Cổ Cồn Đỏ - Forest Hill
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
136


Cổ Cồn Đỏ


Forest Hill



Vẫn là một buổi sáng le lói ánh bình minh ở thị trấn Forest Hill như bao ngày khác. Ánh mặt trời yếu ớt đi từ từ lên tới đỉnh đồi, không đủ để chiếu sáng toàn bộ dân cư được bao phủ bởi một khu rừng xanh rì dày đặc cây thông và sồi. Tại đây, sương mù thường xuyên bủa vây, cùng những đợt gió lớn chốc chốc lại làm lay động những hàng cây yên ắng, đem tới cho mảnh đất ngoại ô vùng Tây-nam London này bầu không khí lạnh lẽo lạ thường.

Như thường lệ, mọi người thức dậy từ sớm để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Họ mặc lên bộ đồng phục, chuẩn bị bữa sáng cho gia đình, không quên hôn lên trán những đứa con trước khi đi làm. Từng cánh cửa của mỗi ngôi nhà được mở ra; người già, người lớn cho đến trẻ em đều mỉm cười hoặc chào hỏi nhau, chào hỏi cảnh sát trưởng nếu họ gặp ông, như một phép lịch sự bình thường. Cảnh sát trưởng luôn là người dậy sớm hơn tất cả và trở về nhà sau cùng.

– Buổi sáng tốt lành, Olivia. – Joseph vẫy tay, mỉm cười với cô bé đang đi từ phía con đồi nhỏ xuống thị trấn.

– Good morning, shérif.1 – Olivia cười lại với ông.

– Ồ! Xem ai đang nói tiếng Anh kìa. – Cảnh sát trưởng thốt lên đầy ngạc nhiên.

– Cháu mới học được một chút thôi. – Olivia bẽn lẽn trả lời. – Phải đi học đây ạ.

1

Sheriff là tiếng Anh, còn Shérif là tiếng Pháp.

Viết như vậy với mục đích chỉ ra rằng cách phát âm tiếng Anh của Olivia vẫn nặng nề tính “Pháp”.

Cảnh sát trưởng nói lời tạm biệt, tiếp tục con đường đi tới đồn. Sau vài lần tiếp xúc ông thấy Olivia cũng chỉ là một đứa trẻ bình thường. Ngoài việc mau nước mắt và dễ hoảng hốt ra, không cần bận tâm quá nhiều về nhóc. Kẻ mà ông tò mò là “bố” nó – Reginald, anh bạn trẻ bí ẩn luôn tỏ ra xa lánh mọi người và chẳng bao giờ rời khỏi nhà vào mỗi sáng.

Olivia đi tới trường học của thị trấn, nơi con bé được dạy chữ – điều mà nó đã biết từ lâu – và một vài thứ khác mà chỉ nghe cái tên thôi, nó đã cảm thấy đầu mình nặng trĩu muốn gục xuống bàn. Ánh nhìn hiếu kỳ không mấy thiện cảm từ những học sinh nét mặt mờ mờ hao hao nhau trao cho Olivia làm con bé nuốt khan. Không khí xung quanh đây còn đáng sợ và bức bách hơn cả trong lâu đài của Reginald.

– Xin chào các quý cô và các quý cậu. Hôm nay, trước khi buổi học bắt đầu, tôi muốn giới thiệu cho các cô một thành viên mới đến từ nước Pháp… – Bà giáo già cất giọng cao kiểu cách, kéo một cô bé rụt rè đứng trong góc lớp ra. – Hãy chào mừng Olivia van Schoolderwalt.

“Eo! Nhìn nó kìa!”

“Tớ gặp nhiều người Pháp rồi, họ chẳng giống nó chút nào đâu! Có chắc nó là người Pháp thật không?”

Những tiếng bàn tán xôn xao trong lớp lọt vào tai Olivia. Có câu con bé hiếu được, có câu thì không.

– Thưa cô McAngus, chúng ta nên nhắc cho học sinh mới quy định về trang phục và đầu tóc chứ? – Một đứa con gái tóc màu vàng đất giơ tay. Nó trông cũng xinh nếu đánh giá từ quan điểm thông thường của người lớn đối với những thiếu nữ thành thị sành điệu. Tuy nhiên, nó đang ở ngoại ô.

– Đúng vậy. Cảm ơn Catherine. – Bà McAngus nhìn Olivia. – Cô van Schoolderwalt, trường học là một nơi đòi hỏi rất cao về tính kỷ luật, tự giác và tập thể. Ở đây, chúng tôi yêu cầu mọi cô gái và chàng trai phải cư xử đúng mực, bắt đầu từ việc ăn mặc chỉnh tề và để tóc gọn gàng.

Olivia trông khắp căn phòng: tất cả đều mặc những bộ trang phục na ná nhau, để giống nhau, thậm chí tư thế ngồi hai chân song song — tay trái vuông góc với tay phải, đặt giữa mặt bàn — cũng giống nhau một cách quá chính xác. Thật sởn gai ốc! Cái thứ quy tắc này còn gò bó hơn cả những điều Reginald đặt ra!

– Van Schoolderwalt, sao còn chưa vén tóc lên? – Lũ con gái cười cợt.

Olivia miễn cưỡng cầm lấy chiếc dây chun từ tay bà McAngus. Cô bé bặm chặt môi, túm mái tóc xoăn lên.

– Mau! – Catherine giục giã.

“Ối! Quái vật!”

Lũ con gái hét toáng, và đám con trai bụm miệng cười. Trước mặt chúng bây giờ không phải là một con bé người Pháp mắt xanh lam, gầy còm và lùn tịt nữa; mà là một đứa mắt lác, sống mũi lấm tấm đốm tàn nhang, gầy còm và lùn tịt. Olivia nín thở, nghiến chặt lấy móng tay, cố gắng không để nỗi mặc cảm bùng nổ vào lúc này. Chuyện mắt lác là một trong những bí mật nho nhỏ mà nó đã muốn giấu khỏi mọi người bằng mái tóc lòa xòa. Giờ thì bí mật đã được bật mí, dựa vào thái độ mà đám nữ sinh giành cho mình, con bé biết từ giờ trở đi nó sẽ được hưởng một chuỗi những ngày tháng vô cùng tồi tệ ở cái nơi mà người ta vẫn tin tưởng gửi con cái tới để được giáo dục này.

“Xấu xí thảm hại!” – Olivia nghe thấy Catherine thì thầm điều này với đứa con gái ngồi cạnh, cố tình để Olivia nghe thấy. Hành động ấy không được “quý cô” cho lắm.

“Xấu đau xấu đớn!” – Và những tiếng cười lầm rầm lại vang lên.

Cảnh sát trưởng đẩy cánh cửa đồn, bật công tắc điện và đặt tấm thẻ tên của mình lên bảng phân công. Ông sắp xếp lại bàn một chút trước khi ngồi xuống, lấy từ ngăn kéo ra cuốn sổ theo dõi. Đưa mắt liếc nhanh qua cột của những ngày trong tháng Mười, ông điền tiếp vào các ô trống:

“Tháng Mười, 12, 1906 – Số lượng truy nã: 00 – Số lượng mất tích: 01 – Đối tượng: Allan Harrison – Tình trạng: chưa tìm thấy(…)”

Joseph tạm ngừng bút, lấy ra một điếu thuốc lá. Khẽ hít một hơi, cảnh sát trưởng chép miệng vài cái với vị chát nơi đầu lưỡi. Thuốc lá là người bạn gần như không thể tách rời với ông. Nó xoa dịu ông khi ông căng thẳng, nó rũ sạch ông khỏi cơn buồn ngủ và giúp ông tạm thời quên mất sự hiện diện của nỗi cô đơn khi đi tuần một mình trong đêm vắng. Forest Hill có vẻ là một nơi bình lặng và yên ắng, nhưng không phải vì thế mà các cảnh sát viên được thảnh thơi. Thỉnh thoảng vẫn có những tên nghiện hút, say xỉn hoặc trộm cắp lai vãng nơi đây; tuy nhiên, số lượng của chúng cũng chẳng đáng lo ngại là bao. Giờ, sự mất tích khó hiểu của chàng cảnh sát bán thời gian Allan báo hiệu cho cảnh sát trưởng biết: một Forest Hill an toàn và yên bình (mà ai cũng muốn) chỉ là mong ước xa vời.

Những lúc rảnh rỗi hoặc cảm thấy bế tắc, hay buồn tẻ; tôi lại làm một điếu thuốc, đi dạo vòng quanh khu rừng trên núi và vùng lòng chảo bên kia. Giờ này, trẻ em nhỏ ở nhà chơi cùng người già và mẹ, trẻ em lớn hơn thì đến trường, người ở thung lũng vẫn chăm sóc cho đàn bỏ trong trang trại, cảnh sát vẫn ngồi hút thuốc ở đồn để giết chết sự nhàm chán… Mọi thứ ở Forest Hill cứ đơn giản như vậy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Ngắm nhìn những cuộc sống bình dị ở đây là một trong những thú vui nho nhỏ của tôi, chia sẻ thật lòng đó.

Kết thúc buổi học, Olivia giật đứt sợi dây đang thít chặt lấy cái cục bù xù trên đầu, bới tung mái tóc. Tờ giấy báo cáo mất tích của cảnh sát treo ở quảng trường thu hút sự chú ý của nhóc. Nhóc nhìn vào, giật mình vì nội dung. Con bé đang rất bực, chỉ muốn về càng nhanh càng tốt. Nó muốn xông vào phòng mà hành hạ những cái gối, và nó cũng cần phải về nói với Reginald về tờ báo cáo.

– Ối!

Olivia va phải một người phía trước, mạnh đến nỗi người con bé bị bật ngược ra sau.

– Đi cẩn thận chứ. Cháu có sao không? – Một giọng nói trầm và nhẹ nhàng, hơi khàn, có vẻ là của người cao tuổi. Người đàn ông phủi lại quần áo, đặt bàn tay lên đầu Olivia.

Đứa trẻ vụng về ấy ngước lên, ông già mỉm cười với nó. Khóe miệng rộng của ông chếch lên khiến nụ cười trông rất tự nhiên và hiền lành, nhưng vóc dáng cao lênh khênh của ông đã dọa nó sợ. Con bé chạy vụt.

Jules mở khóa cửa phòng bố mình, lẻn vào trong. Cô cần làm rõ một số điều trước khi ông về nhà vào buổi tối muộn. Lục lọi khắp các ngăn kéo, tủ, túi áo quần… tất cả những gì Jules tìm được là một con số không. Rồi cô chợt nhớ ra…

Jules chạy tới cửa sổ, nơi đặt một khung ảnh đen trắng bên cạnh bình hoa cắm những nhành loa kèn heo héo. Cô kéo cửa, trèo ra ngoài lan can, nhìn về hướng bồn hoa. Có phần đất trong bồn bị hụt một góc, Jules cầm xẻng làm vườn đào chỗ đó lên. Chứng kiến tận mắt vật thể được giấu bên dưới, đứa con chỉ biết vứt xẻng đi mà khóc.

Sau sức nóng ban trưa, lớp màn sương tan đi, để lại một bầu trời quang mây rực sắc đỏ cam. Hàng triệu tia nắng len lỏi từng ngôi nhà, đổ bóng đen ra phía sau ngọn đồi rậm rạp cây xanh. Những con người đang làm việc vất vả cũng cố gắng đẩy nhanh tiến độ hơn, biết họ sắp tới lúc được trở về. Bất cứ ai có đủ kiên nhẫn chờ tới hoàng hôn đều sẽ được chứng kiếm khoảnh khắc ấy, đặc biệt rõ thấy nhất vào mùa thu.

Về tới lâu đài, Olivia thấy Reginald đã thức dậy.

– Reginald, người mất tích hai tuần nay…

Reginald nhìn lướt qua tờ giấy, chính là cậu thanh niên tên Allan mà Olivia và gã đã gặp lần trước.

– Chuyện này ta đọc báo rồi.

– Tức là ngài đã biết?

Reginald gật đầu.

– Ta rất tiếc vì chuyện của cậu Harrison. Nhưng, có thứ quan trọng hơn nhiều, Olivia.

Ánh mắt khó đăm đăm của Reginald làm Olivia thấy lo lắng theo. Đứa nhóc ngờ nghệch không hiểu được rằng, một khi cảnh sát đã bắt tay đi tìm Allan, họ sẽ điều tra ra được tất cả những gì dính líu đến cậu ta — bao gồm John-Michael, sau đó tới kẻ đã giết hắn, và cuối cùng là Olivia. Nhóc lùn ấy cũng không nằm ngoài phạm vi.

Ánh hoàng hôn cuối cùng vừa tắt, nhắc nhở đã đến lúc mọi người cần phải quay về nơi trú ẩn của họ, và cũng là lúc Forest Hill trở về với phần tối của nó. Người ta hối hả trở về, có thể vì họ mong được cùng gia đình vây quanh chiếc bàn đầy cá và súp rau, cũng có thể vì chuyện khác. Họ đóng chặt hết cửa, thắp lên vài ngọn đèn tỏa bóng sáng tròn qua tấm rèm. Sự kết hợp của tiếng đổ vỡ và tiếng cãi nhau tạo thành một thứ điệp khúc chói ta cứ chốc chốc lại vang lên quanh khu dân cư. Thật may mắn vì lâu đài của Olivia ở cách khá xa, nhóc không phải giật thót như những đứa con trong các hộ gia đình mỗi khi cha mẹ chúng cất lên bài ca bạo lực.

Olivia ăn tối một mình. Từ bãi cỏ xanh mướt của lâu đài cũ nát, phóng tầm mắt ra là đã có thể chiêm ngưỡng những mái nhà ngói nâu gạch lác đác giữa cảnh rừng mờ ảo bảng lảng sương khói phía bên dưới. Nhưng, cảnh tượng con bé không thể thấy, là những con người đang sống chung dưới bao mái nhà ấy có thể làm nhau đau đớn đến mức nào.

Khi trời đã tối hẳn, Joseph dập điếu thuốc lá. Ông thay đồ, ký sổ giao ban và ngậm vài viên kẹo chanh trước lúc trở về nhà. Nghe loáng thoáng tiếng ai quát nạt, tuyên bố hắn là chủ cái nhà và mọi thứ phải được thực hiện đúng như ý hắn ta, Joseph thở dài. Việc bán dâm và tệ nạn đường phố chưa đủ tràn lan để trở thành vấn đề đáng lo ở thị trấn này, nhưng cảnh bạo lực gia đình thì sao mà thật phổ biến. Từ những gã nát rượu đầu đất vai u thịt bắp, cho tới những người đàn ông mặc áo khoác đóng cổ cồn.

“Harrison, thằng bé đã mất tích hơn hai tuần nay mà vẫn chưa tìm thấy…” – Joseph buồn bã nghĩ thầm trong lúc bước đi, vừa đi vừa lục lại những kỷ niệm của mình về Allan — chàng trai thuộc nhóm thanh niên tình nguyện. Cảnh sát trưởng đủ tỉnh táo để hiểu chuyện gì đã xảy ra với những người bị mất tích và kết cục của họ. Những người dân xung quanh thi nhau thêu dệt nên những câu chuyện có vẻ “hoang đường” về bầy người sống về đêm, những con quái vật hóa điên mỗi khi trăng tròn… Nghe thì hoang đường, nhưng Joseph tin họ.

Có tiếng kính vỡ đinh tai. Một chai rượu bay sượt qua Joseph, may sao ông tránh được! Cảnh sát trưởng cố lờ đi những âm thanh khó chịu, hy vọng chúng sẽ nhanh chóng kết thúc. Joseph không muốn phải nghe hay phải chứng kiến những cảnh tượng xót xa ấy, ông muốn việc vợ chồng hành hạ nhau, cha mẹ hành hạ con cái hay bất cứ ai hành hạ ai, đều phải chấm dứt. Nhưng, luật pháp chẳng bảo vệ người nạn nhân, và viên cảnh sát chẳng thể làm gì hơn.

– MỞ CỬA RA! – Joseph bước tới trước ngôi nhà gần nhất, quát lớn.

Cánh cửa bật mở. Không gian bỗng trở nên yên ắng lạ thường. Đột nhiên, cảnh sát trưởng đáng kính một tay túm lấy cổ tên chồng vũ phu, tay còn lại thụi bẹp mũi hắn. Tiếng đấm và tiếng thở hồng hộc kích động một cuộc gào thét của đám đàn bà cùng con nít. Gã ấy đánh vợ vì uống rượu say. Gã say và đánh vợ mình nhưng lại không đánh trả cảnh sát trưởng, cứ nằm lì dưới đất, mặc cho hai hốc mắt mình tím đen lại và mũi vẫn ồng ộc máu. Cảm giác bị một người đàn ông giận dữ đánh là đây, giống như thứ mà vợ con hắn đã từng trải qua. Vậy nên hắn không dám chọn người ngang sức với mình? Vậy nên hắn không dám đánh nhau với những người to con như hắn?

Joseph vẩy chỗ máu trên tay, cứ thế mà đi về.

Người ở Forest Hill vốn không hay quan tâm chuyện nhà khác cũng như không thích người khác can thiệp vào chuyện nhà mình, họ coi đó là một sự sỉ nhục, một nỗi hổ thẹn khi phải nói cho ai đó biết tình trạng thảm hại của bản thân. Hơn nữa, chẳng có điều luật nào giúp người phụ nữ hay đứa trẻ lên tiếng về việc mình bị chồng hay bố đánh, giúp một cô gái tố cáo cho cảnh sát biết mình bị cưỡng hiếp và kể lại trình tự sự việc ra sao, hay việc một người già nào có thể cầu xin sự giúp đỡ nếu bị ngược đãi bởi chính lũ con cái họ đã sinh ra và nuôi nấng… Cảnh sát chẳng đủ sức ngăn chặn những mầm mống tội ác đen tối đang len lỏi trong từng ngôi nhà ở đây. Với họ, chẳng có cái gì gọi là “công lý” hay “lẽ phải”. Những nạn nhân phải cam chịu quá lâu, họ không dám lên tiếng, chỉ biết khóc và lại lặng lẽ sống qua ngày.

Không khi nào Joseph không thấy mệt mỏi với việc phải đi giải quyết vấn đề của người khác. Nhưng trong thâm tâm, ông lại thấy có lỗi nếu bỏ rơi những con người tội nghiệp kia. Tiếng khóc rầu rĩ của họ sẽ quấy nhiễu ông cả đêm dài và nhiều ngày sau đó. Nỗi buồn chất chứa lâu ngày dần chuyển sang sự chán nản và mặc cảm, làm cảnh sát trưởng trở nên phẫn nộ tới mức tàn bạo. Nếu không thể thay đổi được suy nghĩ của họ, đành phải dùng chính cái cách họ đã gây tổn thương nhau mà phủ đầu, làm gương cho một loạt kẻ khác; để rồi mọi thứ lại trở về trạng thái ban đầu. Joseph biết việc cảnh sát dùng bạo lực chỉ mang tính chất cầm chừng và ngày càng bộc lộ rõ sự bất lực của mình. Đánh người không phải là việc làm đúng, nhưng ông đánh người để bảo vệ người — những người cần ông bảo vệ, vì thế nó cần thiết.

Chẳng phải giữ gìn trật tự và bảo vệ mọi người là trách nhiệm của cảnh sát trưởng?

Joseph mở cửa nhà, bắt gặp cô con gái đáng yêu. Jules có vẻ ngồi chờ ở ghế đã lâu. Biết không thể giấu con mãi, ông cười xòa, hy vọng nó sẽ tha thứ.

– Một ngày tốt chứ, con yêu?

Jules để ý thấy bàn tay bố mình trầy xước và dính máu. Nhưng với cô, có thứ còn quan trọng hơn cần phải giải quyết.

– Một điếu buổi sáng sớm cho tỉnh táo và một điếu sau khi đi làm về để thư giãn, bố hứa với con là bố chỉ hút từng ấy thôi mà!

– Jules, con à, bố…

– Bốn mươi mẩu, nhét cố nhét vội vào trong cái chậu hoa này! – Jules lia cái chậu hoa đầy mẩu thuốc lá ra phía trước. – Chắc bố định khi nào con đi ngủ thì phi tang phải không? Bố đã phi tang bao nhiêu cái chậu như thế? Một ngày bố hút trộm con bao nhiêu điếu?

– Con phải hiểu cho bố…

– Bố đã thề trên mộ của mẹ rồi! Mẹ sẽ nghĩ gì?

Joseph định đặt tay lên vai con, nhưng Jules giằng ra. Cô bỏ lên phòng mình, khóa cửa lại. Người bố vô cùng tức giận. Ông ném văng bao thuốc lá xuống sàn, ngồi vật xuống ghế, hai tay ôm lấy đầu. Chính Joseph cũng thấy hút thuốc chẳng có gì hay: Nó có vị đắng chát, nó làm răng ông vàng, làm người ông bốc mùi hôi hám, làm ông ốm yếu và ho ra những bãi đờm đen kịt không biết bao nhiêu đêm. Vậy tại sao cảnh sát trưởng không thể bỏ?

Bỗng nhiên Joseph thấy miệng mình khô rát, ngực ông nóng ran, đầu óc thì lờ đờ và chân tay bứt rứt không yên. Cơn nghiện thuốc lá lại tới, Joseph cố chịu đựng. Những điếu thuốc nằm ngổn ngang ở dưới sàn, im lìm trêu ngươi, dụ dỗ cảnh sát trưởng. Chúng làm con ông buồn, ông không muốn làm Jules buồn, khi mà cô là người duy nhất còn sống bên ông, là lý do khiến ông tiếp tục sống. Vì người vợ đã qua đời, vì con, Joseph đã thề sẽ không chạm vào thuốc lá nữa. Ông đã thề khoảng ba, hay năm lần thì phải? Ông chẳng nhớ nổi.

Và, Joseph túm hết những điếu thuốc vương vãi, chạy ra ngoài vườn. Hai tay ông run run châm điếu thuốc bằng que diêm nhỏ. Cảnh sát trưởng lúc này như một cái ống khói hình người. Vừa hút, ông vừa lấy tay lau đi những giọt nước mắt rơi, tự hỏi ý chí là cái gì khi cứ thề thốt, cứ cai rồi lại tiếp tục hút.

Reginald thả rơi cái xác, ngồi xuống bên gốc cây lớn trong khu rừng. Máu vấy ra khắp nơi: trên cỏ, trên quần áo và trên mặt gã. Thực tế, máu người không hẳn là thứ đồ uống hấp dẫn đối với gã, nhưng gã cần máu để tồn tại. Nếu ma cà rồng là một sinh vật bị nguyền rủa phải dành cuộc đời bất tử của mình trong cô đơn; thì với Reginald, lời nguyền đó còn kinh khủng gấp đôi. Bởi gã là một kẻ lạc lõng, thèm khát chính đồng loại của mình và bị truy đuổi cũng bởi chính đồng loại của mình. Vì lẽ đó, sống một mình nơi đồng không mông quạnh xem ra là giải pháp tốt nhất. Reginald cũng không thấy khó chịu cho lắm.

Việc sống một mình đem lại cho Reginlad cảm giác thoải mái và tự do nhưng cũng khiến gã trở nên lạnh lùng và trống rỗng. Không phải là Olivia không làm mọi thứ xung quanh Reginald trở nên rạng rỡ hơn một chút, nhưng sẽ thật đau đớn nếu một thời điểm nào đó đứa trẻ vẫn đang ngày ngày sống trong lâu đài này giờ chẳng là gì ngoài một phần ký ức của gã. Phải làm sao để bảo vệ chú chim nhỏ đó? Reginald đã từng nghĩ rằng Forest Hill sẽ là nơi để mình dừng lại, để từ bỏ và trốn thoát khỏi mọi thứ xô bồ ngoài kia. Rồi gã gặp Olivia, và mọi kế hoạch Reginald vạch ra bỗng chốc tan tành. Gã không chắc đó sẽ là một bước ngoặt dẫn gã đến những điều tốt đẹp hay tồi tệ hơn trong cuộc đời mình, và liệu việc cưu mang đứa nhóc có phải là một quyết định sai lầm. Gã không muốn có thêm bất cứ mối quan hệ hay tình cảm nào đối với con người. Họ đã gây quá nhiều đau khổ cho gã rồi. Ai có thể đảm bảo Olivia sẽ mãi là một đứa trẻ vô tư? Ai dám chắc rằng Olivia sẽ không bao giờ nhìn ra được bản chất của Reginald và sự thật về gã? Lúc ấy, liệu nó còn chấp nhận gã? Rốt cuộc phải làm như thế nào thì mới đúng với lời hứa gã ma cà rồng này đã hứa với một người?

Tôi mê cái vẻ đẹp tráng lệ của Forest Hill về sáng, khi ánh nắng đổ dài khắp rặng núi xanh trùng điệp. Đáng buồn thay, khung cảnh nên thơ nơi tôi sống – không như nhiều vùng núi non khác – lại chẳng được bóng đêm ưu ái là bao. Phải một đêm nào đó không trăng, không sao, hãy thử đi dạo một vòng từ khu rừng im lìm, lại lụp xụp tán lá, chốc chốc bị mấy cành cây khô quờ vào vai. Lên tới đỉnh đồi cao rồi, cứ giữ cho riêng mình cảm giác của bạn về trải nghiệm trong rừng ấy. Tôi biết mọi thứ đều không thể phán xét một cách đơn điệu, nhưng chính tôi đây vẫn chỉ thấy cái mà tôi muốn thấy, nghe những lời tôi muốn nghe và hiểu những điều tôi nghĩ mình đã hiểu.

Tôi từng cho rằng Forest Hill đúng là một nơi thật dễ mến, nhưng tất nhiên, trên đời này làm gì có thứ hoàn hảo. Thị trấn xanh xanh ấy không đến nỗi gây thất vọng, nhưng nó đem đến cho tôi rất nhiều cảm giác lẫn lộn – tích cực có, tiêu cực cũng không ngoại lệ.

Tôi thấy một người cảnh sát luôn gồng mình để giữ gìn sự yên ắng cuối cùng cho nơi ông ta sống nhưng rốt cuộc chẳng thể ngăn được mâu thuẫn và rạn nứt nảy sinh trong chính tổ ấm của ông ta.

Tôi thấy một nhóm nữ sinh tưởng chừng quý phái và thanh tao, được dạy dỗ đến nơi đến chốn trong trường học hóa ra lại chỉ là một đám quỷ cái xấu tính và hẹp hòi, sẵn sàng hùa nhau vào công kích bất cứ ai và bất cứ thứ gì không giống như chúng, những gì không nằm trong vòng kiểm soát của chúng.

Tôi chứng kiến hàng ngày cảnh những con người mong manh và yếu ớt cố tỏ ra rằng họ ổn và không cần được giúp đỡ; nhưng mỗi khi có chuyện xảy đến, họ lại khóc, rủa, thề, hy vọng vào một phép màu nào đó sẽ đến với cuộc đời mình.

Tôi biết một cậu thanh niên trót phải lòng một nam giới khác trong lén lút và sợ hãi trước những định kiến. Cảm giác bị chối bỏ, bị hắt hủi ám ảnh cậu ta đến mức dù biết gã mình đem lòng yêu chẳng là gì ngoài thứ cặn bã thẳng tay đánh đập kẻ yếu, cậu quá hèn và bi lụy để có thể từ bỏ và tự giải thoát cho bản thân.

Tôi quen một chàng cảnh sát chưa–chính–thức vẫn còn đang hừng hực nhiệt huyết tuổi thanh xuân — chưa kịp theo đuổi ước mơ của mình và nếm trải những vấp ngã — thì đã phải bỏ mạng một cách tức tưởi dưới cẳng của một con ngựa, sau đó là của một gã đàn ông.

Rồi tôi nhận ra kể cả một tâm hồn nhỏ yêu tự do và bay nhảy đến mấy rồi cũng trở nên mệt mỏi sau bao chuỗi ngày rong ruổi, bị đánh đuổi. Nó cứ lang thang khắp nơi, nhưng cuối cùng nó vẫn sẽ phải tìm đến một chốn nương thân yên ấm mà thôi.

Và, ai có thể ngờ một quý ông mang vẻ ngoài đạo mạo – người luôn tự cô lập trong pháo đài đá xám của riêng mình – chỉ để che giấu bản chất là một con quỷ khát máu cô đơn và buồn bã. Gã ta ngày ngày tự dày vò bản thân bằng câu hỏi có nên hay không việc giành lấy cho mình một niềm hạnh phúc bé nhỏ mà gã chẳng định nghĩa được nổi, và liệu mình có đủ xứng đáng với nó, hay rồi sẽ lại để nó mất đi.

Đó là những điều tôi thường hay thấy ở Forest Hill – một thị trấn rộng lớn nhưng trống trải, rải rác những ngôi nhà nhỏ bé với những con người bé nhỏ; một thị trấn đáng yêu mà thật kỳ lạ, luôn đem lại cho tôi cảm giác rợn ngợp như thể mình đang ở xứ Wales2 ma quái thay vì đứng trên mảnh đất London cổ kính và trang nghiêm.

2

Một trong những vùng đất nổi tiếng về các câu chuyện truyền thuyết, phù thủy, ác quỷ, yêu tinh, lời nguyền…

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN