Chuyến Du Hành Kỳ Lạ Của Ngài Daldry - Chương 1
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
153


Chuyến Du Hành Kỳ Lạ Của Ngài Daldry


Chương 1


– Chị không tin vào số phận, cũng chẳng tin vào những dấu hiệu nhỏ của cuộc sống được cho là chỉ cho ta con đường cần phải đi. Chị không tin câu chuyện của các bà thầy bói vẫn dựa vào mấy lá bài mà phán tương lai. Chị chỉ tin đơn giản đó là sự trùng hợp, là tình cờ mà thôi.

– Vậy thì sao chị lại bước vào một hành trình dài đến vậy, sao lại tới tận đây trong khi chị chẳng hề tin tất cả những chuyện này?

– Đó là vì một cây dương cầm.

– Một cây dương cầm ư?

– Nó đã bị lỗi nhịp giống những cây đàn cũ kỹ bị chỉnh âm ở quán bar và bị đẩy tới phòng ăn của đám binh lính. Nhưng ở nó có điểu gì đó rất đặc biệt, hoặc có lẽ là người chơi nó khá đặc biệt.

– Ai chơi cây đàn ấy?

– Người hàng xóm cùng tầng với nhà chị, nhưng chị cũng không hoàn toàn chắc đâu.

– Vì hàng xóm của chị chơi dương cầm mà tối nay chị mới có mặt ở đây sao?

– Có thể nói là như thế. Mỗi khi những nốt nhạc vang khắp cầu thang là chị lại như nghe thấy nỗi cô đơn trong mình; và để chạy trốn nó, chị đã chấp nhận kỳ nghỉ cuối tuần tại Brighton ấy.

– Chị phải kể với em ngọn ngành chuyện này, mọi thứ sẽ rõ ràng hơn nếu chị kể theo trật tự.

– Chuyện dài lắm.

– Chẳng có gì mà phải vội đâu. Gió đang thổi từ ngoài khơi vào, trời rồi sẽ mưa thôi, Rafael vừa nói vừa tiến lại gần cửa sổ. Sớm nhất thì cũng phải hai hoặc ba ngày nữa em mới ra khơi được. Em sẽ đi pha trà còn chị thì kể chuyện của mình nhé, và chị phải hứa là không được bỏ qua bất kỳ chi tiết nào đấy. Nếu như điều bí mật chị thổ lộ với em là sự thật, nếu như từ giờ chúng ta sẽ gắn bó với nhau suốt đời thì em muốn được biết.

Rafael quỳ xuống trước lò sưởi gang rồi đưa tay mở cửa lò, lấy hơi thổi vào đám than hồng.

Căn nhà của Rafael giản dị hệt như cuộc đời anh vậy. Bốn bức tường bao quanh, chỉ có duy nhất một phòng, mái nhà đơn sơ, sàn nhà mòn vẹt, một chiếc giường đơn, một bồn rửa, từ đó nhô ra vòi nước cũ kỹ vẫn chảy ra thứ nước có nhiệt độ đúng như nhiệt độ trong ngày, lạnh băng vào mùa đông và ấm nóng vào mùa hè trong khi lẽ ra cần phải ngược lại. Trong nhà chỉ có một cửa sổ nhưng nó lại nhìn ra cửa sông Bosphore; từ bàn Alice đang ngồi có thể nhìn thấy những con tàu lớn đang cập vào eo biển và phía xa đằng sau chúng là hình bóng đường bờ biển châu Âu.

Alice nhập một ngụm trà Rafael vừa pha xong và bắt đầu câu chuyện.
****

Luân Đôn, thứ Sáu 22 tháng Mười hai năm 1950

Cơn mưa rào quất mạnh vào mái kính phía bên trên chiếc giường. Một cơn mưa mùa đông nặng hạt. Phải vài trận mưa thế này nữa mới đủ tẩy rửa hết những uế tạp của chiến tranh khỏi thành phố. Hòa bình mới được năm năm nên phần lớn các khu phố vẫn còn mang vết tích của các trận ném bom. Cuộc sống lại tiếp tục, người ta ăn uống dè sẻn hơn, tuy đã đỡ hơn so với năm ngoái nhưng vẫn đủ khiến người ta nhớ lại cái thời có thể ăn uống thỏa thuê, và được ăn cả thịt tươi chứ không chỉ đồ hộp.

Buổi tối hôm ấy Alice cùng nhóm bạn ngồi chơi ở nhà cô. Sam bán sách tại hiệu Harrington & Sons và là một tay chơi công bát cừ khôi, Anton làm thợ mộc và thổi trompet thì vô song, Carol là у tá mới phục viên vừa được tuyển dụng vào bệnh viện Chelsea còn Eddy thì kiếm sống qua ngày bằng nghề hát rong ở chân cầu thang nhà ga Victoria hoặc trong các quán rượu khi được phép.

Tối hôm ấy chính anh chàng đã đề xuất ý kiến làm một chuyến dạo chơi tới Brighton vào ngày hôm sau nhân dịp Noel. Những trò vui dọc bên bờ đê chắn sóng lớn đã được mở lại và đến thứ Bảy thì hội chợ sẽ vào phiên nhộn nhịp nhất.

Ai nấy gom tiền còn sót lại trong túi. Eddy đã kiếm được chút ít trong một quán bar ở Notting Hill, Anton được ông chủ thưởng một khoản nhỏ dịp cuối năm, Carol không còn một xu nhưng cô thì có bao giờ sẵn tiền đâu và đám bạn thân đã quen bao cô mọi thứ, Sam vừa mới bán được cho một bà khách người Mỹ cuốn The voyage out bản đặc biệt và một cuốn Ngài Dalloway tái bản lần hai, vì vậy trong một ngày anh kiếm được bằng cả tuần làm việc. Còn Alice, cô cũng có chút tiền tiết kiệm và cô đáng được tiêu chúng bởi cô đã làm việc cật lực cả năm trời và dù thế nào thì cô cũng sẽ tìm bằng được một cái cớ nào đó để đi chơi cùng nhóm bạn ngày thứ Bảy này.

Chai rượu mà Anton mang tới khi mới uống vào có vị nùi rơm, sau đó để lại dư vị chua giấm nhưng cả nhóm bạn đã cùng nhau uống kha khá, rồi chếnh choáng đồng thanh hát, hết bài nọ đến bài kia, càng lúc càng to tới mức người hàng xóm cùng tầng, Ngài Daldry, phải sang đập cửa.

Là người duy nhất đủ can đảm ra mở cửa, Sam hứa rằng chuyện ồn ào sẽ chấm dứt ngay lập tức, và rằng cũng đã đến lúc ai về nhà nấy. Ngài Daldry chấp nhận lời xin lỗi nhưng không quên cao giọng tuyên bố rằng mình đang cố chợp mắt nên mong cô hàng xóm đừng biến điều đó thành bất khả. Tòa nhà kiểu Victoria họ ở không phải để biến thành câu lạc bộ nhạc jazz và chỉ riêng việc nghe tiếng họ trò chuyện vang qua tường nhà đã đủ khó chịu rồi. Sau đó, người đàn ông quay gót về căn hộ của mình nằm ngay phía đối diện.

Các bạn của Alice bắt đấu khoác áo măng tô, quàng khăn và đội mũ vào rồi họ hẹn gặp lại nhau mười giờ sáng hôm sau tại nhà ga Victoria, trên đường ke của chuyến tàu tới Brighton.

Khi chỉ còn lại một mình, Alice bắt tay vào dọn dẹp căn phòng lớn vẫn được dùng làm xưởng làm việc, phòng ăn, phòng khách hay phòng ngủ tùy thuộc vào thời điểm trong ngày.

Đang lúi húi kéo chiếc tràng kỷ ra thành giường thì cô đột nhiên đứng dậy, nhìn ra cửa chính. Làm sao mà người hàng xóm lại dám cả gan phá đám một buổi tối vui vẻ đến vậy của cô và anh ta có quyền gì mà can dự vào chuyện nhà cô?

Cô vơ lấy chiếc khăn choàng trên giá mắc áo măng tô, soi mình trong tấm gương nhỏ treo ở lối vào, rồi lại bỏ chiếc khăn làm cho cô trông già hơn ra, sau đó cả quyết bước sang gõ cửa nhà Ngài Daldry. Tay chống nạnh, cô đứng đợi người hàng xóm ra mở cửa.

– Hãy nói với tôi rằng cô nhìn thấy lửa và rằng cơn hốt hoảng bất chợt của cô không có lý do nào khác ngoài việc nhằm cứu tôi khỏi đám cháy, người đàn ông cất giọng lạnh lùng.

– Thứ nhất, mười một giờ đêm trước kỳ cuối tuần không phải là một thời điểm oái oăm, hơn nữa, tôi đã phải thường xuyên chịu đựng thứ âm nhạc của anh, điều đó đủ để anh dung thứ cho chuyện có chút ồn ào vào lần duy nhất tôi tiếp đón bạn bè này!

– Thứ Sáu nào mà cô chẳng tiếp đón đám bạn ồn ào của mình, và các cô còn có thứ thói quen đáng ghét là thường xuyên chè chén, điều ấy chẳng phải là không ảnh hưởng đến giấc ngủ của tôi. Và nói cho cô biết là tôi không hề có đàn dương cầm, thứ âm nhạc mà cô cứ kêu ca phàn nàn chắc hẳn là tác phẩm của một người hàng xóm khác, có thể là của quý bà tầng dưới. Còn tôi, thưa cô, tôi là họa sĩ chứ không phải nhạc sĩ, và hội họa thì không gây ồn ào đâu cô ạ. Chao ôi, tòa nhà này đã từng yên ắng biết bao khi chỉ có mình tôi ở!

– Anh vẽ ư? Chính xác thì anh vẽ gì, thưa Ngài Daldry? Alice hỏi.

– Phong cảnh thành thị.

– Thật kỳ lạ, tôi chả thấy anh vẽ bao giờ, tôi cứ tưởng…

– Cô tưởng gì, thưa cô Pendelbury?

– Tôi tên Alice, anh hẳn phải biết tên tôi bởi có cuộc chuyện trò nào ở nhà tôi lọt khỏi tai anh đâu.

– Chuyện tường ngăn giữa hai căn hộ không đủ dày chẳng liên quan gì đến tôi cả. Giờ thì sau khi chúng ca đã chính thức chuyên trò, liệu tôi có thể quay vể ngủ được chưa hay là cô muốn tiếp tục nói chuyện trên thềm nghỉ?

Alice nhìn người hàng xóm một thoáng.

– Có điều gì đó không ổn với anh sao? cô hỏi.

– Xin thứ lỗi tôi không rõ ý cô ?

– Tại sao anh cứ giữ thái độ xa cách và thù nghịch đến vậy? Lẽ ra là chỗ hàng xóm láng giềng với nhau thì chúng ta cũng nên cố gắng một chút để hiểu nhau hơn hoặc ít ra cũng có tỏ ra như vậy chứ.

– Tôi sống ở đây trước cô lâu rồi, thưa cô Pendelbury, nhưng kể từ khi cô chuyển đến căn hộ mà tôi cũng đang muốn thuê lại này, cuộc sống của tôi đã bị đảo lộn không ít và bầu không khí yên tĩnh chỉ còn là một dĩ vãng xa xăm với tôi. Đã bao lần cô tới gõ cửa nhà tôi vì cô hết muối, hết bột mì hay vì cần một chút margarin để nấu ăn cho đám bạn bạn quá mức quý hóa của mình, hay hỏi xin nến lúc mất điện? Cô đã bao giờ tự hỏi liệu những lần phá ngang thường xuyên ấy có ảnh hưởng đến cuộc sống riêng tư của tôi hay không?

– Anh muốn thuê lại căn hộ của tôi ư?

– Tôi muốn biến nó thành xưởng vẽ. Trong tòa nhà này cô là người duy nhất được hưởng một mái kính sáng sủa. Thế đấy, hẳn là ông chủ nhà đã ưu ái cho vẻ duyên dáng của cô, trong khi tôi phải bằng lòng với thứ ánh sáng tù mù hắt qua mấy ô cửa sổ nhỏ xíu.

– Tôi chưa bao giờ gặp chủ nhà ở đây cả, tôi thuê căn hộ này qua một văn phòng nhà đất.

– Chúng ta có thể dừng cuộc nói chuyện tại đây không?

– Có phải vì vậy mà từ khi tôi dọn tới sống ở đây, anh cứ tỏ ra lạnh nhạt với tôi không, thưa Ngài Daldry? Chính là vì tôi đã thuê được căn xưởng vẽ mà anh mong muốn?

– Thứ đang phải chịu lạnh hiện giờ chính là đôi chân của tôi, thưa cô Pendelbury. Cuộc trò chuyện của chúng ta đang bắt đôi chân tội nghiệp ấy phải hứng gió lạnh. Nếu cô không thấy bất tiện thì tôi xin phép rút lui trước khi bị trúng cảm. Xin chúc cho cô một đêm an giấc, riêng bản thân tôi thì nhờ có cô mà giác ngủ đã được rút ngắn.

Ngài Daldry nhẹ nhàng đóng cửa lại ngay trước mặt Alice.

– Thật là một con người kỳ cục! Alice lẩm bẩm trong lúc quay bước về nhà.

– Tôi nghe thấy rồi đấy, Ngài Daldry ngay lập tức hét lên từ trong phòng khách. Chúc buổi tối tốt lành, cô Pendelbury.

Quay về căn hộ của mình, Alice rửa ráy qua loa rồi cuộn mình trong chăn. Ngài Daldry có lý, mùa đông đã bao lấy tòa nhà kiểu Victoria này và hệ thống sưởi công suất yếu không đủ làm nhiệt độ phòng tăng lên. Cô cầm cuốn sách đang đặt trên chiếc ghế đẩu được dùng làm bàn đầu giường lên, đọc vài dòng rồi lại đặt xuống. Cô tắt đèn và đợi cho mắt mình quen với bóng tối. Nước mưa chảy ròng ròng trên tấm mái kính, Alice khẽ rùng mình rồi cô bắt đầu nghĩ tới mặt đất nhão nhoét trong rừng, tới thảm lá đang mục ruỗng vào mùa thu trong rừng sồi. Cô hít một hơi thật sâu và thứ mùi ẩm nóng của bùn bỗng xâm chiếm lấy cô.

Alice có một khả năng đặc biệt. Khứu giác của cô nhạy bén hơn người bình thường gấp nhiều lần nên cô có thể phân biệt được những mùi dù chỉ là thoảng qua và ghi nhớ rất lâu. Cô dành hàng ngày trời lúi húi bên chiếc bàn dài trong xưởng của mình để pha chế một loại hỗn hợp mà một ngày nào đó có thể trở thành một loại nước hoa. Alice rất “thính mũi”. Cô làm việc độc lập và mỗi tháng lại dạo một lượt qua các nhà sản xuất nước hoa ở Luân Đôn để giới thiệu với họ mẫu pha chế mới của mình. Mùa xuân vừa rồi, cô đã thuyết phục được một người chịu tung ra thị trường sản phẩm của cô. “Nước hoa tầm xuân” của cô đã quyến rũ một nhà sản xuất ở Kensington và được đám khách hàng giàu sang khá ưa chuộng, nó đã mang lại cho cô một khoản lợi tức nhỏ mỗi tháng và giúp cô có cuộc sống sung túc hơn những năm trước đôi chút.

Cô lại bật đèn đầu giường lên và ngồi vào bàn làm việc. Cô gắp ba mẩu giấy thử đã ngâm vào ba chiếc lọ khác nhau, và giữa đêm khuya, Alice ngồi ghi lại vào sổ những gì nhận thấy.

Chuông báo thức kéo Alice ra khỏi giấc ngủ, cô ném cái gối vào đồng hồ cho tiếng chuông dừng kêu. Ánh mặt trời được màn sương mù buổi sớm bao phủ rọi vào mặt cô.

– Cái mái kính chết tiệt! cô làu bàu.

Rồi ý nghĩ về cuộc hẹn tại ke tàu thắng được cảm giác biếng nhác trong cô.

Cô bật dậy, vơ quàng vài món quần áo trong tủ rồi lao vào nhà tắm.

Khi ra khỏi nhà, Alice đưa mắt liếc đống hồ đeo tay, nếu đi bằng xe buýt cô sẽ trễ giờ hẹn tại ga Victoria. Cô liền vẫy taxi, và ngay khi ngồi vào xe, cô đã yêu cầu tài xế đi đường nào nhanh nhất.

Khi cô tới được ga, năm phút trước giờ tàu khởi hành, một hàng dài hành khách đã đứng chờ trước các quầy vé. Alice nhìn về phía ke tàu rồi vội chạy tới.

Anton đang đứng đợi cô ở toa đầu tiên.

– Mẹ kiếp, em làm gì thế hả? Trèo lên mau! anh vừa nói vừa giúp cô leo lên bậc cửa toa tàu.

Cô vào được khoang tàu nơi cả nhóm bạn đang đợi.

– Theo mọi người, xác suất chúng ta bị soát vé là bao nhiêu? cô hỏi rồi ngồi xuống, mệt đứt hơi.

– Anh sẽ nhường vé của anh cho em nếu anh có mua vé, Eddy đáp.

– Năm mươi năm mươi thôi, Carol tiếp lời.

– Vào sáng thứ Bảy ư? Anh thì nghĩ chắc đến hai phần ba cơ hội là chúng ta sẽ thoát được… Tàu đến ga thì sẽ biết thôi, Sam kết luận.

Alice tựa đầu vào cửa kính và nhắm mắt lại. Bãi biển họ định tới nằm cách thủ đô một giờ tàu. Cô ngủ suốt chuyến đi.

Tới ga Brighton, một nhân viên soát vé đứng thu vé của hành khách ở lối ra. Alice dừng lại trước anh ta và làm ra vẻ đang lục tìm trong túi. Eddy bắt chước cô. Anton mỉm cười đưa cho mỗi người một tấm vé.

– Tôi cầm vé hộ họ, anh nói với nhân viên soát vé.

Anh vòng tay ôm eo Alice rồi kéo cô ra sảnh nhà ga.

– Đừng hỏi là làm sao anh lại biết em sẽ tới muộn. Em lúc nào mà chẳng muộn! Còn về Eddy, em cũng biết rõ cậu ấy chẳng kém gì anh rồi, đó là một tay chuyên đi lậu vé và anh không muốn ngày hôm nay bị phá hỏng ngay từ khi chưa bắt đầu.

Alice lấy từ trong túi ra hai shilling rồi chìa cho Anton nhưng anh nắm bàn tay cầm mấy đồng xu của cô bạn lại

– Giờ thì lên đường nào, anh nói. Một ngày trôi nhanh lắm mà anh lại không muốn bỏ lỡ điều gì.

Alice nhìn anh bạn nhảy nhót xa dần; cố lại chợt thoáng thấy ở anh cậu thiếu niên năm nào, và cảm giác ấy khiến cô mỉm cười.

– Em không đi à? anh quay lại hỏi.

Họ xuống đường Queen rồi phố West dẫn tới con phố đi dạo chạy dọc bờ biển. Mọi người đã tụ tập tại đó khá đông. Hai con đê lớn vươn mình ra trước sóng biển. Hàng cột gỗ nhô cao trên đê khiến chúng trông như hai con tàu khổng lồ.

Các trò vui trong phiên hội chợ được bày ra trên quảng trường Pier.

Nhóm bạn tới chân tháp đồng hồ nơi dựng cổng vào. Anton mua vé cho Eddy và ra hiệu với Alice rằng anh đã mua cả cho cô.

– Anh không phải mời em cả ngày đâu, cô thầm thì vào tai anh.

– Sao lại không nếu như điều đó khiến anh vui?

– Bởi chẳng có lý do gì để…

– Tự làm mình vui chẳng phải là một lý do chính đáng hay sao?

– Mấy giờ rồi ấy nhỉ? Eddy hỏi. Tớ thấy đói rồi.

Cách đó vài mét, ngay trước tòa nhà lớn có căn nhà kính trồng cây là một quầy bán cá và khoai tây chiên. Mùi dầu rán cùng mùi giấm bay tận tới chỗ họ, Eddy xoa bụng rồi kéo Sam tới lán hàng. Alice bĩu môi ngán ngẩm đi theo các bạn. Từng người gọi món cho mình rồi Alice trả tiền cho nhân viên bán hàng, sau đó cô quay sang mỉm cười với Eddy, tặng cho anh bạn một gói cá chiên.

Họ đứng tì khuỷu tay lên lan can ăn trưa. Anton lặng ngắm những con sóng ùa vào giữa các cột trụ bờ đê. Eddy và Sam nói chuyện tào lao tìm cách cứu thế giới. Nhưng lúc rảnh rỗi, Eddy thường thích chỉ trích chính phủ để giải khuây. Anh lên án Thủ tướng đã không làm gì hoặc làm chưa đến nơi đến chốn để đảm bảo lợi ích của những người nghèo khổ, không biết cách khởi động các công trình lớn để đẩy nhanh quá trình tái thiết thủ đô. Tóm lại là chỉ cần tuyển dụng tất cả những ai không có việc làm và không đủ ăn là xong. Còn Sam lại nói về nền kinh tế, viện cớ khó tìm được nguồn nhân lực có tay nghề, và khi thấy Eddy ngáp ngủ, anh liền cho rằng cậu bạn là kẻ vô chính phủ biếng nhác, điều này khiến cậu bạn mếch lòng. Họ đã sinh sự với nhau như thế không biết bao lần nhưng tình bạn giữa họ không hề mai một, bất chấp những bất đồng ý kiến.

Alice đứng tách khỏi nhóm bạn để tránh mùi dầu rán quá nồng mà cô vốn không thích. Carol tới chỗ cô, cả hai im lặng một lát, mắt hướng ra khơi.

– Cậu phải để mắt tới Anton đấy, Carol thầm thì.

– Sao thế, anh ấy ốm à? Alice hỏi.

– Ốm tương tư cậu đấy! Không cần phải là y tá như tớ mới nhận ra đâu. Hôm nào cậu ghé qua bệnh viện đi, tớ sẽ dẫn cậu đi khám mắt, cậu hẳn phải cận thị rồi thì mới không nhận thấy.

– Cậu chỉ nói vớ vẩn, bọn tớ biết nhau từ thời niên thiếu, chẳng có gì khác giữa bọn tớ ngoài một tình bạn lâu bền.

– Tớ chỉ bảo cậu để mắt tới anh ấy, Carol ngắt lời cô. Nếu cậu có cảm tình với anh ấy thì tránh né cũng chẳng ích chi. Bọ tớ sẽ rất mừng nếu thấy hai người bên nhau, bọn cậu rất xứng đôi mà. Còn trong trường hợp ngược lại thì cậu đừng mập mờ như thế, cậu sẽ khiến anh ấy đau khổ chẳng vì cái gì cả.

Alice chuyển chỗ, đứng đối diện với Carol, quay lưng lại đám bạn.

– Tớ mập mờ thế nào?

– Giả vờ không biết rằng tớ đang để ý anh ấy, giả dụ thế, Carol đáp.

Hai con mòng biển lao tới thưởng thức nốt chỗ khoai tây mà Carol quăng ra biển. Cô ném bao giấy của mình vào thùng rác rồi tới chỗ mấy chàng trai.

– Em đứng đấy đợi triều xuống hay là đi với bọn anh đây? Sam hỏi Alice. Bọn anh sẽ dạo qua chỗ có mấy trò chơi, anh đã tia được chỗ có thể thắng được một điếu xì gà nhờ mấy cú đập chùy, anh vừa nói thêm vừa xắn tay áo lên.

Bỏ vào máy một penny sẽ được chơi bốn lần. Người chơi phải đập càng mạnh càng tốt lên lò xo, khi ấy một quả cầu gang sẽ bật lên; nếu quả cầu ấy chạm vào làm cái chuông treo cách đó tầm hai mét mốt rung lên thì sẽ thắng một điếu xì gà. Dù chẳng phải một tay nghiện ngập nhưng Sam vẫn thấy rằng hút xì gà quả là một thú chơi sang. Anh đã chơi tám lần liền, phí mất hai penny, gần gấp đôi số tiền anh phải bỏ ra nếu muốn mua một điếu xì gà chất lượng tốt tương tự ở quầy thuốc lá nằm cách đó vài bước chân.

– Cho tớ một xu để tớ thử xem, Eddy nói.

– Sam chìa cho bạn một đồng xu rồi lùi lại. Eddy nâng cái chùy lên như thể nó chỉ nhẹ bằng một cái búa rồi nhẹ nhàng thả nó rơi xuống lò xo. Quả cầu gang nảy lên chạm vào làm rung chuông. Người chủ trò trao phấn thưởng cho anh.

– Điếu này là của tớ, Eddy tuyên bố, đưa tờ một xu nữa, tớ sẽ cố kiếm cho cậu điếu khác.

Một thoáng sau, cả hai đã cùng châm thuốc, Eddy vui ra mặt, còn Sam thì lẩm bẩm tính toán. Với số tiền ấy, lẽ ra anh đã có thể tự thưởng cho mình cả một bao thuốc lá. Một bao Vingt Embassy thay vì một điếu xì ga nhạt thếch, điều ấy cứ khiến anh tiếc mãi.

Mấy chàng trai phát hiện ra trò ô tô húc nhau, họ liền nhìn nhau rồi ngay lập tức mỗi người đã chễm chệ trong một chiếc. Cả ba cùng cầm vào tay lái và đạp lên chân ga để đâm

thật mạnh vào các ô tô khác trước ánh mắt rụng rời của hai cô gái. Cuối cùng, họ tấn công gian hàng có trò bắn súng. Đứng từ xa, Anton đã trở thành tay bắn thiện xạ nhất. Anh giành được một cái ấm sứ sau khi bắn năm viên trúng đích và đem tặng nó cho Alice.

Carol đứng tách xa khỏi nhóm bạn quan sát vòng quay nơi đám ngựa gỗ đang quay tròn dưới những chùm đèn sáng rực. Anton bước lại gần rồi choàng tay ôm lấy cô.

– Em biết, trò này chỉ dành cho bọn trẻ con thôi, Carol thở dài, nhưng giá như anh biết rằng em chưa bao giờ thử chơi lần nào…

– Em chưa bao giờ đặt chân lên vòng quay ngựa gỗ khi còn nhỏ ư? Anton hỏi cô.

– Em lớn lên ở quê, chẳng có bất kỳ một dịp hội chợ nào được tổ chức ở làng em. Khi em tới Luân Đôn để học y tá thì cũng đã quá tuổi chơi, rồi chiến tranh nổ ra và…

– Và giờ thì em đang rất muốn đi một vòng… Nào, theo anh, Anton vừa nói vừa dắt cô về phía quầy vé, anh sẽ tặng cho em chuyến ngựa gỗ quay vòng đầu tiên trong đời. Đây, leo lên đây, anh vừa nói vừa chỉ vào một con ngựa gỗ có chiếc bờm vàng rực, những con khác trông có vẻ dữ hơn, lần đầu tiên cưỡi ngựa thì tốt nhất là nên cẩn thận.

– Anh không lên với em à? Carol hỏi.

– À không, anh ít chơi trò này lắm, chỉ nhìn thôi đã thấy chóng mặt rồi. Nhưng hứa với em là anh sẽ cố gắng, anh sẽ không rời mắt khỏi em đâu.

Một hồi chuông vang lên, Anton bước xuống khỏi bục. Vòng quay bắt đầu chuyển động.

Sam, Alice và Eddy lại gần nhìn Carol, một mình cô là người lớn giữa đám trẻ con đang chỉ trỏ chế giễu. Đến vòng thứ hai, nước mắt lăn dài trên má cô bạn, cô dùng mu bàn tay vụng về quệt đi.

– Anh láu cá lắm! Alice vừa nói vừa đấm vào vai Anton.

– Anh nghĩ mình đã làm một việc tốt, anh không hiểu cô ấy bị làm sao nữa, chính cô ấy đã muốn…

– Đi dạo một vòng trên lưng ngựa với anh, ngốc ạ, chứ không phải tự biến mình thành trò cười trước bàn dân thiên hạ.

– Anton sẽ chẳng bao giờ thú nhận là cậu ta muốn thế đâu, Sam bác lại.

– Nếu các anh ga lăng một chút thì đã đón cô ấy chứ không phải đứng như trời trồng ở đây đâu.

Trong khi hai anh bạn cự nự nhau thì Eddy đã trèo lên vòng quay, tới được chỗ những chú ngựa gỗ và tặng cho mấy đứa trẻ đang cười ngặt nghẽo những cái tát yêu nhè nhẹ. Người chủ trò vẫn tiếp tục vòng quay quỷ quái nhưng cuối cùng Eddy vẫn tới được chỗ Carol.

– Có vẻ như cô đang cần một người coi ngựa phải không, thưa quý cô? anh nói rồi đặt tay lên bờm chú ngựa gỗ.

– Giúp em xuống với. Eddy, em xin anh đấy.

Nhưng Eddy đã nhảy lên lưng ngựa và ôm lấy nữ kỵ sĩ. Anh ghé vào tai cô thì thầm.

– Em đừng tưởng là lũ oắt con kia sẽ dễ dàng thoát khỏi vụ này nhé! Chúng ta sẽ chơi đùa vui vẻ cho chúng phát ghen lên vì thèm thuồng. Em đừng tự đánh giá thấp mình, cô bạn ạ, em hãy nhớ rằng trong khi anh say xỉn ở các quán rượu thì em khiêng băng ca dưới làn bom đạn. Lần sau khi vòng quay chạy qua trước mặt đám bạn ngốc nghếch của chúng ta, anh muốn nghe thấy tiếng em cười thật to, em hiểu chứ?

– Sao em có thể làm được như vậy hả Eddy? Carol hỏi lại trong tiếng nấc.

– Nếu em nghĩ mình thật nực cười khi cưỡi trên ngựa gỗ giữa đám trẻ ranh này thì hãy nhớ tới anh, đang ngồi sau em đây, với điếu xì gà và chiếc mũ lưỡi trai lụp xụp trên mặt.

Và tới vòng thứ hai, Eddy cùng Carol đã cười phá lên.

Vòng quay từ từ chậm lại rồi dừng hẳn.

Để chuộc lỗi, Anton mời cả đám một chầu bia tại quầy rượu cách đó một quãng. Mấy chiếc loa kêu lạo xạo rồi đột nhiên, một điệu fox-trot sôi nổi tràn ngập không gian, Alice nhìn tấm áp phích dán trên một cây cột: Harry Groombridge cùng dàn nhạc chơi đệm cho một vở nhạc kịch tại mộtquán cà phê, chỗ này trước chiến tranh từng là nhà hát lớn của khu đê chắn sóng.

– Đi xem đi! Alice gợi ý.

– Tại sao lại không nhỉ? Eddy lên tiếng.

– Bọn mình sẽ lỡ mất chuyến tàu cuối cùng mà anh thì không thấy thích cái ý tưởng ngủ trên bãi biển đâu, Sam đáp.

– Không hẳn thế đâu, Carol bẻ lại. Khi buổi diễn kết thúc bọn mình vẫn còn hơn nửa tiếng để đi bộ tới nhà ga cơ mà. Đúng là trời đang bắt đầu lạnh khủng khiếp và em không từ chối chuyện nhún nhảy đôi chút cho ấm người lên đâu. Vả lại đây hẳn sẽ là một kỷ niệm tuyệt vời ngay trước đêm Noel, mọi người không thấy thế sao?

Mấy chàng trai không nghĩ ra được ý tưởng nào hơn thế. Sam nhanh chóng nhẩm tính; giá vé vào cửa là hai xu, nếu họ quay về luôn, rất có thể đám bạn anh sẽ lại muốn vào một quán nào đó ăn uống, như thế chọn buổi biểu diễn là tiết kiệm hơn cả.

Khán phòng chật ních, khán giản chen chúc nhau trước sân khấu, phần lớn đang nhún nhảy theo điệu nhạc. Anton dắt tay Alice và đẩy Eddy về phía Carol, Sam giễu hai cặp đôi rồi rời khỏi sàn khiêu vũ.

Đúng như Anton đã dự đoán, một ngày vui vẻ trôi qua quá nhanh. Khi dàn nhạc chào tạm biệt khán giả, Carol ra hiệu với các bạn, đã đến lúc lên đường. Cả nhóm len lỏi tới cửa ra.

Những chiếc đèn xếp khẽ đu đưa trước làn gió nhẹ khiến con đê chắn sóng khổng lồ vào buổi tối mùa đông ấy giống như một chuyến tàu chở khách kỳ lạ, đèn đuốc trên thuyền đều thắp sáng soi tỏ cả vùng biển nhưng sẽ chẳng bao giờ ra khơi.

Khi cả nhóm bạn đang tiến về phía lối ra thì một bà thầy bói đứng trong quầy hàng của mình liền nở nụ cười tươi với Alice.

– Em chưa bao giờ mong biết được tương lai sẽ dành điều gì cho mình à? Anton hỏi.

– Vâng, chưa bao giờ. Em không tin là tương lai đã được định sẵn, Alice đáp.

– Hồi đầu chiến tranh, một bà thầy bói đã bảo với anh tớ là anh ấy sẽ sống sót nếu chuyển nhà đi nơi khác, Carol nói. Anh ấy đã quên béng mất lời tiên tri ấy khi nhập ngũ: hai tuần sau đó, tòa nhà anh ấy ở bị bom quân Đức đánh sập. Hàng xóm của anh ấy không ai thoát nạn.

– Bà ta tài nhỉ! Alice đáp cụt lủn.

– Khi ấy chưa ai biết rằng Luân Đôn sẽ phải hứng chịu chiến dịch dội bom Blitz của quân Đức cả, Carol bác bẻ.

– Em có muốn đến nghe lời sấm không? Anton hỏi bằng giọng đùa cợt.

– Đừng ngốc thế chứ, chúng ta còn phải đi cho kịp giờ tàu.

– Còn những bốn mươi lăm phút nữa kia mà, buổi diễn đã kết thúc sớm hơn dự kiến. Chúng ta còn đủ thời gian. Đi nào, anh sẽ trả tiền cho em!

– Em không hề có ý định muốn tới nghe những lời lừa bịp của bà già ấy.

– Để Alice được yên đi, Sam chen ngang, cậu không thấy làm thế khiến cô ấy sợ à?

– Cả ba người đang trêu tức em đấy à, em chẳng có gì phải sợ, em không tin vào thuật bói bài cũng như những quả cầu pha lê. Vả lại sao mọi người lại quan tâm đến tương lai của em thế?

– Có lẽ một trong ba anh chàng lịch thiệp này thầm mong biết được xem cuối cùng có được chung giường với cậu hay không đấy? Carol thì thầm.

Anton và Eddy quay người lại, sửng sốt. Carol ngượng đỏ mặt, và để làm hòa, cô nở một nụ cười ranh mãnh với họ.

– Em có thể hỏi bà ta xem liệu chúng ta có nhỡ tàu hay không, ít nhất đó cũng là một tiết lộ hay ho, Sam tiếp lời, vả lại chúng ta có thể nhanh chóng kiểm chứng nó.

– Các cậu có thể đùa cợt tùy thích, nhưng tớ thì tớ tin, Anton nói tiếp. Nếu em đến đó anh sẽ cùng đi.

Nhóm bạn đứng thành một vòng tròn quanh Alice và không rời mắt khỏi cô.

– Mọi người quả là một lũ ngốc, cô nói rồi cố rẽ một lối đi ra.

– Cô em nhát gan! Sam thốt lên.

Alice đột nhiên quay lại.

– Được rồi, bởi vì tôi dính vào bốn đứa trẻ chậm lớn chỉ muốn tất cả cùng nhỡ tàu nên tôi sẽ tới nghe những lời ngu ngốc của bà già ấy rồi sau đó tất cả cùng về nhà. Như thế đã được chưa? cô vừa hỏi vừa chìa tay về phía Anton. Anh cho em hai xu chứ?

Anton lục túi rồi đưa cho Alice hai xu. Cô liền bước về phía bà thầy bói.

Alice tiến tới quầy hàng, bà thầy bói vẫn tươi cười với cô, gió từ biển thổi vào mạnh hơn, sượt qua má khiến cô phải cúi đầu xuống như thể đột nhiên cô bị cấm nhìn thẳng vào mắt người phụ nữ lớn tuổi kia. Có thể Sam nói đúng, trải nghiệm này khiến cô bối rối nhiều hơn là cô tưởng.

Bà thầy bói mời Alice ngồi xuống ghế đẩu. Đôi mắt bà mênh mang, ánh nhìn sâu thẳm, và nụ cười vẫn không thôi hướng về phía cô đầy mê hoặc. Trên chiếc bàn một chân của bà không hề có quả cầu pha lê nào, cũng chẳng có lấy một bộ bài, chỉ có những ngón tay dài lốm đốm nốt đồi mồi chìa về phía cô. Vừa gặp mặt Alice đã cảm thấy một cảm giác nhẹ nhàng kỳ lạ xâm chiếm lấy cô, một trạng thái thoải mái mà đã lâu lắm rồi cô không có được.

– Con gái ơi, ta đã từng trông thấy con rồi, bà thầy bói thì thầm.

– Bà quan sát cháu nãy giờ rồi còn gì!

– Con không tin vào khả năng của ta phải không?

– Cháu là người lý tính, Alice đáp.

– Nói dối, con là một nghệ sĩ, một cô gái độc lập và bướng bỉnh, dù cho đôi lúc nỗi sợ hãi khiến con chùn bước.

– Tối nay bà có gì để khiến cháu phải sợ đây?

– Khi tới chỗ ta con không có vẻ tự tin lắm.

Bà thầy bói nhìn sâu hơn vào mắt Alice. Giờ đây khuôn mặt bà kề sát bên mặt cô.

– Ta đã bắt gặp đôi mắt này ở đâu rồi nhỉ?

– Ở kiếp trước chăng? Alice hỏi lại giọng đầy mỉa mai.

Bối rối, bà thầy bói đột nhiên đứng bật dậy.

– Hổ phách, va ni và da thuộc, Alice lẩm bẩm.

– Con nói về cái gì thế?

– Về nước hoa của bà, về niềm đam mê của bà với phương Đông. Cháu cũng vậy đấy, cháu cũng có chút khả năng đặc biệt đấy, Alice nói, vẻ còn xấc xược hơn trước.

– Quả là con có khả năng đặc biệt, nhưng quan trọng hơn nữa là con mang trong mình một câu chuyện mà không hề hay biết, bà thầy bói đáp.

– Bà cứ cười suốt như vậy có phải là để dễ dàng chiếm lòng tin của các con mồi hơn không? Alice ranh mãnh hỏi.

– Ta biết tại sao con tới gặp ta, bà thầy bói nói, thú vị thật đấy.

– Bà đã nghe thấy đám bạn thách thức cháu à?

– Con không phải loại người dễ bị khiêu khích và đám bạn con chẳng đóng vai trò gì trong cuộc gặp gỡ này cả.

– Vậy thì ai đây?

– Nỗi cô đơn, nó ám ảnh con và khiến con thức giấc hàng đêm.

– Cháu chẳng thấy có gì thú vị ở đây cả. Hãy nói điều gì khiến cháu bất ngờ thực sự ấy, không phải ngồi đây trò chuyện với bà khiến cháu khó chịu nhưng nói thật là cháu còn phải về cho kịp chuyến tàu.

– Không, như thế phải nói là thật đáng buồn mới đúng, nhưng điều thú vị ở đây là…

Bà thôi không nhìn Alice nữa mà ánh mắt mất hút trong xa xăm. Alice cảm thấy người phụ nữ ấy đang phiêu bạt ở một chốn khác.

– Bà đang định nói gì vậy? Alice hỏi.

– Điều thực sự thú vị, bà thầy bói vừa lấy lại tinh thần vừa tiếp tục, đó là người đàn ông quan trọng nhất trong đời con, người mà con vẫn luôn tìm kiếm bấy lâu nay dù cho cũng chẳng biết anh ta có tồn tại hay không, người đàn ông đó vừa mới đây thôi đã lướt qua phía sau con.

Khuôn mặt Alice đông cứng lại và cô không thể cưỡng được mong muốn quay đầu lại. Cô xoay ghế đẩu và chỉ nhìn thấy ở phía xa bốn người bạn đang ra hiệu với cô rằng đã tới lúc phải đi.

– Là một trong số họ ư? Alice ấp úng hỏi. Người đàn ông bí ẩn ấy là Eddy, Sam hoặc Anton ư? Đó chính là lời sấm truyền của bà ư?

– Hãy nghe những gì ta nói với con, Alice, chứ không phải những lời con muốn được nghe. Ta vừa tiết lộ với con rằng người đàn ông quan trọng nhất đời con đã lướt qua phía sau con. Giờ thì người đó không còn ở đây nữa.

– Vậy bây giờ hoàng tử bạch mã ấy đang ở đâu?

– Hãy kiên nhẫn đi con gái của ta. Con phải gặp sáu người khác rồi mới tới người đó.

– Một vụ hay ho đây, sáu người, chỉ thế thôi sao?

– Một chuyến du hành thú vị thì đúng hơn… Một ngày nào đó con sẽ hiểu, giờ thì muộn rồi và ta cũng đã tiết lộ điều con cần biết. Và bởi vì con chẳng hề tin lấy một lời ta nói nên con không phải trả công cho ta.

– Không, cháu vẫn muốn trả tiền.

– Đừng có ngốc thế chứ, con cứ coi quãng thời gian chúng ta ở bên nhau vừa qua là một chuyến viếng thăm giữa bạn bè. Ta rất mừng vì được gặp con, Alice ạ, ta không ngờ rằng chuyện đó lại xảy ra. Con là một người đặc biệt, dù thế nào đi nữa thì câu chuyện của con cũng rất đặc biệt.

– Câu chuyện nào thế?

– Chúng ta không còn thời gian nữa, vả lại con cũng sẽ chẳng tin chuyện đó. Đi đi, nếu không đám bạn sẽ trách cứ con vì đã làm họ nhỡ tàu. Nhanh chân lên, và hãy cẩn trọng đấy, sẽ sớm có một vụ tai nạn. Đừng nhìn ta như vậy chứ, điều ta vừa nói với con không liên quan đến chuyện bói toán đâu mà bất cứ ai biết suy nghĩ logic thì đều thấy thôi.

Bá thầy bói bảo Alice để bà lại một mình. Alice nhìn bà một lát, hai người phụ nữ trao nhau nụ cười rồi cô trở ra với đám bạn.

– Trông cái mặt tức giận của em kìa! Bà ấy nói thế? Anton lên tiếng hỏi.

– Để sau đi, mọi người biết mấy giờ rồi không?

Rồi không đợi ai trả lời, Alice lao về phía hàng rào lối cửa ra vào của khu đê chắn sóng.

– Cô ấy có lý đấy, Sam nói, phải thật khẩn trương lên, tàu sẽ khởi hành trong vòng chưa đầy hai mươi phút nữa.

Cả bọn bắt đầu guồng chân chạy. Gió nổi lên trên bờ cát mang theo cả làn mưa bụi mỏng. Eddy nắm lấy cánh tay Carol.

– Cẩn thận đấy, đường trơn lắm, anh nói rồi kéo cô chạy theo cùng.

Cả bọn chạy hết quãng đường đi dạo rồi băng lên con phố vắng tanh. Những cây đèn cháy bằng khí đốt rọi ánh sáng yếu ớt xuống lòng đường. Phía xa xa thấp thoáng ánh đèn nhà ga Brighton, họ chỉ còn chưa đến mười phút. Một cỗ xe ngựa bất ngờ lao tới đúng lúc Eddy băng qua phố.

– Cẩn thận! Anton hét lên.

Alice nhanh trí túm lấy tay áo Eddy. Cỗ xe suýt chút nữa thì hất tung họ và họ cảm nhận được hơi thở của con vật mà người xà ích đang cố gắng kìm chân lại trong vô vọng.

– Em đã cứu mạng anh! Eddy choáng váng nói trong hơi thở đứt quãng.

– Anh có thể cảm ơn em sau, Alice đáp, nhanh chân lên thôi.

Khi vào đến sân ga, họ bắt đầu hét lên với trưởng ga đang giơ đèn lên làm hiệu và ra lệnh cho họ trèo lên toa đầu tiên. Mấy chàng trai giúp các cô gái leo lên rồi khi Anton vẫn còn ở bậc lên xuống thì cả đoàn tàu chuyển mình. Eddy túm lấy vai cậu bạn lôi vào bên trong rồi đóng cửa lại.

– Suýt chút nữa thì…, Carol hổn hển. Và anh đấy, Eddy ạ, anh làm em sợ hết vía, cỗ xe ấy lẽ ra đã nghiền qua anh rồi.

– Anh có cảm giác là Alice còn sợ hơn em kìa, nhìn cô ấy mà xem, cô ấy xanh như tàu lá ấy, Eddy nói.

Alice nín thinh. Cô ngồi xuống băng ghế và nhìn bóng thành phố lùi xa dần qua khung cửa kính. Chìm đắm trong dòng suy tưởng, cô nhớ lại bà thầy bói, lời phán của bà, lời cảnh báo của bà và lại tái nhợt hơn nữa.

– Thế nào, em kể cho bọn anh nghe chứ? Anton lên tiếng. Dù thế nào chăng nữa thì cả nhóm cũng suýt phải ngủ ở khách sạn ngàn sao vì em còn gì.

– Vì trò cá cược ngu ngốc của mọi người thì có, Alice đáp trả cụt lủn.

– Cậu gặp bà ấy cũng khá lâu đấy, thế cuối cùng bà ấy có tiết lộ với cậu điều gì đáng kinh ngạc không? Carol hỏi.

– Chỉ toàn những điều tớ đã biết rồi. Tớ nói với mọi người rồi mà, bói toán chỉ là trò lừa con nít. Với đầu óc biết quan sát, một giọng nói khiến người ta tin tưởng cùng chút xíu trực cảm, mấy bà thầy bói có thể lừa phỉnh bất cứ ai và khiến ta tin bất cứ điều gì.

– Nhưng tóm lại là em vẫn chưa nói cho bọn anh biết bà ấy đã tiết lộ gì với em, Sam nài nỉ.

-Tớ nghĩ bọn mình nên chuyển đề tài thôi, Anton chen ngang. Bọn mình vừa có một ngày hết sức thú vị, bọn mình đang trên đường về nhà, vậy nên tớ chẳng thấy có lý do gì mà phải tìm cách gây hấn với nhau. Anh xin lỗi, Alice, lẽ ra bọn anh không nên nài ép, em không muốn tới chỗ bà thầy bói và cả lũ bọn anh thì đã hơi…

-…ngu ngốc, mà trước nhất là em, Alice vừa nhìn Anton vừa tiếp lời. Giờ em có một câu hỏi thú vị hơn nhiều. Mọi người sẽ làm gì vào đêm Giáng sinh?

Carol về St. Mawes sum họp cùng gia đình. Anton ăn tối tại nhà bố mẹ. Eddy đã hứa sẽ qua nhà chị gái, mấy đứa cháu anh mong được gặp ông già Noel và anh rể Eddy đã hỏi ướm xem anh có muốn đảm nhận vai này hay không. Anh ấy thậm chí đã thuê hẳn một bộ đồ giả trang. Thật khó từ chối được khi người anh rể đã nhiều phen cứu nguy cho cái ví của anh mà không hề hé lộ nửa lời với cô chị. Còn Sam được mời tới bữa tiệc do ông chủ tổ chức giúp cho trẻ em ở trại mồ côi Westminster, anh được giao nhiệm vụ phát quà cho đám nhỏ.

– Thế còn em, Alice? Anton hỏi.

– Em… em cũng được mời đi dự tiệc.

– Ở đâu vậy? Anton nài thêm.

Carol liền đá vào ống chân anh. Cô vừa lấy một gói bánh quy từ trong túi xách ra vừa than rằng mình sắp chết đói tới nơi. Cô mời mỗi người một phong bánh Kit Kat rồi đưa mắt liếc xéo Anton lúc này đang xoa xoa bắp chân vẻ đầy bực tức.

Tàu vào ga Victoria. Mùi khói hăng hắc từ đầu máy lan tỏa khắp sân ga. Dưới chân những cầu thang lớn, mùi phố xá thật không dễ chịu chút nào. Màn sương mù dày đặc bao phủ cả khu phố, bụi than bay ra từ lò sưởi đã đốt suốt cả ngày trời trong các hộ gia đình, đám bụi lơ lửng xung quanh những cột đèn đường lắp bóng vonfram đang tỏa ra thứ ánh sáng màu cam yếu ớt ảm đạm giữa làn sương.

Năm người bạn đứng chờ xe điện tới. Alice và Carol xuống xe trước tiên, hai cô ở cách nhau có ba con phố.

– Này, Carol nói lúc chào tạm biệt Alice khi tới trước tòa nhà cô ở, nếu cậu thay đổi ý kiến và từ chối lời mời dự tiệc thì cậu có thể đón Giáng sinh ở St. Mawes, mẹ tớ luôn mơ được gặp cậu. Tớ thường kể về cậu trong thư và mẹ tớ chết mê cái nghề của cậu.

– Cậu biết đấy, tớ thực chẳng biết nói về nghề của mình thế nào cả, Alice nói thay lời cảm ơn.

Cô ôm hôn bạn mình rồi bước lên cầu thang.

Cô nghe thấy ngay phía trên đầu tiếng bước chân người hàng xóm đang trở về nhà. Cô dừng lại để không chạm mặt anh ta trên thềm nghỉ, giờ cô chẳng còn tâm trí nào mà cãi vã.

* * *

Bên trong căn hộ của cô lạnh chẳng kém gì ngoài đường phố Luân Đôn. Alice vẫn mặc nguyên áo măng tô và đeo bao tay hở ngón. Cô đổ nước vào ấm, đặt lên bếp rồi với tay lấy hộp chè trên giá gỗ, thấy bên trong chỉ còn vài ba cọng sót lại. Cô mở ngăn kéo của chiếc tráp nhỏ đựng cánh hoa hồng khô đặt trên bàn làm việc. Cô vò nát vài cánh thả vào ấm trà, rót nước sôi, chui vào giường nằm rồi mở quyển sách đang đọc dở hôm qua ra.

Đột nhiên, căn phòng chìm trong bóng tối. Alice đứng thẳng trên giường nhìn ra ngoài mái kính. Cả tòa nhà tối đen. Những lần cắt diện diễn ra như cơm bữa thường kéo dài tới tận

sáng sớm. Alice lần mò tìm nến; một đụn sáp nhỏ nằm cạnh bồn rửa giúp cô nhớ ra rằng mình đã dùng đến cây nến cuối cùng từ tuần trước.

Cô gắng châm lại bấc nến nhưng vô ích, ngọn lửa chập chờn, nổ lẹt đẹt rồi tắt ngóm.

Tối ấy, Alice những muốn viết, muốn ghi chép về nước biển, về những vòng quay ngựa gỗ cũ kỹ, về những thanh lan can bị bọt sóng ăn mòn. Tối ấy, chìm trong bóng đêm đen kịt, Alice không thấy buồn ngủ. Cô tiến về phía cửa ra vào, lưỡng lự, rồi thở dài, đành lòng bước qua thềm nghỉ tới hỏi xin sự giúp đỡ của người hàng xóm một lần nữa.

Daldry mở cửa cho cô, trên tay cầm một cây nến. Anh mặc chiếc quần ngủ cotton cùng áo pull cao cổ, bên ngoài khoác áo choàng ngủ bằng lụa màu xanh nước biển. Ánh nến hắt lên khiến khuôn mặt anh mang một sắc rất kỳ cục.

– Tôi đang chờ cô đây, thưa cô Pendelbury.

– Anh chờ tôi sao? cô ngạc nhiên đáp.

– Kể từ lúc mất điện. Tôi chưa mặc áo choàng đi ngủ, cô thấy đấy. Cô cầm đi, đây chính là thứ mà cô sẽ yêu cầu tôi! Anh vừa nói vừa lấy từ trong túi ra một cây nến. Đúng là thứ cô cần tìm chứ, phải không?

– Anh Daldry, tôi rất lấy làm tiếc, cô vừa nói vừa cúi đầu xuống, tôi sẽ thậm nhớ tới chuyện mua thêm nến.

– Tôi không chắc lắm đâu, thưa cô.

– Anh có thể gọi tôi là Alice, anh biết đấy.

– Chúc ngủ ngon, cô Alice.

Daldry đóng cửa lại còn Alice quay về căn hộ của mình. Nhưng chỉ một lát sau, cô lại nghe tiếng gõ cửa. Alice ra mở cửa, Ngài Daldry đang đứng trước cửa nhà cô, hộp diêm trên tay.

– Tôi giả thiết rằng cô cũng thiếu cả thứ này nữa? Nến sẽ hữu ích hơn nếu được thắp sáng. Đừng nhìn tôi như vậy chứ, tôi không phải thầy bói đâu. Lần trước, nhà cô cũng chẳng còn diêm, và vì muốn được yên thân mà đi ngủ nên tôi thấy hành động trước thì tốt hơn.

Alice cố tránh không thú nhận với người hàng xóm là cô đã dùng đến que diêm cuối cùng để đun nước trà. Ngài Daldry châm bấc nến và có vẻ hài lòng khi ngọn lửa cháy chờm lên sáp nến.

– Tôi đã nói điều gì khiến cô phiền lòng chăng? Daldry lên tiếng hỏi.

– Chúng ta chẳng đang ở trong bóng tối sao, Ngài Daldry.

– Nếu tôi phải gọi cô bằng tên thì cô cũng nên như vậy. Tên tôi là Ethan.

– Được thôi, vậy tôi sẽ gọi anh là Ethan. Alice đáp lại rồi mỉm cười với người hàng xóm.

– Nhưng dù cô nói gì chăng nữa thì trông cô vẫn có vẻ phật ý.

– Chỉ là tôi mệt thôi.

– Vậy thì tôi không quấy rầy cô nữa. Chúc ngủ ngon, cô Alice.

– Chúc ngủ ngon, anh Ethan.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN