“Mau đứng lên! Mau đứng lên!” Hồ lang trung nâng Nhị Bảo lên và thở dài: “Vi sư còn tưởng sẽ không được gặp lại con nữa!”
Nhị Bảo xoa mắt đứng lên sau đó khom lưng hành lễ với Hồ Khánh Hoa đứng ở một bên: “Sư huynh!”
Hồ Khánh Hoa gật đầu, vài người khác cũng quen Nhị Bảo nên sôi nổi chào hỏi.
Đại Bảo và Ân Tu Trúc cũng chào hỏi mọi người, cuối cùng Hồ Khánh Hoa cảm thán: “Aizzz, y quán đã bị đốt sạch rồi, giờ chỉ có thể xây lại!”
Nhị Bảo nói với Hồ lang trung: “Trong một chốc một lát y quán sẽ chưa thể như cũ được, nếu sư phụ không chê thì ngài cứ ở lại Đào gia thôn! Vừa lúc một nhà cha vợ con cũng ở đây, ngài và cha vợ con quen biết đã lâu, ở cùng một chỗ cũng náo nhiệt.”
Hồ lang trung cười nói: “Được, quá tốt! Ta sẽ tới Đào gia thôn ở một thời gian.
Qua mấy phen tai họa còn có thể gặp được người quen đúng là quá tốt! Khánh Hoa, con đi đánh xe ngựa tới đây, chúng ta xuất phát ngay đi, chuyện khác chờ tới Đào gia thôn lại tính!”
Hồ Khánh Hoa gật đầu rồi mang theo con trai đi đánh xe.
Chỉ có một cái xe ngựa cho nữ quyến và trẻ con ngồi, Hồ lang trung và Hồ Khánh Hoa thì ngồi ngoài xe, còn những người khác thì đi bộ.
Mấy người Nhị Bảo thì cưỡi ngựa tới.
Mười hai năm trước Ân Tu Trúc mang tới ba con ngựa, một con đã để lại nhà họ Đào còn hai con hắn giữ.
Hiện tại ngựa đã già, không thể dùng để ra chiến trường nhưng vẫn có thể chở hàng hóa và người.
Lúc này ba con ngựa được lấy ra để Hồ lang trung và Hồ Khánh Hoa cưỡi hai con, còn một con để hai thiếu niên cưỡi.
Mọi người vừa đi vừa nói chuyện cũ trong hai năm thiên tai.
Nhị Bảo nói: “Sư phó, nghe nói toàn bộ dân cư trong thành Thục Châu đều bị tàn sát hết, vậy vì sao một nhà của ngài lại tránh được kiếp nạn ấy?”
Hồ lang trung thở dài: “Aizzz! Nói ra thì dài.
Năm ấy hạn hán chúng ta không ở lại trấn trên được nữa nên tới một nhà thân thích ở Thục Châu cậy nhờ.
Vị thân thích kia của ta cũng mở y quán, chúng ta qua đó cùng làm việc, xem bệnh cứu người rồi chờ hạn hán đi qua sẽ về.
Ai biết Thục Châu lại gặp lũ lụt, vì thế chúng ta đành ở lại một thời gian nữa.
Rồi sau đó chính là kiếp nạn của ‘Bát Đại Vương’.
Hắn mang theo mười vạn phỉ tặc chiếm Thục Châu, cùng ngày hắn phong tỏa cửa thành, chém đầu toàn bộ quan viên và treo trên cửa thành!”
Hồ lang trung tạm dừng trong chốc lát mới chậm rãi nói: “Mà cái tên ‘Bát Đại Vương’ này kỳ thực có chút quen biết với ta!”
Ngoài người nhà của Hồ lang trung thì Đại Bảo, Nhị Bảo và Ân Tu Trúc đều ngây ra.
Bọn họ nhìn về phía Hồ lang trung, nỗ lực tưởng tượng sâu xa trong đó.
Hồ lang trung nhìn thấy thần sắc kia thì cũng chẳng ngạc nhiên mà chỉ nhàn nhạt nói: “Năm đó ta ở Thục Châu đi theo cậu họ học y.
Nhà cậu ấy ở Liễu Noãn phố trong thành Thục Châu, ta học xong vẫn ở lại đó giúp cậu điều hành y quán.
Lúc ấy ta ăn ở đó luôn và nhớ có một năm vào ban đêm có người vội vàng gõ cửa y quán.
Là ta đứng dậy mở cửa, sau đó cậu ta cũng mặc áo ra ngoài thì thấy một thiếu niên mặt mũi thống khổ vì bị hoắc ma cọ trầy mông.
Cậu ta là người làm y lâu năm nên biết phải làm gì, ông ấy nhanh chóng bảo ta múc nước, lại rửa sạch chỗ bị thương cho kẻ kia và đắp thuốc lên.
Trước khi đi hắn dập đầu tạ ơn cậu ta và nói sau này chắc chắn sẽ báo đáp! Ta nhớ rõ khi ấy cậu ta cười nói: ‘Lá hoắc ma có độc, chỉ cần dán thuốc này vào là khỏi, cũng không có gì phải lo ngại! Về sau ngươi phải chú ý một chút!’ Ai biết qua nhiều năm thiếu niên kia lại thành ‘Bát Đại Vương’.
Cậu ta thì đã sớm qua đời nhưng tên kia vẫn tới phố Liễu Noãn báo ân.
Hắn bảo chúng ta cắm cành liễu trước cửa nhà, như thế binh lính của hắn sẽ không giết hại chúng ta!”
Nhị Bảo hỏi: “Sư phụ, mọi người cắm cành liễu nên mới sống sót ư?”
Hồ lang trung gật đầu nói: “Lúc ấy thời gian cấp bách, chúng ta truyền được tin này ra ngoài thì thành Thục Châu đã vang lên tiếng than khóc khắp nơi.
Dân cư của phố Liễu Noãn được tin thì đều cắm cành liễu trên cửa, vì thế cả phố may mắn sống sót!”
Ân Tu Trúc nghe Hồ lang trung nói xong thì cũng cảm thán.
Năm ấy người dân của La Mã phố khinh người, gieo quả đắng cuối cùng tự mình phải nuốt.
Năm ấy lang trung của phố Liễu Noãn hành thiện tích đức, cuối cùng ở hiền gặp lành.
Duyên phận của mọi người trên thế gian đều khác nhau, có người tạo nghiệt lại có người làm việc thiện, dù sao cũng chỉ khác nhau ở một ý niệm này mà kết quả lại hoàn toàn khác biệt!
Hồ lang trung nói: “‘Bát Đại Vương’ mang tội nghiệt quá nặng, chung quy chết thảm cũng đáng.
Trời đất này cũng đã đổi chủ, những kẻ chiếm quan ngoại cũng đã lập ra Thanh quốc.
Bát Đại Vương chính là bị binh lính của Thanh quốc tiêu diệt, nghe nói tuần phủ mới của Thục Châu đã tới nhậm chức.
Nhưng Thục Châu lúc này mười dặm hoang vắng, trên đường chỗ nào cũng là cỏ dại, chẳng ai ở nổi.
Thục Châu phủ đã dời tới huyện Lãng, quan viên Thanh triều cũng đều tới đó ở.
Bọn họ đang truy nã dư đảng của Bát Đại Vương, chúng ta chỉ cần chờ thế đạo thái bình là có thể khởi hành về quê.”
Nhị Bảo an ủi: “Sư phụ, binh sĩ tân triều đã hỗ trợ tiêu diệt Bát Đại Vương, Thục Châu của chúng ta từ đây sẽ được thái bình nên ngài cứ an tâm.
Chờ chúng ta xây lại y quán ở trấn trên ngày tháng sẽ dần trở lại như cũ!”
Hồ lang trung gật đầu hỏi Nhị Bảo về tình huống của ý xá tại Đào gia thôn thế là hắn cười nói: “Tình hình rất tốt, con có thể trị bệnh cứu người, giúp đỡ làng xóm là con đã thỏa mãn!”
“Ừ, con là đứa nhỏ thông minh, y thuật tốt, chỉ cần cố gắng thì qua thời gian nhất định con sẽ vượt qua vi sư!” Hồ lang trung khen.
Nhị Bảo khiêm tốn nói: “Sư phụ quá khen!”
Hồ lang trung về quê nhà gặp được đệ tử nên tâm tình rất tốt, nói cũng nhiều hơn.
Lúc đoàn người tới Đào gia thôn đã thấy thật nhiều người ra đón.
Lúc các thôn dân biết được tình cảnh Hồ lang trung gặp phải khi ở Thục Châu thì đều than thở.
May mà năm ấy ông gieo quả thiện nên mới bảo vệ được tính mạng cả nhà.
Mà lúc bọn họ biết được triều đại đã thay đổi thì lại càng cảm thán.
Nhưng dù sao bọn họ cũng không quá quan tâm chuyện ai lên làm vua, chỉ cần quân chủ mới có thể quản lý thiên hạ cho tốt để bọn họ được trải qua ngày tháng vui vẻ trước kia là đã tốt rồi.
Bọn họ biết quan binh tân triều đang truy nã đám dư đảng của Bát Đại Vương thì hoan hô vui vẻ, rốt cuộc ngày tháng cũng đã thái bình trở lại.
Một nhà Hồ lang trung tới thế là Đào Tam gia cực kỳ vui mừng, sắp xếp cho nhà ông tới Ân gia ở.
Lúc này có một nhà Vương Thuận, Lý chưởng quầy và Hồ lang trung đều đã tới Đào gia thôn ở tạm.
Người nhiều lương thực cũng không đủ ăn, nhưng may mắn Ân Tu Trúc và Phan chưởng quầy còn nhiều lương thực tồn nên dù chỉ có cháo loãng dưa muối nhưng cũng coi như bình an, tiêu dao.
Không lâu sau huyện lệnh mới mà Thanh quốc cử xuống đã tới.
Sai dịch cũng vào việc, thế đạo cuối cùng cũng được an ổn.
Phan chưởng quầy, Lý chưởng quầy và Hồ lang trung đều thương lượng về việc trở lại trấn trên khai trương cửa hiệu.
Ba người thương lượng xong lại mang theo con rể và học trò bận rộn.
Nhà của Vương Thuận ở trấn trên đã bị đốt sạch, anh em hắn lại ở quê nhà nơi xa nên sau khi bàn với vợ hắn cũng quyết định quay về trấn trên tiếp tục làm việc thu mua heo.
Trong thôn nhiều lao động, mọi người đều chủ động lên trấn trên giúp đỡ, đương nhiên tiền công cũng không thiếu.
Chờ cửa hàng ở trấn trên xây xong Phan chưởng quầy, Lý chưởng quầy và Hồ lang trung cùng Vương Thuận dựa theo thương lượng trước đó mà hợp lực bày 30 bàn tiệc rượu khao già trẻ cả thôn một bữa, cảm tạ bọn họ đã giúp đỡ trong năm thiên tai.
Người trong thôn đã lâu không được ăn tiệc rượu nên đều vui vẻ tới nhà Đào Tam gia ăn tiệc.
Tám món lớn ngon lành thơm nức lại béo ngậy đối với thôn dân thiếu thốn suốt một thời gian dài đúng là quá mê người.
Mọi người đều ăn uống thoải mái, cuối cùng còn dùng màn thầu quét sạch bát một lượt.
Nhưng dù miệng hưởng thụ thì dạ dày lại không tiếp thu được, rất nhiều người về nhà là lập tức lao vào nhà xí.
Y xá của Đào gia chen đầy người, đều là ăn uống quá nhiều nên chướng bụng, đau dạ dày này nọ.
Những người mời tiệc thấy thế thì hơi ngượng, cảm thấy chuyện tốt thành chuyện xấu.
Nhưng Đào Tam gia lại vui tươi hớn hở an ủi : “Không sao, bọn họ chắc chắn không trách mọi người đâu, trong lòng bọn họ khẳng định đang tiếc tiệc rượu ăn vào không kịp tiêu hóa ấy!”
Quả nhiên Đào Trường Tổ mới vừa ngừng đi ngoài đã đi từ y xá vào nhà oán giận với Đào Tam gia: “Tam thúc à! Một bàn tiệc rượu và thức ăn hôm qua đi tong rồi, cháu cố ăn đến răng lợi cũng nhức mỏi nhưng ai biết mới vào bụng được nửa canh giờ mà cái bụng không biết cố gắng này lại giở trò! Đáng tiếc quá! Quá đáng tiếc!”
Đào Tam gia và những người khác đều cười sau đó ông nói với Đào Trường Tổ: “Ai bảo ngươi tham ăn, chỉ biết sướng cái miệng!”
Đào Trường Tổ thở dài: “Aizzzz! Cháu đúng là cái mệnh nhà nghèo, vất vả lắm mới được một bữa ngon thế mà không có phúc hưởng! Tam thúc, cháu thấy thúc ăn hai cái màn thầu, một bát thịt chưng, thế thúc có bị đi ỉa chảy không?!”
Đào Tam gia tức thổi râu: “Đúng là miệng chó không khạc được ngà voi! Ta đâu có tham như ngươi, một bát ăn xong còn ăn bát nữa, cuối cùng còn quệt cả đáy bát!”
Đào Trường Tổ cười haha nhưng không đợi cười xong hắn lại che bụng oán giận: “Ai da, thuốc này sao mà chậm thế, cháu lại muốn đi nhà xí rồi! Tam thúc, nhà xí nhà thúc ở đâu thế?!”
Đào Tam gia hừ hù: “Ta khuyên ngươi vẫn nên về nhà đi, nhà xí nhà ta có cả đống người đang chờ dùng kia kìa!”
Đào Trường Tổ không tin, vẫn ôm bụng tới sân sau, quả nhiên hàng ngũ dài ngoẵng.
Hắn tức quá mắng đám người đang xếp hàng: “Đám nhóc thối các ngươi sao mà lười thế? Các ngươi tay chân dài sao không về nhà mà chen ở đây làm gì?”.