Chuyện Dài Bất Tận
Chương 23: Cố đô
Và trong khi Bastian đã vượt qua được nhiều dặm đường trong đêm đen dày đặc thì các chiến hữu của nó mới lục tục khởi hành. Nhiều người đã bị thương, thảy đều kiệt sức, không ai khỏe và dẻo dai dù chỉ gần bằng Bastian. Ngay đám khổng lồ giáp trụ đen sì cưỡi ngựa sắt cũng di chuyển khó nhọc, còn đám chạy bộ thì hết bước đều nổi như mọi khi. Ý muốn của Xayíde – qua đó mụ điều khiển chúng – xem chừng đã hết tác dụng rồi. Chiếc kiệu san hô của mụ bị thiêu rụi trong đám cháy ở Tháp Ngà. Thành ra một chiếc kiệu khác được chắp vá từ đủ thứ linh tinh – nào sàn xe, nào vũ khí gãy, nào những món đã cháy thành than còn sót lại của tòa tháp – khiến nó giống như một chiếc chòi thảm hại. Đám quân còn lại lặc lè lết theo sau. Hýkrion, Hýsbald và Hýdorn – đã mất ngựa – cũng phải tựa nhau mà đi. Không ai lên tiếng, song đều biết không thể nào bắt kịp Bastian được.
Còn Bastian vẫn phi như sấm chớp trong bóng đêm. Chiếc áo khoác đen bay phần phật quanh vai nó. Bộ vó kim loại của con ngựa khổng lồ kêu ken két theo từng bước chân, trong khi những cái móng to kềnh nện ầm ầm trên mặt đất.
– Nhanh lên! Bastian thúc. Nhanh! Nhanh! Nhanh!
Nó thấy vẫn chưa đủ nhanh.
Nó muốn bằng giá nào cũng phải đuổi kịp Atréju và Fuchur, dù con quái vật bằng kim loại này có vì thế mà tan thành mảnh vụn!
Bastian muốn báo thù! Lẽ ra giờ này nó đã tới đích của mọi ước mơ, nhưng Atréju phá đám khiến nó không thành được Thiếu-hoàng-đế vương quốc Tưởng Tượng. Atréju sẽ phải đền tội đau đớn!
Bastian càng thúc con ngựa sắt tợn hơn nữa. Những khớp nối ở bốn vó càng kêu ken két hơn, nhưng con ngựa vẫn phi ào ào theo ý người cưỡi.
Cuộc săn đuổi kéo dài đã nhiều tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa thấy một tia sáng nào le lói trong bóng đêm. Bastian vẫn như đang thấy ngay trước mắt cảnh Tháp Ngà rực cháy và mỗi giây phút đều như sống lại trong từng khoảnh khắc Atréju gí kiếm vào ngực nó – cho tới lúc lần đầu tiên một câu hỏi hiện ra trong đầu Bastian: tại sao Atréju đã chần chừ? Tại sao sau bấy nhiêu chuyện mà gã còn không đủ lạnh lùng để đâm nó, không dùng vũ lực đoạt lấy AURYN của nó? Và rồi Bastian không thể không nhớ tới vết thương nó đã gây ra cho Atréju, đến ánh mắt gã nhìn nó lần cuối khi loạng choạng lùi lại rồi ngã nhào xuống dưới.
Bastian tra thanh Sikánda nó vẫn vung vẩy trong bao kiếm gỉ sét.
Trời bắt đầu hửng sáng, Bastian dần dần nhận ra nó đang ở đâu: con ngựa sắt của nó đang phóng ào ào trên một cánh đồng hoang. Những cái bóng thẫm của đám cây đỗ tùng trông không khác các thầy tu khổng lồ bất động đội mũ liền[1] đang tụ họp hay như những phù thủy đội mũ nhọn, lẫn với những tảng đá lớn nằm lăn lóc.
[1] Loại mũ may liền với cổ áo.
Thế rồi con ngựa sắt đang xoải chân phi nước đại đột nhiên rã ra thành nhiều mảnh.
Bị giáng mạnh xuống đất, Bastian nằm như mê man. Đến khi nó lồm cồm bò dậy được, xoa nắn tay chân thâm tím thì mới thấy nó đang ở trong một bụi đỗ tùng thấp, liền chui ra. Bên ngoài, những mảnh vụn giống những cái vỏ của con ngựa văng tung tóe khắp nơi như thể tượng đài của một kỵ sĩ vừa bị nổ tung.
Bastian đứng lên, hất chiếc áo khoác đen lên vai rồi cứ nhắm chân trời đang hửng sáng đi bừa.
Trong bụi đỗ tùng kia còn một vật lóng lánh: sợi dây lưng Gémmal. Bastian không biết nó vừa đánh mất. Sau này nó cũng không nhớ lại. Ông thần Illuán thật đã phí công cứu sợi dây lưng khỏi làm mồi cho ngọn lửa.
Ít ngày sau một con chim ác là tình cờ phát hiện ra Gémmal, mà không biết sợi dây lưng này có phép lạ gì. Nó tha[2] về tổ. Nhưng đó lại là một chuyện khác, sẽ kể vào một dịp khác.
[2] Nghe nói loài chim ác là rất thích những vật óng ánh.
Gần trưa Bastian gặp một bức tường đất cao chắn ngang cánh đồng hoang. Nó bèn trèo qua. Bên này bức tường là một thung lũng lòng chảo, càng vào giữa càng sâu, giống như miệng núi lửa phẳng lỳ. Một thành phố chiếm trọn lòng chảo này; ấy là dựa trên số nhà cửa mà gọi thế chứ thật ra đây là một thành phố lạ lùng nhất Bastian từng thấy. Nhà cửa gì mà hỗn độn, như ai đó đã dốc bừa ra một cái túi khổng lồ. Không có lấy một con đường, một quảng trường hay một trật tự nào.
Ngôi nhà nào cũng đều rất quái dị: hoặc cửa vào nằm trên mái, hoặc cầu thang khuất khúc nơi không ai tới nổi, lại có những ngôi nhà người ta chỉ có thể chổng ngược đầu mới chui vào được hay những ngôi nhà không có mái có tháp nằm quay ngang, ban công treo dựng đứng trên tường, chỉ toàn cửa sổ mà không có cửa ra vào, nền nhà thay vì tường. Có những cây cầu hình vòng cung nhưng lại dở dang đâu đó, như thể người xây nửa chừng bỗng quên mất phải như thế nào mới là hoàn chỉnh. Có những ngọn tháp cong vòng như quả chuối hay những kim tự tháp lộn ngược đầu. Nói gọn, cả thành phố này gây một ấn tượng điên khùng.
Rồi Bastian thấy cư dân ở đây. Đàn ông, đàn bà và trẻ con. Vóc dáng họ như người bình thường thôi, nhưng trông áo quần lại thấy như họ gàn dở hết cả, không phân biệt được giữa áo quần để mặc và những vật dụng khác. Họ đội trên đầu nào chụp đèn, nào thùng cát, nào tô đựng canh, nào sọt giấy, nào túi hay hộp. Còn qunah thân mình họ đeo khăn bàn, thảm, những tấm giấy lớn bằng bạc, thậm chí cả thùng phuy.
Nhiều người kéo hoặc đẩy xe cút kít hay xe thồ chất đầy những thứ lẩm cẩm như đèn vỡ, nệm, chén đĩa, quần áo cũ và những món rẻ tiền. Lại có những người khác địu những món tương tự trong những kiện to tướng trên lưng.
Càng vào sâu trong thành phố, Bastian càng thấy người ta đi lại chen chúc hơn. Nhưng có vẻ như không ai biết rõ phải đi đâu. Chẳng hạn Bastian quan sát một gã khó nhọc kéo chiếc xe cút kít đi hướng này, lát sau đã thấy gã kéo về hướng ngược lại, để rồi chỉ một lúc sau lại kéo sang hướng khác. Nhưng ai nấy đều rất hối hả.
Bastian quyết định hỏi thăm một người trong số đó.
– Thành phố này tên gì?
Người nọ buông xe cút kít, đứng thẳng lên, xoa trán một lúc như nghĩ ngợi lung lắm, rồi đi thẳng, bỏ xe lại, như đã quên béng. Chỉ vài phút sau có một bà đến túm càng xe, kéo đi đâu đó một cách khó nhọc. Bastian hỏi mụ ba cái món rẻ tiền đó có phải của mụ không thì mụ đứng ngẫm nghĩ miên man rồi lại đi tiếp.
Bastian thử thêm vài lần nữa, nhưng hỏi câu nào cũng đều không được trả lời.
– Đừng hỏi họ vô ích, bất chợt nó nghe được tiếng cười khúc khích, họ không trả lời gì cậu được đâu. Có thể gọi họ là “những kẻ không nói gì” được đấy.
Bastian quay nhìn về phía tiếng nói: một con khỉ nhỏ lông xám đang ngồi trên bờ tường nhô ra (vốn là phần dưới – nay lộn ngược thành phần trên – một cái “chái”). Con vật đội chiếc mão tiến sĩ[3] có chòm tua đung đưa, hình như nó đang lo lắng đếm gì đó ở các ngón chân. Rồi nó nhăn mặt cười với Bastian và nói:
[3] Đây là nói chuyện “xưa”, vì có lẽ từ giữa thế kỳ XX đến nay các “tân” tiến sĩ ở Đức (và hầu hết các nước chây u) không còn “áo mão” gì nữa.
– Xin lỗi, tôi đang vội tính toán.
– Ngươi là ai? Bastian hỏi.
– Rất hân hạnh, tôi là Argax! Con khỉ ngả mão tiến sĩ đáp. Tôi được diễm phúc tiếp chuyện với ai thế?
– Ta là Bastian Balthasar Bux.
– Đích thị! Con khỉ tỏ vẻ hài lòng.
– Thành phố này tên là gi? Bastian hỏi.
– Đúng là nó không có tên, Argax giải thích, nhưng có thể tạm gọi là Cố đô.
– Cố đô à? Bastian băn khoăn hỏi. Sao lạ thế? Ta có thấy ai ra dáng một cựu hoàng đâu.
– Cậu không thấy à? – Con khỉ cười khúc khích. Ấy thế mà mọi người cậu thấy đều đã từng là hoàng đế vương quốc Tưởng Tượng đấy. Hay ít ra họ đều muốn thành hoàng đế cả.
Bastian giật nẩy người.
– Sao ngươi biết?
Con khỉ lại cười, ngả chiếc mão tiến sĩ.
– Tôi là giám thị thành phố này mà, cứ tạm gọi thế đi.
Bastian nhìn quanh. Cạnh đó một ông già vừa đào xong một cái hố. Bây giờ ông ta đặt vào đó một ngọn nến rồi lấp hố lại.
Con khỉ cười khúc khích.
– Cậu ưng đi thăm thú một vòng thành phố chứ? Tạm gọi là để lần đầu làm quen với nơi cậu sắp cư trú.
– Không, Bastian đáp, ngươi nói nhăng nói cuội gì thế?
Con khỉ nhảy lên vai Bastian.
– Đi đi mà! Nó thì thầm. Miễn phí mà. Tiền vào cửa cậu đã trả hết rồi mà.
Bastian cất bước đi, dù thật ra nó muốn bỏ chạy. Mỗi bước đi là mỗi bước không thoải mái. Nó quan sát mọi người, thấy họ chẳng hề trò chuyện với nhau. Họ hoàn toàn chẳng quan tâm tới nhau, thậm chí hình như họ còn không nhận ra rằng có người khác.
– Họ làm sao thế? Bastian hỏi. Sao lại có thái độ lạ lùng thế?
– Đâu có gì lạ lùng, Argax khúc khích bên tai Bastian, có thể nói là họ cùng loại với cậu đấy, hay nói cho đúng thì họ từng là đồng loại của cậu.
-Ngươi nói sao? Bastian đứng khựng lại. Ngươi muốn nói rằng họ là người ư?
Argax thích thú nhảy nhót trên lưng Bastian.
– Đúng thế! Đúng thế!
Giữa đường Bastian thấy một người đàn bà dùng kim khâu xiên từng hạt đậu trên đĩa.
– Họ tới thành phố bằng cách nào? Tới làm gì? Bastian hỏi
– Ôi, thời nào cũng có người không tìm ra đường về thế giới của họ, Argax giải thích. Mới đầu thì họ không muốn về, còn bây giờ – cứ tạm gọi là – họ không về được nữa.
Bastian nhìn theo một bé gái đang ráng sức đẩy một chiếc xe chở búp bê, bánh xe hình vuông.
– Sao lại không thể? Nó hỏi.
– Họ phải muốn về cái đã. Đằng này họ chẳng muốn gì nữa cả. Họ đã vung vít điều ước cuối cùng vào một chuyện gì khác mất rồi.
– Điều ước cuối cùng ư? Bastian mấp máy đôi môi không còn hạt máu. Chẳng lẽ không thể ước hoài như người ta muốn sao?
Argax lại cười khúc khích. Nó gỡ tấm khăn đóng trên đầu Bastian để bắt chấy.
– Đừng! Bastian kêu lên, cố đẩy con khỉ nhưng Argax bám cứng lấy nó, cười khè khè thích thú.
– Đâu có được! Đâu có được! Nó luôn miệng chí chóe. Anh chỉ có thể ước mơ khi nào vẫn còn nhớ tới thế giới của anh. Mà bọn người này đã phung phí hết ký ức của họ rồi. Thành ra họ không già đi. Cậu cứ nhìn họ mà xem! Cậu có thể tin nổi rằng một số kẻ trong bọn họ đã ở đây cả nghìn năm, thậm chí lâu hơn nữa không? Vậy mà trông họ vẫn sẽ mãi như thế này đấy.Với họ thì chẳng còn gì thay đổi nữa cả, vì chính họ không thay đổi được nữa.
Bastian nhìn một người đang bôi kem cạo râu lên tấm gương rồi bắt đầu cạo râu cho tấm gương đó. Thoạt tiên nó thấy khôi hài nhưng rồi lưng nó nổi gai ốc.
Bastian hối hả đi tiếp; lúc ấy nó mới biết là đang đi sâu hơn vào trong thành phố. Nó muốn quay ra, nhưng có gì đó như nam châm níu nó lại. Nó bỏ chạy và cố hất con khỉ xám phiền nhiễu này, nhưng Argax bám chặt như dây leo, còn lớn tiếng cổ vũ nó nữa chứ:
– Nhanh lên! Nhanh! Nhanh! Nhanh!
Bastian thấy làm thế không ăn thua, bèn tạm ngừng lại.
– Và mọi người ở đây, nó hồi hộp hỏi, đều từng là hoặc muốn làm hoàng đế vương quốc Tưởng Tượng à?
– Dĩ nhiên, Argax đáp, người nào không tìm ra đường về với thế giới của họ, sớm hay muộn đều muốn thành hoàng đế cả. Không phải ai cũng thành hoàng đế, nhưng ai cũng muốn. Thành ra ở đây có hai loại ngớ ngẩn. Nhưng kết quả thì có thể nói là như nhau.
– Hai loại như thế nào? Argax, giải thích hộ đi! Ta cần biết!
– Đừng nôn nóng! Đừng nôn nóng! Con khỉ cười khúc khích và bám chặt cổ Bastian hơn. Một loại mất ký ức dần dần. Đến khi mất hết thì ngay cả AURYN cũng không đáp ứng được ước mơ cho họ nữa. Sau đó, họ tự động – cứ tạm gọi thế – tìm đến đây. Loại kia tự lên ngôi hoàng đế thế là họ mất hết ký ức liền tức thì. Chính vì thế mà AURYN cũng không đáp ứng được ước mơ cho họ, vì họ đâu còn ước mơ nào nữa. Như cậu thấy, kết quả như nhau. Loại thứ hai cũng tới đây và không đi khỏi được.
– Nghĩa là họ từng đeo AURYN à?
– Dĩ nhiên! Argax đáp. Nhưng họ quên chuyện đó từ lâu rồi. AURYN cũng không thể nào giúp gì cho lũ người ngớ ngẩn khốn khổ này được nữa.
– Có phải họ… Bastian ngập ngừng, có phải họ bị người ta lấy mất AURYN không?
– Không, Argax nói, khi một kẻ tự động lên ngôi hoàng đế thì chính ước mơ này của y đã làm AURYN biến mất. Thật rõ như ban ngày, có thể nói thế được, vì người ta không thể dùng quyền lực của Nữ-thiếu-hoàng để cướp của bà chính cái quyền lực ấy.
Bastian thấy mệt mỏi quá, muốn tìm một chỗ ngồi, nhưng con khỉ xám không cho.
– Không được, không được, chưa thưởng ngoạn hết thành phố mà, nó kêu, sẽ tới cái quan trọng nhất. Đi tiếp! Đi tiếp!
Bastian thấy một thằng nhỏ dùng búa tạ nện vào những chiếc vớ trải trên nền đất trước mặt. Một người đàn ông béo mập tìm cách dán tem lên bong bóng xà phòng. Dĩ nhiên bóng xà phòng bị vỡ, nhưng y không chịu thôi, cứ tiếp tục thổi bong bóng.
– Xem kìa! Bastian nghe tiếng con khỉ khúc khích cười và cảm thấy bàn tay nhỏ bé của con vật xoay đầu nó về một hướng. Nhìn kia kìa! Ngộ không?
Một đám đông đàn ông, đàn bà, người già, ngưởi trẻ ăn mặc vô cùng kỳ dị đứng đó, nhưng không ai nói với ai. Người nào cũng chỉ chăm chăm lo chuyện người nấy. Trên nền đất có vô số quân xúc xắc lớn, cả sáu mặt đều có chữ cái. Họ không ngừng đảo lộn những quân xúc xắc này rồi đứng ngó đăm đăm thật lâu.
– Họ làm gì vậy? Bastian thì thầm. Trò chơi gì thế? Tên gì?
– Tên là “trò chơi bất kỳ”, Argax đáp. Nó vẫy gọi những người đứng chơi kia. Các bạn giỏi lắm! Chơi tiếp đi! Đừng bỏ cuộc!
Rồi nó quay lại thì thầm vào tai Bastian:
– Họ không thể kể chuyện gì nữa. Họ mất tiếng nói rồi. Nên tôi mới nghĩ ra trò chơi này cho họ. Họ mải miết chơi, như cậu thấy đấy. Dễ chơi lắm. Suy nghĩ một tí thì cậu sẽ phải công nhận rằng mọi câu chuyện trên thế giới về cơ bản chỉ gồm hai mươi sáu chữ cái[4].Vẫn bấy nhiêu chữ cái thôi, chỉ có sự lắp ráp lại là thay đổi. Nhiều chữ cái lập thành một từ, nhiều từ lập thành một câu, nhiều câu lập thành một chương, nhiều chương thành truyện. Xem kìa, những chữ gì thế kia?
[4] Tiếng Đức có 26 chữ cái.
Bastian đọc:
H G I K O P F âm W E Y V X Q
Y Y C V B N âm A S D F G H J K L Ö Ä
Q W E R T Z U I O P Ü
A S D F G H J K L Ö Ä
M N B V C X Y L K J G F D S A
Ŝ P O I U Z T R E W Q A S
Q W E R T Z U I O P Ü A S D F
Y X C V B N âm L K J
Q W E R T Z U I O P Ü
A S D F G H J K L Ö Ä Y X C
Ü P O I U Z T R E W Q
Ö Ä L K J H G F D S A âm N B V
G K H D S R I P
Q E T U O Ü S F H K Ö
Y C B âm W R Z I P
Q W E R T Z U I O P Ü A S D
M N B V C X Y A S D
L K J U O G R E F G H L
– Đấy, Argax cười khúc khích, phần lớn đều thế cả. Nhưng nếu chơi lâu, chơi cả năm, thì đôi khi ngẫu nhiên cũng thành được từ này, từ nọ. “Rau chuột rút” chẳng hạn, hay “dồi bàn chải” hay “véc-ni cổ áo”. Nếu cứ chơi miết hàng trăm năm, hàng nghìn năm thì có khả năng ngẫu nhiên thành một bài thơ. Còn nếu cứ tiếp tục chơi mãi thì nhất định sẽ thành mọi bài thơ, mọi câu chuyện có thể có được, kể cả những câu chuyện chứa đựng mọi câu chuyện khác, thậm chí cả câu chuyện có hai chúng ta đang trò chuyện đây. Rất hợp lý, phải không?
– Khủng khiếp quá, Bastian nói.
– Ấy, Argax nói, cái đó còn tùy quan điểm từng người. Đám người kia – có thể nói – chơi rất cần mẫn. Vả lại, chúng tôi trong vương quốc Tưởng Tượng còn biết làm gì khác với họ nữa đây?
Bastian lặng lẽ nhìn những người đang chơi kia, rồi khẽ hỏi:
– Argax… bạn biết tôi là ai, đúng không nào?
– Sao lại không biết? Cả vương quốc Tưởng Tượng này còn có ai không biết tên cậu chứ?
– Argax ơi, hãy cho tôi biết một điều: nếu hôm qua tôi thành hoàng đế thì tôi cũng phải tới đây rồi sao?
– Không hôm nay thì mai thôi, con khỉ đáp, hoặc trong vòng một tuần lễ. Trước sau gì cậu cũng sẽ sớm có mặt ở đây thôi.
– Nghĩa là Atréju đã cứu tôi.
– Cái đó thì tôi không rõ, con khỉ thú thật.
– Nếu gã lấy được AURYN của tôi thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Con khỉ lại khúc khích cười.
– Có thể nói rằng… cậu cũng sẽ tới đây thôi.
– Sao thế?
– Vì cậu cần phải có AURYN để tìm đường về thế giới của cậu. Nhưng nói thật tình, tôi không tin cậu sẽ tìm được đường về.
Con khĩ vỗ tay, nhấc chiếc mão tiến sĩ, nhe răng cười.
– Argax, làm ơn cho tôi biết tôi phải làm gì bây giờ?
– Tìm cho ra một điều ước đưa cậu về với thế giới của cậu.
Bastian lại lặng thing hồi lâu rồi mới hỏi:
– Argax, bạn có thể cho biết tôi còn được cả thảy bao nhiêu điều ước?
– Không nhiều đâu. Theo tôi thì tối đa là ba hay bốn thôi. Mà như thế thì cậu khó lòng thoát được. Bây giờ cậu mới nghĩ tới thì khá trễ rồi, mà đường về thật không dễ tìm. Cậu phải vượt qua biển sương mù. Thế là mất một điều ước rồi. Còn gì sau đó thì tôi không rõ. Không ai trong vương quốc Tưởng Tượng biết đường tới thế giới của cậu cho những người như cậu. May ra thì cậu tìm được Minroud của Yor, niềm hy vọng cuối cùng cho những người như câu; tuy tôi e rằng – cứ tạm cho là như thế – quá xa đối với câu. Thế là lần này cậu còn phải thoát khỏi Cố đô đấy nhé.
– Cảm ơn, Argax! Bastian nói.
Con khỉ xám nhe răng cười.
– Tạm biệt Bastian Balthasar Bux!
Rồi thoắt một cái nó biến vào trong một trong những ngôi nhà kỳ cục kia, mang theo khăn xếp của Bastian.
Bastian còn đứng bất động một lúc lâu. Những điều vừa được nghe đã khiến nó hoang mang đến rụng rời, không biết phải làm gì. Mọi ý đồ nó ấp ủ đến này bỗng chốc tan tành. Nó cảm thấy như mọi sự trong thâm tâm đảo lộn hết cả, giống như những kim tự tháp chổng ngược đầu kia. Điều nó hy vọng biến thành tai họa cho nó, còn điều nó căm ghét lại là sự cứu vớt.
Trước mắt nó chỉ còn thấy một điều: phải thoát khỏi cái thành phố điên rồ này! Và không bao giờ quay lại nữa!
Bastian len lỏi qua những tòa nhà chằng chịt vô nghĩa lý này. Nó nhận thấy ngay rằng vào dễ hơn ra nhiều. Nó luôn thấy đã đi trật hướng, thành ra cứ đâm bổ vào trung tâm thành phố. Mất cả buổi trưa nó mới ra được bức tường đất. Rồi nó chạy ra ngoài cánh đồng hoang, chạy miết đến tối mịt, tối đen như đêm trước, thì phải ngừng. Nó kiệt sức buông người dưới một bụi đỗ tùng, ngủ như chết. Trong giấc ngủ, ký ức của nó về tài tưởng tượng ra chuyện của nó trước đây biến mất.
Suốt đêm nó chỉ thấy trong mơ một hình ảnh không biến đi, cũng không thay đổi: Atréju, với vết thương trên ngực ứa máu, đứng bất động nhìn nó không nói một lời.
Tiếng sấm động khiến Bastian giật mình nhỏm dậy. Quanh nó là bóng đêm, nhưng hết thảy những đám mây tích tụ từ bao ngày nay như lồng lộn điên cuồng. Chớp giật liên hồi, sấm nổ ầm ầm khiến mặt đất rung chuyển, bão tố gầm thét trên cánh đồng hoang khiến đám cây đỗ tùng rạp xuống tận mặt đất. Mưa đổ ào ào như những tấm màn xám phất phơ bay.
Sét đánh vào một cây đỗ tùng ngay trước mặt nó, xẻ nát một thân cây xù xì, những cành con bốc cháy tức khắc. Gió thổi những đốm lửa tung tóe trên cánh đồng hoang, nhưng gặp mưa nên tắt ngúm ngay.
Bastian khuỵu xuống trước sấm sét ầm ầm. Nó đào đất bằng cả hai tay. Khi cái hố đã đủ sâu, nó tháo thanh Sikánda đang đeo bên hông, đặt xuống đó.
– “Vĩnh biệt Sikánda!” Nó khẽ nói trong tiếng dông bão gầm thét, “mong rằng sẽ không bao giờ còn có ai rút ngươi ra để gây tai họa cho bạn của mình, và sẽ không ai tìm được ngươi ở đây, trước khi chuyện ta và ngươi gây ra chưa đi vào quên lãng.”
Rồi Bastian lấp đất lên, phủ thêm rêu và cành cây con để không ai phát hiện ra.
Cho đến nay thanh Sikánda vẫn còn nằm nguyên đó. Còn lâu lắm mới có một một người đến đây, được đụng vào nó không gặp hiểm nguy. Nhưng đó là chuyện khác, sẽ kể vào một dịp khác.
Rồi Bastian bỏ đi trong đêm tối bão bùng.
Mãi gần sáng mới ngớt dông bão, gió cũng dịu đi, mưa chỉ còn nhỏ giọt từ những thân cây. Không gian yên ắng.
Tối hôm đó bắt đầu một cuộc hành trình dài và đơn độc của Bastian. Nó không muốn quay về với những người bạn đồng hành và chiến hữu nữa; nó cũng không muốn quay về với Xayíde. Giờ đây nó muốn tìm đường về với thế giới loài người, nhưng không biết tìm thế nào và ở đâu. Biết có ở nơi nào đó một cái cổng, một cái rãnh hay một đường biên giới đưa nó qua thế giới kia hay không?
Nó phải ước được như thế, nó biết mà. Nhưng Bastian không có quyền lực gì trên điều đó. Nó cảm thấy như một người thợ lặn mò tìm dưới đáy biển sâu một chiếc tàu bị đắm, chưa tìm được gì mà cứ mãi bị nổi lên.
Bastian cũng biết nó chỉ còn có vài điều ước nữa thôi, nên để ý từng li từng tí không dùng bừa đến AURYN. Nó chỉ được hy sinh chút ký ức còn sót nếu nhờ thế mà về gần được với thế giới của nó, và cũng chỉ khi nào thật cần thiết thôi.
Nhưng người ta đâu thể nào tùy tiện lôi ra hay đè nén ước muốn được. Chúng là những ý định trỗi lên từ thâm tâm của ta, dù tốt hay xấu. Và chúng xuất hiện mà ta không ngờ tới.
Một điều ước mới chớm nảy sinh rồi dần dần hình thành rõ rệt mà Bastian không hay biết.
Nỗi cô đơn của bao ngày đêm ròng rã một mình lê bước đã khiến nó ước gì được thuộc vào một đoàn thể, được thu vào một nhóm, không phải với tư cách chủ nhân hay người chiến thắng hay một kẻ đặc biệt nào đó, mà chỉ là một trong nhiều người, thậm chí là một kẻ nhỏ mọn hay tầm thường nhất cũng được, miễn là thuộc vào đoàn thể đó.
Thế rồi một ngày nọ Bastian đi tới một bãi biển kia. Thoạt tiên nó nghĩ như thế. Đó là một bãi biển toàn đá tảng dốc đứng. Trước mắt nó, biển trải rộng ra từ những con sóng trắng xóa đông cứng. Mãi sau nó mới nhận ra rằng những con sóng kia không thật bất động, chúng xê dịch rất chậm chạp, tạo ra thủy triều và những con nước xoáy, nhưng khó nhận thấy như sự chuyển động của chiếc kim giờ.
Đó chính là biển sương mù!
Bastian đi dọc theo bờ biển dốc đứng. Trời ấm, ẩm ướt và không có một chút gió. Lúc ấy vẫn còn là sáng sớm, nắng chiếu trên lớp sương mù trắng như tuyết tới tận chân trời.
Bastian đi tới đi lui suốt mấy giờ đồng hồ như thế; tới gần trưa nó gặp một thị trấn nhà sàn trên biển sương, cách đất liền khá xa. Một chiếc cầu treo dài bềnh bồng nối thành phố này với một mũi của bờ đá. Nó chao qua đảo lại khi Bastian bước trên đó.
Nhà cửa tương đối nhỏ. Cửa ra vào, cửa sổ, cầu thang như được làm cho trẻ con. Mà quả thật, những người qua lại trên đường phố chỉ lớn như trẻ con, tuy họ toàn là những người đàn ông lớn tuổi râu ria rậm rạp hoặc đàn bà tóc búi cao. Đặc biệt là họ rất giống nhau khiến không phân biệt nổi. Mặt họ màu nâu thẫm như đất ướt, trông hiền lành và trầm lặng. Thấy Bastian họ chỉ gật đầu chứ không chào hỏi. Họ có vẻ rất ít nói, họa hoằn lắm mới nghe được một tiếng gọi trên đường phố hay ngõ hẻm, dù sinh hoạt ở đây rất nhộn nhịp. Cũng không hề thấy ai đi một mình, bao giờ họ cũng đi từng nhóm lớn hay nhỏ, khoác hoặc nắm tay nhau.
Nhìn kỹ Bastian mới thấy nhà cửa của họ đều được đan lát cùng một kiểu, nhà này thô hơn, nhà nọ khéo hơn, thậm chí mặt đường cũng đan lát luôn. Sau hết nó thấy ngay đến cả y phục của họ: quần, váy, áo khoác, mũ cũng đều đan lát như thế cả, dĩ nhiên rất khéo và đầy thẩm mỹ. Xem ra ở đây người ta làm gì cũng đều với một chất liệu giống nhau.
Đây đó Bastian có dịp liếc nhìn vào những nơi làm việc khác nhau của các thợ thủ công; ai nấy mải miết với những món hàng đan lát: giày dép, cốc vại, đèn, ly tách, dù đi mưa… thảy thảy đều bện. Mà không ai làm việc riêng một mình, vì tất cả những món này chỉ có thể do hợp tác mới thành được. Thật thú vị được thấy họ khéo léo tiếp tay nhau đến mức nào, việc người này luôn bổ sung cho việc của người kia. Thường thì họ vừa làm vừa ngân nga những giai điệu đơn giản không lời.
Thành phố không lớn lắm nên Bastian nhanh chóng ra tới vành đai. Cảnh tượng nó nhìn thấy tỏ rõ đây là một thành phố của những người đi biển, vì có đến hàng trăm tàu thuyền đủ loại, đủ cỡ. Nhưng quả là một thành phố hơi khác thường của những người đi biển, vì mọi tàu bè, chiếc này cạnh chiếc kia, đều móc vào những chiếc cần câu khổng lồ, lơ lửng đung đưa trên mặt biển sâu mà khối sương mù trắng dày đặc đang kéo qua. Ngoài ra các tàu bè này hình như cũng đều được đan lát cả, không buồm, không cột buồm, không mái chèo và bánh lại.
Bastian cúi người qua những thanh chắn nhìn biển sương mù. Qua bóng những chiếc cọc đỡ thành phố này được nắng chiếu trên màn sương trắng Bastian có thể đoán được những cọc ấy cao mức nào.
– Đêm đêm, nó nghe tiếng người nói bên cạnh, sương mù dâng cao ngang thành phố. Bấy giờ chúng tôi có thể ra khơi được. Còn ban ngày mặt trời xé toang màn sương khiến mặt biển thấp xuống. Đó là điều một khách lạ như anh muốn biết, chứ gì?
Ba người đàn ông đứng tựa vào những thanh chắn cạnh Bastian hiền lành và thân mật nhìn nó. Nó bắt chuyện với họ và được biết thành phố này tên là Yskál hay còn gọi là “thành phố Đan lát”. Cư dân ở đây gọi là người Yskálari, đại khái có nghĩa là “những người trong cộng đồng”. Ba người này làm nghề đi biển sương mù. Bastian muốn giấu tên để khỏi bị nhận ra, nên bịa rằng nó tên là Một. Ba thủy thủ kia bảo rằng họ không có tên riêng, không cần thiết. Họ đều là người Yskálari, theo họ thì thế là đủ.
Lúc ấy đúng giờ ăn cơm trưa nên họ mời Bastian đi với họ. Bastian cám ơn và nhận lời. Trong lúc cùng nhau ngồi dùng bữa tại một quán ăn gần đó, Bastian được biết mọi điều về Yskál và cư dân của thành phố này.
Biển sương mù kia, mà họ gọi là Skaidan, là một đại dương sương mù bao la ngăn đôi vương quốc Tưởng Tượng. Biển Skaidan sâu cỡ nào, cũng như khối sương mù mênh mông kia từ đâu mà ra thì chưa có ai tìm hiểu. Tất nhiên người ta vẫn hoàn toàn thở được dưới mặt biển; từ bờ, nơi sương mù tương đối mỏng, người ta vẫn có thể đi được một đoạn ngắn trên đáy biển, nhưng phải buộc dây để được kéo vào, vì sương mù này có đặc tính là trong một khoảng thời gian rất ngắn nó khiến người ta mất hết khả năng xác định phương hướng. Nhiều kẻ, hoặc ngông cuồng hoặc khinh suất, đã bỏ mạng chỉ vì một mình đi bộ qua Skaidan. Chỉ có một số ít được cứu thoát. Cách của người Yskálari là phương cách duy nhất qua được bờ bên kia của biển sương mù.
Ấy là bởi vì mọi thứ đan lát của họ – từ đó làm nên nhà cửa, mọi vật dụng, áo quần, cho đến thuyền bè – đều làm từ một loại cói mọc gần bờ, dưới mặt biển sương mù. Qua những gì vừa nói thì dễ thấy rằng việc cắt thứ cói này là chuyện mạo hiểm tới tính mạng. Thứ cói này tuy rất dẻo, thậm chí mềm nhũn trong không khí bình thường, nhưng trong sương mù lại mọc thẳng băng, vì nó nhẹ hơn sương mù nên nổi trên đó. Chính vì thế mà thuyền bè làm bằng cói cũng nổi trên làn sương. Áo quần của người Yskálari do đó đồng thời là một loại phao cấp cứu, phòng khi ngã xuống biển sương.
Nhưng đó chưa phải là điều bí mật của người Yskálari và chưa cắt nghĩa được lý do của tính tập thể độc đáo bao trùm mọi hoạt động của họ. Bastian sớm nhận thấy hình như họ không hề biết đến cái từ “tôi”, ít ra nó không hề nghe thấy họ dùng từ này, mà chỉ toàn nói “chúng tôi”. Lý do tại sao thì mãi sau này nó mới tìm ra.
Khi Bastian biết được, qua lời trò chuyện của ba thủy thủ, rằng họ sẽ đi ra khơi tối hôm ấy, nó liền hỏi họ có chịu thu nhận nó làm thằng nhỏ giúp việc trên tàu không. Họ mới cho nó biết rằng đi biển Skaidan khác nhiều đi những biển khác, vì không biết sẽ đi bao lâu và cập bến nơi nào. Bastian đáp như thế thì thật đúng ý nó và họ bằng lòng cho nó đi theo.
Khi màn đêm buông xuống thì sương mù dâng lên như chờ đợi. Gần nửa đêm thì cao mấp mé nền thành phố Đan lát. Bấy giờ mọi thuyền bè – trước đây lơ lửng trong không khí – bồng bềnh trên mặt sương trắng. Chiếc tàu có Bastian – một sà lan phẳng, dài khoảng ba mươi mét – được gỡ thừng cột, liền từ từ trôi ra xa trên biển sương mù trong đêm tối.
Thoạt nhìn Bastian đã tự hỏi lọai tàu này trôi đi nhờ sức đẩy nào, vì tàu không có buồm, mái chèo hay chân vịt. Buồm, người ta giải thích, chẳng ăn thua gì vì trên Skaidan hầu như luôn lặng gió, mái chèo hay chân vịt lại càng không dùng được trên sương mù. Sức đẩy thuyền là một sức khác hẳn.
Chính giữa sàn thuyền có một bệ tròn, hơi nhô cao. Bastian đã trông thấy ngay từ đầu, song ngỡ là một đài chỉ huy hay gì đó tương tự. Suốt chuyến đi thường xuyên có hai thủy thủ, có khi ba hay bốn hoặc nhiều hơn, đứng trên đó. (Trên tàu có cả thảy bốn mươi người – không kể Bastian). Những người đứng trên bệ này bá vai nhau, ngó về hướng tàu đi. Thoạt trông cứ tưởng họ đứng bất động. Nhìn kỹ mới thấy họ lắc lư rất chậm chạp và đồng bộ trong một điệu múa. Họ vừa múa vừa lặp đi lặp lại một khúc nhạc đơn giản rất du dương.
Mới đầu Bastian cho rằng hành động lạ lùng này là một nghi thức tập thể hay tập tục lạ nào đó mà nó không hiểu ý nghĩa. Mãi đến ngày thứ ba của chuyến đi nó mới hỏi một trong ba thủy thủ quen đang ngồi cạnh. Người này tỏ vẻ sửng sốt trước sự ngạc nhiên cùa Bastian, mới giải thích cho nó rằng làm như thế để dùng sức tưởng tượng cùa họ đẩy tàu đi.
Thoạt tiên Bastian chịu không hiểu nổi, liền hỏi có phải họ khởi động bằng cách nào đó những bánh xe ẩn kín đâu đấy.
– Không, người đi biển sương mù này đáp, khi cậu muốn cử động đôi chân thì chỉ cần tưởng tượng thôi cũng đủ hay cậu còn phải đạp chận trên hệ thống bánh xe nữa?
Sự khác biệt giữa cơ thể con người và con tàu chỉ ở chỗ ít nhất hai Yskálari phải nhập sức tưởng tượng của họ hoàn toàn thành một. Chỉ nhập được sức thì mới tạo ra được lực đẩy. Muốn đi nhanh hơn phải có nhiều người hợp lại. Bình thường họ làm việc mỗi ca ba người, những người kia nghỉ ngơi. Vì trông thì nhẹ nhàng và thanh nhã nhưng đó là một việc nặng nhọc, đòi hỏi tập trung ghê gớm và liên tục. Đó là cách duy nhất để họ có thể di chuyển trên Skaidan.
Thế là Bastian liền tập theo những người thủy thủ học điều bí mật của tính tập thể của họ: điệu múa và bài hát không lời.
Rồi dần dần, trong chuyến vượt biển dài đằng đẵng này nó trở thành một người của bọn họ. Thật là một cảm xúc độc đáo không diễn tả nỗi của sự quên hết ngoại cảnh và hòa điệu Bastian cảm nhận được trong lúc múa hát, khi sức tưởng tượng của nó hòa với sức tưởng tượng của những người khác thành một sức mạnh chung. Nó thật sự thấy đã được thu nhận vào tập thể của họ, gắn bó với họ. Đồng thời nó mất dần ký ức rằng trong cái thế giới của nó – từ đó nó tới đây và hiện đang tìm đường quay trở về – ai cũng có quan điểm và ý kiến riêng. Điều duy nhất nó còn nhớ mang máng là ngôi nhà của nó và bố mẹ nó.
Nhưng ở nơi sâu thẳm của trái tim nó vẫn còn một ước mơ khác đang chớm nhú, ngoài ước mơ hết bị lẻ loi.
Bastian lần đầu tiên để ý thấy những người Yskálari đạt được điều chung nhất không phải vì họ hòa đồng những cách suy nghĩ vốn dĩ hoàn toàn khác nhau, mà vì họ giống hệt nhau, thành ra họ không cần cố gắng mà vẫn cảm thấy tính tập thể. Ngược lại, họ hoàn toàn không có cơ hội để tranh cãi hay bất đồng, vì không ai trong bọn họ thấy mình là một cá nhân. Họ không phải vượt qua mâu thuẫn nào đó để có hòa đồng. Chính sự dễ dàng này đã khiến Bastian dần dần thấy là không ổn. Nó thấy tính hiền lành của họ chán ngắt, khúc nhạc muôn thuở của họ thật đơn điệu. Nó thấy thiếu gì đó, khao khát gì đó mà không thể diễn tả được.
Một ngày nọ Bastian vỡ lẽ ra điều mình khao khát ấy. Số là hôm đó mọi người thấy một con quạ-sương-mù khổng lồ bay lượn trên bầu trời cao. Các thủy thủ Yskálari hốt hoảng trốn thật lẹ dưới tấm bạt. Nhưng một người không trốn kịp và bị con quái vật kia rít lên một tiếng, sà xuống đớp tha đi mất.
Khi tai họa đã qua, những người Yskálari chui ra, tiếp tục chuyến hải hành. Họ lại nhảy múa, ca hát như chẳng có chuyện gì xảy ra. Mối hòa đồng của họ mảy may không bị xáo trộn, họ không hề buồn bã hay ngỏ lời thương xót kẻ bất hạnh nọ
– Không, một người đáp khi Bastian hỏi, chúng tôi chẳng thấy mất mát gì cả. Chúng tôi phải than vãn nỗi gì chứ?
Với họ một cá nhân không đáng kể. Và bởi vì họ chẳng có gì khác nhau, thành ra chẳng có ai là không thể thay thế được.
Nhưng Bastian lại muốn là một cá thể, là một kẻ nào đó, chứ không chỉ là một trong muôn vàn. Nó muốn được yêu thương chính bởi nó như thế. Trong cộng đồng người Yskálari này có hòa đồng, nhưng không có tình thương.
Nó hết còn muốn làm kẻ vĩ đại nhất, khỏe nhất, khôn ngoan nhất nữa. Những chuyện ấy đã qua rồi. Nó khao khát được yêu thương như nó là, dù nó tốt hay không tốt, đẹp hay xấu, khôn ngoan hay đần độn, yêu thương mọi khuyết điểm của nó, thậm chí chính vì những khuyết điểm ấy.
Mà nó là một kẻ như thế nào?
Nó không biết nữa. Nó học được nhiều thứ ở vương quốc Tưởng Tượng, thành ra bây giờ tài năng đầy người mà không tìm lại được chính mình.
Từ hôm ấy nó không tham gia múa hát với đoàn thủy thủ nữa. Nó ngồi tuốt mũi tàu nhìn Skaidan suốt nhiều ngày, thậm chí suốt nhiều đêm.
Cuối cùng đã tới bờ bên kia. Con tàu chạy biển sương mù cập bến. Bastian cám ơn các thùy thủ Yskálari rồi lên bờ.
Đây là một vùng đất đầy hoa hồng, những rừng hoa hồng đủ màu sắc. Giữa rừng hoa hồng mênh mông là một con đường mòn uốn khúc.
Bastian đi theo con đường mòn đó.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!