt ngưỡng mộ. Vì vậy Hoa-Việt kết thân.
Sau một ngày nghỉ ngơi, Triệu Huy nói với Ngô Cẩm-Thi:
– Bây giờ chúng ta đi thăm Ngô đại hiệp. Không biết chúng ta cùng đi hay chỉ một vài người với Ngô tiểu thư?
Ngô Cẩm-Thi hỏi ngược lại:
– Song thân tôi bị giam cùng với các anh tôi ở đâu?
– Ngô đại hiệp không bị giam. Cả gia đình bị quản thúc ở một trang ấp ngoài phủ Khai-phong. Những bộc phụ, tỳ nữ từ Khúc-giang đem theo vẫn y nguyên.
– Trang ấp do binh sĩ của phủ Khai-phong, của Khu-mật viện hay phủ Thái-úy canh gác?
– Của Khu-mật viện.
Cẩm-Thi nói với Tôn Đản:
– Tùy đại ca quyết định.
– Vậy thì thế này: Lê Văn, Tự-Mai ở nhà. Còn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo anh đi thăm Ngô bá bá.
Lê Văn cật vấn:
– Tại sao hai đứa này không đi. Lỡ có sự thì sao?
– Đây thuộc kinh thành ta không thể dụng võ, nên không cần đến hai chú. Mà có dụng võ, với bản lĩnh Ngô bá bá cùng ba vị Ngô công tử hỏi ai địch lại, các chú có đi cũng vô ích.
Tôn Đản thấy Tự-Mai chưa hiểu ý mình, nó ghé tai Tự-Mai nói nhỏ:
– Lúc sáng nay ta thấy cặp chim ưng mình cho Thuận-Tường hôm trước bay trên đầu, ắt nàng đang có mặt ở kinh thành. Em gọi chim ưng xuống gửi thư cho nàng, hoặc bảo nó dẫn đường tìm nàng.
Tự-Mai liếc nhìn lên trời, quả đôi chim ưng đang bay lượn không xa là mấy. Tim nó đập rộn ràng, tay ôm lấy Tôn Đản tỏ ý biết ơn.
Tôn Đản, Cẩm-Thi dẫn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo Triệu Huy rời vương phủ. Lê Văn nhìn Tự-Mai tủm tỉm cười. Hai thiếu niên cùng xuất thân giống nhau, nên tâm đầu ý hợp, chỉ thoáng qua, Lê Văn đã hiểu thấu tâm sự Tự-Mai. Nó bàn:
– Tự-Mai định gọi chim ưng xuống viết thư cho nàng hay tìm đến thăm nàng?
– Viết thư e không tiện, vì sợ phụ huynh nàng bắt được. Trước hết mình nên tìm xem nàng ở đâu đã.
– Vậy ta gọi chim ưng xuống đi!
Tự-Mai ngửa mặt lên trời hú một tiếng dài. Đôi chim ưng đang bay trên trời, chúng lượn một vòng rồi đáp xuống. Chúng nhận ra Tự-Mai, Lê Văn, cả hai con vật đều kêu lên những tiếng vui mừng. Lê Văn bàn:
– Ta theo chúng đi liền chăng?
– Ừ.
Tự-Mai nói với cặp chim ưng mấy tiếng, rồi…
Lê Văn dịch xong, Tự-Mai đã gọi chim ưng xuống buộc khăn vào chân nó chúng rồi tung lên không. Cặp chim ưng bay một vòng, chúng chao đi mấy cái, sau đó từ từ đáp xuống mất hút. Hai thiếu niên tìm một vườn hoa ngồi chờ tin tức. Không đầy nửa giờ, chim ưng bay lên không, rồi đáp xuống. Tự-Mai run run mở ống tre dưới chân ra. Trong có tờ giấy hoa tiên. Nó đọc:
Trần đại ca.
Tự Tản-lĩnh cách biệt, tưởng kiếp này không gặp nhau nữa. Không ngờ đại ca đã dầy công đi tìm muội. Đại ca muốn gặp muội, phải tuyệt đối nghe lời muội. Bằng không chúng ta nghìn trùng cách biệt. Có hai việc phải làm:
– Một là đại ca phải ghi danh ứng tuyển phò mã ngay. Dùng mọi cách thắng anh hùng thiên hạ.
– Hai là đại ca ra tửu lầu Nam-phong chờ. Sẽ có người đến đưa đại ca gặp muội.
Thư bất tận ngôn.
Thuận-Tường.
Lê Văn thấy Tự-Mai đờ đẫn cả người ra. Nó vội khuyên:
– Ta tạm rời hoàng thành, tìm tửu lầu Nam-phong đợi nàng sai người đến dẫn đi.
– Lạ một điều sao nàng bắt ta phải ghi danh ứng tuyển phò mã. Thành phò mã rồi, sao có thể làm chồng nàng?
Lê Văn suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Có nhiều khúc mắc mà ta chưa biết. Ta cứ chờ gặp nàng rồi sẽ hỏi. Theo như em nghĩ, Lưu hậu treo bảng tuyển phò mã. Số vào chung kết tới mười tám. Lưu hậu cùng quan tả, hữu bộc xạ chọn một người. Còn mười bẩy người sẽ gả con các quan cho. Không chừng Thuận-Tường là một trong mười bẩy tiểu thư đó.
Khi người ta yêu, thường u mê trong ảo tưởng. Hằng ngày Tự-Mai thông minh bậc nhất, việc gì nó cũng kiến giải sáng suốt. Nay nó đang trong vòng rạo rực tình ái, nên cảm thấy yếu đuối, phải nhờ Lê Văn bàn giúp.
Rời hoàng thành, hai thiếu niên tìm đến tửu lâu Nam-phong, kiếm một chỗ trên lầu cao, gần cửa sổ ngồi. Lê Văn gọi mấy món ăn, rồi bàn:
– Lát nữa đây, sẽ có người dẫn đường đi gặp Thuận-Tường, chỉ mình anh đi thôi. Còn em trở về phủ Định-vương. Lỡ có gì chim ưng báo cho em biết, để em còn thông tin cho anh cả với Định-vương.
– Dĩ nhiên như vậy. Mình nghĩ việc gặp Thuận-Tường chắc không có gì nguy hiểm đâu. Dù sao giữa phái Hoa-sơn với võ lâm Đại-Việt có tình giao hảo, họ đâu nỡ gây khó dễ với mình.
Bỗng có tiếng lăng không truyền ngữ rót vào tai Tự-Mai:
– Thằng cà chớn mê gái. Có nhận được tiếng ta không?
Nghe tiếng nói, Tự-Mai lạnh cả gáy, vì đó là tiếng Thông-Mai. Nó không hiểu sao, bố nó, Thanh-Mai đầm ấm như vậy, mà Thông-Mai lại lạnh lùng đến phát ớn. Nghe tiếng anh hỏi, nó nhìn sang bên cạnh, thấy hai ông bà già đang ngồi ăn uống. Mùi trầm hương xông lên, nó nhận ra cặp vợ chồng là Thông-Mai, Bảo-Hòa. Nó vội đáp:
– Anh có gì dặn em không?
– Anh thì không có gì, nhưng chị Bảo-Hòa thì có nhiều lắm.
Tiếng Bảo-Hòa nói:
– Đêm nay có thể em gặp một người đàn bà đặc biệt thuộc phái Nga-mi. Nội công Nga-mi xuất từ phái Thiếu-lâm. Mà nội công Thiếu-lâm, Tiêu-sơn, Đông-a đều xuất từ Thiền. Em hãy đem phương pháp phá Chu-sa độc chưởng dạy cho bà ta.
– Chưa có phép của bố mà em dạy người ngoài, e bố đánh chết.
– Chị với anh Thông-Mai đã xin phép bố rồi.
– Chỉ dạy phép đẩy độc chất về cơ thể địch nhân hay dạy cả nội công lẫn chưởng pháp.
– Em muốn dạy gì cũng được.
Đến đấy Bảo-Hòa, Thông-Mai đứng dậy xuống lầu. Tự-Mai rùng mình:
– Văn đệ này. Từ khi rời nước ra đi đến giờ, hằng ngày anh cả điều động chúng mình. Nhưng trên thực tế hai ông bà Thông-Mai, Bảo-Hòa sai khiến tất cả. Chúng mình đi thế nào, ông bà ấy cũng theo dõi được.
Hai người đang nói truyện, thì có một thiếu phụ đến bên cung tay hỏi:
– Trong hai vị, vị nào là Trần công tử?
Tự-Mai đáp lễ:
– Thưa là tôi.
– Lão tỳ được bề trên ủy thác dẫn công tử đến gặp một người. Xin công tử theo lão tỳ.
Tự-Mai đưa mắt cho Lê Văn, rồi đứng lên. Thiếu phụ dặn:
– Tiểu tỳ họ Phương. Bề trên dặn: Công tử tuyệt đối không được dụng võ. Nơi công tử gặp bề trên thuộc cấm thành. Trong cấm thành đầy cung nga, thái giám, thị vệ. Vậy công tử phải hoá trang thành một thái giám.
Nói rồi mụ trao cho Tự-Mai một cái túi:
– Công tử hãy vào sau tửu lầu thay quần áo, trao kiếm cho người bạn. Trong cấm thành, thái giám không thể mang kiếm.
Tự-Mai trao kiếm cho Lê Văn rồi vào trong thay quần áo. Khi nó ra, Lê Văn suýt bật cười vì chính nó cũng không nhận ra Tự-Mai. Mụ Phương trao cho Tự-Mai một thẻ bài:
– Đây thẻ bài của công tử. Công tử có tên Mai-Tự, thuộc cung Ôn-đức, hầu hạ Lý thái phi.
Tự-Mai hỏi:
– Tại sao Thuận-Tường lại ở trong cấm thành?
– Lát nữa gặp bề trên của lão tỳ, công tử sẽ rõ.
Hai người xuống lầu. Kiệu chờ sẵn. Mụ Phương lên một cái. Tự-Mai lên một cái. Kiệu nhập cửa Chính-dương rồi vào cửa Tinh-võ cấm thành. Khi qua cửa, thị vệ hỏi thẻ bài, rồi cho đi. Kiệu đi vòng vèo mãi, tới một cung điện thì ngừng lại. Kiệu phu mở cửa. Tự-Mai bước ra, mụ đã Phương chờ sẵn. Mụ vẫy Tự-Mai đi theo. Liếc nhìn trên cửa cung có chữ Ôn-đức cung. Nó kinh hãi:
– Hôm trước nghe anh Thiệu-Cực nói Ôn-đức là nơi thái phi họ Lý ở. Không lẽ Thuận-Tường lại là thái phi?
Mụ Phương đưa Tự-Mai vào một thư phòng trang trí rất hoa mỹ. Trên tường treo đầy bút thiếp cùng danh họa. Mụ dặn:
– Thôi, công tử ngồi đây chờ bề trên chúng tôi, xin đừng có đi đâu.
Nói rồi mụ lui bước. Tự-Mai đi xem các bút thiếp, tất cả đều thự danh của những đại gia thời bấy giờ như Vương Khâm-Nhược, Lã Di-Giản, Khấu Chuẩn, Đinh Vị, Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn.
Có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một mùi u hương thoang thoảng bốc lên. Tự-Mai nghĩ thầm:
– Chắc là Thuận-Tường.
Nó vội quay lại đón, thì ra một cung nữ. Cung nữ cúi đầu chào nó, rồi đặt chiếc khay bạc lên bàn. Trên khay bạc có đến mười thứ mứt kẹo khác nhau. Nàng lễ phép lui bước.
Tự-Mai tò mò nhìn các đĩa mứt. Nó nhận ra được : Hạt dẻ, tùng tử, hạnh đào, đào nhân, ngọc quế. Còn lại nó chưa từng thấy qua.
Lại có mùi u hương thoang thoảng, rồi cung nữ khác bưng vào một bình trà với hai chiếc chung bằng sứ bọc vàng. Cung nữ cúi chào, khoan thai lui bước.
Tự-Mai nghĩ thầm:
– Thuận-Tường là ai? Không lẽ nàng là Lý thái phi? Vua Chân-tông băng đã mười năm. Khi ngài băng, Thuận-Tường chưa quá mười tuổi, đâu có thể là cung phi của ông?
Có mùi hoa quế thoang thoảng, rồi một cung nữ bước vào. Tự-Mai giật bắn người lên. Vì nàng chính là Thuận-Tường. Nhớ thương chồng chất, nay gặp lại, chân tay nó như tê liệt. Thuận-Tường cũng thế. Hai người ngây ngất nhìn nhau. Cứ như vậy không biết thời gian bao nhiêu lâu, Thuận-Tường lên tiếng:
– Trần đại ca.
– Thuận-Tường!
Thuận-Tường mời Tự-Mai ngồi xuống chiếc bàn. Nàng ngồi đối diện, tay rót trà vào chung mời:
– Đại ca dùng trà.
Tự-Mai bưng trà lên uống, rồi hỏi:
– Đây là đâu. Tại sao Thuận-Tường lại ở cung Ôn-đức?
– Vì tiểu muội là cung nữ.
– Cung nữ?
– Đại ca ngạc nhiên lắm ư? Sau khi rời Tản-lĩnh về, tiểu muội bị tuyển làm cung nữ, rồi được đưa vào đây hầu Lý thái-phi.
Trong đầu óc Tự-Mai nhớ lại truyện Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương. Mỹ-Linh kể cho nó nghe: Những cung nữ xinh đẹp vua lưu giữ một số phong cho những gì mỹ-nữ, tu-nghi, tu-dung, dung-nghi, tức một thứ vợ nhỏ. Còn lại chia cho các hoàng tử. Những người xấu, bị chia hầu hạ các bà thái hậu, hoàng hậu, công chúa. Nó hỏi:
– Tường muội đẹp thế này mà hoàng đế không phong làm chính cung nương nương ư? Sao đến nỗi hầu hạ thái phi?
Thuận-Tường cười:
– Đại ca đừng ngạc nhiên, vì muội thuộc thành phần con nhà dân dã, nên không thể được hầu vua cũng như hoàng tử.
– Tường muội định chôn cuộc đời ở đây sao?
– Chim lồng, cá chậu biết sao bây giờ?
– Tường muội cùng anh trốn đi.
– Đại ca tưởng! Trốn đi thì dễ rồi, nhưng còn gia gia, má má, anh chị em… Triều đình sẽ chặt đầu hết.
– Anh nhất định không thể để như vậy!
– Đại ca định làm gì?
– Anh về rủ mấy sư huynh sư đệ vào cướp Tường muội ra. Khi Tường muội bị cứơp ra, triều đình đâu có thể bắt tội gia gia, má má.
Thuận-Tường lắc đầu:
– Trong cấm thành có hơn nghìn thị vệ. Dù đại ca có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không thể đấu lại với bọn chúng. Làm như thế chỉ uổng mạng mà thôi.
– Thà uổng mạng vì Tường muội còn hơn để Tường muội bị chôn cuộc đời trong cung như thế này.
Thuận-Tường bật cười:
– Trước đây, trong cấm thành đã xẩy ra một việc tương tự. Hồi đó tiểu muội còn nhỏ, nên chỉ nhớ lõm bõm thôi. Bấy giờ phụ hoàng… à vua Chân-tông còn là tại thế.
Nghe Thuận-Tường nói, Tự-Mai ngắt lời:
– Cái gì phụ hoàng?
– Tiểu muội muốn nói hoàng thượng còn là thái tử. Bấy giờ vua Chân-tông tuyển con gái Khấu thừa tướng định đặt lên làm hoàng hậu. Giữa lúc vua cùng nàng yến ẩm, thì một võ lâm cao thủ xuất hiện. Y trói nhà vua lại, nhét dẻ vào miệng rồi bắt Khấu tiểu thư đi.
Tự-Mai bật cười, vì biết gian nhân đó là nhị sư huynh Trần Bảo-Dân. Nó lắc đầu:
– Theo anh nghĩ cao thủ đó không bắt Khấu Kim-An, mà cứu nàng ra.
Thuận-Tường kinh ngạc:
– Đại ca biết nhũ danh của Khấu tiểu thư ư?
– Anh biết rất rõ. Kim-An không hề bị bắt, trái lại tình quân đã cứu nàng ra. Tình quân đó là nhị sư huynh của anh tên Trần Bảo-Dân.
– Tuyệt vời! Mà gan cũng lớn vô cùng. Trên đời hỏi được mấy người như nhị sư huynh của đại ca. Y dám vì tình, mà làm truyện nghịch thiên, bạo địa. Ước gì muội được gặp con người đó.
Tự-Mai thuật lại truyện tình của nhị sư huynh với Khấu Kim-An thực chi tiết tỷ mỉ, rồi nó kết luận:
– Bây giờ đến lượt anh làm truyện bạo thiên, nghịch địa.
Thuận-Tường nắm tay Tự-Mai. Cả hai cùng run lên bần bật:
– Đa tạ đại ca. Bây giờ thế này: Đại ca ghi danh ứng tuyển phò mã. Cố sao được vào chung kết. Khi Thái-hậu cùng triều đình cho công chúa cùng con các quan xuất hiện. Tiểu muội sẽ có mặt theo hầu công chúa. Đại ca xin được kết hôn với tiểu muội. Như vậy là tốt đẹp nhất.
– Tại sao Tường muội…
Có tiếng nói vọng vào:
– Thánh giá Thái-hậu giá lâm.
Thuận-Tường kinh hãi chỉ cái sập, y muốn bảo Tự-Mai chui vào gầm
ẩn thân. Nhưng Tự-Mai gan lớn bằng trời, nó không chịu chui vào mà tung người lên trên xà nhà, rồi nép mình bên cạnh kèo lớn. Thuận-Tường phóng ra cửa sổ mất dạng.
Hai cung nữ bưng trà, mứt bước vào ban nãy, dấu vội khay, đĩa trong cái tủ, rồi ra cửa. Tiếng dép lẹp kẹp, hai thiếu phụ y phục sang trọng song song bước vào. Nhờ đã được Mỹ-Linh giảng giải, nhìn y phục, Tự-Mai nhận ra được phụ nữ gầy là Lý thái phi. Còn phụ nữ người vừa phải là thái hậu. Hai cung nữ quỳ gối:
– Bái kiến thái hậu, thái phi.
Một thái giám đi theo hô:
– Bình thân.
Tự-Mai nghĩ thầm:
– Kẻ đại thù gây sóng gió cho Đại-Việt, Đại-lý, Tây-hạ, Thổ-phồn là bà Lưu thái hậu này đây. Cứ nhìn nét mặt, bà ta mới hơn bốn mươi, nhan sắc thực không thua gì Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh. Có ai ngờ bà ta gây ra biết bao nhiêu bão táp cho thiên hạ.
Lưu thái hậu, Lý thái phi ngồi đối diện nhau, mỗi người bưng một chung trà trong tay, không ai uống, cùng nhìn nhau. Một lát sau Lưu hậu nói:
– Việc triều chính bớt bận rộn, ta tới thăm Thái- phi, muốn nói với Thái-phi ít điều.
– Thần ở đây thanh tĩnh quen rồi. Thái-hậu vì quốc sự mà thánh thể hao gầy, xin tĩnh dưỡng, không nên bận tâm về thần.
Lưu Thái-hậu thở dài:
– Dĩ nhiên ta không bận tâm về Thái-phi, mà bận tâm về các thân vương. Triệu vương ra dạ bất an. Hơn tháng qua y cáo bệnh không vào triều. Còn Định-vương! Hừ ! Ta đang điên đầu về y. Y chống lại ta chẳng nói làm gì. Có tin nói y định tạo phản.
Lý Thái-phi lắc đầu:
– Tin đó chắc người ta phao vu. Định vương hiện là rường cột xã tắc. Người là thầy, là chú Thiên-tử. Suốt đời người nhất tân lo cho Thiên-tử. Khắp nơi đều nói người là Chu-công, Trương Lương, Gia-cát Lượng. Thiếp nghĩ nếu Thiên-tử muốn, người cũng cắt tim cắt thịt cho thên tử ăn. Có đâu tạo phản?
Lưu hậu lắc đầu:
– Bề ngoài thì vậy, nhưng bề trong y liên kết với bọn Việt.
– Vương đi sứ nước người. Việc ở ngoài, khó có thể quyết đoán bằng một tờ biểu. Ai đã tâu với Thái- hậu như vậy?
– Dư An-phủ kinh lược sứ cùng Địch Thanh theo vương đi sứ Chiêm. Vương biết Dư là cháu Thái-hậu, đời nào vương mưu phản lại để lộ cho y biết? Vương mới về kinh, thần nghĩ Thái-hậu đường đường chính chính mời vương lâm triều hỏi cho ra lẽ, chẳng hơn ưu tư cho mệt thánh thể.
– Ta đã tra hỏi nhiều người. Vương kết huynh đệ với Khai-Quốc vương Đại-Việt. Như vậy không phải là mối lo ư?
– Đại-Việt là phiên thần của Tống. Xưa đức Thái-tổ chẳng từng kết huynh đệ với Trịnh Ân mà được Ân phò tá bản triều đó ư? Thần nghe, sứ đoàn Đại-Việt đang trên đường sang tiến cống. Khai-Quốc vương mưu kết với Định-vương làm phản, có đâu đem đầu đến cho ta chặt.
– Thôi được, bỏ qua việc đó. Ta muốn nói với Thái-phi một truyện: Thiên-tử không muốn gặp Thái-phi. Thế mà sao Thái-phi cứ tìm cớ tao ngộ với người?
Thái phi lắc đầu:
– Thần nghĩ Thiên-tử là giọt máu của Tiên-đế. Thần hồi tưởng ân sủng của Tiên-đế ban cho, nên muốn thấy Thiên-tử mà thôi.
Nghe hai người đối đáp, Tự-Mai kinh ngạc:
– Hai bà này nói tới hoàng nhi, tức Tống Thiên- tử. Thiên-Thánh hoàng đế rõ ràng do Lưu hậu sinh ra. Tại sao Thái-phi lại thương nhớ, tìm cách tao ngộ? Giọng điệu Thái-hậu như đe dọa. Còn Lý Thái-phi lại nhũn nhặn. Như thế là thế nào?
Nó chợt nhớ lại những lời đối đáp giữa Minh-Thiên với Định-vương mà Thiệu-Cực thuật hôm ở Bắc-biên: Rõ ràng Lưu hậu có yếu điểm gì đó liên quan đến Lý Thái-phi cùng Hoàng đế, khiếm bà ta lo sợ, phải chiều chuộng vương. Minh-Thiên còn nói rõ: Lưu hậu định hại Lý Thái-phi. Ông khuyên Định-vương phải nói điều bí mật cho hoàng đế biết. Bí mật đó là gì?
Thình lình thái hậu lên tiếng:
– Chị em chúng ta đang đàm đạo quốc sự. Người là ai mà dám leo lên xà nhà nghe trộm?
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!