Cổ Thành
Chương 13 Thợ Rèn Vùng Aras (1):
Hephaes không hề muốn đến vương đô. Trong ấn tượng của gã thợ rèn chân thọt đến từ vùng Aras phía nam, Macedonica giống như một nơi chỉ tồn tại qua những lời đồn đại hoặc câu chuyện truyền miệng, một nơi ma quỷ sống nhiều hơn bất cứ đâu trên bảy lãnh địa Thrace (*) này. Tất nhiên, ma quỷ chỉ là phép so sánh đầy tính ước lệ mà thầy tu Musa thường sử dụng. Và thực tế, thầy đã chẳng quá lời khi viện đến giống loại đáng khinh bỉ lẫn đáng sợ đó để mô tả về mảnh đất vương giả ấy. Bốn trong số năm người đưa thư từ Algo đã chết mất xác khi tới Macedonica, người còn lại chỉ kịp quay về gặp thầy Musa lần cuối rồi cũng bỏ mạng. Thế nên, mụ vợ già của gã đã khóc hết nước mắt khi hay tin gã đồng ý giúp thầy Musa hoàn thành nốt công việc còn dang dở mà những người kia chưa thực hiện đươc, dẫu cho gã chẳng lấy gì làm thích thú. Có điều gã nợ ơn thầy Musa và sẽ chằng còn cơ hội nào tốt hơn để đền đáp cho thầy nếu gã bỏ lời thỉnh cầu lần này.
Vương thành đã bị quỷ ám, Hephaes thầm nghĩ trong đầu lúc gã vừa bước chân qua cổng thành phía Bắc, gã không nhớ có phải đã từng nghe mụ vợ lẩm bẩm câu này hay không nhưng bỗng dưng nó lóe lên trong óc gã mang theo chút cảm giác rùng rợn. Có lẽ là do nét biểu căng thẳng hiện lên trên mặt mỗi người dân đang đi lại trên phố, hoặc là do những tiếng bắt bớ dữ dằn của đám chó săn, lại cũng có khi là vì cảnh tượng tra tấn ngay bên ngoài một căn nhà lụp xụp, mà không chừng là do hết thảy những điều đó gộp lại khiến sống lưng gã lạnh toát giữa ban trưa như vậy. Hephaes đã nghe ngóng đôi chút trên đường đến Macedonica, qua những lời bàn tán của đám thương nhân từ Aum, gã biết vụ ám sát bất thành của ả vũ công nào đó đã làm nhiếp chính vương nổi điên. Trong cơn nóng giận khó tưởng tượng ra nổi, ông ta đã hạ lệnh cho quận công Basheen Sudo – người anh nuôi của mình đồng thời cũng là đội trưởng đội cận vệ phải lùng tìm ra những kẻ có liên quan trong một thời hạn nhất định. Và, lẽ dĩ nhiên, đấy chính là nguyên do khiến đám chó săn sục sạo khắp mọi ngõ ngách tại vương đô cũng như thực hiện hàng loạt vụ tra tấn man rợ. Nhưng người ta còn có thể trông đợi được gì hơn khung cảnh tràn ngập nỗi sợ hãi như hiện giờ khi Basheen Sudo được lựa chọn? Ngoài việc là đứa con trai trưởng của đại nguyên lão, người thừa kế gia tộc Sudo thì Basheen chẳng có điểm nào hơn một tên hạ lưu đốn mạt. Còn ai ở vương quốc này không rõ những chuyện tàn độc hắn đã làm, tỷ dụ như cuộc thảm sát một bộ lạc phía Tây vào mùa xuân năm ngoái hay việc hắn giết chết đại công tử của nhà Oriento cách đây ba năm chẳng hạn. Hơn thế nữa, người ta còn đồn rằng hắn sở hữu đến nửa số nhà thổ ở Macedonica, quản lý kha khá các sòng bài và nuôi dưỡng một đám lưu manh ô hợp làm lính đánh thuê. Haphaes, cũng giống như nhiều người khác mà gã biết, coi Basheen Sudo còn tệ hại hơn vị nhiếp chính vương phản phúc kia. Chí ít Derizi Flava thực sự là một vị tướng tài trên sa trường, còn Basheen Sudo thì không.
Haphaes đã được thầy Musa chuẩn bị hành trang lẫn giấy thông hành đầy đủ, gã nhanh chóng vượt qua sự dò xét khắt khe của đám lính canh để có thể đi lại tương đối thoải mái ở trong vương thành. Tuy nhiên, gã vẫn chưa thực sự tiếp cận được đến điện thờ Mauna hay khu hồ thiêng Wasatis – nơi các tu sĩ lựa chọn làm chốn thủy thiền vào mùa thu, trong khi lá thư của thầy Musa cần được chuyển tận tay cho một nữ tu có tên Aisha.
“Này Haphaes, cho dù anh có phải mất mạng, hãy làm mọi cách để nữ tu ấy đọc được lá thư này.”
Thầy Musa đã căn dặn như vậy trước khi giao chiếc phong bì có đóng dấu niêm phong cho Haphaes. Nét mặt vị thầy tu lúc ấy trông nghiêm túc đến độ Haphaes có cảm giác như gã đang được giao cho một trọng trách nặng nề nhưng không kém phần vĩ đại lẫn vinh quang. Nhất là thời điểm gã đưa tay thề với thầy Musa rằng gã sẽ giữ bí mật về nhiệm vụ cũng như cố hết sức để hoàn thành nó…
*
* *
Truyền thuyết xa xưa kể lại rằng lục địa Aurian cũng như thế giới hiện thời đều được hình thành từ trận đại hồng thủy, thánh thần đã tạo ra một cơn mưa tầm tã suốt bảy ngày bảy đêm để gột rửa sạch sẽ những dơ bẩn của thế gian. Khi mưa ngừng trút xuống, thế giới cũ bị nhấn chìm trong biển nước mênh mông, các lục địa và đại dương sau đó bị xáo trộn, bị đứt gãy rồi lại được nối liền thành những hình dạng mới mẻ. Giống người xưa cũ, được gọi là Tiền nhân, phần nhiều chết đi vì dịch bệnh, vì không thể thích ứng được với sự biến đổi của Tân thế giới, chỉ còn một số rất ít chống lại được quá trình đào thải khắc nghiệt mà mẹ thiên nhiên tạo ra để trở thành những cư dân đầu tiên ở thế giới mới. Và, không ai trong số họ lãng quên được cơn đại hồng thủy – dấu chấm hết nhưng cũng là sự khởi nguyên. Nghi lễ thủy thiền bắt nguồn từ đó. Các tu sĩ, những kẻ có học vấn uyên thâm, những kẻ duy trì chuẩn mực cùng các quy tắc đạo đức của con người, những kẻ chăn dắt bầy cừu ra khỏi sự vô minh đã chọn cách này để gợi nhớ về quyền năng sáng tạo đi cùng với hủy diệt mà các đấng bề trên nắm giữ trong tay.
Aisha phải thực hiện nghi thức thủy thiền ở hồ thiêng Wasatis vào ngày đầu tiên của tuần trăng. Đấy là một thủ tục bắt buộc, kéo dài trong bảy ngày đối với các tu sĩ. Trong thời gian thủy thiền, nàng sẽ ngâm mình dưới nước từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn và chỉ lên bờ khi màn đêm buông xuống, lặp đi lặp lại suốt một tuần liên tục. Theo lời dạy của tu sĩ trưởng, nghi thức này giúp cho những kẻ phụng sự thánh thần được thanh tẩy cả về thế xác lẫn tâm hồn. Người ta sẽ có thời gian tĩnh lặng để suy tư về mọi điều khi đắm mình trong làn nước lạnh, họ cũng sẽ chẳng phải lo sợ quá trình suy tư đó bị quấy rầy, bởi hồ thiêng Wasatis nằm khuất trong một khu rừng nằm cách điện thờ Mauna chừng năm dặm đường về hướng Tây. Aisha thường lui đến đó hàng năm, đều đặn vào tuần đầu tiên của mùa thu để thực hiện nghi thức thủy thiền và năm nay cũng không phải là ngoại lệ.
Ngày đầu tiên thủy thiền, nữ tỳ Bela đã phải dậy từ khi trời còn chưa sáng để chuẩn bị xiêm y lẫn kiệu rước cho Aisha một cách thật chu đáo. Thế nhưng, lúc toan gõ cửa căn phòng trên gác chuông – nơi chủ của cô nghỉ ngơi thì nữ tỳ nhận ra phía trong vẫn còn sáng đèn.
Aisha khẽ cất giọng lệnh cho Bela đẩy cửa bước vào, vì nàng chỉ để cửa khép hờ đợi cô ta sẵn từ trước. Nàng ngồi tựa người vào chiếc ghế gỗ và trên tay nâng niu một tấm áo choàng màu trắng ngà bằng vải dạ. Một món quà dành tặng cho thân vương Volga, nàng cần làm xong nó kịp lúc chàng rời khỏi Macedonica để lên đường quay trở về lãnh địa Negero. Thực ra, nàng đã khâu xong nó từ hai ngày trước, nhưng nữ tỳ Bela đã gợi ý rằng nàng nên trang trí thêm để chiếc áo nhìn không quá tẻ nhạt. Dù biết chắc thân vương sẽ chẳng bao giờ từ chối hay chê trách bất cứ món quà nào của mình, Aisha vẫn phải thừa nhận cô ta nói đúng. Nàng ưa thích màu trắng vì một vài lý do và thật không công bằng khi áp đặt sở thích đó cho chàng. Thân vương đến từ xứ tuyết – nơi suốt sáu tháng trong năm chàng chẳng nhìn thấy gì hơn ngoài những mái nhà cùng những cánh đồng phủ tuyết trắng xóa, và vậy nên chàng hẳn không quá thích thú với cái màu gợi nhắc đến khung cảnh lạnh lẽo đó. Khi nghĩ đến điều này, Aisha đã gỡ chiếc mặt dây chuyền bằng đá mắt hổ mà nàng thường đeo để sửa lại thành một cái cài áo hình oval. Tu sĩ Josephine, vị nữ tu uyên bác đảm nhận việc dạy dỗ các nữ tu trẻ tuổi ở điện thờ Mauna, từng nói loại đá này sẽ tiếp thêm dũng khí lẫn lòng quả cảm cho người mang theo nó. Thân vương Volga là một chiến binh, chàng luôn cần cả hai điều này, nàng tự nhủ như vậy.
“Người lại thức trắng đêm rồi, thưa nữ tu!” Bela thốt lên hoảng hốt. “Người chỉ vừa mới bình phục lại, nếu người không nghỉ ngơi thì sao có thể hoàn thành được nghi lễ thủy thiền trong mấy ngày tới?”
“Bela thân mến, không cần phải lo lắng như vậy cho sức khỏe của ta.” Aisha vẫn miệt mài khâu vá, nàng không rời mắt khỏi tấm áo đang cầm trên tay. “Cô chỉ cần nói cho ta biết mấy ngày qua Basheen Sudo đã làm những gì?”
Mặc dù Bela vẫn theo hầu bên cạnh Aisha, tuy nhiên kể từ khi nàng quay về điện thờ, hoàng phi Soifi Danco đã cử đến đây thêm một đứa đầy tớ gái để tiện cho việc chăm sóc, theo như lời của bà ta. Nàng buộc phải cẩn trọng hơn trong lời nói lẫn cử chỉ mỗi lúc đứa hầu ấy có mặt, và vì thế mà phải đến tận thời điểm này nàng mới có thể hỏi Bela về tin tức bên ngoài. Theo những gì mà cô ta thuật lại, Basheen Sudo cùng đội quân của hắn đang sục sạo khắp nơi như đám chó điên. Chúng sẵn sàng bắt giam, giết chết bất cứ ai mà chúng cho rằng có khả năng dính líu đến Ursula, kể cả các quý tộc Macedonica cũng như quý tộc vùng Thrace nói chung. Tiếng than khóc lẫn kêu gào oan khuất vang lên mỗi ngày ở kinh đô giờ đã chẳng còn gì lạ lẫm. Ở phía bên kia của bức tường thành ngăn cách giữa cung điện Esta với phần còn lại của Macedonica, mọi thứ dường như lại trái ngược hoàn toàn. Từ sau phiên xét xử, cả Nguyên Lão Viện lẫn nhiếp chính vương Derizi Flava chẳng hề có thêm động thái nào.
“Em không rõ cái chết của Ursula giúp ích được gì cho người, thưa nữ tu.”
“Ngược lại điều cô đang thấy, Bela.” Aisha mỉm cười. “Những quý tộc bị Basheen Sudo giết chết, chúng đều sở hữu rất nhiều điền trang và đất đai ở bảy lãnh địa Thrace. Cha của ta tính toán mới khéo léo làm sao.”
Trên bàn cờ, một con tốt nhỏ bé cũng có thể tạo ra những nước chiếu nguy hiểm, nếu nó được đặt đúng chỗ. Cái chết của Ursula là như vậy. Nàng đã phải sắp xếp rất nhiều để vũ nữ tài hoa đó không chết uổng phí. Những cuộc trò chuyện thân mật, những lời động viên và cả việc lỡ miệng để lộ ra tin đồn Raven có dính líu đến cái chết của anh trai nàng. Tất thảy đều không xảy đến theo cách tự nhiên. Aisha yêu quý Ursula, như một người bạn, nhưng nàng cũng biết rõ nàng ta là con dao găm mà nhà Sudo đã kề bên cổ Timur. Dù rằng Ursula đã phản bổi lại lão kền kền Judas, nhưng nàng vẫn không thể tha thứ được cho âm mưu bất chính ban đầu của nàng ta. Hơn thế nữa, nếu nàng ta thực sự yêu anh trai nàng thì còn gì tốt hơn là để nàng ta được chết cho tình yêu của mình? Và tình hình hiện giờ ở Macedonica đã chứng minh sự hi sinh đó chẳng hề vô nghĩa, bởi nó đã làm nhà Sudo gặp những bất lợi nhất định. Nhiếp chính vương Derizi Flava – người cha yêu quý của nàng, hẳn đã bắt đầu hoài nghi Judas Sudo, bởi Judas đã luôn tỏ thái độ ủng hộ đứa cháu ngoại chín tuổi của lão kế thừa vương vị và chống lại hoàng tử Raven – đứa con trai được Derizi Flava tin tưởng vô cùng. Nàng dẫn dắt mọi mối nghi ngờ về chính bản thân mình, từ việc cố tình gặp gỡ Ursula tại điện thờ Mauna cho đến việc khắc gia huy của nhà Hamilton lên trên chiếc dao găm và chỉ đến dự yến tiệc khi đích thân nhiếp chính vương Derizi Flava hạ lệnh. Bằng cách đó, nàng cho Judas Sudo những cái cớ để có thể cáo buộc nàng là kẻ chủ mưu, nhưng lại không cho lão đủ bằng chứng để khép tội. Trong khi đó, nhiếp chính vương Derizi là một con cáo già đa nghi, ông ta sẽ chẳng đời nào tin tưởng vào những gì quá hiển nhiên, quá dễ đoán. Khi muốn giấu viên sỏi nhỏ, còn gì lý tưởng hơn là đặt nó vào một bãi đá lớn? Judas Sudo càng tìm cách đổ tội cho nhà Hamilton, nhiếp chính vương Derizi Flava sẽ càng thêm hoài nghi lão.
“Điều duy nhất làm ta cảm thấy e ngại là việc cha ta để đại nguyên lão Fide Oriento về lãnh địa của mình.” Aisha khẽ cắn môi, hai hàng lông mày của nàng thoáng nhíu lại.
Nàng đã tính toán rằng nhiếp chính vương Derizi Flava sẽ viện đến nhà Oriento để cân bằng lại quyền lực trong Nguyên Lão Viện – nơi vẫn đang bị nhà Sudo và Estonia thao túng, nhưng quyết định để đại nguyên lão Fide Oriento quay trở về Farland sau phiên xét xử của ông ta lại khiến nàng băn khoăn đôi chút. Phải chăng rạn nứt giữa đại điện Leono và điện Justo chưa đủ lớn? Hay nhiếp chính vương chưa thực sự cảm thấy Judas Sudo là tên phản phúc? Nếu quả thật vậy…
“Khi trời sáng, ta cần chuyển thư đến chỗ thân vương Volga.” Aisha gấp chiếc áo còn dang dở trên tay rồi đặt vào giỏ mây. Nàng bước xuống khỏi ghế và tiến lại chiếc bàn nhỏ kê ở cuối phòng, nơi đã dọn sẵn bút mực cùng giấy viết. “Một cách bí mật.”
“Vâng, thưa người.”
“Không, ta không nói rằng cô sẽ phải đi. Hãy để Serus làm điều đó, cô chỉ cần sắp xếp để nó có thể rời khỏi nhà bếp mà không bị ai chú ý đến thôi.”
Điều nàng nói làm nữ tỳ Bela ngạc nhiên đôi chút. Serus là tên của một thằng bé nô lệ người Rusland mà thân vương Volga đã mua được, ngài ấy đã đưa nó vào Mauna dưới thân phận của tên hầu phụ bếp. Và kể từ lúc nó xuất hiện ở điện thờ này, Aisha chưa từng nói chuyện hay tiếp xúc với nó dù chỉ trong chốc lát. Bela đã nghĩ rằng chủ của mình quên thằng bé, hoặc nàng chỉ coi nó là một món quà không hơn không kém. Thế mà giờ đây nàng lại nhắc đến nó thật rõ ràng làm sao. Hơn nữa còn giao cho nó công việc đưa thư hệ trọng như vậy.
“Một điều cô nên rõ, Bela.” Nàng bắt đầu đưa bút viết sột soạt trên giấy. “Thân vương Volga chẳng bao giờ tặng cho ta những món tầm thường, lần này cũng vậy. Có điều… giờ mới đến lúc ta dùng đến nó.”
===================================
Chú thích:
Bảy lãnh địa Thrace:
Lãnh thổ của Vespero có hai mặt biển bao quanh là biển Danelles ở phía Tây, biển Konya ở phía Tây Bắc và biển Borus ở phía Bắc. Do vị trí địa lý kẹp giữa Aum và Rusland, Vespero phân hóa thành hai phần khác biệt rõ rệt. Phần thuộc nằm trên dải Malvasta được gọi là vùng Aras có đường biên giới với một số phụ quốc nhỏ, trong khi phần lãnh thổ lớn hơn thuộc lục địa Aurian được gọi bằng tên chung là Thrace. Thrace bao gồm 7 vùng đất (7 lãnh địa Thrace): Macedonica, Aksaras, Farland, Malvasta, Franxe, Algo và Masian. Địa hình chủ yếu của Thrace là một cao nguyên trung ương cao lớn cùng các đồng bằng duyên hải hẹp, ngoài ra có thêm hai dãy núi lớn: Arasat phía Nam và Malak ở phía Bắc.
Lần lượt 7 lãnh địa thuộc quyền cai quản của các gia tộc
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!