Chúa Sẽ Phù Hộ Em - Quyển 1 - Chương 1-1: “Em Lâm” từ trên trời rơi xuống (1)
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
136


Chúa Sẽ Phù Hộ Em


Quyển 1 - Chương 1-1: “Em Lâm” từ trên trời rơi xuống (1)


Thực ra mọi câu chuyện đều bắt nguồn từ một thành phố xa lạ, một người đàn ông đến cùng những điều kì diệu lạ thường. – Gregory –

Nếu một người chỉ trong vài ngày ngắn ngủi rơi vào cảnh bị phản bội, người
yêu chia tay và mất việc, tôi nghĩ họ cũng sẽ như tôi, lập tức gật đầu
đồng ý với tâm trạng gần như muốn tự sát và dõng dạc nói: “Được, tôi
đi!”

Ngô Chung lập tức nhướng mày nhìn tôi. Nhiều năm kinh nghiệm trong ngành kinh doanh khiến tôi lập tức hiểu ra mình đã nhận lời nhanh hơn ông ta tưởng rất nhiều. Nhưng thế thì đã sao chứ, đầu tôi đang đau
như búa bổ đây, chỉ mong ông chủ Ngô có thể sớm rời khỏi căn phòng này
càng sớm càng tốt. Cần làm gì thì cứ làm đi, để tôi còn lên giường ngủ
tiếp chứ!

Tuy nhiên, Ngô Chung lại không hề có ý định buông tha cho tôi. Ông ta nhìn tôi chằm chằm, hỏi lại: “Cô thực sự đồng ý chứ?”

Tôi gật đầu, tại sao lại không đồng ý chứ, chỉ cần cho tôi rời khỏi cái nơi đau thương, bảo tôi lên mặt trăng cũng được, huống hồ chỉ là một
Pakistan bé tí bé teo, diện tích cả nước còn chưa bằng một phần mười
Trung Quốc.

Chỉ có điều, không ngờ Ngô Chung lại bảo tôi, một
nhân viên văn phòng không quyền không thế, đi tìm cô ta. Ngô Chung được
tạp chí Forbes xếp vào danh sách những người giàu có nhất Trung Quốc,
ông ta không chỉ là chủ tập đoàn Hoàn Á mà còn sở hữu công ty ở nước
ngoài, chen chân vào nhiều lĩnh vực như bất động sản, năng lượng… Giang
hồ đồn đại ông ta khởi nghiệp từ buôn lậu vũ khí, Hoàn Á chẳng qua chỉ
là một tập đoàn trá hình, hoạt động chủ yếu là rửa tiền. Biết điều này,
Ngô Chung chỉ cười khẩy coi thường, thái độ mỉa mai này không đồng nghĩa với việc ông ta muốn giải thích tiền của mình trong sạch đến thế nào mà chỉ cho thấy ông ta không thèm để ý tới việc người khác nghĩ gì.

Nhân vật có tiếng tăm nhất nhì bến Thượng Hải như vậy lại xuất hiện trong
căn phòng ọp ẹp trên đường Giang Tô của tôi, bảo tôi tới Pakistan khuyên Alice, cô nhân tình nhỏ đã giận dỗi bỏ nhà ra đi của ông ta, quay trở
về.

Cái đầu u tối của tôi chợt nảy ra một câu hỏi: “Tại sao cô
gái tay cầm chìa khóa vàng này lại bỏ trốn tới Pakistan?” Thật kì lạ,
đường đường là bạn gái của ông chủ Ngô, sao lại chạy tới cái nơi chó ăn
đá gà ăn sỏi như thế? Tại sao cô ta không chọn châu Âu hay một hòn đảo
nhiệt đới nào đó mà bỏ trốn đến? Pakistan, nơi đó chẳng phải đang có
chiến tranh sao?

Môn Địa lí thời trung học nói cho tôi biết quốc
gia có tên Pakistan này nằm ngay cạnh Trung Quốc, có đường quốc lộ KKH
hùng vĩ nhất cao nhất thế giới, có ngọn K2 nổi tiếng ngang tầm với đỉnh
Everest, dân địa phương hơi tí lại gọi dân Trung Quốc là “bạn bè tốt”…
Nhưng những điều này thì liên quan gì tới tôi chứ? Mà thôi, bây giờ thì
nó có liên quan tới tôi rồi, vì đó sẽ là nơi chữa lành vết thương lòng
của tôi, một nơi tuyệt vời để chạy trốn khỏi thế giới thực tại.

“Đợi tới khi cô đưa Alice về nước, tôi sẽ sắp xếp cho cô một công việc trong tập đoàn Hoàn Á. Ngải Mễ Lạp, hãy nhớ kĩ, thời gian của cô không nhiều
đâu, giữa tháng Mười một sẽ bắt đầu có tuyết lớn phong tỏa núi, ngoài
kền kền ra thì không có bất kì một sinh vật nào có thể rời khỏi đó.” Ngô Chung nói.

“Ngoài kền kền ra không có bất kì một sinh vật nào có thể rời khỏi đó…”, tôi khẽ nhắc lại, nhưng ngay lập tức, mấy chữ này đã trôi tuột ra khỏi đầu tôi. Tôi chỉ nhắc lại chúng như một cái máy, vì
chủ đề lởn vởn trong đầu tôi vẫn là mấy chữ: chia tay, phản bội và mất
việc.

Một tuần trước, ngay trên phố, tôi đã tận mắt chứng kiến
người bạn gái thân nhất của mình lao vào lòng bạn trai mình; cùng lúc
đó, điện thoại di động của tôi đổ chuông, phòng nhân sự thông báo tôi
phải nhanh chóng quay lại công ty ngay lập tức; lại một tiếng sau đó,
trong túi tôi có thêm một khoản tiền thất nghiệp. Tất cả mọi thứ xảy ra
nhanh như điện giật, tôi vẫn chưa kịp hoàn hồn, cuộc đời đã rơi xuống
vực sâu.

Có người nói mọi cuộc chia tay đều có căn nguyên từ lâu, chẳng bao giờ có chuyện đột ngột xảy ra cả. Nhưng tôi thực sự không hề
chuẩn bị tâm lí đề phòng việc cuộc đời của mình sẽ xuất hiện cảnh tượng
kinh hoàng như vậy, ngay cả khi sự việc đã qua một tuần, tôi vẫn cố gắng lục lọi trí nhớ, kiểm điểm bản thân xem rốt cuộc cái “căn nguyên đổ vỡ” đó manh nha từ khi nào. Chỉ tiếc là nghĩ nát cả óc vẫn thấy hoàn toàn
trống rỗng, không có chút manh mối nào cả.

“… Ngải… Ngải Mễ Lạp?” Ngô Chung thấy tôi hồi lâu không nói gì, ánh mắt thì cứ mơ mơ màng màng, bèn lên tiếng gọi tôi.

“Biết rồi! Ngày mai xuất phát.” Tôi đáp một cách máy móc. Vì đã mấy đêm mất
ngủ nên giọng tôi nghe thật yếu ớt. Tôi mò tìm điện thoại dưới gầm bàn,
lúc chạm vào màn hình điện thoại, trong lòng tôi chợt dâng trào một nỗi
căm hận và bi thương, tôi muốn có một lời giải thích của đôi mèo mả gà
đồng đó, tôi muốn anh ta gọi điện thoại tới van xin, nói với tôi rằng đó chẳng qua chỉ là một sự hiểu lầm, là một ảo ảnh. Nhưng đã một tuần rồi, điện thoại của tôi chưa từng đổ chuông lấy một lần, tin nhắn thì chỉ có duy nhất ba chữ: “Anh xin lỗi.”

Tôi cứ tưởng tất cả những trò
bạn gái thân chen ngang cướp người yêu chỉ xuất hiện trong các bộ phim
vớ vẩn phát vào lúc tám giờ tối thôi.

Tôi cứ tưởng…

Màn
đêm từ từ buông xuống, bên ngoài căn phòng trọ đơn sơ, xe cộ vẫn đi lại
tấp nập, tiếng còi, tiếng phanh xe và tiếng người nói, tất cả như dòng
nước càng lúc càng mãnh liệt. Ngô Chung cuối cùng cũng đứng dậy ra về.

Tôi nghi ngờ, không, tôi tin chắc ông ta đã biết mọi chuyện, nếu không ông
ta sẽ không ra tay chuẩn xác đến vậy. Đúng vào lúc tôi sắp chết đuối,
đang hoang mang tìm kiếm cành cây cứu mạng thì ông ta lại gõ cửa nhà
tôi, mang tới cho tôi một công việc nghe có vẻ vô cùng kì dị. Nhưng tôi
không bận tâm đến chuyện đó.

Ngô Chung vừa về, tôi liền nấu bữa
tối. Trong tủ lạnh vẫn còn sủi cảo mà anh ta mua cho tôi. Tôi bật bếp,
đun nước, luộc sủi cảo, bỏ muối rồi thêm dầu mè, sau đó bắt đầu ăn từng
miếng một, ăn mãi mà vẫn không biết nó có mùi vị gì, rất lâu sau tôi
phát hiện mặt mình đầm đìa nước mắt. Phải rồi, ban nãy trước khi đi, Ngô Chung đã nói gì nhỉ? À, ông ta bảo phải mang theo áo bông, chỗ đó có độ cao trung bình so với mực nước biển là bốn nghìn mét.

Bốn nghìn mét, điều đó nghĩa gì nhỉ? Tôi hoang mang nghĩ ngợi, tôi sẽ không chết ở đó chứ?

Ba ngày sau, tôi đi qua Kashgar[1], Islamabad[2], rồi sau vài lần chuyển
hướng, tôi đã có mặt ở Karakoram – dãy núi cao thứ hai thế giới, có
chiều cao trung bình so với mực nước biển là sáu nghìn mét, trong đó có
mười chín đỉnh núi tuyết cao trên bảy nghìn mét và bốn đỉnh núi cao tám
nghìn mét.

Karakoram… “Karakoram” trong tiếng Thổ Nhĩ Kì có nghĩa là “đá vụn đen”, còn trong tiếng Duy Ngô Nhĩ có nghĩa là “dãy núi Koram màu tím sẫm”, nhưng dù là màu đen hay màu tím thì tóm lại, đây vẫn là
nơi quanh năm gió núi thét gào, núi đá chen chúc, dưỡng khí chỉ bằng một phần ba so với Thượng Hải, sa chân một bước là cát bụi trở về với cát
bụi.

Lúc này, Thượng Hải đang vào thu, lá ngô đồng rụng nhuộm
vàng các con phố. Tôi tưởng Pakistan cũng có thời tiết giống như Thượng
Hải, kết quả phát hiện mình đã quá ảo tưởng, bất ngờ bị lạc vào một
khoảng thời gian và không gian hoàn toàn khác, không chỉ nhiệt độ chênh
lệch mà địa hình cũng chỉ toàn núi là núi, thật chẳng khác gì lạc lên
sao Hỏa.

Bầu trời xanh mênh mang, gió núi thổi ào ào, tuyệt nhiên không có bất kì dấu hiệu nào của sự sống lọt vào tầm mắt, ngoài dãy núi Karakoram trập trùng. Tôi tưởng mình có thể nhân cơ hội giúp Ngô Chung
tìm lại bạn gái để chữa lành vết thương lòng, nhưng bây giờ mới biết
mình đã nhầm, nhầm to.

Kể từ lúc máy bay cất cánh từ sân bay Phố
Đông, tôi đã không thể nào chạm tới bến bờ của thế giới văn minh nữa,
vừa đặt chân xuống Islamabad, tôi đã gặp người dẫn đường đang chờ sẵn.
Cả chặng đường lắc lư chao đảo, vội vội vàng vàng không một phút ngơi
nghỉ, tất cả chỉ là để tìm thấy Alice trước mùa đông băng tuyết bao phủ.

Tối qua, chỗ ngả lưng của tôi là một phiến đá. Sau một đêm gió rét thét
gào, tôi mừng rỡ vì mình vẫn chưa bị thổi bay và có thể bình an mở mắt
đón chào tia nắng mặt trời đầu tiên của buổi sớm. Chỉ có điều, hai mí
mắt của tôi đã bị dính chặt bởi một lớp băng mỏng, phải cố mãi tôi mới
mở được mắt, tưởng chừng lông mi cũng bị lớp băng tuyết kia dứt ra luôn
rồi. Đầu óc tê cứng, khi mới mở mắt ra, tôi còn không hiểu tại sao mình
lại ở một nơi như thế này, mãi lâu sau mới định thần lại được. Chính
tiếng đá núi nứt vỡ vang vọng như tiếng súng săn đã đưa tôi trở về với
hiện thực, một tảng đá to tướng không biết từ đâu đột nhiên lao xuống,
khiến những đống tuyết bắn lên tung tóe như trúng đạn pháo. Tôi nghiêng
người tránh, những mảnh đá vụn rơi xuống, trong nháy mắt, mặt đất cứng
ngắc xuất hiện vô số vết lõm to nhỏ nham nhở.

[1] Một thành phố ốc đảo ở Tân Cư?ng,?Trung Qu?c.ơng, Trung Quốc.

[2] Thủ đô của Pakistan.

Nhìn những cái lỗ được hình thành trong nháy mắt, tôi tự nhủ, nếu có thể
sống sót trở về, nhất định phải bảo Ngô Chung trả thêm phí bảo hiểm rủi
ro cao. Ngọn núi này động một cái là cát bay đá lở, thật quá đáng sợ!
Nghĩ tới cảnh cát bay đá lở, tôi bỗng rùng mình, lần này thì tỉnh hẳn,
nhớ tới việc đêm qua không ngủ được cũng không hẳn vì phiến đá vừa lạnh
vừa gồ ghề này, mà vì tôi đã lạc đường, sau đó lại cứu được một người.

Thực ra người này cũng không hẳn là do tôi cứu, chỉ là anh ta tình cờ va phải tôi, cứ như từ trên trời rơi xuống vậy.

Người đàn ông đó nằm cách tôi khoảng một mét, vẫn chưa tỉnh. Ánh mặt trời
buổi sớm chiếu vào gương mặt thanh tú, khôi ngô, chỉ tầm hai mươi tuổi
của anh ta. Tôi giơ cánh tay cứng đờ ra, thận trọng chọc nhẹ vào người
anh ta. Đến giờ xuất phát rồi, còn định giả chết hả? Sức lực hành hạ tôi ngày hôm qua đi đâu cả rồi?

Đối phương vẫn không hề động đậy.
Tôi cầm cây gậy leo núi, từ từ tiến đến, sở dĩ phải phòng bị như thế này là vì nơi tôi đang ở là vùng núi Tây Bắc Pakistan, không an toàn một
chút nào. Chẳng phải đài BBC đã gọi một cách hoa mĩ nơi này là “khu vực
vũ trang phi chính phủ” đó sao?

“Chúng tôi không đánh nhau, kẻ
đánh nhau là Afghanistan”, trước khi xuất phát, Muri đã nói như vậy. Anh ta còn thêm: “Có điều cô biết đấy, giữa nước tôi và Afghanistan là vùng núi, bọn họ muốn tới, chúng tôi cũng chẳng biết phải làm thế nào cả,
đúng không?” Thấy mặt tôi trở nên trắng bệch, Muri vội vàng an ủi: “ Đó
chỉ là thổ phỉ, khu vực hoạt động của chúng thường cố định, chỉ cần chịu khó đi đường vòng, không đến gần khu vực đó là được.”

Tôi gật đầu lia lịa, nói: “Phải, an toàn là trên hết, đi vòng một chút cũng không sao.”

Nhưng thế này mà dám bảo là chỉ đi vòng một chút thôi sao? Từ lúc xuất phát
vào sáng sớm hôm qua, tôi đã phải đi bộ liền mười tiếng đồng hồ, tới
chiều, hai chân tôi đã mỏi nhừ, tưởng như không cất lên nổi nữa. Trước
khi xuất phát, Muri nói chỉ cần đi bộ hơn bốn mươi dặm là có thể tìm
được xe tới Chitral.

Bốn mươi dặm. Trước khi lên đường, tôi nghĩ
lái ô tô thì chỉ mất hơn nửa giờ đồng hồ là có thể tới nơi, đi bộ chắc
một ngày kiểu gì cũng tới được. Thế là tôi đeo chiếc ba lô nhỏ lên vai,
hăm hở xuất phát, đến bây giờ mới biết bốn mươi dặm ở vùng núi so với ở
thành phố là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Núi Karakoram có độ cao
trung bình so với mực nước biển là bốn nghìn mét, điều này có nghĩa là
giữa điểm xuất phát và đích đến còn có vô số ngọn núi cao vút tận trời
xanh.

Tôi không biết hôm qua mình đã đi được bao nhiêu dặm, chỉ
thấy Muri càng lúc càng có vẻ mất kiên nhẫn, và hậu quả của việc mất
kiên nhẫn chính là anh ta và Abbas, người phu khuân vác người Balti, đi
càng lúc càng nhanh. Lúc đầu, họ còn không ngừng ngoái đầu lại xem tôi
có theo kịp không, về sau khi mặt trời từ từ xuống núi, hai người họ
quyết định tăng tốc để tìm chỗ dựng lều và nấu bữa tối. Trước khi đi,
Muri dặn tôi: “Cứ men theo con đường này đi thẳng về phía trước”, sau đó không quên vẫy tay gọi và nói thêm một câu: “Cứ theo hướng đông nam mà
đi!”

Những người Giang Nam chúng tôi từ cổ chí kim đều chỉ biết
trên dưới trái phải, không biết đông nam tây bắc là gì cả, cho nên tôi
đã bị lạc đường.

Khi mặt trời khuất ở phía tây, chìm sau những
đỉnh núi tuyết nhấp nhô, khi bóng núi tràn qua thung lũng, hướng về phía rừng tháp băng khổng lồ, cuối cùng tôi đã biết mình không thể nào tìm
thấy Muri được nữa, ít nhất là cho tới sáng ngày hôm sau.

Một
tiếng đầu tiên sau khi lạc đường, tôi dành để mắng chửi Muri. Bây giờ là thời đại nào rồi, có biết trên thế giới này có thứ được gọi là điện
thoại không hả? Muri nhìn tôi, lạnh lùng đáp: “Không có tín hiệu.” Ngữ
khí đều đều của anh ta khiến tôi vô cùng kinh ngạc, nhưng vì anh ta
thông thuộc địa hình Pakistan, đồng thời là viện binh duy nhất mà Ngô
Chung cử đi giúp tôi, nên tôi đành phải ngoan ngoãn ngậm miệng lại.
Không nên đắc tội với viện binh giữa nơi đất khách quê người, hơn nữa
lại ở một quốc gia trọng nam khinh nữ. Người này là chỗ dựa duy nhất của tôi… thế mà, tôi lại lạc mất anh ta rồi.

Tôi là một kẻ
mù đường chính hiệu. Làm việc ở Thượng Hải lâu như vậy mà cũng chỉ biết
mỗi cầu vượt Diên An. Chưa kể, Karakoram đâu phải là một ngọn núi mà là
một khu vực rộng lớn gồm nhiều dãy núi nhấp nhô trải dài hơn một trăm
kilomet.

Những ngọn núi tuyết có thể dùng làm cột mốc trông như
những lưỡi dao bất khuất vươn tận trời xanh, sáng lấp loáng, đúng là
đứng ở chỗ nào cũng có thể nhìn thấy, nhưng chỉ là khi trời quang mây
tạnh thôi. Đỉnh núi tuyết ở nơi quá cao so với mực nước biển luôn biến
đổi trong nháy mắt, thời gian nhìn thấy chúng thực sự chỉ tính bằng giây nên căn bản không thể lấy làm cột mốc được.

Tôi dừng lại, chậm
rãi quay đầu nhìn người đàn ông trên mặt đất, anh ta vẫn không hề động
đậy. Người này rốt cuộc là ai? Bốn bề đều là màu xanh thẫm của những dãy núi, lạnh lẽo, thờ ơ, tôi không thể hiểu nổi rốt cuộc anh ta từ đâu rơi xuống, lắng tai nghe, chỉ có tiếng gió đang gào thét một cách hoang
dại, không hề có ai tới cứu anh ta.

Sau một hồi do dự, tôi quay
người, chầm chậm đến gần chỗ anh ta, dù sao đây cũng là người duy nhất
tôi có thể gặp giữa nơi hoang vu này, thổ phỉ chắc sẽ không đơn thương
độc mã xuất hiện giữa nơi hoang vắng này đâu nhỉ, tôi tự an ủi mình. Nếu anh ta không phải thổ phỉ thì chắc sẽ biết đường. Hơn nữa, bất luận là
bị ngã gãy chân hay trẹo chân, trong tình trạng này, dù anh ta là ai,
cũng không thể chạy nhanh bằng tôi được. Nghĩ vậy, tôi chậm rãi ngồi
xuống, giơ tay thận trọng gạt chỗ băng tuyết phủ trên mặt người đó ra.

Hơn nửa khuôn mặt của người đàn ông bị vùi trong tuyết, chỉ có thể nhìn
thấy một bên mặt anh ta. Đường nét rõ ràng, nước da trắng trẻo. Người
Pakistan đa phần thuộc chủng Ấn Âu trắng, ngũ quan sắc nét, lông mày
rậm, nhưng do ảnh hưởng lâu dài của môi trường tự nhiên, đa phần nước da của họ sẽ có màu ngăm ngăm. Người này rõ ràng không phải dân bản địa,
đương nhiên càng không phải người từ trên trời rơi xuống, cũng không có
vẻ gì là người châu Âu, châu Mỹ thích leo núi, sở dĩ tôi nghĩ vậy là vì
tất cả những người thích leo núi đều mang theo các vật dụng leo núi cần
thiết, trong khi người này thì không có.

Tôi lập tức lùi lại,
đồng thời nhặt một vật lấp lánh ánh bạc trên nền tuyết lên, xem ra đây
là đồ của anh ta. Sau khi nhìn kĩ, tôi lập tức ném nó đi như chạm phải
bỏng, “bịch” một tiếng, vật đó lún sâu vào nền tuyết. Dưới nền tuyết
trắng, có thể nhận ra đó là một khẩu súng ngắn. Sau này tôi mới biết đây là một khẩu Beretta, cũng chính là khẩu M9 nổi tiếng thế giới.

Tôi ngồi phịch xuống đất.

Người đàn ông đó vẫn không hề động đậy. Những bông tuyết bay trong màn đêm
một lần nữa lại phủ lên gương mặt của anh ta, trên mặt tôi cũng bắt đầu
đóng một lớp băng mỏng. Cũng không biết thời gian trôi qua bao lâu, đồng hồ đeo tay đã chết từ lâu, tôi chỉ có thể dựa vào cảm giác gió càng lúc càng lạnh thấu xương để đoán đêm đã khuya lắm rồi.

Trong vô
thức, tôi một lần nữa lại tiến đến chỗ người đàn ông, đồng thời nhấc đầu anh ta ra khỏi đống tuyết. Không ngờ khi tôi nhấc đầu anh ta lên, anh
ta bỗng mở mắt ra, trừng trừng nhìn tôi… Lấp lánh như những ánh sao.
Trong giây lát, như thể tất cả những vì sao của mùa đông ở Bắc bán cầu
đều rơi cả vào đôi mắt của anh ta.

Tôi vốn tưởng “mắt sáng như
sao” chỉ là lời nói dối bọn trẻ con, chưa từng nghĩ rằng có một ngày
mình lại được nhìn thấy ánh mắt như vậy, đột nhiên chỉ thấy tim đập
thình thịch, cảm giác rất kì lạ. Phản ứng đầu tiên của tôi là khiếp đảm
rụt tay lại, thế là đầu của anh ta rơi bịch xuống tuyết, và anh ta lại
một lần nữa ngất đi.

Tôi sửng sốt, một tay vẫn giữ tư thế đỡ
người anh ta, nhất thời cũng không biết làm thế nào. Lay anh ta dậy ư?
Ánh sáng lấp loáng phát ra từ khẩu súng kia không ngừng cảnh báo tôi
rằng có nguy hiểm, nhưng nếu anh ta chết thì tôi phải làm sao đây?

Tuyết đã ngừng rơi, những vì sao xuất hiện, rất yếu ớt và thưa thớt, nhưng ít nhất bầu trời đêm cũng không còn giống một tấm vải đen sì nữa. Sau đó,
người đàn ông kia đã tỉnh lại. Vào lúc anh ta lần nữa mở mắt ra, tim tôi lại đập thình thịch một cách khó hiểu.

Đó là lần đầu tiên tôi
gặp Lâm. Anh ta nhìn tôi chằm chằm khiến tôi cứ há hốc miệng ra vì sững
sờ, đột nhiên cảm thấy Karakoram này trở thành “Ngân hà dần tắt sáng
trời sao thưa. Trời xanh biển biếc đêm chưa thư nhàn”[1] mất rồi. Nhưng
sắc mặt của đối phương lại vô cùng khó coi. Anh ta nhíu mày, phóng ánh
mắt như tia lửa điện về phía tôi, khiến “Trời xanh biển biếc đêm chưa
thư nhàn” bỗng chốc tan biến hết.

“Cô là ai? Đây là chỗ nào?” Anh ta vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn quanh, lông mày nhíu tịt lại.

Tôi cứ tưởng trong những tình huống như thế này, lẽ ra phải tạ ơn ơn cứu
mạng trước chứ; tên tuổi, địa điểm đương nhiên cũng phải hỏi, nhưng chắc chắn không phải với giọng điệu như thế này. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy hơi yên tâm một chút vì anh ta nói tiếng Anh, nếu không nhầm thì đây là giọng London chuẩn, nhưng cũng chỉ có vậy mà thôi. Tôi thận trọng đáp:
“Trước khi tôi bị ngã xuống đây, có lẽ là ở sông băng Bartolo, nhưng
hiện giờ đang ở chỗ nào thì tôi không biết. Còn anh là ai? Sao lại ngã
xuống chỗ này?”

Khóe miệng của anh ta hơi nhếch lên đầy vẻ khinh bỉ. Vài giây sau, anh ta trả lời với giọng giễu cợt: “Tôi là Lâm, cô là ai?”

Thoáng rung động của lần đầu tiên gặp mặt đã biến mất không chút tăm tích,
trong lòng tôi hiện giờ chỉ có sự cảnh giác. Tôi trả lời ngắn gọn: “Tôi
là Ngải.” Thực ra tôi có một cái tên rất kêu, nhưng bầu không khí đang
không tốt, không nên nói ra thì hơn.

[1] Câu thơ thứ hai và thứ tư trong bài Thường Nga của nhà thơ Lý Thương Ẩn thời Đường.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN