Bá Tước Dracula - Chương 6: Nhật ký của Mina Murray
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
171


Bá Tước Dracula


Chương 6: Nhật ký của Mina Murray


Cùng ngày, 11 giờ đêm. – Ôi, tôi mệt quá! Nếu như mọi việc không đến nỗi nào thì tôi đã khỏi phải mở nhật ký ra như thường lệ nữa. Chúng tôi đã đi đạo rất vui. Lucy, sau một lúc, đã trở nên vui vẻ, tôi nghĩ chắc là do mấy con bò đáng yêu trên cánh đồng gần ngọn hải đăng đã tiến lại gần chúng tôi làm chúng tôi chết khiếp. Tôi tin rằng chúng tôi đã quên đi mọi thứ, tất nhiên là trừ nỗi lo sợ riêng tư, mây mù dường như đã xua ta và trả lại cho chúng tôi bầu trời trong sáng. Chúng tôi đã dùng ‘một bữa trà đơn giản’ làm bữa ăn chính lại một quá ăn nhỏ cổ kính đáng yêu ở Vịnh Robin Hood, với một cánh cửa sổ phía bên phải trông ra một mỏm đá phủ đầy rong biển bền bờ biển. Tôi tin rằng chúng tôi đã khiến cho “Người Phụ Nữ Mới” phải bàng hòang trước vẻ ngon miệng của mình. Mọi người trong có vẻ dễ chịu quá, Chúa phù hộ cho họ! Rồi chúng tôi đi bộ về nhà, nhiều lần phải dừng lại nghỉ vì quá sợ những con bò đực hoang dã kia.

Lucy có vẻ rất mệt, và chúng tôi đã định leo ngay lên giường ngay tức khắc. Nhưng một ông cha xứ trẻ đến, và cái cô Westenra ấy đã mời ông ta ở lại dùng bữa tối. Lucy và tôi đều khốn khổ về sự khó chịu này.Tôi biết rằng đây là một việc khó khăn cho tôi, và tôi rất xứng làm một anh hùng. Chắc là một lúc nào đó các giám mục phải đào tạo ra các cha phó mới không biết ăn bữa tối dù có cảm thấy thôi thúc như thế nào nữa, và luôn luôn biết lúc nào thì các cô gái trẻ mỏi mệt.

Lucy đã ngủ và thở nhè nhẹ. Đôi má bạn ấy trông lúc ngủ lại càng thêm gợi cảm. Nếu anh Holmwood đã yêu bạn ấy khi chỉ thấy bạn ấy trong phòng khách, thì không hiểu anh ấy sẽ nói gì khi thấy bạn ấy lúc này. Sẽ có một ngày nào đó các nhà văn của “Người Phụ Nữ Mới” sẽ nảy ra ý tưởng là rằng những người đàn ông và phụ nữ hãy cho phép người khác ngắm mình trong giấc ngủ trước khi tỏ tình và chấp thuận. Nhưng những “Người Phụ Nữ Mới” sẽ chẳng chiếu cố đến những ý tưởng này đâu. Họ sẽ tự mình tỏ tình. Và họ cũng sẽ tự mình tìm lấy những nghề nghiệp thích hợp. Những ý nghĩ đó làm tôi vui lêm. Và tối nay tôi thật là vui, vì bạn Lucy yêu quý đã trông khá hơn. Tôi thật sự tin rằng bạn ấy đã vượt qua thời kỳ khó khăn, và chúng tôi không còn phải bận tâm về những giấc mơ của bạn ấy nữa. Tôi sẽ hạnh phúc hơn nếu như tôi có thể biết tin về Jonathan… Chúa phù hộ và giữ gìn cho anh.

Ngày 11 tháng 8. – Tôi lại viết nhật ký. Lúc này vẩn chưa buồn ngủ, và tôi vẩn có thể viết. Tôi quá xúc động đến nổi không thể ngủ được. Chúng tôi vừa trải một cuộc phiêu lưu, trải qua những biến cố kinh hòang. Tôi ngủ thiếp đi ngay khi tôi vừa đóng nhật ký lại. Thình *** h tôi bừng tỉnh, ngồi dậy với một cảm giác kinh hòang khiến tôi kinh sợ, bao quanh tôi là một cảm giác trống vắng. Căn phòng tối đen, và tôi không thể nhìn thấy giường của Lucy. Tôi lẻn sang giường Lucy và sờ tìm bạn ấy. Chiếc giường trống rỗng. Tôi bật diêm và thấy bạn ấy chẳng có trong phòng. Cửa đóng nhưng không khóa, giống như trạng thái tôi đã làm hồi hôm. Tôi không dám đánh thức mẹ bạn ấy, vì gần đây bà ấy đau ốm luôn. Vì vậy tôi quàng vội quần áo và cuống cuồng đi kiếm bạn ấy. Khi tôi rời khỏi phòng, thình *** h tôi nảy ra ý nghĩ là những quần áo bạn ấy mặc sẽ gợi ý cho tôi biết nơi bạn ấy định đi trong giấc mơ. Áo chòang và quần áo của bạn ấy vẩn y như cũ. “Lạy Chúa,” tôi tự nhủ, “bạn ấy không thể đi xa khi mà chỉ mặc quần áo ngủ như vậy.”

Tôi chạy vội xuống thang và nhìn vào phòng khách. Chẳng có ai! Rồi tôi tìm trong tất cả các căn phòng khác của căn nhà, với một nỗi sợ hãi càng lúc càng tăng làm tim tôi như thắt lại. Cuối cùng tôi chạy ra cửa chính và thấy nó đã mở ra. Cửa không mở rộng, nhưng không cài then. Mọi người trông nhà luôn cẩn thận kiểm tra cửa nẻo hàng đêm, và tôi sợ rằng bạn Lucy đã làm như vậy để ra ngòai. Không còn thời gian để nghĩ xem chuyển gì xảy ra nữa.Mỗi nỗi sợ hãi khủng khiếp mơ hồ đang chập chờn trong tôi.

Tôi lấy một cái khăn chòang lớn và chạy vội ra. Đồng hồ điểm một giờ khi tôi ở Crescent, và chẳng trông thấy ai. Tôi chạy lên Nền Đất Phía Bắc, và cũng chẳng hề thấy tăm hơi của cái bóng trắng mà tôi đang trông đợi. Đứng trên cạnh của Vách Đá Phía Tây trên bờ đê tôi nhìn xuyên qua hải cảng về phía Vách Đá Phía Đông, trông sự hy vọng hoặc sợ hãi mà chính tôi cũng không phân định rõ, là sẽ trông thấy Lucy tại chỗ ngồi quen thuộc của chúng tôi.

Đó là một đêm trăng tròn, sáng rực, với những đám mây đen dày trôi lượn, ném tòan bộ phong cảnh chìm vào một bức tranh phối cảnh giữa áng sáng và bóng tối khi chúng lướt qua. Trong một thóang tôi chẳng nhìn thấy gì, khi bóng đen của những đám mây phủ chung quanh nhà thờ Saint Mary và bao chung quanh nó. Khi những đám mây trôi qua, tôi có thể thấy cái tu viện hoang tàn đó lần lượt hiện ra, và ánh sáng trải ra thành một luồng hẹp sắc bén như một lưỡi gươm chuyển động xuyên qua khung cảng, soi sáng dần dần khu nhà thờ và nghĩa trang. Điều mong chờ của tôi đã không trở nên vô dụng, bởi vì, ngay tại chỗ mà chúng tôi thường dùng, ánh sáng bạc của mặt trăng đã rọi qua một hình người đang ngồi tựa xuống, trắng như tuyết. Mây trôi quá nhanh nên tôi chẳng nhìn thấy gì nhiều, vì ngay sau đó bóng tối đã phủ lên vùng sáng ngay tức khắc, nhưng lúc mà ánh sáng chiếu qua tôi thấy hình như là một bóng đen đứng phía sau chỗ mà cái bóng trắng kia đang ngồi và đang chồm lên nó. Nó là cái gì, người hay thú, tôi không thể khẳng định được.

Tôi không thể đợi đến khi ánh sáng có lại thêm một lần nữa, mà lao như bay xuống các bậc đê, băng qua chợ cá để đến cây cầu, đó là con đường duy nhất để đến Vách Đá Phía Tây. Thị trấn dường như đã chết lặng, chẳng hề có một bóng người. Điều này làm tôi vui mừng, vì tôi không muốn ai nhìn thấy tình cảnh hiện nay của bạn Lucy tội nghiệp. Thời gian và khỏang đường dài như vô tận, đầu gối tôi run lên, hơi thở trở nên nặng nhọc khi tôi cố gắng leo lên những bậc thang dài vô tận của tu viện. Tôi phải cố đi nhanh, và những bước chân leo lên của tôi trở nên vô cùng nặng nề, những khớp nối trên cơ thể tôi dường như muốn bung cả ra.

Khi lên đến đỉnh tôi có thể nhìn thấy tại chỗ ngồi quen thuộc của mình một cái bóng trắng, và lúc này tôi đã đến đủ gần để có thể phân biệt mọi vật trong tấm màn của bóng đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một vật gì đó, cao và đen đang chồm qua cái bóng trắng đang ngồi dựa kia. Tôi kêu lên trong hỏang hốt, “Lucy!Lucy!”, rồi cái vật kia ngẩng đầu lên, từ chỗ mình tôi có thể thấy một khuôn mặt trắng và đỏ, đôi mắt lờ đờ.

Lucy không trả lời, và tôi chạy vội về lối đi chính của nghĩa địa. Khi tôi đi vào thì nhà thờ đã nằm giữa tôi và chỗ Lucy ngồi, nên trong một thoáng tôi không thể nhìn thấy bạn ấy. Khi tôi nhìn thấy được bạn ấy trở lại thì những đám mây đã bay đi, ánh trăng sáng rực giúp tôi có thể nhìn thấy đang ngồi dựa đầu vào phía sau chỗ ngồi. Bạn ấy chỉ có một mình, không có dấu hiệu nào về một sinh vật sống chung quanh bạn ấy.

Khi tôi cúi xuống xem xét bạn ấy, bạn ấy vẩn còn ngủ. Đôi môi của bạn ấy hé mở, và bạn ấy không thở nhẹ nhàng như thường lệ, mà là những hơi thở dài, nặng nhọc như muốn hít đầy không khí vào phổi mình sau mỗi nhịp thở. Khi tôi đến gần, bạn ấy giơ tay lên trong giấc ngủ và kéo cổ áo ngủ lại như thể đang cảm thấy lạnh. Tôi tung cái khăn chòang lên phủ ấm,buộc kín lại quanh cổ bạn ấy. Tôi sợ rằng bạn ấy sẽ gặp phải những sự nguy hiểm chết người khi đi ra ngòai mà không mặc đủ ấm trong đêm trăng lạnh lẽo này. Tôi chưa dám đánh thức bạn ấy lại vào lúc này, vì muốn tay mình được rảnh để giúp đỡ bạn ấy. Tôi vội vã quàng cái khăn chòang quanh cổ họng bạn ấy và cài lại thành bằng một cái ghim băng lớn. Nhưng do quá bối rối, tôi trở nên vụng về nên hình như là quẹt phải hay đâm phải nó vào bạn ấy, và ngay lúc đó, khi hơi thở của bạn ấy đã trở nên dịu hơn, bạn ấy giơ tay lên họng mình một lần nữa và khẽ rên rỉ. Khi tôi đã cẩn thận phủ ấm đầy đủ cho bạn ấy, tôi đi đôi giầy của tôi vào chân bạn ấy rồi bắt đầu dịu dàng đánh thức bạn ấy dậy.

Đầu tiên bạn ấy không trả lời, nhưng dần dần bạn ấy càng trở nên khó chịu hơn trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại rên rĩ và thở dài. Cuối cùng, do thời gian trôi nhanh cùng nhiều lý do khác, tôi lắc mạnh bạn ấy cho đến khi bạn ấy mở mắt và tỉnh dậy. Hình như bạn ấy không ngạc nhiên lắm khi thấy tôi, và tất nhiên bạn ấy chưa nhận ra được ngay là mình đang ở đâu.

Lucy luôn luôn có những cử chỉ duyên dáng, và thậm chí ngay lúc bấy giờ, khi mà cơ thể bạn ấy vẩn còn run rẩy vì cái lạnh, tâm trí bạn ấy phần nào hoảng loạn khi nhận ra mình đang đi trên nghĩa địa trong đêm mà chỉ mặc đồ ngủ, bạn ấy vẩn không mất đi vẻ duyên dáng của mình. Bạn ấy thóang rùng mình, rồi ôm chặt lấy tôi. Khi tôi nói với bạn ấy phải trở về nhà ngay với tôi, bạn ấy đứng dậy mà không nói lời nào, ngoan ngõan như một đứa trẻ. Khi chúng tôi đi, sỏi cứa vào chân tôi, và Lucy nhận thấy tôi nhăn mặt. Bạn ấy dừng lại, khăng khăng đòi tôi phải đi lại giày của mình, nhưng đừng hòng tôi nghe theo. Tuy nhiên, khi chúng tôi đi ra khỏi khu nghĩa địa, có một vũng nước nhỏ còn lại sau cơn bão, tôi nhúng chân tôi vào bùn, chân này rồi chân kia, do vậy khi chúng tôi đi về nhà thì không có ai, nếu như chúng tôi có gặp ai đó, có thể nhận ra là tôi đang đi chân không.

Vận may mỉm cười với chúng tôi, và chúng tôi về đến nhà mà chẳng gặp một ai cả. Có một lần chúng tôi thấy một người có vẻ như đang say rượu đi một mình trên đường phía trước chúng tôi. Nhưng chúng tôi trốn sau một cánh cửa cho đến khi anh ta biến mất trong một ngõ hẻm đâu đó, gần với chỗ vách đứng mà người Scotland gọi là “wynds”. Tim tôi đập mạnh đến nỗi có những lúc tôi nghĩ mình sẽ quị mất. Tôi rất lo cho Lucy, không chỉ là chuyện sức khỏe của bạn ấy sẽ bị tổn hại như thế nào, mà còn làm sao cho chuyện này đừng để bị lộ, nếu không thì danh dự của bạn ấy sẽ gặp rắc rối với những kẻ ngồi lê đôi mách. Khi chúng tôi về đến nhà và đã rửa chân, chúng tôi cùng nhau cầu nguyện tạ ơn chúa, và tôi giục bạn ấy lên giường. Trước khi ngủ bạn ấy đã yêu cầu, thậm chí van nài tôi đừng nói một lời nào về chuyến phiêu lưu này với bất cứ ai, thậm chí với mẹ bạn ấy.

Đầu tiên tôi do dự trước khi hứa, nhưng tôi nghĩ đến tình trạng ốm đau hiện nay của mẹ bạn ấy, và những câu chuyện như thế này sẽ làm bà rất phiền muộn, và ngòai ra câu chuyện này sẽ còn bị bóp méo bởi những lời xuyên tạc khi nó được đồn đại ra ngòai. Tôi nghĩ không để lộ nó ra là một hành động khôn ngoan. Tôi hy vọng tôi đã làm đúng. Tôi khóa cửa và buộc chìa khóa vào cổ tay mình, do đó có thể tôi sẽ không còn bị xáo trộn nữa. Lucy đã ngủ say. Ánh bình minh đã phản chiếu từ trên cao ở ngòai biển khơi xa thẳm.

Cùng ngày, sáng sớm. – Mọi việc đều tốt đẹp. Lucy ngủ cho đến khi tôi đánh thức bạn ấy dậy và chẳng tỏ ra có gì khác lạ. Cuộc mạo hiểm đêm qua hình như chẳng có hại gì cho bạn ấy, ngược lại nó còn có lợi cho bạn ấy, vì vào sáng nay bạn ấy trông khá hơn cả tuần qua. Tôi rất tiếc khi nhận thấy sự vụng về của mình với cái cây ghim băng đã làm bạn ấy bị thương. Thật ra mọi việc có thể trở nên nghiêm trọng, vì làn da trên cổ họng bạn ấy bị trầy. Chắc là tôi đã chạm cây ghim băng vào một cùng da non và đâm xuyên qua nó, nên bây giờ có hai chấm đỏ giống như vết kim châm và trên dải băng áo ngủ của bạn ấy có vết một giọt máu. Khi tôi xin lỗi và lo lắng về điều này, bạn ấy cười phá lên và giả vờ giận dỗi tôi, nói rằng bạn ấy chẳng cảm thấy gì hết. Cũng may là vết thương này sẽ không để lại sẹo, vì nó nhỏ tí ti.

Cùng ngày, ban đêm – Chúng tôi trải qua một ngày đầy vui vẻ. Không khí thóang đãng, mặt trời lên cao, và những cơn gió lạnh. Chúng tôi ăn trưa ở Rừng Mulgrave, bà Westenra đi bằng xe lửa, còn Lucy và tôi đi bộ qua lối đi ở vách đá và gặp bà ở ga. Tôi cảm thấy buồn cho mình, vì không có được cảm giác hạnh phúc tuyệt đối khi có anh Jonathan bên mình. Nhưng thôi nào! Tôi phải kiên nhẫn mới được. Đến buổi chiều chúng tôi đi dạo ở Lối Đi Sòng Bài, nghe một buổi hòa nhạc rất hay của Spohr và Mackenzie, rồi đi ngủ sớm. Lucy có vẻ mệt hơn thường lệ và bạn ấy ngủ ngay. Tôi khóa lại cửa và cẩn thận giữ lại chìa khóa như đêm trước, dù tôi cho rằng tối nay sẽ chẳng có rắc tối nào.

Ngày 12 tháng 8. – Những điều tiên đóan của tôi đã sai lầm, vì hai lần tôi bị đánh thức trong đêm khi Lucy tìm cách ra ngòai. Mặc dù bạn ấy đang ngủ, bạn ấy thậm chí đã tỏ ra bực dọc khi phát hiện ra cửa bị khóa và trở về giường một cách vùng vằng. Tôi thức dậy vào lúc bình minh, lắng nghe tiếng chim hót ngòai cửa sổ. Lucy cũng thức dậy và tôi vui mừng khi thấy bạn ấy thậm chí trông còn khá hơn hôm qua. Tất cả những nét vui tươi quen thuộc đã trở lại với bạn ấy, bạn ấy đi qua và xích lại gần tôi, rồi nói với tôi mọi điều về Arthur. Tôi cũng nói với bạn ấy những điều phiền muộn của mình về chuyện anh Jonathan và bạn ấy tìm cách an ủi tôi. Trong một chừng mực nào đó thì bạn ấy cũng thành công, vì dù sự thông cảm không thể giải quyết được vấn đề, nó cũng làm cho con người thêm sức chịu đựng.

Ngày 13 tháng 8. – Lại một ngày khác lặng lẽ trôi qua, và tôi đi ngủ với chiếc chìa khóa buộc chặt ở cổ tay như trước. Một lần nữa tôi lại thức dậy trong đêm, và thấy Lucy đang ngồi dậy trên giường, vẩn đang ngủ, hướng về phía cửa sổ. Tôi nhẹ nhàng ngồi dậy, kéo tấm màn qua một bên và nhìn ra. Trăng sáng rực rỡ, và ánh trăng dịu dàng trải rộng trên bầu trời và biển cả trộn lẩn cùng điều bí ẩn kỳ lạ đang diễn ra trong đêm khuya trong thanh vắng khiến cho cảnh vật trở nên tuyệt đẹp mà không lời nào có thể tả xiết. Giữa tôi và ánh trăng kia là một con dơi khổng lồ đang bay lượn tới lui thành những vòng tròn lớn. Một hoặc hai lần nó bay đến thật gần, và tôi có cảm giác là nó đang nhìn tôi với vẻ đe dọa, rồi nó bay đi xuyên qua bến cảng về hướng thung lũng. Khi tôi từ cửa sổ quay lại Lucy đã nằm xuống trở lại và ngủ với dáng vẻ rất thanh thản. Bạn ấy không gây nên chuyện lộn xộn nào khác trong cả đêm.

Ngày 14 tháng 8. – Tôi đọc và viết trên Vách Đá Phía Tây suốt cả ngày. Lucy đã trở nên thích nơi này giống như tôi, và việc mang bạn ấy ra khỏi chỗ này khi đến giờ ăn trưa, dùng trà hay bữa chiều trở nên khó khăn. Khi chiều xuống thì bạn ấy thốt lên một ý tưởng rất buồn cười. Lúc này chúng tôi đang đi về nhà dùng bữa tối, và đang ở đỉnh Bến Tàu Phía Tây và dừng lại để nhìn ngắm cảnh vật như chúng tôi vẩn thường làm. Mặt trời đang lặn, chìm dần sau bầu trời Kettleness. Một thứ ánh sáng đỏ chiếu trên Vách Đá Phía Tây và cái tu viện cũ, và dường như nhúng tất cả mọi vật mà một ánh sáng hồng huyền ảo. Chúng tôi im lặng trong một thóang, rồi thình *** h Lucy lẩm bẩm như đang nói với chính mình…

“Lại những con mắt đỏ của ông ta! Chúng vẩn ở đấy!” Sự diễn đạt này rất lạ lùng, xem ra chẳng ăn nhập gì với chung quanh, và điều này làm tôi giật mình. Tôi quay người nhìn quanh, và thấy rõ là chẳng có ai đang nhìn Lucy cả. Bạn ấy đang bắt đầu trở nên nữa mê man và vẻ mặt của bạn ấy trông thật là khác lạ mà tôi không sao hiểu được, do đó tôi không nói gì mà nhìn theo mắt bạn ấy. Bạn ấy có vẻ như đang nhìn về phía chỗ ngồi của chúng tôi, nơi có một bóng áo đen đang ngồi đơn độc. Tôi cảm thấy giật bắn người, khi trong một thóang tôi nhìn thấy người lạ mặt kia có đôi mắt lớn đỏ rực như những ngọn lửa, nhưng cái nhìn tiếp theo đã xua đi những ảo giác này. Những tia sáng đỏ đang chiếu sáng trên những khung cửa sổ của nhà thờ Saint Mary đằng sau chỗ ngồi của chúng tôi, và khi mặt trời chìm sâu thì nó tạo ra những hiện tượng khúc xạ và phản xạ gây ra những hiệu ứng đặc biệt. Tôi nói Lucy chú ý đến hiện tượng kỳ lạ này, bạn ấy tỏ ra có quan tâm, nhưng vẩn buồn bã như cũ. Có thể bạn ấy đang nghĩ về cái đêm kinh khủng kia. Chúng tôi chẳng bao giờ nhắc đến nó, và vì tôi chẳng nói gì, chúng tôi trở về nhà dùng bữa tối. Lucy nhức đầu và đi ngủ sớm. Tôi thấy bạn ấy đã ngủ rồi, bèn đi ra ngoại và đi dạo một lát.

Tôi đi bộ dọc theo những vách đá của bờ biển phía tây, và khi nghĩ đến Jonathan, lòng tôi lại tràn ngập một nỗi buồn man mác. Khi tôi về nhà, ánh trăng sáng rực, sáng đến nỗi tôi có thể nhìn thấy tường tận vùng Crescent trước mặt, dù nó đang chìm trong bóng đêm. Tôi liếc nhìn lên khung cửa sổ của chúng tôi, và thấy Lucy đang thò đầu ra. Tôi lấy khăn tay ra và vẫy bạn ấy. Bạn ấy dường như chẳng nhận ra và cũng chẳng làm một cử động gì. Lúc này ánh trăng tỏa quanh một góc tòa nhà, và ánh sáng chiếu thẳng vào cửa sổ. Lucy hiện ra rõ mồn một, đầu bạn ấy thò ra khỏi thành cửa sổ, mắt nhắm nghiền. Bạn ấy đang ngủ say, và tại chỗ bạn ấy ngồi cạnh cửa sổ có một cái gì đó giống như một con chim cỡ lớn. Tôi sợ bạn ấy lạnh, bèn chạy vội lên, nhưng khi tôi vào phòng thì bạn ấy đã trở về giường, ngủ say, thở một cách nặng nhọc. Bạn ấy giữ tay trên cổ họng, giống như đang bảo vệ nó khỏi giá lạnh.

Tôi không đánh thức bạn ấy, mà đắp ấm cho bạn ấy. Tôi kiểm tra kỹ cửa nẻo và cài then cửa sổ cẩn thận.

Bạn ấy trông thật là dễ thương trong lúc ngủ, nhưng bạn ấy trắng bệch hơn bình thường, và dưới mắt bạn ấy có một dáng vẻ buồn bã, bơ phờ mà tôi chẳng thích tí nào. Tôi sợ là bạn ấy gặp phải chuyện gì phiền muộn. Ước gì tôi biết được nó là cái gì.

Ngày 15 tháng 8. – Dậy muộn hơn thường lệ. Lucy trông uể oải và mệt mõi, khi mà chúng tôi được gọi dậy. Chờ đón chúng tôi tại bàn ăn sáng là một bất ngờ thú vị. Cha Arthur đã khá hơn, và muốn tổ chức đám cưới sớm. Lucy tràn ngập mừng vui, còn mẹ bạn ấy nữa vui nữa buồn. Sau đó bà đã nói cho tôi nghe nguyên nhân. Bà ấy buồn khi mất đi Lucy của riêng bà, nhưng bà vui mừng là bạn ấy đã sớm có người bảo bọc cho bạn ấy. Người đàn bà dịu dàng, đáng mến và tội nghiệp! Bà thổ lộ cho tôi biết rằng bà đã cảm thấy trát gọi của thần chết. Bà không nói cho Lucy biết và bắt tôi phải hứa giữ bí mật. Bác sĩ của bà đã nói cho bà biết nhiều nhất vài tháng nữa bà sẽ chết, vì tim bà đã yếu lắm rồi. Trước tình thế này, một cú sốc thình *** h vào lúc này rõ ràng sẽ giết chết bà. A, chúng tôi quả thật là khôn ngoan khi giấu bà về cái đêm mộng du hãi hùng của Lucy.

Ngày 17 tháng 8. – Đã hai ngày nay tôi không đụng đến nhật ký. Tôi không còn tâm trí nào để viết nữa. Có vẻ như có một tấm màn u ám đang bao phủ lên hạnh phúc của chúng tôi. Không có tin tức gì từ Jonathan, còn Lucy thì càng yếu hơn, trong khi những giờ khắc còn lại của mẹ bạn ấy càng lúc càng cạn dần. Tôi không hiểu vì sao mà Lucy lại như vậy. Bạn ấy ăn tốt, ngủ ngon, hít thở không khí trong lành, nhưng theo thời gian vẻ hồng hào trên đôi má bạn ấy càng nhạt đi, bạn ấy yếu hơn và càng bơ phờ hơn ngày theo ngày. Đêm đêm tôi nghe bạn ấy thở hổn hển như cần không khí.

Cửa phòng chúng tôi luôn đóng chặt, và khi ngủ chìa khóa luôn đeo ở cổ tay tôi, nhưng bạn ấy thức giấc và đi lòng vòng khắp phòng, rồi ngồi bên cánh cửa sổ hé mở. Đêm hôm qua khi tôi tỉnh giấc tôi thấy bạn ấy chồm người ra, và tôi không thể nào cố thử đánh thức bạn ấy dậy được.

Bạn ất rất mệt mõi. Khi tôi cố làm bạn ấy thức giấc, bạn ấy yếu ớt như giọt nước, và hít thở những hơi khẽ, dài, đau khổ để tìm không khí. Khi tôi hỏi bạn ấy ngồi bên cửa sổ để làm gì, bạn ấy lắc đầu và quay đi.

Tôi tin là căn bệnh của bạn ấy không thể từ vết trầy vô tình gây ra bởi cái ghim băng kia được. Tôi nhìn vào cổ họng bạn ấy trong khi bạn ấy nằm ngủ, và vết thương nhỏ kia vẩn chưa lành. Chúng vẩn tiến triển, lớn hơn lúc trước, và cạnh của nó hình như có màu trắng đầy bệnh hoạn. Chúng trông như những chấm trắng bao quanh một chấm đỏ ở giữa. Nếu một hai ngày nữa mà nó vẩn chưa lành, tôi nhất định phải gọi bác sĩ đến xem xét chúng.

THƯ TỪ SAMUEL F.BILLINGTON VÀ CON TRAI, LUẬT SƯ WHITBY, GỬI CHO MESSRS. CARTER, PATERSON VÀ CÔNG TY, LONDON.

Ngày 17 tháng 8

” Kính thưa Quý Ngài,

“Tôi xin vui mừng báo ngài rằng tôi đã nhận được những hóa đơn cho chuyến hàng gửi bởi Hãng Xe lửa Vĩ đại Phương Bắc. Chúng cũng được gửi đến Carfax, gần Purfleet, ngay theo hóa đơn tại trạm chuyển Chữ Thập Vua đáng tin cậy. Ngôi nhà lúc này đã trống rỗng, nhưng xin gửi kèm những chìa khóa đã được dán nhãn rõ ràng.

“Quí ngài sẽ nhận được những cái hộp, mà số lượng ghi trên hóa đơn vận chuyển là mười lăm cái, nằm trong một phần bị hư hại của tòan nhà, được đánh dấu chữ ‘A’ trong sơ đồ gửi kèm. Nhân viên của quí ngài sẽ dễ dàng tìm được nơi này, đó là một nhà thờ cổ trong lâu đài. Hàng hóa được chuyển đi bằng xe lửa lúc 9:30 tối nay, và sẽ đến Chữ Thập Vua lúc 4:30 sáng mai. Vì khách hàng của chúng ta muốn việc chuyển hàng diễn ra càng nhanh càng tốt, chúng ta bắt buộc phải sắp xếp sao cho người của quí ngài phải sẳn sàng tại Chữ Thập Vua theo giờ đã định và ngay lập tức mang hàng hóa đến đích. Để loại trừ mọi sự chậm trễ có thể xảy ra, xin quí ngài hãy hoãn lại những công việc đã định trước vào lúc đó, chúng tôi xin gửi kèm quí ngài tấm chi phiếu 10 bảng ngay lúc này, xin quí ngài vui lòng báo lại khi nhận được hóa đơn. Nếu công việc tốn kém ít hơn, xin quí ngài gửi trả số tiền thừa, còn nếu nhiều hơn, chúng tôi sẽ lập tức gửi tiếp tờ chi phiếu khác khi có tin của quí ngài. Xin quí ngài hãy để lại chìa khóa trên lối đi vào tiền sảnh của tòa nhà, chủ nhân của ngôi nhà này sẽ nhận lại nó khi ông ta vào nhà bằng chiếc chìa khóa thứ hai.

“Xin đừng nghĩ là chúng tôi đã phóng đại tầm vóc của công việc khi yêu cầu quí ngài hãy khẩn trương đến mức tối đa bằng mọi cách có thể được. “Xin dừng bút, thưa Quý Ngài, “Trân trọng,”SAMUEL F.BILLINGTON & SON”

THƯ CỦA MESSRS. CARTER, PATERSON & CÔNG TY, LONDON, GỬI CHO MESSRS. BILLINGTON & CON TRAI, WHITBY.

Ngài 21 tháng8.

“Kính thưa Quí Ngài,

“Chúng tôi xin được phản hồi là đã nhận được 10 bảng và gửi trả về chi phiếu 1 bảng 17s, 9d tiền thừa, được ghi rõ trong hóa đơn kèm theo. Hàng hóa đã được phân phối chính xác theo chỉ dẩn, và chìa khóa được để lại dưới tấm thảm trong phòng chính như quí ngài mong muốn. “Xin được dừng bút, thưa Quí Ngài,” Trân trọng, “Pro CARTER, PATERSON & CÔNG TY.”

NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY.

Ngày 18 tháng Tám. – Hôm nay tôi rất vui, và tôi đang ngồi viết tại chỗ ngồi quen thuộc của mình trên khu nghĩa địa. Lucy đã khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Tối qua bạn ấy ngủ ngon suốt cả đêm và chẳng hề quấy rầy tôi.

Vẻ hồng hào đã trở về trên đôi má của bạn ấy, dù bạn ấy vẩn còn tái xanh ốm yếu và trông rất vàng vọt. Nếu bạn ấy bị thiếu máu bởi một nguyên nhân nào đó thì tôi còn có thể hiểu được, đằng này bạn ấy đâu có sao. Bạn ấy đang lên tinh thần, rất yêu đời và vui sướng. Căn bệnh tiềm tàng hình như đã bắt đầu lánh xa bạn ấy, và nhìn bạn ấy lúc này chỉ còn gợi tôi nhớ lại, nếu như tôi còn chút gì để nhớ, về cái đêm hôm ấy, và tại nơi đây, chính tại nơi này, tôi thấy bạn ấy đang ngủ.

Bạn ấy vừa cố rút một hòn đá trong giày đang đâm vào gót chân của bạn ấy vừa nói,

“Cái chân tội nghiệp của mình làm phiền mình quá! Mình dám chắc là ông bạn già tội nghiệp Swales đang nói chuyện với mình vì mình không muốn quấy rầy Geordie.”

Thấy bạn ấy đang ở trong tâm trạng cởi mở, tôi hỏi bạn ấy xem đêm đêm bạn ấy mơ thấy những gì,

Trước khi bạn ấy trả lời, trán bạn ấy nhăn lại theo một nét cau mày đáng yêu. Arthur, tôi gọi anh ấy là Arthur theo ý thích của Lucy, đã từng nói rằng anh ta đã yêu bạn ấy qua cử chỉ này, thực sự là điều này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên. Đoạn bạn ấy trở nên nữa mơ mộng như thể đang cố phục hồi ký ức của mình.

“Mình chẳng có mơ đâu, mà tất cả dường như đang diễn ra thật sự đấy. Mình chỉ muốn trở về nơi đây. Mình chẳng biết vì sao, dù mình lại đang sợ hãi một cái gì đó mà mình cũng không biết là cái gì. Mình còn nhớ, dù lúc đó mình còn đang ngủ, là mình đi ngang những con đường và đi qua cây cầu. Một con cá nhảy lên trên đường, và mình trườn người tới để ngắm nó, và mình nghe thấy rất nhiều tiếng chó tru. Cả thị trấn lúc ấy dường như phủ đầy tiếng chó tru, và mình lại tiếp tục đi lên. Rồi diễn ra mơ hồ trong ký ức mình là một cái gì đó cao và đen với đôi mắt đỏ rực như là khi chúng ta thấy trong hòang hôn, rồi một cái gì đó vừa ngọt ngào vừa cay đắng vờn quanh mình cùng lúc. Rồi mình cảm thấy như đang chìm vào một hồ nước xanh, rồi có những tiếng hát vang lên bên tai mình, mà mình cảm thấy là bài hát dành cho những người chết đuối, và mọi thứ đang dần rời xa mình. Linh hồn của mình dường như đã rời khỏi thể xác và bay lơ lững trên không trung. Mình nhớ là lúc đó Ngọn Hải Đăng phía Tây nằm ở ngay dưới mình, và lúc đó mình có một cảm giác đau đớn kỳ lạ, giống như là mình đang ở trong một cơn động đất, mình quay trở lại và nhìn thấy bạn đang lay cơ thể mình. Mình thấy bạn trước khi mình cảm thấy bạn.”

Bạn ấy bắt đầu cười. Tôi cảm thấy là có một cái gì đó rất là lạ, và tôi lắng nghe tiếng cười hổn hển của bạn ấy. Tôi không thích điều này chút nào, tốt hơn đừng để cho bạn ấy bận tâm về những chuyện như vậy nữa, và chúng tôi bắt đầu chuyển sang những chủ đề khác, và Lucy lại cảm thấy yêu đời hơn. Khi chúng tôi về nhà, khí trời đã khuyến khích bạn ấy, và đôi má trắng bệch của bạn ấy lại ửng hồng. Mẹ bạn ấy rất vui khi thấy bạn ấy, và chúng tôi đã trải qua một buổi tối vui vẻ cùng nhau.

Ngày 19 tháng 8. – Vui, vui, thật là vui! Mặc dù không phải mọi chuyện đều đáng vui. Cuối cùng, đã có tin tức của anh Jonathan. Anh chàng tội nghiệp ấy đang bệnh, và đó là lý do vì sao anh ấy chẳng hề viết thư. Bây giờ thì tôi không còn lo lắng khi nghĩ hay nói về anh ấy. Ngài Hawkins đã gửi đến tôi một lá thư và còn tử tế viết thêm mấy dòng. Trong buổi sang nay tôi sẽ đi đến chỗ anh Jonathan, giúp đỡ chăm sóc cho anh ấy nếu có thể và mang anh ấy trở về. Ngài Hawkins nói rằng cũng chẳng có gì dở nếu chúng tôi cưới nhau luôn ở đấy. Tôi đã khóc suốt với bức thư mà một người nữ tu tốt bụng đã gửi đến cho tôi đến nỗi tôi cảm thấy ngực áo mình, nơi mà mình để lá thư vào, ướt đẩm. Nó là của anh Jonathan, và nó phải nằm gần trái tim tôi. Cuộc hành trình của tôi đã được họach định, hành lý đã sẳn sàng. Chỉ có lại quần áo của tôi mà thôi. Lucy sẽ mang hòm rương của tôi tới London và giữ nó đến khi tôi cần lại nó, có thể cho dịp… Tôi phải không được viết nữa. Tôi cần phải giữ nó để nói với anh Jonathan, người chồng của em. Lá thư mà anh ấy đã đọc và chạm lấy sẽ an ủi tôi cho đến khi chúng tôi gặp nhau.

THƯ CỦA DÌ PHƯỚC AGATHA, BỆNH VIỆN THÁNH JOSEPH VÀ THÁNH NỮ MARY BUPA-PESH, GỬI CHO CÔ WILLHELMINA MURRAY.

Ngày 12 tháng 8,

“Kính thưa Cô.

“Tôi viết lá thư này theo yêu cầu của ngài Jonathan Harker. Ông ấy đang ốm và không thể tự tay mình viết được, dù nhờ ơn Chúa, thánh Joseph và thánh nữ Mary, bệnh tình ông ấy đang tiến triển tốt đẹp. Ông ấy bị một cơn sốt não, và chúng tôi đã chăm sóc cho ông ấy được sáu tuần. Ông ấy nhờ tôi chuyển đến cô tình yêu của ông ấy, và cũng nhờ tôi chuyển hộ lời đến ngài Peter Hawkins, Exeter, với tất cả sự kính trọng, rằng ông ấy rất tiếc về sự chậm trễ này, nhưng tất cả công việc đã hòan tất. Ông ấy cần phải nghĩ ngơi vài tuần tại viện điều dưỡng trên đồi của chúng tôi, nhưng sẽ trở về ngay. Ông ấy cũng nhờ tôi nói hộ rằng ông ấy không có đủ tiền, và ông ấy muốn trả tiền cho những phí tổn của mình ở đây, ngõ hầu chúng tôi có thể cưu mang những người khác.

Xin hãy tin tưởng tôi,

Với tất cả niềm tin và lời chúc tốt lành, Sơ Agatha”

“T.B – Bệnh nhân của tôi đã ngủ, và tôi lại mở lá thư này ra để thêm vào một đôi điều. Ông ấy nói với tôi tất cả về cô, và cô sẽ trở thành vợ ông ấy trong một thời gian ngắn nữa. Xin chúc mừng cả hai! Bác sĩ của chúng tôi nói rằng ông ấy đã trải qua một cú sốc kinh hòang, và trong cơn mê sảng ông ấy thường hay nói về những sự việc hãi hùng, bao gồm chó sói, chất độc và máu, gồm ma và ác quỷ, và tôi rất sợ khi nói về những điều này. Hãy luôn để mắt đến ông ấy và đừng để ông ấy bị khích động trong một thời gian dài. Những gốc rễ của căn bệnh này không thể loại trừ dễ dàng. Đáng lý chúng tôi viết thư sớm hơn, nhưng chúng tôi không biết gì về bạn bè của ông ấy, và ông ấy cũng không cho biết được điều gì, bất cứ điều gì mà một người nào đó có thể hiểu. Ông ấy đến trên chuyến xe lửa từ Klausenburg, và những người bảo vệ được trưởng ga ở đấy nói rằng ông ta lao vào ga và gào lên đòi một vé trở về. Qua dáng vẻ điên cuồng của ông ta, người ta nhận ra rằng ông ta là người Anh, và họ cho ông một vé đến nhà ga xa nhất mà chuyến xe đi đến.

“Hãy tin chắc là ông ấy được chăm sóc tốt. Ông ấy đã chinh phục được trái tim của tất cả mọi người với vẻ dịu dàng và tao nhã của mình. Ông ấy thật sự đang khỏe dần, và tôi không hề nghi ngờ là ông ấy sẽ hồi phục hoàn toàn trong vài tuần tới. Nhưng hãy cẩn thận chăm sóc ông ấy để đảm bảo mọi sự. Và tôi xin cầu nguyện Chúa, thánh Joseph và thánh mẹ Mary cho hai bạn được nhiều, thật nhiều năm hạnh phúc.”

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 19 tháng Tám. – Renfield vừa có một biểu hiện lạ lùng và đột ngột tối hôm qua. Vào khỏang tám giờ ông ta bắt đầu trở nên kích động và hít ngửi như một con chó. Những người phục vụ chú ý tới dáng vẻ của ông ta, và biết tôi đang rất quan tâm đến ông, nên khuyến khích ông nói chuyện. Ông ấy luôn tỏ ra kính trọng những người phục vụ và đôi khi cả những người nô lệ, nhưng tối nay, mọi người nói với tôi là ông ta tỏ ra rất kiêu kỳ. Ông ấy không thèm hạ mình nói chuyện với ai cả.

Tất cả những gì ông ấy nói là, “Tôi không muốn nói chuyện với các người. Các người không xứng đáng. Chỉ có Ông Chủ mà thôi.”

Những người phục vụ nghĩ rằng ông ta đang bị xâm chiếm bởi một chứng cuồng tín tôn giáo nào đó. Nếu đúng vậy thì chúng tôi lại càng phải canh chừng mọi biến cố, vì một người đàn ông khỏe mạnh lại có chứng cuồng sát và cuồng tín tôn giáo thì vô cùng nguy hiểm. Sự kết hợp hai tính cách trên sẽ trở thành một thảm họa khôn lường.

Đến chín giờ thì tôi đích thân đến thăm ông ta. Dưới mắt ông ta tôi cũng như những người phục vụ. Trong cảm giác đường bệ mà ông ta tự cảm thấy về mình thì sự khác nhau giữa tôi và những người phục vụ là hoàn toàn không có. Quả thật đó là một chứng cuồng tín tôn giáo, và ông ta đang sớm nghĩ mình chính là Chúa Trời.

Sự khác nhau giữa cơ man người với người là không đáng lưu tâm đối với Đấng Tòan Năng. Đã có bao nhiêu người điên tự nhủ lòng như thế! Chúa Trời thật sự luôn cẩn thận lưu tâm để một con sẻ nhỏ cũng chẳng bị rơi. Còn Chúa Trời được tạo ra từ sự phù phiếm của lòai người thì không thấy sự khác nhau giữa đại bàng và chim sẻ. Ôi, phải chi chỉ cần con người biết được điều này!

Đã nữa giờ trôi qua và Renfield càng lúc càng trở nên kích động. Tôi không giả vờ không chú ý đến ông ta, mà tôi giữ một cái nhìn nghiêm khắc trên tất cả mọi việc. Nhìn thẳng vào đôi mắt gian xảo của người điên, chúng ta luôn luôn biết được khi nào thì ông ta có một ý định nào đó, và những chuyển động lươn lẹo của cái đầu và lưng ông ta giúp những người phục vụ nắm bắt được điều đó. Ông ta bắt đầu trở nên trầm lặng hơn, rồi đi đến và ngồi bên cạnh giường với vẻ cam chịu, rồi nhìn vào khỏang không với một cặp mắt thiếu sinh khí.

Tôi nghĩ là tôi cần tìm xem sự thờ ơ của ông ta là thật hay giả tạo, nên tôi thử bắt chuyện với ông ta về những con thú nuôi của ông ta, việc đề cập đến đề tài này không bao giờ thất bại trong việc kích động sự chú ý của ông ta.

Đầu tiên ông ấy không trả lời, sau đó thì dài giọng với vẻ khó chịu, “Mặc xác chúng! Tôi không buồn quan tâm đến chúng nữa.”

“Sao” tôi nói. “Ông muốn nói với tôi rằng ông không thèm chú ý gì đến lũ nhện nữa à?” (Nhện lúc này đang là sở thích của ông ta và quyển sổ tay của ông ta viết đầy những cột số nhỏ.”

Ông ấy trả lời một cách khó hiểu. “Trong mắt những cô gái trẻ sắp lấy chồng lần đầu tràn ngập niềm vui sắp trở thành cô dâu. Nhưng khi ngày cưới đến gần, thì niềm vui không còn hoàn toàn sáng rực trong mắt họ nữa.”

Ông ấy không chịu giải thích gì, và bướng bĩnh ngồi tại chỗ của mình trong suốt thời gian tôi ngồi lại với ông ta.

Tôi đang rất mệt mõi và xuống tinh thần. Tôi không thể không nghĩ về Lucy, và bao nhiêu biến cố khác nhau đã xảy ra. Nếu tôi không ngủ được ngay, tôi sẽ dùng đến các loại thuốc ngủ hiện đại và hiệu nghiệm nhất! Phải cẩn thận nếu không tôi sẽ trở nên nghiện mất. Không, tối nay tôi sẽ không dùng đến nó! Nếu tôi nghĩ về Lucy, thì điều đó cũng không thể làm hại cô ấy. Nếu cần, đêm nay không ngủ cũng được.

Đêm khuya. – Sau khi đã có một quyết định dứt khóat, tôi cảm thấy trở nên thanh thản hơn. Tôi nằm trằn trọc cho đến khi nghe đồng hồ điểm hai tiếng, và người gác đêm chạy đến chỗ tôi, thò đầu lên từ phía tường, và nói rằng Renfield đã bỏ trốn. Tôi mặc quần áo và lao ra ngay. Người bệnh của tôi nếu để đi lang thang thì sẽ rất nguy hiểm. Những ý tưởng kỳ quặc của ông ta khi thi hành sẽ rất nguy hiểm cho những người lạ mặt.

Người phục vụ đang đợi tôi. Anh ta nói anh ta còn thấy ông ta mười phút trước, có vẻ như đang ngủ trên giường khi anh ta nhìn qua cái cửa sập dùng để quan sát trên cửa. Sau đó thì anh ta chợt nghe thấy tiếng cánh cửa sổ bị vặn ra. Anh ta chạy lại và nhìn thấy những dấu vết của ông ấy biến mất ngòai cửa sổ và ngay lập tức cho gọi tôi. Ông ta chỉ đang mặc bộ đồ ngủ và không thể đi đâu xa.

Người phục vụ đáng lý có lẽ hữu dụng hơn khi đuổi theo ông ta ngay thay vì chỉ đứng quan sát, nếu như anh ta có thể làm giảm trọng chính mình lúc cố len người qua sửa sổ. Anh ta là một người lực lưỡng, và không thể leo qua cửa sổ được.

Tôi là một người mảnh dẻ, và với sự trợ giúp của anh ta, tôi leo ra ngoài cửa sổ, nhưng thòng chân xuống trước. Cửa sổ chỉ cao hơn mặt đất vài bộ và tôi nhảy xuống chẳng bị thương tích gì.

Người phục vụ nói với tôi là bệnh nhân đã rẽ trái rồi chạy thẳng, và tôi cố hết sức chạy thật nhanh theo. Khi tôi rẽ trái qua đám cây, tôi thấy một bóng trắng trên bức tường ngăn cách vùng đất của tôi với ngôi nhà hoang.

Tôi chạy trở về ngay, gọi người canh gác lấy thêm ba hoặc bốn người nữa ngay và đi theo tôi đến vùng đất Carfax, đề phòng trường hợp người bạn của chúng tôi có thể trở nên nguy hiểm. Tôi lấy một cái thang, leo qua tường, nhảy xuống phía bên kia. Tôi còn có thể thấy bóng Renfield biến mất sau một góc nhà, và tôi chạy đuổi theo anh ta. Ở góc xa của ngôi nhà tôi thấy ông ta đang cố đóng lại cái cửa bằng gỗ sồi có khung thép của nhà thờ.

Ông ta có vẻ đang nói chuyện với ai đó, nhưng tôi sợ là nếu tôi đến gần để nghe ông ta nói, thì ông ta lại sợ hãi khi trông thấy tôi và lại chạy mất.

Săn đuổi một bầy ong lang thang chả thấm thía gì so với việc đuổi theo một người mất trí không mặc quần áo, nhất là khi cơ hội trốn thóat nằm trong tay ông ta! Tuy nhiên, sau vài phút, tôi nhận thấy là ông ta hình như chẳng để ý gì đến mọi việc chung quanh mình, tôi bèn mạo hiểm áp sát lại ông ta, tôi tiến lại gần hơn nữa, băng ngang qua tường và tiến sát bên ông. Tôi nghe ông ta nói…

“Tôi đến đây để van nài ngài, Ông Chủ. Tôi là đầy tớ của ngài, và ngài sẽ ban thưởng cho tôi, vì tôi đã rất trung thành. Tôi tôn thờ ngài đã từ lâu dù vô cùng cách biệt. Bây giờ ngài đã đến, và tôi đang đợi lệnh ngài, và ngài sẽ không bỏ rơi tôi, thưa ngài, Ông Chủ kính mến, với những ân sủng của ngài?”

Ông ta là một người ăn mày già ích kỷ, trong một chừng mực nào đó. Ông ta đang nghĩ mình đang ở một buổi Thiết triều thật sự và đang nghĩ đến bánh mì và cá. Những cơn điên cuồng của ông ta đang hợp nhất lại. Khi chúng tôi đến gần ông, ông giống như một con hổ. Ông ta khỏe kinh hồn, trông ông giống như một con thú hoang hơn là một con người.

Tôi chưa bao giờ thấy cơn giận dữ bộc phát của một người mất trí trước đây, và tôi hy vọng là sẽ không thấy nó lại lần nữa. Cũng may là chúng tôi đã lường trước đến sức mạnh và sự hung dữ của ông ta ta. Với sức mạnh và tính kiên nghị của ông ta, ông ta có thể làm nhiều chuyện tày trời trước khi bị tóm trở lại.

Với bất kỳ giá nào, lúc này phải giữ ông ta ở một nơi an tòan.Ngay cả Jack Sheppard cũng không thể thóat khỏi cái áo trói kìm giữ ông, và ông ta bị xích vào tường trong một phòng cách ly.

Đôi khi ông ta gào thét một cách rất kinh khiếp, nhưng sự im lặng tiếp theo đó còn đáng hãi hơn, vì hình như ông ta giống như một tên sát nhân trong mọi hành vi và cử chỉ.

Ngay khi đó ông ta thốt lên một tràng. “Tôi sẽ kiên nhẫn, Ông Chủ. Nó đang đến, đang đến, đang đến.!”

Bây giờ sẽ đưa ra một lời chú thích, rồi sẽ cũng đi. Tôi quá mệt rồi, tôi cần phải ngủ, nhưng quyển nhật ký này cứ làm rộn tôi, tôi cảm thấy tối nay nhất định tôi sẽ ngủ được một chút.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN