Bá Tước Dracula - Chương 24: Nhật ký của bác sĩ seward
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
154


Bá Tước Dracula


Chương 24: Nhật ký của bác sĩ seward


Ngày 29 tháng Mười – Phần này được viết trên chuyến xe lửa đi từ Varna đến Galatz. Đêm qua tất cả chúng đã tập hợp lại trước khi hòang hôn một lúc. Mỗi người trong số chúng tôi đã làm tốt mọi phần việc của mình với tất cả khả năng, với tòan bộ tâm trí và nỗ lực, và khi cơ hội đến, chúng tôi đã được chuẩn bị cho tòan bộ cuộc hành trình, cho công việc của mình khi chúng tôi đến Galatz. Khi đến thời khắc thường lệ, bà Harker đang chuẩn bị cho công việc thôi miên, và sau đó Van Helsing bắt đầu phần việc của mình với những động tác có phần lâu hơn và thận trọng hơn lệ thường, nàng bắt đầu chìm vào trạng thái thôi miên. Thường thì nàng nói ngay khi có lời gợi ý, nhưng lần này giáo sư phải hỏi nàng nhiều câu hỏi, và hỏi chúng một cách khá cương quyết, trước khi chúng tôi được sáng tỏ thêm bất kỳ chuyện gì. Cuối cùng câu trả lời của nàng cũng đến.

“Tôi không thể thấy gì. Vẩn như cữ. Chẳng có tiếng sóng vỗ, mà chỉ có tiếng xóay nước nhẹ nhàng khi có tiếng dây cáp. Tôi có thể tiếng người gọi, lúc xa lúc gần, và tiếng lắc lư và và cót két của mái chèo trong những cọc chèo. Đâu đó có tiếng súng nổ, và tiếng vọng của nó vẳng ra xa. Rồi có tiếng chân bước nặng nề phía trên, tiếng dây thừng và xích được kéo lê. Cái gì thế nhỉ? Có một tia sáng. Tôi có thể cảm thấy cả một luồng khí ập vào tôi.”

Đến đây thì nàng ngừng lời. Nàng đã bật dậy, khá là hấp tấp, từ chiếc ghế sofa mà nàng đang nằm, và đưa cả hai tay, lòng bàn tay hướng lên, như thể đang nâng một vật nặng. Van Helsing và tôi nhìn nhau một cách hiểu biết. Quincey khẽ nhíu mày và nhìn nàng chăm chú, trong khi Harker theo bản năng đưa tay xoa quanh chuôi con dao Kukri của ông. Sau đó là một sự ngừng lại khá lâu. Tất cả chúng tôi đều là thời điểm mà nàng có thể nói đã qua, nhưng chúng tôi cảm thấy không thể nói được gì.

Thình *** h nàng ngồi xuống, mở bừng mắt và dịu dàng nói, “Có ai trong số các bạn thích một tách trà không? Tất cả các bạn đều trông có vẻ mệt mỏi!”

Chúng tôi chỉ có thể làm cho nàng vui vẻ, và đều ưng thuận. Nàng hối hả đi pha trà. Khi nàng đi khuất Van Helsing nói, “Các bạn đã thấy rồi đó, các bạn của tôi. Hắn đang ở gần đất liền. Hắn đã rời khỏi cái rương đất. Nhưng hắn chỉ mới đến bờ biển thôi. Trong đêm hắn có thể nằm lẩn trốn ở đâu đó, nhưng nếu hắn không được mang đi trên bờ biển, hoặc con tàu không đi vào đó, thì hắn không thể đặt chân lên đất liền được. Trong trường hợp này hắn có thể, nếu như còn trong đêm, thay đổi hình dạng của hắn và nhảy hoặc bay trên bờ biển, thế nhưng, hắn không thể trốn thóat trừ khi hắn được khiêng đi. Và nếu hắn được khiêng đi, thì những nhân viên hải quan có thể phát hiện ra cái hộp chứa gì. Vì vậy, tóm lại, nếu hắn không trốn được khỏi bờ biển trong tối nay, hoặc trước khi bình minh, thì hắn sẽ bị mất trọn cả một ngày. Chúng ta có thể đến kịp lúc. Còn nếu hắn trốn thóat trong đêm chúng ta sẽ bắt kịp hắn trong thời gian ban ngày, khi hắn bị nhốt trong hộp và phụ thuộc vào lòng từ tâm của chúng ta. Vì hắn không dám trở lại chính bản thân mình, thức giấc và hiện hữu, để hắn không bị khám phá ra.”

Chẳng có gì để nói thêm, và chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi bình minh, đó là lúc chúng tôi có thể biết được thêm qua bà Harker.

Vào sáng sớm chúng tôi, như ngừng cả thở trong âu lo, lắng nghe câu trả lời của nàng trong cơn thôi miên. Trạng thái thôi miên này thậm chí còn chậm đến hơn lần trước, và khi nó đến thì thời gian còn lại cho đến lúc mặt trời hoàn toàn mọc chỉ còn rất ngắn đến nỗi chúng tôi bắt đầu tuyệt vọng. Van Helsing có vẻ như đã dồn toàn bộ linh hồn của ông vào nỗ lực này. Cuối cùng, khi tuân theo lệnh của ông ấy, nàng trả lời.

“Tất cả đều tăm tối. Tôi nghe tiếng nước vỗ ở ngang với tôi, có tiếng cót két của gỗ va nhau.” Nàng ngừng lời, và mặt trời đỏ rực đã hiện lên. Chúng tôi phải đợi đến tối thôi.

Và vì thế nên chúng tôi đến Galatz trong nỗi niềm chờ đợi khắc khỏai. Chúng tôi phải đến vào lúc giữa hai và ba giờ sáng. Nhưng tại Bucharest chúng tôi bị trễ khỏang ba tiếng, và chúng tôi không thể đến đích ngay sau lúc mặt trời mọc. Do vậy chúng tôi sẽ thêm hai thông điệp trong lúc thôi miên của bà Harker! Bất kỳ cái nào trong hai thông điệp đó cũng sẽ soi sáng thêm cho những gì đang diễn ra.

Sau đó – Bình minh đã đến và đi. May mắn là nó không đến vào lúc chúng tôi đang xao động. Vì nếu nó đến trong lúc chúng tôi đang xao động, chúng tôi có thể không bảo đảm được là có sự bình tĩnh và cách ly cần thiết. Bà Harker rơi vào trạng thái thôi miên thậm chí còn chậm hơn vào sáng nay. Tôi sợ rằng năng lực cùa nàng để đọc trong tâm thức của bá tước có thể sẽ mất hẳn đi, ngay khi mà chúng tôi đang cần nó nhất. Từ khi nàng rơi vào trạng thái thôi miên cho đến nay thì nàng vẩn chỉ tự giam hãm trong những sự kiện đơn giản nhất. Nếu đúng như vậy thì điều này sẽ là sự lừa dối tệ hại nhất cho chúng tôi. Nếu như tôi nghĩ rằng khi mà tác dụng ảnh hưởng của năng lực từ bá tước lên nàng mất đi cân bằng với việc năng lực của nàng trong việc nhận biết những hành vi của bá tước thì đó sẽ là một ý nghĩ hạnh phúc. Nhưng tôi sợ rằng nó có thể sẽ không như vậy.

Khi nàng nói, những lời của nàng rất khó hiểu, “Có cái gì đó đang đi ra. Tôi có thể cảm nó truyền qua tôi như một gió lạnh. Tôi có thể nghe từ xa vắng những mớ âm thanh lộn xộn, giống như những con người đang nói chuyện bằng những cái lưỡi lạ, tiếng rẽ nước, và tiếng sói tru.” Nàng dừng lời và một cơn rùng mình chạy xuyên suốt nàng, càng lúc càng gia tăng trong vài giây, và đến khi kết thúc, nàng rùng mình trong trạng thái tê liệt. Nàng không nói gì thêm, thậm chí để trả lời những câu hỏi khẩn thiết của giáo sư. Khi nàng tỉnh dậy sau khi thôi miên, nàng lạnh, kiệt sức, yếu ớt, nhưng tâm trạng của nàng thì hoàn toàn bất an. Nàng không thể nhớ gì, nhưng hỏi lại xem nàng đã nói cái gì. Khi nàng được kể lại, nàng suy nghĩ rất lung trong một lúc lâu và trong im lặng.

Ngày 30 tháng Mười, 7 giờ sáng – Chúng tôi bây giờ đã gần đến Galatz, và tôi có thể có thời gian để viết thêm sau này. Cảnh mặt trời mọc sáng nay nhìn thật đáng lo cho tất cả chúng tôi. Những điều hiểu biết được gia tăng một cách khó khăn trong những cuộc thôi miên, Van Helsing bắt đầu công việc sớm hơn lệ thường. Tuy nhiên nó vẩn không có tác dụng cho đến thời điểm thường lệ, khi nàng bắt đầu chịu thôi miên nhưng còn khó khăn hơn, chỉ một phút trước khi mặt trời mọc. Giáo sư không mất thời gian đặt ngay câu hỏi.

Câu trả lời của nàng diễn ra gấp gáp, “Tất cả đều tối đen. Tôi nghe tiếng nước xóay ngang với tai tôi, và tiếng gỗ khua cót két. Gia súc nằm xa phía dưới. Có những âm thanh khác, một thứ tiếng kỳ quặc giống như…” Nàng ngừng lại và trở nên trắng bệch, càng lúc càng trắng hơn.

“Tiếp tục, tiếp tục! Nói đi, tôi ra lệnh cho cô đấy!” Van Helsing nói bằng một giọng khắc khỏai. Cùng lúc đó có một sự tuyệt vọng trong mắt ông, vì ánh mặt trời đang mọc đang rực hồng khuôn mặt trắng bệch của bà Harker. Nàng mở bừng mắt, và tất cả chúng tôi đều giật mình khi nghe nàng nói, dịu ngọt và gần như là hoàn toàn mất tự chủ.

“Ôi, giáo sư, vì sao lại yêu cầu tôi điều mà tôi không thể? Tôi nhớ gì cả.” Rồi, với một cái nhìn kinh ngạc trên khắp khuôn mặt chúng tôi, nàng nói, trong khi nhìn từng người với cái nhìn bối rối, “Tôi đã nói gì? Tôi đã làm gì? Tôi không biết gì hết, chỉ vì tôi đang nằm đây, nữa mê nữa tỉnh, và nghe ông nói,’tiếp đi! nói, tôi ra lệnh cho cô!’ Điều đó nghe rất buồn cười, ông ra lệnh cho tôi như thể tôi là một đứa trẻ hư!”

“Ôi, bà Mina,” ông ấy nói, buồn bã, “đó là sự chứng minh, nếu sự chứng minh là cần thiết, của tình yêu và sự kính trọng của tôi dành cho bà, khi mà lời nói dành những điều tốt đẹp cho bà, đã được nói nhiệt thành hơn bao giờ hết, lại gần như trở thành lạ lẫm bởi vì đó là lời ra lệnh cho con người mà tôi rất tự hào được tuân lệnh!”

Tiếng còi tàu đã rúc lên. Chúng tôi đã gần tới Galatz. Chúng tôi đang hừng hực với lòng khao khát và hăm hở.

NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER

Ngày 30 tháng Mười. – Ông Morris đã đưa tôi đến khách sạn nơi mà phòng chúng tôi đã được đặt trước bằng điện tín, ông ấy là một người dư thừa những điều tốt đẹp nhất, dù ông ấy chẳng nói bất kỳ một ngoại ngữ nào. Lực lượng chúng tôi được phân tán khi đến Varna, ngoại trừ huân tước Godalming đến gặp ngài Phó Lãnh sự, vì địa vị của ông ấy có thể sắp xếp để có ngay một sự bảo đảm trong một nơi văn phòng như thế, chúng tôi đang rất vội. Jonathan và hai người bác sĩ đi đến chỗ các nhân viên bến tàu để xem có gì đặc biệt về sự cập bến của con tàu Czarina Catherine.

Sau đó – Huân tước Godalming đã trở lại. Ngài Lãnh Sự đã đi và ngài Phó Lãnh sự thì ốm. Dó vậy tòan bộ công việc được bàn thảo với người thư ký. Ông ta rất tốt bụng, và đã đáp ứng tất cả mọi chuyện trong quyền hạn của ông ta.

NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER

Ngày 30 tháng Mười – Vào chín giờ bác sĩ Van Helsing, bác sĩ Seward và tôi được gọi đến Messrs. Mackenzie & Steinkoff, gặp những nhân viên của công ty London ở Hapgood. Họ nhận được điện tín từ London, để trả lời cho điện tín yêu cầu của huân tước Godalming, yêu cầu họ đón tiếp chúng tôi bằng tất cả sự lễ độ trong khả năng của họ. Họ đã rất nhã nhặn và dễ chịu, đưa chúng tôi ngay lên boong của Czarina Catherine, đang nằm thả neo ở một cảng ven sông. Ở đấy chúng tôi thuyền trưởng, có tên Donelson, ông ta đã kể với chúng tôi về tòan bộ cuộc hành trình. Ông ta nói rằng trong suốt cả đời mình ông chưa bao giờ có được một chuyến đi thuận lợi như vậy.

“Thế nhân ơi!” ông ta nói, “nhưng hắn làm chúng tôi sợ khiếp, vì chúng tôi đang được chờ đợi là sẽ được trả tiền cho những tình huống bất lợi gặp phải mà vẩn giữ được tốc độ trung bình. Thật là không thận trọng khi chạy thẳng từ London đến Biển Đen chỉ bằng sức gió, nhưng hình như chính bản thân Quỷ đã hỗ trợ cho chiếc thuyền buồm tới đích. Và trong suốt thời gian đó chúng tôi chẳng gặp chuyện gì. Dù cho chúng tôi đang ở trên thuyền, ở cảng, ở mũi biển thì lúc nào sương mù cũng tràn ngập chúng tôi và đi theo chúng tôi, đến sau khi màn sương đó được nhấc đi và lúc đó chúng tôi nhìn ra, thì trời đất quỷ thần ơi. Chúng tôi đã đi qua Gribaltar mà chẳng nhận thấy một dấu hiệu nào cả. Và tiếp đó chúng tôi vẩn tiến đến Dardanelles và phải đợi để được phép qua, thì chúng tôi chìm ngập trong một cơn mưa chưa từng thấy. Đầu tiên tôi định hạ buồm để chờ sương tan. Nhưng tôi đồ rằng chính Quỷ đang muốn đưa thẳng chúng tôi ra Hắc Hải cho lẹ, hắn chỉ muốn làm cho được ý mình, bất chấp chúng tôi có muốn hay không. Nếu chúng tôi đã có một cuộc hành trình nhanh chóng như vậy thì là do chúng tôi đã không thất tín với chủ, hoặc không có tai nạn nào trong lúc đi đường, và cái tên Lão Nhân ấy đã được phục vụ tốt đến mức hắn đã nhã nhặn cám ơn chúng tôi đã không cản trở hắn.”

Đó làm một hỗn hợp giữa sự mộc mạc và xảo trá, của cuộc tranh luận giữa mê tín và thương mại, được Van Helsing khuấy động lên, ông bảo “Bạn tôi, con Quỷ ấy thông minh hơn là hắn thường suy tính, và hắn biết là hắn đã gặp phải trận đấu của hắn rồi!”

Con người hàng hải kia không hài lòng lắm với lời nhận xét, và tiếp tục, “Khi chúng tôi vượt qua Bosphorus thì một đám người bắt đầu càu nhàu. Một số người trong đám họ, người Roumanian, đến và yêu cầu tôi cho mang lên boong cái hộp to đùng đã được mang lên tàu bởi một lão già trông khá là kỳ quặc ngay trước khi chúng tôi bắt đầu khởi hành từ London. Tôi thấy họ liếc nhìn cái lão ấy, và họ đưa hai ngón tay khi thấy lão, để bảo vệ họ khỏi con mắt của quỷ dữ. Thế nhân ơi! Sự mê tín của cái lũ ngoại quốc ấy kỳ cục thật! Tôi muốn họ giải quyết công chuyện của họ cho lẹ, nhưng ngay sau đó một màn sương đổ ập xuống chúng tôi, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi không thấy họ đề cập đến chuyện đó nữa, dù tôi chẳng hề nói điều gì phản đối vụ cái hộp to kia. Thế đấy, chúng tôi đi tiếp, và sau đó màn sương không phủ quanh chúng tôi khỏang năm ngày, tôi chỉ thấy một cơn gió thổi băng băng chúng tôi đi, bởi vì con Quỷ muốn chúng tôi tới một nơi nào đó, tốt, nó sẽ mang chúng tôi thẳng tới đó. Và nếu nó không muốn, cũng tốt, chúng tôi sẽ cẩn thận quan sát. Và hai ngày trước,khi mặt trời buổi sáng chiếu xuyên qua màn sương, chúng tôi thấy mình đang ở con sông đối diện với Galatz. Những người Roumanian nổi điên lên, và muốn tôi sống chết gì cũng mặc hãy mang cái hộp kia đi và vứt nó xuống sông. Tôi phải giận dữ dẹp loạn họ bằng một cây đòn. Và khi người cuối cùng trong số họ bị đẩy khỏi boong tàu với tay ôm đầu, tôi đã thuyết phục họ rằng, có con mắt quỷ hay là không, hàng hóa và sự tin tưởng của chủ tôi khi giao vào tay tôi sẽ tốt hơn là ném nó vào con sông Danube kia. Họ vẩn muốn, ngài tưởng tượng không, mang cái hộp lên boong để sẳn sàng ném nó di, và cho rằng chính vì nó mà đã đến Galatz qua Varna, tôi nói rằng tôi sẽ để nó nằm đó cho đến khi chúng tôi đến một cái cảng và có thể tống sạch tất cả đi. Chúng tôi chẳng có được có thời tiết tốt vào ban ngày, và phải dừng lại thả neo tại đó vào ban đêm. Nhưng vào sáng sớm, trong lành và khóang đãng, một giờ trước khi mặt trời lên, một người đàn ông lên boong với một tờ lệnh, viết cho hắn từ nước Anh, nói hắn đến nhận một cái hộp được dán nhãn là của bá tước Dracula. Chắc hẳn là vấn đề đã được giải quyết dưới tay hắn. Hắn đã có tờ giấy cần thiết, và tôi rất vui mừng được giũ bỏ cái của nợ ấy, và bản thân tôi bắt đầu cảm thấy bất an. Nếu Quỷ có bất kỳ hành lý nào trên tàu, tôi nghĩ không có thứ gì hơn vậy!”

“Tên của người đã lấy cái hộp đó là gì?” Van Helsing hỏi với một sự hăm hở cố kìm.

“Tôi sẽ nói với ông ngay đây!” ông ta trả lời và bước xuống cabin, lấy ra một cái hóa đơn ký tên “Immanuel Hildesheim.” Burgen-strasse 16 là địa chỉ. Chúng tôi thấy rằng đó là tất cả những gì thuyền trưởng biết, nên chúng tôi cám ơn và đi.

Chúng tôi tìm gặp Hildesheim ở văn phòng của ông ta, mội mẫu người khiểu Hebrew hay đúng hơn là Adelphi Theatre, với một cái mũi giống như mũi cừu, và một cái mũ Thổ. Hắn đưa ra điều kiện về những đồng tiền, chúng tôi mặc cả và sau một hồi trả giá hắn nói cho chúng tôi những gì hắn biết. Chuyện này hóa ra lại khá đơn giản nhưng quan trọng. Hắn nói hắn nhận được một bức thư từ ông de Ville ở London, nói hắn nếu có thể thì đến trước bình minh để tránh hải quan để nhận một cái hộp được chuyển đến Galatz trên con tàu Czarina Catherine. Rồi hắn giao lại cho một người phụ trách tên là Petrof Skinsky, người đang làm việc với một tóan người Slovak đang buôn bán dọc theo bờ sông xuống cảng. Hắn được trả tiền cho công việc bởi một chi phiếu của ngân hàng Anh quốc, đã được chuyển đổi đầy đủ sang vàng ở Ngân hàng Quốc tế Danube. Khi Skinsky đế gặp hắn, hắn đưa ông ta ra tàu và chuyển cái hộp, đang được đặt an tòan ở phía trước boong tàu. Đó là tất cả những gì hắn biết.

Chúng tôi liền tìm Skinsky, nhưng không thể tìm ra ông ta. Một trong những người láng giềng của ông ta, người có vẻ như khá là cảm tình với ông, nói rằng ông ta đã đi hai ngày trước, và không ai biết đi đâu. Điều này được chứng thực bởi chủ nhà của ông ta, người đã nhận qua trung chuyển chìa khóa của ngôi nhà cùng với tiền thuê, bằng tiền Anh. Việc đó diễn ra vào khỏang giữa mười và mười giờ hôm qua. Chúng tôi lại một lần nữa bế tắc.

Trong khi chúng tôi đang đứng nói chuyện thì một người chạy ào đến hổn hển nói không kịp thở rằng thân thể của Skinsky vừa được phát hiện bên trong bức tường của nhà thờ St. Peter, và cổ họng đã bị xé toang như thể bị tấn công bởi một con thú hoang. Chúng tôi liền chấm dứt cuộc nói chuyện và chạy đến xem cảnh kinh dị ấy, những người phụ nữ kêu la. “Đó là công việc của những người Slovak!” Chúng tôi vội tránh đi để không bị nhúng sâu vào câu chuyện bi thảm này và sẽ bị cản trở.

Khi chúng tôi về đến nhà chúng tôi đã có một cuộc thảo luận không giới hạn. Tất cả chúng tôi đều nhận thức rằng chiếc hộp đã được chuyển đi, theo đường thủy, đến một nơi nào đó, nhưng nơi đó là đâu thì chúng tôi phải khám phá. Với trái tim trĩu nặng chúng tôi trở về khách sạn gặp Mina.

Khi chúng tôi gặp nhau, điều đầu tiên đáng quan tâm là truyền cho Mina niềm tin của chúng tôi. Mọi chuyện đang diễn ra ở mức tuyệt vọng, và ít nhất chỉ còn một cơ hội, dù rằng đó một cơ hội may rủi. Bước đầu, tôi dã giải phóng khỏi lời hứa với nàng.

NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER

Ngày 30 tháng Mười, buổi chiều. – Họ trông mệt, mỏi mòn và mất tinh thần đến nỗi có lẽ họ sẽ chẳng làm được gì nếu không có nghỉ ngơi, nên tôi yêu cầu tất cả họ hãy nằm khỏang nữa giờ trong khi tôi ghi lại những điều quan trọng. Tôi cảm thấy biết ơn người nào đã phát minh ra cái máy đánh chữ “du lịch”, và cũng cám ơn ông Morris đã mua một cái cho tôi. Tôi sẽ lạc lối mất nếu tôi tiến hành công việc bằng một cây viết để viết…

Tất cả đã xong. Anh Jonathan thân yêu tội nghiệp, cái đã làm anh ấy đau khổ, bây giờ lại tiếp tục làm anh ấy đau khổ. Anh ấy nằm trên ghế sofa, thở một cách nặng nhọc và cả con người anh ấy như đã vỡ vụn ra. Lông mày anh ấy nhíu sát lại. Mặt anh ấy chảy dài trong đau đớn. Con người tội nghiệp, có thể anh ấy đang suy nghĩ và tôi có thể ấy mặt anh ấy nhăn lại với sự tập trung ý nghĩ. Ôi! Nếu như tôi có thể giúp anh ấy được dù chỉ một chút gì. Tôi sẽ làm cái gì mà tôi có thể.

Tôi đã hỏi bác sĩ Van Helsing, và ông ấy cho tôi xem tất cả những giấy tờ mà tôi chưa đọc. Trong khi họ nghỉ ngơi, tôi sẽ đọc lại tất cả một cách cẩn thận, và có thể thể tôi sẽ có được một giải pháp nào đó. Tôi sẽ thử lần theo các ví dụ của giáo sư, và cố suy nghĩ không có những thành kiến trên những sự kiện trước mặt tôi.

..

Tôi tin rằng dưới sự lo xa của Chúa, tôi sẽ khám phá được điều gì đó. Tôi sẽ lấy những cái bản đồ và quan sát chúng.

Tôi càng tin chắc hơn rằng tôi đúng. Kết luận mới mẻ của tôi đã thành hình, nên tôi sẽ đánh thức các đồng đội và đọc nó. Họ có thể nhận xét. Nếu như nó chính xác thì tốt, và mỗi phút đều quý giá.

BẢN GHI NHỚ CỦA MINA HARKER

(GHI TRONG NHẬT KÝ CỦA BÀ TA)

Nền tảng của quá trình điều tra. – Những vấn đề mà bá tước Dracula gặp phải trên con đường trở về cố hương.

(a) Hắn phải được ai đó khiêng đi. Điều này là hiển nhiên.Vì hắn có quyền lực để tự di chuyển theo ý mình, hắn có thể di chuyển như một con người, hoặc chó sói, hoặc dơi, và theo một cách nào đó. Rõ ràng là hắn sợ bị phát hiện hoặc suy luận ra tình trạng bất lực của hắn khi hắn bị buộc phải nhốt trong chiếc hòm gỗ của hắn khỏang lúc giữa bình minh và hòang hôn.

(b) Hắn được mang đi như thế nào? – Ở đây quá trình loại trừ có thể giúp chúng ta. Bằng đường bộ, bằng xe lửa hay bằng đường thủy?

1. Bằng đường bộ. – Ở đây đầy rẫy những khó khăn, đặt biệt khi vào thành phố.

x) Ở đây có người. Và con người thì tò mò và thích khám phá. Một gợi ý, một phỏng đóan, một sự nghi ngờ về cái gì có thể ở trong hộp sẽ hủy hoại hắn.

(y) Ở đây có, hoặc có thể có những nhân viên hải quan và thuế vụ và phải qua được họ.

(z) Những kẻ truy đuổi hắn có thể theo đuổi hắn. Đây là điều hắn sợ nhất. Để ngăn chặn sự phản bội, hắn đã thu hồi lại mọi sự ảnh hưởng mà hắn có thể, thậm chí với nạn nhân của hắn, tôi!

2. Bằng xe lửa. – Sẽ không có ai phụ trách chiếc hộp. Nó có thể gây ra những sự trì hõan, và với những kẻ thừ đang lần theo dấu vết, trì hoãn nghĩa là kết liễu. Đúng là hắn có thể trốn ra vào ban đêm. Nhưng hắn sẽ tồn tại như thế nào ở vùng đất xa lạ không có nơi chốn nào để hắn có thể lẩn vào? Đấy không phải là điều hắn muốn và hắn không muốn mạo hiểm chuyện này.

3. Bằng đường thủy. – Đây là con đường an tòan nhất, nếu quan tâm về chuyện này, nhưng điều nguy hiểm nhất lại ở hướng khác. Ở dưới nước hắn bị mất hết quyền lực ngoại trừ về đêm. Thậm chí rằng có thể chỉ gọi được sương mù, bão , tuyết và chó sói. Nhưng hắn chỉ có thể trôi giạt, cuộc sống trên mặt nước sẽ nhận chìm hắn, vô phương trợ giúp, và hắn thật sự sẽ thất bại. Hắn có thể hướng con thuyền vào đất liền, nhưng nếu đó là một vùng đất không thân thiện, nơi mà hắn không được tự do di chuyển, thì tình thế của hắn là tuyệt vọng.

Chúng ta đã biết qua các tài liệu rằng hắn đang ở trên mặt nước, vì vậy cái chúng ta phải làm là xác định xem đang ở vùng nước nào.

Điều đầu tiên là xác định chính xác xem hắn đã làm gì. Chúng tôi có thể có được một tia sáng từ những chuyện mà hắn đã làm.

Thứ nhất. – Chúng tôi phải phân biệt giữa phần việc hắn làm ở London với tòan bộ kế hoạch hành động chung của hắn, khi mà hắn chịu áp lực của thời gian và phải sắp xếp những điều tốt nhất hắn có thể làm.

Thứ nhì chúng tôi phải biết, cũng như ước đóan được từ những sự kiện chúng tôi đã biết xem hắn đã làm gì ở đấy.

Để bắt đầu, hắn rõ ràng định đến Galatz, và gửi hóa đơn đến Varna để đánh lừa chúng tôi khiến chúng tôi không biết được rằng hắn định trốn chạy từ nước Anh. Mục đích trước mắt và duy nhất của hắn là chạy trốn. Điều này được chứng minh qua bức thư gửi Immanuel Hildesheim để dỡ chiếc hộp mang nó đi trước khi mặt trời lên. Đó cũng là lệnh gửi đến cho Petrof Skinsky. Những điều chúng tôi chỉ phải đóan là, hẳn đã có một số thư từ thông điệp gì đó khi Skinsky đến gặp Hildesheim.

Như vậy, đến nay, kế hoạch của hắn đã thành công như chúng ta đã biết. Tàu Czarina Catherine đã tiến hành một cuộc hành trình nhanh một cách phi thường. Càng lúc thuyền trưởng Donelson càng trỗi dậy nỗi nghi ngờ. Nhưng sự mê tín kết hợp với sự khôn ngoan của ông đã khiến ông tiếp tục chơi trò chơi mà bá tước đã bày ra cho ông ta, ông ta đã cho tàu lao đi với sự lợi gió xuyên qua sương mù và được mang đi một cách mờ mịt đến tận Galatz. Đấy là những sự sắp xếp của bá tước đã được thực hiện và đã được chứng minh. Hildesheim đã dỡ chiếc hộp xuống mang nó đi và trao lại cho Skinsky. Skinsky nhận nó, và đến đây thì chúng ta mất dấu. Chúng ta chỉ biết rằng chiếc hộp đang ở đâu đó trên mặt nước, đang được chuyển đi. Những nhân viên hải quan và thuế, nếu có, đã được tránh khỏi.

Bây giờ chúng ta sẽ tiếp đến việc bá tước phải làm gì sau khi đã cập bến trên đất liền ở Galatz.

Chiếc hộp đã được chuyển đến cho Skinsky trước bình minh. Vào lúc hòang hôn bá tước có thể xuất hiện trong nguyên dạng của hắn. Ở đây, chúng ta sẽ hỏi vì sao Skinsky lại chọn việc tham gia vào công việc này? Trong nhật ký của chồng tôi, Skinsky đề cập đến việc làm ăn với những người Slovak. những người này đang buôn bán dọc theo con sông đến cảng. Và theo nhận xét của nhiều người, thì thủ phạm giết người phải là bọn người Slovak, bởi những dấu hiệu gây ra cảm giác chống lại tóan người này. Bá tước muốn được cô độc.

Điều phỏng đóan của tôi là, tại London bá tước quyết định trở lại lâu đài bằng đường thủy, là con đường an tòan và bí mật nhất. Hắn được mang đi từ lâu đài bởi những người Szgany, và có thể họ phân phối hàng hóa cho cho những người Slovaks, những người này lại mang những chiếc hộp đến Varna, từ đây nó được chất lên tàu đến London. Do vậy bá tước hẳn phải biết về những người đã sắp xếp công việc cho hắn. Khi chiếc hộp được mang lên bờ, trước khi bình minh hoặc sau hòang hôn, hắn có thể ra khỏi chiếc hộp ấy, gặp Skinsky và chỉ dẩn hắn những gì phải làm để sắp xếp chuyên chở chiếc hộp theo dòng sông. Khi công việc này đã làm xong, và hắn biết rằng tất cả đã sẳn sàng, hắn bèn xóa đi dấu vết, theo như hắn nghĩ, bằng cách sát hại người nhân viên của mình.

Tôi đã kiểm tra bản đồ và thấy rằng con sông thích hợp nhất cho người Slovaks để vượt về là Pruth hoặc Sereth. Tôi đọc trong những bản ghi trong những cơn thôi miên của tôi rằng tôi đã nghe thấy tiếng bò kêu,tiếng mực nước cuốn ngang mực tai của tôi và tiếng gỗ kêu ken két. Bá tước đang ở trong hộp, vậy thì, hẳn là đang ở trên sông và đang ở trên một chiếc thuyền không mái, được điều khiển bằng mái chèo hoặc sào, vì gần đó có những cánh đồng đang có người làm việc dọc dòng sông. Sẽ không có những âm thanh như vậy nếu như không phải đang trôi dọc dòng sông.

Tất nhiên cũng có thể không phải là Sereth và Pruth, nhưng chúng tôi có thể điều tra thêm. Bây giờ thì có hai lựa chọn, con sông Pruth thì đễ đến hơn, nhưng Sereth thì ở Fundu, rồi đổ vào Bistriza chạy vòng quanh Borgo Pass. Chỗ vòng này rõ ràng là rất gần với lâu đài Dracula để có thể đến đó bằng đường thủy.

NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER- TIẾP THEO

Khi tôi đọc xong, Jonathan ôm tôi trong vòng tay anh ấy và hôn tôi. Những người khác lắc tôi bằng cả hai tay, và bác sĩ Van Helsing nói, “Bà Mina thân yêu của chúng ta lại một lần nữa là thầy giáo của chúng ta. Đôi mắt của bà ấy vẩn còn tồn tại trong khi chúng ta đều mù cả. Bây giờ một lần nữa chúng ta lại lần theo dấu vết, và lần này chúng ta có thể thành công. Kẻ thù của chúng ta đang ở trong tình trạng bất lực nhất. Và nếu chúng ta có thể bắt kịp hắn vào ban ngày, trên mặt nước, nhiệm vụ của chúng ta sẽ xong. Hắn đã khởi hành, nhưng hắn không đủ năng lực để thúc đẩy công việc, vì hắn không thể rời khỏi hộp để những người đang chuyên chở cái hộp ấy khỏi nghi ngờ. Vì nếu để họ nghi ngờ cũng có nghĩa là thúc đẩy họ ném hắn xuống dòng nước, khiến cho hắn phải bỏ xác. Hắn biết điều này, và sẽ không làm như vậy. Nào mọi người, hãy thành lập Hội đồng Chiến tranh của chúng ta, vì từ lúc này và tại đây, chúng ta phải lập kế hoạch xem mỗi người và tất cả sẽ làm gì.”

“Tôi sẽ lấy tàu hơi nước chạy đuổi theo hắn,” huân tước Godalming nói.

“Và tôi, sẽ cưỡi ngựa băng đồng để rượt đuổi trong trường hợp hắn lên bờ,” ông Morris nói.

“Tốt!’ giáo sư nói, “cả hai đều tốt. Nhưng không ai phải đi đơn độc cả. Phải dùng vũ lực chống lại vũ lực nếu cần. Người Slovak khỏe mạnh và cục cằn, và họ có những cánh tay thô lỗ.” Tất cả những người đàn ông đều mỉm cười vì lòng họ đều bừng bừng như một khối thuốc nổ.

Ông Morris nói, “Tôi có mang theo một số khẩu Winchester. Chúng sẽ hữu dụng với đám đông, và có thể với chó sói. Bá tước, nếu các bạn nhớ, có một số sự phòng ngừa khác. Hắn có thể trưng dụng một số thứ khác mà bà Harker có thể không nghe và hiểu được. Chúng ta phải sẳn sàng với tất cả mọi chuyện.”

Bác sĩ Seward nói, “Tôi nghĩ rằng tốt hơn tôi nên đi với Quincey. Chúng tôi đã quen đi săn cùng nhau, và cả hai chúng tôi, nếu được vũ trang tốt, sẽ đủ sức đương đầu với bất kỳ thứ gì gặp trên đường. Cậu cũng sẽ chẳng đơn độc đâu, Art. Có thể cần phải giao tranh với bọn Slovaks, và phải công kích đấy, vì tớ không nghĩ rằng những gã ấy có súng, nếu không thì cả kế hoạch của chúng ta phải hủy bỏ hết. Nếu như vậy thì sẽ không còn cơ hội. Chúng ta sẽ không hề nghĩ ngơi cho đến khi cái đầu và thân mình của bá tước tách rời nhau ra, và chúng ta sẽ đảm bảo cho hắn không thể tái sinh được.”

Ông ấy nhìn Jonathan khi đang nói, và Jonathan nhìn tôi. Tôi có thể con người tội nghiệp thân yêu ấy đang trải rộng lòng mình. Tất nhiên anh ấy muốn ở bên tôi. Nhưng công việc thích hợp nhất cho anh ấy sẽ là người tiêu diệt… diệt… Ma cà rồng (Vì sao tôi lại ngần ngừ khi viết từ này nhỉ?”

Anh ấy đứng yên lặng một lúc, và trong lúc anh ấy lặng thinh thì bác sĩ Van Helsing nói, “Bạn Jonathan, đây là công việc dành cho anh bởi hai lý do. Thứ nhất, bởi vì anh còn trẻ, can đảm và có thể thể chiến đấu với tất cả sức lực của mình đến tận cùng nếu cần thiết. Và một lý do khác là anh chiến đấu để tiêu diệt hắn. Chính hắn là kẻ đã gây ra đau khổ cho anh và những người thân của anh. Đừng lo cho bà Mina. Tôi sẽ chăm sóc bà ấy, nếu tôi có thể. Tôi già rồi. Đôi chân tôi không còn đủ sức chạy cho nhanh nữa. Tôi không làm được những việc phi ngựa đường dài để săn đuổi khi cần thiết, hoặc để chiến đấu bằng vũ khí chí mạng. Nhưng tôi có thể làm được việc khác. Tôi có thể chiến đấu bằng cách khác.Và tôi có thể chết, nếu cần, cũng tốt như những người trẻ hơn. Bây giờ để tôi nói tôi sẽ làm gì. Trong khi bạn, huân tuớc Godalming và bạn Jonathan của tôi lướt nhanh trên con tàu hơi nước theo dòng sông, và trong khi John với Quincey lo đường bộ nếu nhỡ ra hắn sẽ lên bờ, tôi sẽ đưa bà Mina đi đúng vào tâm điểm của lãnh địa kẻ thù. Trong khi con cáo già ấy vẩn còn bị buộc chặt trong chiếc hộp, lênh đênh trên dòng nước chảy nơi hắn không thể chạy trốn lên bờ, nơi mà hắn không dám nhấc chiếc nắp quan tài của hắn để khỏi phải khiến cho những người Slovak đang chuyên chở khỏi sợ hãi và để cho hắn mất mạng, chúng tôi sẽ đi theo con đường mà Jonathan đã đi, đi từ Bistriz đến Borgo, và tìm đường đến lâu đài Dracula. Ở đấy, năng lực trong lúc thôi miên của bà Mina hắn nhiên là sẽ có ích, và chúng ta sẽ tìm thấy con đường của chúng ta, tất cả những gì đen tối và chưa ai được biết, sau lần mặt trời mọc đầu tiên chúng tôi sẽ gần vùng đất định mệnh ấy. Sẽ có nhiều chuyện phải làm, và những vùng đất khác phải được linh thiêng hóa, để cho hang ổ của lòai rắn độc kia bị tuyệt diệt.

Đến đây thì Jonathan nóng nẩy ngắt lời, “Như vậy là ông muốn nói, thưa giáo sư Van Helsing, rằng ông sẽ mang Mina, đang trong tình trạng buồn khổ và ốm yếu vì căn bệnh của con quái vật kia gây ra, vào trong hàm của cái bẫy chết chóc đó? Không, với tất cả mọi thứ trên thế giới này! Không với cả Thiên đường và Địa ngục!”

Anh ấy trở nên mất tiếng trong gần cả một phút, và rồi nói tiếp, “Ông đã biết nơi đó là như thế nào chưa? Ông đã bao giờ trông thấy cái hang ổ khủng khiếp của cái địa ngục nhơ nhuốc ấy, khi mà mỗi ánh trăng có thể làm sống dậy những hình nhân rùng rợn, với mỗi đốm bụi quay cuồng trong cơn lốc bụi đều là một con quái vật khát máu còn phôi thai? Đã bao giờ ông có cái cảm giác của một đôi môi Ma cà rồng lướt trên cổ họng của ông chưa?”

Đến đây anh ấy quay sang tôi, và khi mắt anh ấy chạm vào vầng trán của tôi, anh ấy đưa tay lên và kêu lớn, “Ôi, Chúa tôi, chúng con đã làm gì mà những đau khổ này lại trút xuống đầu chúng con?” và anh ấy ngồi vật xuống ghế sofa, gần như vỡ vụn trong đau khổ.

Giọng của Giáo sư vang lên, khi ông ấy nói một cách rõ ràng, với âm sắc dịu dàng, gần như ngân vang trong không khí, khiến tất cả chúng tôi đều bình tâm lại.

“Ôi, bạn tôi, đó là bởi vì tôi sẽ bảo vệ bà Mina từ bất kỳ nơi ghê gớm nào mà chúng tôi sẽ đi. Chúa sẽ ngăn cản tôi mang bà ấy vào nơi ấy. Đây là công việc, một công việc hoang dại, công việc sẽ làm trước khi nơi ấy được trong sạch. Hãy nhớ rằng chúng ta đang đang bị kẹt một cách khủng khiếp. Nếu lần này bá tước trốn thoát khỏi chúng ta, hắn sẽ trở nên khoẻ mạnh, khôn khéo và xảo trá, hắn có thể quyết định là sẽ ngủ một thế kỷ, và đến lúc đó thì con người thân thương của chúng ta, ” ông ấy nắm lấy tay tôi, “sẽ đến gặp hắn để làm bạn với hắn, sẽ giống như những kẻ khác mà anh, Jonathan, đã thấy. Anh đã nói với chúng tôi về những đôi môi khát máu. Anh đã nghe chúng cười man rợ khi chúng giành giật nhau cái túi còn chuyển động mà bá tước đã ném cho chúng. Anh rùng mình, và như thế là tốt. Hãy tha thứ cho tôi nếu như tôi đã làm cho anh đau khổ đến như vậy, nhưng điều đó là cần thiết. Bạn tôi, chẳng lẽ bây giờ đã không thảm khốc đến mức tôi cần thiết phải dâng hiến, có thể là mạng sống của tôi sao? Nếu vậy thì bất kỳ ai đi vào nơi đó để ở lại, thì chính tôi sẽ là người sẽ đi để bầu bạn cùng họ.”

“Hãy làm như ông muốn,” Jonathan nói, với một cơn nấc làm anh ấy rung động đến toàn thân, “chúng ta đang ở dưới tay của Chúa!”

Sau đó. – Ôi, tôi cảm thấy dễ chịu khi thấy cái cách mà những người đàn ông can đảm này làm việc. Một người phụ nữ có thể cảm thấy yêu mến họ như thế nào khi mà họ tỏ ra đầy hăm hở, thật chân thật, và thật là dũng cảm! Và nó cũng làm cho tôi nghĩ đến quyền lực kinh khủng của đồng tiền! Cái gì mà nó không thể làm được khi được dùng một cách hèn hạ. Tôi cảm thấy biết ơn rằng huân tước Lord Godalming khá giàu, cả ông ấy và ông Morris, người cũng có khá nhiều tiền, và sẳn sàng tiêu nó không do dự. Vì nếu họ không làm như vậy, thì cuộc thám hiểm của chúng tôi đã không thể khởi hành, thậm chí còn không thể nhanh chóng và được trang bị thật tốt khi mà nó diễn ra trong hoàn cảnh khác. Mọi việc được sắp xếp trong vòng không đầy ba giờ cho mỗi người trong số chúng tôi làm phần việc của mình. Và bây giờ thì Huân tước Godalming và Jonathan đã có được một chiếc tàu hơi nước thật mạnh,đang sẳn sàng khởi hành bất kỳ lúc nào. Bác sĩ Seward và ông Morris đã nữa tá ngựa hay, được trang bị đầy đủ. Tất cả chúng tôi đều có bản đồ và các trang thiết bị đủ loại có thể cần đến. Giáo sư Van Helsing và tôi định đi bằng chuyến xe lửa lúc 11:40 tối nay đến Vetersi, nới chúng tôi sẽ lấy hành lý để đi đến Borgo Pass. Chúng tôi đã có một hoàn cảnh thuận lợi khi tiền bạc đều sẳn sàng, để chúng tôi thoải mái mua sắm xe và ngựa. Chúng tôi sẽ tự đánh xe, vì trong vấn đề này chúng tôi chẳng có ai có thể tin tưởng được. Giáo sư giỏi nhiều ngoại ngữ một cách khủng khiếp, và chúng tôi sẽ ổn thôi. Tất cả chúng tôi đều có vũ trang, thậm chí tôi cũng có một khẩu súng lục ổ quay cỡ lớn. Jonathan sẽ chẳng vui nếu như tôi không được vũ trang như những người còn lại. Than ôi! Tôi không thể là trang bị như những người còn lại được, vết sẹo trên trán tôi ngăn cản điều đó. Bác sĩ Van Helsing yêu quý an ủi tôi rằng tôi được trang bị đầy đủ như vậy để chống lại chó sói. Thời tiết mỗi lúc một lạnh hơn, và những bông tuyết đang phảng phất như một lời cảnh cáo.

Sau đó – Tôi đã lấy hết can đảm để nói lời chia tay với người yêu. Chúng tôi có thể chẳng bao giờ gặp nhau nữa. Can đảm lên, Mina! Giáo sư nhìn tôi một cách sắc sảo. Cái nhìn của ông ấy là một lời cảnh cáo. Lúc này không được để rơi một giọt nước mắt nào, trừ phi Chúa để cho nó tuôn rơi trong niềm vui.

NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER

Ngày 30 tháng Mười, đêm. – Tôi đang viết dưới ánh sáng của cánh cửa lò của dàn động cơ hơi nước. Huân tước Godalming đang đun lửa. Ông ấy khá là có kinh nghiệm trong chuyện này, vù ông ấy đã nhiều năm điều khiển con tàu hơi nước của riêng ông ấy trên con sông Thames, và một chiếc khác ở Norfolk Broads. Xem lại những kế hoạch của chúng tôi, cuối cùng chúng tôi cũng quyết định rằng những phán đoán của Mina là hợp lý, và nếu như có bất kỳ con đường thuỷ nào mà bá tước lựa chọn để trốn về Lâu đài của hắn, con sông Sereth và tiếp đó khi nó nối với Bistritza, chính là con đường đó. Chúng tôi đến đó, nó nằm ở khoảng 47 vĩ độ bắc,và nơi được lựa chọn là nơi cắt ngang đất nước giữa con sông và dãy Carrpathians. Chúng tôi không sợ phải chạy với tốc độ cao trên sông vào ban đêm. Nước ở đây khá nhiều, và bờ đủ rộng để lấy đủ hơi nước, thậm chí vào ban đêm thì mọi chuyện cũng dễ dàng. Huân tước Godalming nói tôi ngủ một lúc, vì lúc này chỉ cần một người là đủ trông chừng. Nhưng tôi không thể ngủ, khi mà một mối nguy hiểm khủng khiếp đang treo lơ lửng trên đầu người yêu của tôi, và chính nàng cũng đang dấn thân vào cái nơi kinh tởm đó.

Tôi chỉ được an ủi khi nghĩ rằng chúng tôi đang ở trong tay của Chúa. Chỉ có niềm tin đó mới khiến cho việc chết dễ dàng hơn sống, và để thoát khỏi mọi rắc rối. Ông Morris và bác sĩ Seward đã bắt đầu đoạn đường dài của họ trước khi chúng tôi khởi hành. Họ đang ở bên bờ bên phải, đủ xa để lên những vùng đất cao, để họ có thể thấy được hướng chảy của con sông và tránh con đường vòng. Vào giai đoạn đầu này, họ đang có thêm hai người trên mình ngựa và dẩn theo bốn con ngựa rảnh khác, để không gây nên sự nghi ngờ. Khi cần họ có thể giải tán người của mình một cách nhanh chóng và sẽ tự mình trông chừng những con ngựa. Trên mỗi yên ngựa đều có một chiếc sừng có thể di dộng được, để khi cần có thể điều chỉnh cho Mina.

Chúng tôi đang ở trong một cuộc thám hiểm hoang dại. Ở đây, chúng tôi đang lao nhanh xuyên qua bóng đêm, với giá lạnh từ con sông như đang dâng lên và thấm vào chúng tôi, với tất cả những âm điệu kỳ bí của đêm đen đang vây quanh chúng tôi, tất cả chúng đều đến hang ổ. Chúng tôi có vẻ như đang trôi vào một vùng đất không người biết và đang đi trên một con đường chẳng ai biết. Tất cả có thể gói gọn trong một thế giới của những thứ tối tăm và kinh khiếp. Godalming vừa đóng lại cánh cửa lò hơi…

Ngày 31 tháng Mười. – Vẩn tiếp tục lao đi. Ban mai đã đến, và Godalming đang ngủ. Tôi đang trông chừng. Buổi sáng lạnh chói chát, và hơi ấm lò hơi thật là đáng biết ơn, dù chúng tôi đang mặc những chiếc áo lông dày. Chúng tôi đã vượt qua vài chiếc tàu không mái, nhưng không có chiếc nào trong số chúng có trên boong một cái hộp hoặc gói hành lý hoặc bất kỳ cái gì có kích cỡ như chúng tôi đang tìm kiếm. Những người trên tàu đều rất sợ mỗi khi chúng tôi chiếu ánh sáng đèn điện về phía họ, họ quỳ xuống và cầu nguyện.

Ngày 1 tháng Mười Một, chiều tối. – Chẳng có tin tức gì trong suốt cả ngày. Tất cả chúng tôi đều chẳng tìm thấy gì trong cái mà chúng tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi bây giờ đã vượt qua Bistritza, và nếu chúng tôi sai lầm trong phỏng đoán của mình thì cơ hội của chúng tôi đã hết. Chúng tôi kiểm tra kỹ lưỡng từng con tàu, lớn hay nhỏ. Vào sáng sớm này, một đội thủy thủ nói chúng tôi đến gặp một chiếc thuyền Chính phủ, và đối xử với chúng tôi dựa trên cơ sở này. Chúng tôi thấy việc này xem ra khá êm thấm, vì ở Fundu, nơi Bistritz chảy vào Sereth, chúng tôi thấy một lá cờ Roumanian bay phấp phới đập ngay vào mắt chúng tôi. Với mỗi chiếc thuyền chúng đều đề phòng xem có một cái bẫy nào không. Chúng tôi tuân theo những dấu hiệu được đưa ra, và quyết định không đưa ra đòi hỏi hay làm bất kỳ chuyện gì trong chủ đề này. Một số người Slovaks nói chúng tôi rằng có một chiếc thuyền lớn vượt qua họ, di chuyển với một tốc độ rất cao vì trên boong nó có một đội thuỷ thủ đông gấp đôi. Chiếc này đã vượt họ trước khi họ đến Fundu, vì vậy họ không thể nói chiếc thuyền ấy đã quay vào Bistritza hay tiếp tục đến Sereth. Tại Fundu chúng tôi không hề nghe về chiếc thuyền như vậy, nên hẳn là nó đã đi qua vào ban đêm. Tôi cảm thấy rất buồn ngủ. Cái lạnh đã bắt đầu thấm vào tôi, và theo lẽ tự nhiên thì phải nghỉ một chút. Godalming khăng khăng rằng ông ấy sẽ canh phiên đầu. Chúa sẽ ban phước cho lòng tốt của ông ta dành cho Mina tội nghiệp và tôi.

Ngày 2 tháng Mười Một, buổi sáng. – Đây là một ngày sáng đẹp. Con người tốt bụng kia đã không đánh thức tôi. Ông ấy nói đấy sẽ là một tội ác bởi vì tôi ngủ rất ngon và có vẻ đang quên đi những rắc rối của mình. Nó có vẻ là một sự ích kỷ tàn nhẫn cho tôi khi tôi để mình ngủ lâu như vậy, để cho ông ấy thức canh cả đêm, nhưng ông ấy có lý. Tôi trở thànnh một con người mới vào sáng này. Và khi tôi ngồi đây và quan sát ông ấy ngủ, tôi có thể làm tất cả mọi chuyện lẽ ra phải cần đến hai người như xem xét động cơ, lái tàu, và trông chừng. Tôi có thể cảm thấy nhưng sức khoẻ và năng lượng đang trở lại với tôi. Tôi không biết bây giờ Mina và giáo sư đang ở đâu. Họ có lẽ đã đến Vetersi vào giữa trưa thứ Tư. Ở đấy họ cần một số thời gian để lấy hành lý và ngựa. Vậy nến như họ khởi hành và đi nhanh, bây giờ có lẽ bây giờ họ đang ở Borgo Pass. Chúa sẽ chỉ dẩn và giúp đỡ họ! Tôi sợ phải nghĩ về những điều có thể xảy ra. Chỉ cần chúng tôi có thể đi nhanh hơn. Nhưng chúng tôi không thể. Động cơ đang chạy mạnh và đang hoạt động hết công suất. Tôi không biết bác sĩ Seward và ông Morris đang tiến hành công việc như thế nào. Nơi này hình như có vô cùng tận những con suối chảy dọc theo sườn núi và đổ vào con sông này, nhưng chẳng có dòng suối nào lớn vào lúc này, và thậm chí, chúng hiển nhiên sẽ rất khủng khiếp vào mùa đông khi mà tuyết tan, các kỵ sĩ có thể sẽ không gặp nhiều trở ngại. Tôi hy vọng rằng trước khi chúng tôi đến Strasba chúng tôi có thể thấy họ.Vì nếu lúc ấy mà chúng tôi không thể lần ra bá tước, thì có thể không còn một chỉ dẩn nào thích hợp để tiến hành công việc tiếp được.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 2 tháng Mười Một. – Đã ba ngày đăng trình. Không tin tức, không có thời gian để viết gì, vì mỗi khoảnh khắc đều quý giá. Chúng tôi bây giờ chỉ để đủ cho lũ ngựa đủ thời gian để ngủ. Nhưng cả hai chúng tôi chịu đựng điều đó rất tuyệt vời. Những ngày tháng phiêu lưu của chúng tôi đã tỏ ra rất hữu dụng. Chúng tôi phải cố lên. Chúng tôi sẽ không hề cảm thấy thoải mái cho đến khi một lần nữa chúng tôi có thể dấu hiệu của con tàu lớn.

Ngày 3 tháng Mười Một. – Chúng tôi nghe thấy ở Fundu rằng có một con tàu lớn vừa đến Bristritza. Tôi ước sao đừng có quá lạnh như vậy. Có những dấu hiệu cho thấy tuyết sắp rơi. Và nếu tuyết rơi nặng thì chúng tôi phải dừng lại. Trong trường hợp đó thì chúng tôi phải có một cái búa tạ và tiếp theo là thời trang Nga.

Ngày 4 tháng Mười Một. – Hôm nay chúng tôi đã nghe thấy tung tích về một chiếc tàu lớn đang bị kẹt loại bởi một tai nạn khi đang cố đẩy nhanh tốc độ. Những con tàu của người Slovak đi tiếp được, bởi sự giúp đỡ của dây thừng và kiến thức lái tàu. Một số đến trước chỉ vài giờ. Godalming tự bản thân cậu ta là một thợ lắp ráp máy nghiệp dư, và rõ ràng cậu ta chính là người đưa con tàu trở về trạng thái ổn định trở lại.

Cuối cùngg, họ lại tiếp tục lướt nhanh an toàn, với sự giúp đỡ của địa phương, và lại tiếp tục phục hồi cuộc truy đuổi. Tôi sợ rằng con tàu ấy sẽ không thể nào làm tốt hơn với tai nạn, những người nông dân nói với tôi rằng sau khi con tàu lướt xuống nước trở lại, thỉnh thoảng nó lại dừng lại khi họ vẩn còn thấy nó. Chúng tôi phải tiến lên mạnh mẽ hơn nữa. Hy vọng của chúng tôi có thể muốn đến sớm.

NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER

Ngày 31 tháng Mười. – đến Verresti vào giữa trưa. Giáo sư nói với tôi rằng sáng nay vào lúc bình minh ông ấy rất khó khăn để thôi miên tôi, và tất cả những gì tôi có thể nói là, “tối tăm và tĩnh mịch.” Bây giờ ông ấy đã đi mua hành lý và ngựa. Ông ấy nói rằng ông ấy sẽ trở lại sau để cố mua một số ngựa thêm, để chúng tôi có thể thay đổi chúng trên đường. Trước mặt chúng tôi là 70 dặm đường trường. Đất nước này thật là dễ thương, và rất thú vị. Nếu như chúng tôi ở trong hoàn cảnh khác, thì chúng tôi sẽ rất vui được ngắm chúng. Nếu Jonathan và tôi được thong dong duỗi qua nơi đây thì điều đó sẽ thật tuyệt. Để ngừng lại và gặp gỡ mọi người, để biết thêm về cuộc sống của họ, để làm tràn ngập tâm tưởng và trí nhớ của chúng tôi với những sắc màu và những bức tranh sinh động của thiên nhiên hoang dã, của đất nước xinh đẹp và những con người duyên dáng! Nhưng, than ôi!

Sau đó. – Bác sĩ Van Helsing đã trở lại. Ông ấy mang theo xe và ngựa. Chúng tôi phải ăn tối một chút, để bắt đầu trong một giờ. Bà chủ nhà đã cho chúng tôi một túi khổng lồ đồ dự trữ. Nó chắc là đủ cho cả một đại đội lính. Giáo sư cám ơn bà ấy, và thì thầm với tôi rằng nó có thể chỉ chiếm khoảng một tuần trước khi chúng tôi có thể ăn thức ăn trở lại. Ông ấy cũng đi mua sắm, và gửi về nhà thật nhiều những áo khoác và bọc lông thú thật tuyệt vời, và các loại đồ ấm khác. Chúng tôi chẳng còn cơ hội nào để bị lạnh nữa.

Chúng tôi sẽ đi sớm. Tôi sợ phải nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng tôi. Chúng tôi thật sự đang ở trong tay Chúa. Chỉ có Người là biết chuyện gì có thể xảy ra, và tôi cầu nguyện Người, với tất cả sức mạnh trong nỗi buồn và linh hồn thấp kém của tôi, để Người có thể trông chừng cho người chồng yêu dấu của tôi. Dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, Jonathan có thể biết rằng tôi yêu anh ấy và tôn kính anh ấy hơn là tôi có thể nói ra, và ý nghĩ cuối cùng và thành thật nhất của tôi sẽ luôn dành cho anh ấy.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN