Dấu Chân Người Lính - Phần III: Đất Giải Phóng - Chương 14
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
207


Dấu Chân Người Lính


Phần III: Đất Giải Phóng - Chương 14


Hai ngày sau địch cho lữ đoàn Kỵ binh bay và một chiến đoàn dù ngụy đổ quân xuống tất cả các khu vực mà chúng đã oanh tạc chuẩn bị. Bầu trời Khe Sanh tưởng như đang rạn vỡ bởi tiếng động cơ, như có hàng trăm chiếc máy bơm nước khổng lồ đang hoạt động hết công suất. Đủ các kiểu máy bay trực thăng chở quân, máy bay phản lực và cánh quạt hộ tống, máy bay C.130 và B.57 thả dù tiếp tế đạn dược, công sự và quân dụng cho những đơn vị vừa đặt chân xuống mặt đất.

Đã được chuẩn bị nên mặt đất đón tiếp chúng thật “nồng nhiệt”. Ngay mấy ngày đầu đã có hàng chục máy bay bị bắn rơi và hàng trăm tên giặc bị phơi xác trên các mỏm đồi chung quanh Khe Sanh. Các đại đội thuộc trung đoàn 5 mặc dầu đã thấm mệt sau mấy tháng làm nhiệm vụ bao vây giặc trong Tà Cơn nhưng vẫn tích cực tổ chức các trận đánh tập kích và phục kích liên tiếp. Lính “Ngựa bay” là những tên sừng sỏ và kiêu ngạo, chúng cố gắng tạo chỗ đứng hòng bắt liên lạc với lính thuỷ đánh bộ. Nhưng chúng không sao thực hiện được ý định: Tiểu đoàn 3 của Vượng vẫn đóng chặt các chốt phía nam. Địch dốc hết sức tấn công vào nhưng vẫn không sao mở được những cái chốt ấy. Một đơn vị Kỵ binh bay ngày đầu tiên vừa đổ xuống sườn phía Tây Nam đồi 475 liền bị pháo binh bắn phủ đầu, sau đó một tiểu đoàn bộ binh của trung đoàn 5 liền xuất kích tiêu diệt gần hết.

Chưa bao giờ không khí đại đội trinh sát lại khẩn trương và “động” như những ngày vừa qua. Khu vực bếp của đại đội bị oanh tạc, bác Đảo khoác chiếc nồi quân dụng và chiếc xắc cốt tìm chỗ đặt hầm nấu ăn sâu vào phía trong rừng, cách chỗ cũ khoảng dăm trăm thước. Máy bay lượn trên đầu suốt ngày. Chốc chốc lại có một toán trinh sát hoặc vài ba người ra đi, hoặc từ một nơi nào đó vừa trở về: Tiểu liên báng gập đã lên đạn và không khóa chốt an toàn kẹp bên nách, mảnh vải dù nguy trang khoác trên lưng, khuôn mặt người nào cũng đẫm mồ hôi và nhem nhuốc vì chui qua những rừng cỏ tranh cháy. Những tin tức mới nhất, những tình huống địch đang diễn biến hoặc thay đổi bất ngờ được các mũi trinh sát khớp lại: đơn vị Mỹ này vừa nống ra, đại đội ngụy kia vừa cụm lại. Các trinh sát viên báo cáo tình hình và tranh cãi nhau, người vừa bám chỗ này, người vừa lọt vào chỗ kia, có người trên đường trở về đã phải chạm súng địch. Điều quan tâm của tất cả mọi người là những nơi nào hiện tại đang có địch: Một khoảng rừng tranh, một sườn dốc đã bị bom đánh nát… Một vài người ngồi cạnh hầm bếp vừa ăn cơm nắm với súc cù là vừa bàn tán về các thứ đồ hộp, về công tác hậu cần phức tạp và nhiêu khê của lính “Ngựa bay”. Bác Đảo chăm chú lắng nghe chuyện, lấy làm phấn khởi gật gật cái đầu hói: “Mẹ nó, bay đi bay về, ăn ăn uống uống rồi thế nào cũng chui vào mấy cái bãi xác thối hoắc!”.

Năm giờ chiều ngày thứ hai của cuộc hành quân một đơn vị quân ngụy cụm lại phía Tây Nam điểm cao 475 gần một nghìn mét. Nhưng đến khoảng sáu giờ rưỡi, chúng lại cuốn đi cụm ở một khu vực khác chưa dò tìm thấy. Theo lệnh của tham mưu trưởng, đại đội trinh sát có nhiệm vụ phái một toán trinh sát đi “mò” địch. Trời đã nhập nhoạng tối, bom toạ độ nổ ngoài dốc cửa rừng ình ình. Khuê ngồi xổm cạnh máy điện thoại, cằm tỳ trên cánh tay, đang nghe Hồi, một tiểu đội trưởng trinh sát vừa đi bám địch trở về báo cáo. Hồi ngồi xếp bằng trên đất, cặp mắt nghịch ngợm và tinh nhanh đang cố làm ra vẻ nghiêm trang. Hồi cùng trạc tuổi Khuê bạn bè chơi bời cũ, lại là người cùng làng và họ hàng với nhau nữa. Năm ngoái, ngày Khuê còn là một tiểu đội trưởng ở đây thì Hồi làm tiểu đội phó, thuộc một trung đội khác. Tối thứ bảy hoặc ngày chủ nhật, đơn vị đóng ở hậu phương thật rỗi rãi, thỉnh thoáng Hồi chạy sang tiểu đội Khuê. Giữa cuộc sống tập thể bộ đội nhưng hai anh con trai “làng vó bè” đó vẫn giữ quan hệ người làng người họ với nhau. Hai người thường rủ nhau mượn nơm đi úp cá ruộng. Rồi mua một bi đông bia, bày ra một đĩa cá rán có ngọn. Chuyện đánh đấm và luyện tập tạm thời xếp lại, chỉ đem ra bàn luận với nhau về những người con gái trong làng hoặc ở những nơi đã từng đặt chân qua. So với Khuê, Hồi cũng là một con người khôn ngoan nhanh nhẹn không kém. Ngày Khuê theo chính uỷ lên chốt bao giờ cũng được Hồi cho ăn uống. Hầm cậu ta bao giờ cũng có cái ăn. Mới đây Hồi được đại đội phái đi thăm Lượng (nhân thể mang ba lô đồ đạc cho Lượng) trong dịp đó Hồi đã gặp Nết ở trạm phẫu thuật. “Chị cậu hồi này trông có “mã” hơn, vẫn chẳng béo tốt nhưng hai má đến là đỏ – Hồi nhận xét – Tớ xem dư luận ở dưới trạm phẫu thuật, người ta coi việc giữa ông Lượng và chị cậu như xong rồi!”. Nết gọi Hồi bằng anh nhưng Khuê và Hồi chỉ gọi nhau bằng mày tao, cậu cậu tớ tớ. Từ ngày Khuê trở về đây, mối quan hệ giữa hai người đã khác trước. Mỗi lần hai người nói chuyện gia đình làng nước (cũng rất ít nói đến), Hồi vẫn xưng hô với Khuê như ngày xưa. Nhưng khi đã đụng tới chuyện công tác, những lúc hội ý hội báo, Hồi liền xưng “tôi” với “anh”. Khuê mặc nhiên công nhận điều đó. Hơn thế nữa, Khuê còn muốn Hồi không bao giờ được lẫn lộn mối quan hệ trong cương vị công tác hiện tại giữa mình và Hồi. “Không thế đừng hòng mà làm việc được! ” – Khuê nghĩ một cách lạnh lùng. Còn về phần Hồi anh tự xác định ngay từ đầu: Không thể lúc nào cũng đùa bỡn với “nó” như ngày xưa được nữa!

Buổi chiều, Hồi đã nằm theo dõi đơn vị quân ngụy vừa đổ bộ xuống phía Tây Nam đồi 475 rất kỹ. Anh báo cáo với Khuê các chi tiết đã quan sát thấy. Theo nhận định của Hồi sau khi đổ bộ xuống, thằng địch đã bốc đi nơi khác.

– Anh thấy thế nào? – Hồi hỏi Khuê sau khi nêu ý kiến phán đoán.

Khuê vẫn cứ ngồi yên lặng không đáp, chỉ di di chiếc cằm trên cánh tay, cặp mắt dài và nhỏ vẫn điềm tĩnh lạnh lẽo thế nào ấy. “Sao mà tác phong của hắn giống ông Nhẫn vậy”. Hồi nhìn Khuê thầm nghĩ như vậy và rụt rè châm một điếu thuốc. Bất ngờ Khuê giơ tay sờ chiếc túi dết đạn đeo bên hông Hồi:

– Cậu có kẹo cho tớ một chiếc?

Hồi mở túi dốc vào bàn tay Khuê một vốc kẹo cao su. Hai ngày qua Khuê ăn uống như một đứa trẻ! Anh bận và phải lo nghĩ căng thẳng quá. Tuy tạm thời anh làm đại đội phó nhưng đại đội trinh sát vẫn chưa có đại đội trưởng, Khuê phải thay Lượng nắm và theo dõi toàn bộ tình hình địch vào giai đoạn chúng đang triển khai. Mà thằng Mỹ vào giai đoạn này thì sao? Chúng cũng biết nghi binh, cũng khôn ngoan, lại hết sức cơ động! Đầu óc tỉnh táo của Khuê như một cái đĩa máy rađa, hãy lắng nghe thật kỹ, hãy chụp bắt lấy thằng địch trong cái tình hình gần đúng sự thật nhất. Không có một thứ nghiệp vụ quân sự nào cần thiết phải biết tin và biết hoài nghi như công việc trinh sát ở chiến trường. Bởi vì, theo Khuê nghĩ từ hồi còn ở trên ban tham mưu, không bao giờ công việc trinh sát địch tình có thể đảm bảo một trăm phần trăm sự thực như thằng địch hiện đang có. Nhưng cũng không phải vì vậy mà một anh đại đội trưởng trinh sát có thể báo cáo những kết luận sai lạc, khiến cho quyết tâm của người chỉ huy đặt cơ sở trên một sự sai lạc. “Hãy nắm tình hình xong đã, hãy lắng nghe đã!”, Khuê tiếp tục nghe hai toán trinh sát ở hai hướng khác báo cáo và căn cứ vào các tài liệu thu lượm được tại chỗ, anh cho rằng địch vẫn đang cụm lại chỗ cũ, trong khu đồi tranh cháy Tây Nam 475? Hồi đã bám địch rất chắc, nhưng có thể việc chuyển quân vào lúc nhập nhoạng tối chỉ là hành động nghi binh của chúng?

Khuê gọi điện báo cáo những tin địch mà các toán đã thu lượm được cho tham mưu trưởng. Anh đề nghị anh được trực tiếp đi trinh sát với toán của Hồi một lần nữa, đề nghị ấy được tham mưu trưởng đồng ý.

Khuê cùng Hồi dẫn toán trinh sát lên tới mép đường thì trăng sắp lặn. Trong toán có Phán. Từ chiều tới giờ Phán được Hồi giao cho nhiệm vụ tiếp tục ở lại bám địch. Khi chúng nổ máy xe xích và các loại xe cộ ầm ĩ bên sườn đồi 475, Phán vẫn đang có mặt trên này.

Phán gặp Khuê bên rìa cỏ để báo cáo bổ sung tình hình. Hồi chia toán trinh sát của mình thành nhiều tổ sục sạo khắp các mỏm đồi và quanh các khu vực có ánh lửa. Quá nửa đêm, các tổ lục tục trở về đều báo cáo không gặp địch. Khuê và Hồi mang một tổ bí mật chui vào khu đồi tranh cháy một lần nữa. Đúng như Hồi và Phán đã báo cáo, địch đã cuốn đi sạch, chỉ còn vài chiếc lều bạt bỏ lại. Chúng nghi binh như vẫn còn có mặt tại đấy: Một đám lửa cháy leo lét bên cạnh hình giả một tên lính đứng gác. Một chiếc đài phát thanh tin tức và thỉnh thoảng hát rền rĩ. Chung quanh mấy cái hố cá nhân hình chữ nhật nông đến gối bên dưới lót hoạ báo để ngồi gác, vẫn còn một lượt dây thép gai và mìn chống bộ binh rải từng đoạn phía trước mặt. Khuê sục vào sâu xem xét cách chúng bố phòng dã ngoại. Bỗng anh tìm thấy một “thằng bé” nằm khoanh tròn trong một hố cá nhân. Lúc Khuê phát hiện thấy, thằng bé con liền nhảy ra khỏi hố và ôm lấy đầu gối Khuê. Hắn khóc sụt sịt. Nhìn bộ quần áo có nhiều túi in màu xanh và màu đất loang lổ trên mình hắn, các trinh sát viên mới có thể khẳng định hắn là một tên lính ngụy thực sự.

Khuê đứng nánh ra bắt hắn giơ tay.

– Sao lại khóc? – Khuê hỏi.

– Em sợ quá, em định trốn lại chờ sáng mai đi tìm các anh Việt cộng.

– Súng đâu?

– Đây ạ!

Thằng bé nhẩy xuống cái hố lôi lên một khẩu súng trường tự động Mỹ, khẩu súng dài hơn người. Khuê lôi hắn vào một cái hầm có nắp, bấm đèn pin soi vào mặt. Hắn khai hắn mới mười sáu, đang còn đi học thì bị bắt lính. Hai con mắt tên lính ngụy đen láy, vẻ như lúc nào cũng có một màng nước mắt phủ chung quanh lòng đen. Khuê nghe tiếng nói mới bắt đầu vỡ giọng và ngắm con mắt ấy, biết ngay là một thằng thiếu niên dát gan không hơn không kém. Tuy vậy nhìn bộ quần áo trên mình và mấy chiếc răng vàng trên miệng hắn, Khuê lại thấy cái thằng thiếu niên ngồi trước mặt thật đáng tởm! Khuê hỏi và hắn khai rằng: Năm trung đội lính ngụy đổ xuống khu đồi cháy lúc bốn giờ chiều. Khi trời sắp tối thì được lệnh di chuyển. Lính tráng đã tưởng hành quân đi đâu xa nhưng lại chỉ dịch sang sườn đồi bên cạnh, chỉ cách chỗ cũ khoảng dăm thước. Nghe dư luận bọn sĩ quan thì sở dĩ chúng vẫn luẩn quẩn trong khu đồi tranh cháy vì để sáng ngày mai cùng dự một trận tấn công lên 475 phối hợp với bọn “Ngựa bay”.

– “Cái thằng ngụy cũng đến là “láu cá” nhưng chúng đã phải vét lính đến thằng bé hỉ mũi chưa sạch!”, Hồi nói với Phán. Cả hai người đều tỏ ý khâm phục Khuê. Đúng như Khuê đã phán đoán, thằng địch vẫn lẩn quẩn tại đây chứ chưa đi đâu xa.

Khuê tiếp tục tổ chức trinh sát hết sức bí mật.

Cánh đồi tranh phía Tây Nam chân đồi 475 rộng như một thảo nguyên nhỏ, thỉnh thoảng xen lẫn rùng cỏ tranh lại thấy mọc một thứ cây cành lá xơ xác, có rễ phụ màu đen lòng thòng. Cỏ tranh cháy xông lên một mùi tro nồng nồng. Đêm tối mịt mù. Từ nửa đêm máy bay địch hoạt động thưa đi. Mãi gần sáng tiểu đội trinh sát mới dò được chỗ chúng đóng. Mỏm 475 in một vệt đen sẫm hình sống lưng lạc đà trên vùng trời sao nhợt nhạt. Khu vực địch đang bí mật cụm lại nằm ngay dưới chân mỏm A của 475 (Ngay từ phút đầu xác định được khu vực có địch, Khuê đã nảy ra ý định sẽ dùng một mũi đánh sẻ dọc quân địch từ trên mỏm A xuống). Phán và Hồi vào trước. Hồi ghé tai Phán hỏi thầm: “Đã thấy gì chưa?”. Phán bấm vào bàn tay Hồi một cái khẽ. Trước mặt hai người, hai chiếc xe kích (Phán đoán là hai chiếc tăng Mặt trận M.41) chỉ nằm cách mươi mét, nòng khẩu pháo gục sát đất. Một tên, không biết là Mỹ hay ngụy, ngồi im như khúc gỗ trên cái tháp khum khum hình bầu dục, cái cẳng chân của hắn như bị què bỏ thõng thượt chạm lá cờ sơn trên thành xe. Chiếc tăng thứ hai nằm giấu mình trong bụi cây, nòng pháo 37 chìa ra ngoài đám rễ phụ giống y hệt một đoạn cành cây cháy dở. Phán bò vào giữa hai chiếc tăng. Hồi trườn sát gốc cỏ lau cứng và sắc, như có hàng chục lưỡi dao cứa ngang dưới bụng. Đến lượt Khuê vào, tên lính gác trên tháp giấu đầu vào trong tà áo quẹt lửa châm thuốc, đốm thuốc cháy loè trong hai bàn tay bắt khum. Hắn ho húng hắng, nghe tiếng ho biết là một tên ngụy. Hắn chỉ dám hút một hơi rồi tắt điếu thuốc, rồi bỗng quay đầu nhìn thẳng xuống cái lưng áo ngụy trang của Khuê, tiếng nói từ trên tháp tăng dội xuống bằng giọng mũi: “Diệt cộng, tao đã trông thấy, đừng chạy nữa hỉ?”. Hồi thoáng nghĩ: “Nếu lộ thì Khuê không thể chạy thoát!”. Nhưng tên lính gác vẫn ngồi im. Một con dế gáy ke ke trong búi cỏ dưới bụng Khuê: “Đồ ngu, đừng hòng tao chạy cho mày trông thấy?”. Lát sau ba người đã tiến vào khu lều bạt. Bọn ngụy cắm lều đúng đội hình trong điều lệnh quân đội Mỹ, theo hình móng ngựa chung quanh đường bình độ của sườn đồi. Tiếng ngáy lẫn tiếng nói mê ú ớ của mấy tên lính ở tận phía trong vọng ra. Sương rơi lộp độp trên những mái vải bạt trùm kín giấc ngủ về sáng. Khuê bò quanh một vòng, nhẩm đếm số lều đồng thời ước lượng số người của mình. Anh đặc biệt chú ý một chiếc phía trên nóc có cần ăng ten. Một thằng mặc quần đùi áo lót ra đứng đái ngay trước cửa một cái lều. Hắn gọi chõ vào phía trong một câu. Lát sau có tiếng chửi lẩm bẩm và tiếng súng khua vào thắt lưng. Rồi một thằng lính nom bộ già nua, vai xo như người nghiện thuốc phiện bước ra. Hắn xách khẩu súng trên ốp che tay, vừa chửi lẩm bẩm vừa đi về phía ba người vừa vào. “Thằng này ra đổi gác”, Khuê phỏng đoán. Anh liền ra ám hiệu cho Hồi và Phán bò theo chân tên lính đi đổi gác.

Ba người theo lối cũ trở ra bên ngoài một cách nhẹ nhàng. Trên trời sao đã nhợt trắng. Tiếng C.130 bay đi tiếp tế ì ì nặng nề nghe nhức nhối trong ruột. Khuê nhìn đồng hồ tay: Đã gần bốn giờ sáng! “Nếu có báo cáo về thì bộ đội cũng không thể vận động tới đây kịp được nữa! “. Khuê tập hợp tiểu đội trinh sát và phổ biến một quyết định chớp nhoáng: Anh hạ lệnh cho họ chuẩn bị chiến đấu. Khuê phán đoán thấy chẳng có một thời cơ nào đánh tốt hơn: Về sáng địch đang ngủ say, canh gác chểnh mảng. Ta trinh sát hoàn toàn giữ được bí mật. Địch ngủ cả trong những lều bạt, chưa có công sự và chỉ có hai chiếc tăng án ngữ lối vào.

Khuê quay sang hỏi dò quyết tâm của Hồi:

– Mày thấy thế nào, Hồi?

– Đánh được! Nhưng chưa kịp xin chỉ thị của anh Nhẫn đã quyết định đánh, về phần anh có sao không?

Khuê không đáp. Anh hỏi quyết tâm của tùng người. Sau khi thấy mọi người đều nhất trí, Khuê mới đỡ lo:

– Chỉ có một nhược điểm là ta có lực lượng một tiểu đội ít quá, nhưng sẽ có cách đánh được – Khuê nói thêm bằng cái giọng rất nhỏ nhưng đanh – Chỉ cần từng người có quyết tâm thật cao và biết hiệp đồng. Còn phần tôi sẽ chịu trách nhiệm về trận đánh này trước trung đoàn.

Tiểu đội trinh sát liền được tổ chức lại thành ba tổ chiến đấu và trang bị lại. Khuê tuyên bố mình trực tiếp làm tiểu đội trưởng và chỉ định Hồi làm tiểu đội phó. Hồi, Khuê và Phán mỗi người trực tiếp dẫn một tổ bò vào. Mười lăm phút sau, cá tiểu đội trinh sát đã nằm phục sẵn bên những chiếc lều bạt và hai chiếc tăng. Khuê tưởng như trái tim trong ngực đang co bóp thành từng nấc một. Đem được tiểu đội vào tới đây xem như đã nắm được một nửa phần thắng nhưng Khuê không dám mừng. Anh vẫn còn lo, lại càng phải tính toán thật kỹ.

Tên lính ngụy già ôm khẩu súng ngồi khom lưng trên cái bệ xe tăng. Hắn ngủ gật chốc chốc lại choàng thức dậy ngơ ngác nhìn quanh. Chỉ mấy phút sau khi Khuê đã kiểm tra xong một lượt, anh lập tức hạ lệnh phát hoả.

Bộ phận đánh tăng của Hồi đánh trước. Dưới bụng chiếc tăng có tên lính ngụy ngồi gác, một khối lửa vàng chói bung ra, tên lính bị hắt ra xa, một luồng khói rất đặc cuồn cuộn bốc lên. Xen giữa tiếng nổ của quả thủ pháo đầu tiên, tiếng lựu đạn và tiểu liên cũng đồng loạt nổ xé trời. Địch bị động ngay từ phút đầu. Chúng chống cự lại rất yếu ớt. Sau mấy phút đầu tiên, Khuê thở phào biết là “ăn” rồi! Chung quanh anh chỗ nào cũng nghe tiếng súng, lựu đạn và tiếng bọn lính kêu khóc chửi rủa. Xác địch chết giữa lúc còn đang ngái ngủ nằm đè lên nhau dưới những chiếc lều bạt rách tươm.

Vào giữa lúc cuộc chiến đấu tiếp diễn, Khuê đang chỉ huy một tổ đánh vào một căn lều bạt có bao cát xếp chung quanh thì từ lối vào ban nãy bỗng xuất hiện một khẩu trọng liên bắn tới, hình như từ một chỗ bố trí khá cao. Khuê quan sát thấy khẩu súng máy đang hạ dần độ cao. Ánh lửa phụt ra loe loé từ trong cái loa che lửa soi rõ nòng khẩu súng đang ngất ngưởng quay trên một cái tháp: “Tổ thằng Hồi mới phá được một chiếc tăng. Còn một chiếc chưa đánh được!”. Khuê chợt thấy nóng hai bên tai: “Chiếc tăng không bị diệt ngay thì lối ra sẽ bị nghẽn, và bọn chúng nó còn dựa vào đó để phản kích lại”. Một chiến sĩ chạy vụt qua trước mặt Khuê. Anh trông thấy quả thủ pháo đeo lủng lẳng bên thắt lưng cậu chiến sĩ, vội giật lấy. Anh lao về phía chiếc tăng đang bắn, vừa chạy vừa bò thấp. Đến cách mươi thước, anh đang nằm quan sát để chuẩn bị nhảy lên đánh thì một tia lửa xanh hình cầu vồng đã bay trúng giữa cái tháp đang quay rào rào. Tên xạ thủ trọng liên gục xuống, nằm vắt nửa người trên khẩu súng máy. Ngay lúc đó, Khuê trông thấy từ phía bên kia sườn tăng, cái bóng của Hồi nhô lên. Cái bóng Hồi đã nhảy lên bám được thành tăng. Một tiếng nổ chuyển đất khẽ xô chiếc tăng nằm xoay ngang. Bầu trời đã nhợt trắng. Trong tung thâm những chiếc lều vải đã nằm xẹp xuống đất và rách tả tơi. Lửa cháy khắp nơi. Thỉnh thoảng một tên ngụy từ trong một cái lều lao vút ra. Các chiến sĩ trinh sát vẫn mải mê đánh. Những bóng chiến sĩ nhấp nhô ẩn hiện sau các đống lửa, đang đuổi theo các tên địch bỏ trốn.

Khuê xem đồng hồ tay rồi hạ lệnh cho các tổ rút ra ngoài. Trên đường quay trở ra, Khuê trông thấy một cái lều bị đổ nhưng vẫn còn nghe tiếng động lục sục bên trong, anh liền dừng lại bồi thêm một quả lựu đạn vào giữa. Chiếc lều bị xé toang, bay túa ra, như người cầm chiếc gậy gảy một đống giẻ rách. Khuê chạy thêm mấy bước. Một băng tiểu liên từ trong xó tối bắn ra, đạn bay sượt trên chỏm đầu Khuê khiến chiếc mũ sắt rơi xuống. Khuê cúi xuống nhặt chiếc mũ vừa kịp ngẩng lên thì bắt gặp ba tên mặc quần đùi áo lót đang chực tượt xuống một cái hố bom. Thuận đà tay, Khuê lia một băng tiểu liên, không cần nhắm nhe. Làn đạn A.K như roi quất. Một trong ba đứa bị dính đạn. Bóng tên địch mặc quần áo lót nhảy chồm lên rồi rơi tõm vào cái hố hình phễu tối om…

o O o

Trời sáng, Khuê mang được tiểu đội trinh sát trở về nguyên vẹn, không ai bị xây xát.

Anh về thẳng sở chỉ huy trung đoàn. Không tìm thấy trung đoàn trưởng, chính uỷ cũng không gặp. Sở chỉ huy trung đoàn đang di chuyển. Tham mưu trưởng nghe báo cáo của Khuê và đồng chí ấy cho anh biết: từ nửa đêm, Nhẫn và Kinh đã hội ý thường vụ trung đoàn uỷ rất cấp tốc và đã tổ chức một cái sở chỉ huy dã chiến đi theo tiểu đoàn 1. Hai người cùng bộ phận chỉ huy tiền phương hiện đang nằm bên cạnh đồi 475, hướng Đông-Nam, 6 giờ 30 sáng, tham mưu trưởng được phân công ở lại sở chỉ huy cũ để nắm tình hình chung đã báo cáo với Kinh và Nhẫn sơ bộ diễn biến và kết quả trận tập kích hơn một đại đội quân ngụy do Khuê tự động quyết định đánh.

Tin chiến thắng bất ngờ khiến hai người thủ trưởng trung đoàn hiện đang ở trên tiền duyên hết sức xúc động. Nhẫn nghe điện thoại xong, báo cho Kinh biết và mỉm cười: “Cái thằng có gan thật!”. Chưa bao giờ Kinh mừng rỡ như thế! Ông tự tay thảo một bản thông báo chiến thắng gửi cho chủ nhiệm chính trị ở phía sau, chỉ thị phải đưa tới các tiểu đoàn càng sớm càng tốt. Trong bản thông báo, Kinh đặc biệt nêu bật bài học dám đánh và nắm vững thời cơ của cán bộ chỉ huy. Thay mặt trung đoàn uỷ, Kinh kêu gọi cán bộ và chiến sĩ các đại đội hãy nâng cao khí thế lập công đánh giặc ngoài công sự. Lời lẽ bản thông báo chiến thắng viết hay và kích thích như một lời hịch.

o O o

Đã mấy ngày qua, địch tập trung oanh tạc Đồi không tên. Song song với việc oanh tạc rất dữ dội, chúng thường xuyên trinh sát và có khi cho máy bay mắc loa kêu gọi. Theo phán đoán của chiến sĩ các đơn vị đang làm nhiệm vụ trên 475, địch đang có âm mưu đánh nống ra Đồi không tên để làm bàn đạp đánh lên điểm cao 475 và các điểm khác ở phía nam Tà Cơn. Vị trí Đồi không tên có thể xem như một cái ngõ, một mảnh đất giáp ranh giữa ta và địch. Đó là một quả đồi thấp và hẹp, mọc đầy từng bãi cây xấu hổ, nằm ngay dưới chân nhiều điểm cao đã được ghi trên bản đồ.

Vào một đêm hôm ấy, Cận và Hoạt tập hợp được một tiểu đội gồm chín đồng chí. Hai người dẫn tiểu đội xuống bố trí dưới Đồi không tên, làm nhiệm vụ bảo vệ sườn phía bắc điểm cao 475. Về phần nhiệm vụ chung của tiểu đội, đài trưởng A.1 đả thông cho Cận: Đã có những đơn vị bộ binh sẵn sàng tác chiến bảo vệ đài quan sát ở các hướng, nhưng bản thân các đơn vị tại chỗ cũng cần có lực lượng riêng tự tổ chức để đánh máy bay và bộ binh địch. Theo ý kiến đài trưởng, tiểu đội Cận sẽ làm nhiệm vụ lâu dài bảo về hướng bắc của đài quan sát nên cần tổ chức và sinh hoạt chặt chẽ. Trước hết, để đảm bảo cho việc chiến đấu, tiểu đội được tổ chức một chi đoàn thanh niên lấy tên là chi đoàn Đồi không tên. Hoạt, nguyên bí thư chi đoàn cao xạ 12 ly 7 được chỉ định làm bí thư chi đoàn mới thành lập.

Tiểu đội mới được thành lập gồm phần lớn các trinh sát viên và chiến sĩ phụ trách điện đài của đài quan sát Sông Cầu, ngoài ra còn có các chiến sĩ thuộc trung đội cao xạ 12 ly 7, công binh, hoá học… người của những đơn vị khác nhau từ lâu có mặt trên đồi 475. Đặc biệt tất cả các chiến sĩ trong tiểu đội là đoàn viên, chỉ có Cận là đảng viên.

Lần đầu tiên Hoạt sinh hoạt ở một chi đoàn gồm các đoàn viên của nhiều chi đoàn khác mới ghép lại. Với cương vị là bí thư, Hoạt có nhiệm vụ cùng với Cận tổ chức việc sinh hoạt và chiến đấu trên Đồi không tên, Hoạt triệu tập cuộc họp đầu tiên của chi đoàn: Mọi người tự giới thiệu xong liền tham gia ý kiến rất sôi nổi vào kế hoạch bố trí trận địa và kế hoạch tác chiến. Đến phần xác định quyết tâm, các đoàn viên nhìn nhau và tự hiểu phải làm gì. Tất cả mọi người đều không nói cũng như không động viên nhau một lời nào ồn ào cả.

Hai ngày qua, địch chỉ cho những toán nhỏ đánh lên có tính cách thăm dò. Chúng vẫn trinh sát và cho máy bay gọi loa xuống.

Năm giờ sáng ngày thứ tư của cuộc hành quân Scotland (Tên chiến dịch giải vây của lữ đoàn “Ngựa bay” ), địch cho một chiếc máy bay kiểu rất lạ mang loa phóng thanh bay đi kêu gọi: “Hỡi các bạn cán binh trong quân đội Việt cộng! Mấy ngày qua các bạn đã được trông thấy uy lực của quân đội Quốc gia và đồng minh. Theo chương trình đại đoàn kết dân tộc, quá khứ lỗi lầm của các bạn sẽ được xoá bó. Các bạn hãy mau mau quay súng trở về với Quốc gia và thế giới tự do! Các bạn sẽ được giao chức vụ xứng đáng hoặc có thể chọn nghề nghiệp làm ăn thích họp, được đám bảo đời sống sung sướng chưa từng thấy”…

Chiếc máy bay giống như khung một cái nhà táng chưa dán giấy mang cái tiếng nói “thối khẳn” ấy (theo lời bình luận của các chiến sĩ ) bay trên dãy núi rừng trùng điệp bí mật. Nó bay rà rà, lờ rờ như sên, lượn nhiều vòng trên đồi 475 và Đồi không tên. Moan đang đứng chân co chân duỗi trong lòng một đoạn chiến hào mới đào trên Đồi không tên, nòng khẩu tiểu liên từ từ quay theo chiếc máy bay. Hai ngọn đèn xanh đỏ gắn sau đuôi cái máy bay bật sáng rồi lại tắt, cứ lập loè trong khoảng nền trời tranh tối tranh sáng.

Qua khe ngắm, Moan vẫn bám lấy “thằng địch” không chịu rời một chớp mắt. Anh nhận thấy chiếc máy bay như dừng lại, hai ngọn đèn tín hiệu lập loè đậu một chỗ không thấy trôi lừ lừ trong bầu trời như trước nữa, Moan nín thở, nòng súng cũng không ngừng di động, đế báng súng đóng chặt vào hõm vai. Một tràng đạn nổ xé. Chiếc máy bay như một chiếc xe đang chạy bỗng gặp ổ gà, tự nhiên loạng choạng, tiếng loa phóng thanh và đèn tín hiệu vụt tắt, lát sau, một tia lửa phụt ra. Chiếc “nhà táng” đã cháy! Nó kéo theo một vệt lửa đỏ và khói bay nghiêng nghiêng rơi dần xuống khu rừng cây xanh um dưới chân Động Trì.

Cận đứng theo dõi một chiếc dù trắng bung ra. Cái dù không mở rơi tuồn tuột xuống khu vực chốt dưới thung lũng. Từ lâu, Cận đã nghe Lữ khen tài xạ kích của Moan nhưng hôm nay chính Cận mới được trông thấy tận mắt.

Từ đêm qua, Cận đã được tin báo trong ngày hôm nay địch sẽ mở những cuộc tấn công lớn ở khắp các hướng. Suốt đêm, các chiến sĩ đều thức để cảnh giới và sửa chữa công sự. Đất Đồi không tên bên trên rất xốp nhưng chỉ xúc được vài lượt xẻng là đã gặp tầng đá rắn phải dùng cuốc để bổ. Tiểu đội đã chữa xong ba chiếc hầm chữ Y, đang tiếp tục khơi giao thông hào thì nghe tiếng súng bên phía đông nổ ran. Đó là lúc đã gần sáng, phía bên kia sườn đồi 475, tiểu đội trinh sát của Khuê đang nổ súng tập kích vào đơn vị quân ngụy.

Trời sáng rõ. Có thể trông thấy từng chi tiết trên hai mỏm 401 và 209 địch đang đóng nằm về phía Bắc. Hình một vài chiếc xe sơn màu xanh in bật trên nền trời trắng như sữa. Rải rác trên sườn núi nhiều chỗ vẫn còn nguyên màu xanh có những khoảng đất xam xám lùm lên như những cái tổ mối. Vài vũng sương trắng xoá bay loà xoà trong lớp hàng rào Tà Cơn. Phía bên kia, bọn địch vẫn hãy đang còn im ắng, chưa thấy để lộ dấu hiệu bắt đầu hoạt động. Bên này các chiến sĩ cứ hai người chung một hầm chữ Y, mỗi người bố trí một cửa có xạ giới rất rộng và hướng thẳng về phía địch.

Hoạt ngồi chung cửa hầm với một đồng chí công binh Sông Đà, tên là Sĩ. Sĩ lẻo khẻo, mặt rỗ hoa vừng, mũi nhọn, nói chung là một anh chàng kém đẹp trai. Ai đã từng sống những ngày địch ném bom ác liệt nhất trên đồi 475 đều được nghe tiếng sáo trúc của Sĩ. Tiếng sáo những đêm khuya dìu dặt mơ hồ, càng đứng xa nghe càng trầm bổng, tha thiết. Sau lưng áo Sĩ bao giờ cũng giắt một ống sáo bằng trúc khoét gọt rất công phu. Không mấy ai từng ở đây biết mặt người thổi sáo nhưng nhiều đêm cả đồi 475 vẫn lắng nghe cái tiếng sáo khi bổng khi trầm, khi cao vút bay xa đến những cánh rừng tranh dưới chân đồi. Chẳng biết có đúng hay không, anh em còn kể khi bắt được một đám tù binh ngụy ở bãi dù, có thằng khai đêm nào nó cũng ngồi trong hầm lắng nghe tiếng sáo bên ngoài. Mấy ngày qua, Sĩ và Hoạt đã đặt xong một cụm mìn trước tiền duyên. Sĩ và Hoạt đang chữa cái thiết bị bắn thì Cận tới. Hoạt trao chiếc xẻng cán gập còn nguyên lớp sơn màu lá cây cho Sĩ để cùng Cận đi kiểm tra công sự và vị trí chiến đấu. Hai người đến trước mặt mà Moan vẫn không biết. Anh đang mải thông nòng khẩu tiểu liên. Moan đào chung một ngách hầm cùng với một đồng chí chiến sĩ thuộc đơn vị đặc chủng. Đồng chí này có một chiếc đài bán dẫn. Đài phát thanh Hà Nội đang đọc bản tin chiến sự buổi sáng, những tin tức chiến thắng mới nhất ở Khe Sanh. Tiếng nói và tiếng hát nghe âm âm như từ lòng đất vọng lên. “Tận ngoài ấy mà theo dõi tin tức chiến trường ở đây thật sát từng ngày một!”. Moan nheo mắt nhìn qua nòng súng đã sạch bong, tự nhiên mỉm cười sung sướng như một đứa trẻ. Anh đang nghĩ tới Bác Hồ, chắc buổi sáng nay Bác chưa biết anh đang ngồi ở đây? Cận ngắm cặp môi đỏ chót và nụ cười lặng lẽ khiến cho khuôn mặt trái xoan của Moan càng trở nên hồng hào. Cận vỗ lên cái lưng thon thon như lưng một anh con trai chưa thành niên:

– Cười mỉm cái gì vậy, thằng “nhóc”?

Moan quay lại:

– Anh Cận, hôm nay liệu đã được đánh nhau chưa?

– Không hôm nay thì ngày mai, ngày kia – Cận đáp – Cậu cứ yên chí, chắc là hôm nay thôi!

– Anh xác nhận cho em đã bắn rơi một chiếc máy bay nhé!

Cận nheo mắt kiểm tra cái thiết bị bắn trước cửa hầm Moan và bắt phải ngụy trang lại. Đến hầm nào Cận và Hoạt cũng kiểm tra thiết bị bắn và ngụy trang. Công việc xong, Hoạt và Cận ai trở về hầm người nấy. Được một lát đã thấy một chiếc trinh sát hai thân bay lò dò tới liệng vài vòng rồi ném một quả lựu đạn khói xuống quãng yên ngựa trống trải phía sau lưng Đồi không tên. Cận vừa tranh thủ rít xong mồi thuốc lào bằng chiếc ống điếu bỏ túi, khắp bốn phía chân trời đã nghe rung rinh tiếng động cơ máy bay.

Hoạt ngó sang hầm Cận:

– Bắt đầu có chuyện rồi đấy, anh Cận ạ!

Cận hạ lệnh chuẩn bị chiến đấu.

Mặt trời mới mọc đã mang theo cái nóng khủng khiếp. Máy bay phóng pháo lẫn tiêm kích nhào lộn trên đầu. Một lát sau khắp vòm trời nắng đã đen đặc khói. Bom! Bom giội ầm ầm xuống bên 475 chứ không phải ở đây. Chỉ nghe mặt đất rung chuyển từng đợt dữ dội. Những chớp lửa mọc dày thành từng bãi. “Chúng nó dọn bãi đổ quân bên sườn đồi phía đông 475!”. Hoạt che một túm lá khô lên trên mũ sắt, ngồi trước cửa hầm quan sát. Nhiều đợt bom dứt, bắt đầu pháo. Rồi trực thăng tới. Ngay phút đầu tiên khi “chúng nó” mới phành phạch cắn đuôi nhau bay tới, Hoạt đã trông thấy hai chiếc trực thăng bụng to kềnh càng bốc cháy một lúc, chỉ có một vài chiếc dù bay xiên xẹo ra ngoài: Hoạt nhảy ra đoạn giao thông hào đứng nhìn rồi sung sướng khoe với Sĩ: “Cánh cao xạ 12 ly 7 bố trí ở cạnh giếng nước bắn đẹp quá!?”. Cái giếng nước quen thuộc dưới chân đồi 475 hiện ra trong trí tưởng tượng của Hoạt với những người lính tai điếc đặc, tay vo tròn mảnh ny lông, đứng chực lấy nước… Vì một lần đi lấy nước giếng ấy mà Hoạt không thể đi theo đơn vị của mình, và hôm nay Hoạt đang đứng ở đây!

Bên sườn phía đông điểm cao 475, một tiểu đoàn của trung đoàn 5 đang kịch chiến với những đơn vị “Ngựa bay” vừa xuống. Từng tốp trực thăng tiếp tục bay tới như đàn cá kình bơi trong một vùng nước đen.

Hướng tiền duyên Đồi không tên vẫn yên tĩnh như thường. Cận ngồi tựa lưng vào vách hầm đất mát lạnh, hai tay khoanh trên đầu gối. Anh bình thản nhắm mắt ngủ. “Kệ mày, bao giờ mày tấn công thì quẳng bom xuống đây đánh thức tao dậy. Rồi tao khắc dậy! “

Giữa hai hàm răng trắng đều đặn của Moan ngậm một nhánh cỏ bị cắn nát. Anh sốt ruột ngắm Cận cứ ngủ ngon ơ, tiếng súng phía mặt trận của trung đoàn 5 dội tới khiến Moan đứng ngồi không yên, tay chân cứ ngứa ngáy thế nào ấy! Nắng như một khối lửa trên sườn điểm cao 401 trước mặt. Cái thiết bị bắn và cái bệ tì phủ cỏ khô lờm xờm vẽ nhiều đường vòng tròn ngang tầm mắt nhìn. Một chiếc máy bay vận tải kiểu CH.47 đang khua tiếng động rền rền trên bãi dù. Sĩ lò dò bò sang hầm Moan, giữa lúc đồng chí trinh sát đặc chủng ôm chiếc đài ngồi bên bậc lên xuống. Đài phát thanh Hà Nội đang đọc chậm một bản tin chiến sự, vẫn bản tin đã phát buổi sáng.

– Cậu quê ở đâu? Sĩ ngắm đôi lông mày lưỡi mác trên khuôn mặt trắng trẻo của Moan.

– Em ở gần đây. Em người địa phương…

– Thế à?

– Anh Sĩ quê ở đâu?

– Tất nhiên ở xa…

– Anh thổi sáo hay quá!

– Từ hồi bé đi chăn trâu, mình đã thích thổi sáo. Cậu đã đến mười bảy chưa?

– Anh hỏi cái gì?

– Mình hỏi cậu đã đến mười bảy tuổi chưa?

– Anh đoán tuổi em chưa đúng đâu. Đã mười tám rồi đấy.

– Cậu bắn cừ thật! Sáng nay cậu bắn chiếc Utiti thật cừ!

– Tôi bắn con vật trong rừng quen rồi. Vùng tôi nhiều thú lắm. Vùng tôi, những người già bảo, người bắn con ác thú phải để mắt trên đầu viên đạn.

– Sao cậu nói “tiếng phổ thông” giỏi vậy, Moan?

– Chúng nó dẫn xác xuống rồi kia kìa! – Moan nói, cặp lông mày lưỡi mác nhíu lại, nom rất dữ dội. Sĩ quay nhìn ra ngoài. Sĩ cũng lập tức phát hiện thấy có nhiều bóng áo trắng lốm đốm đang triển khai, cái sườn dốc thoai thoải vẫn còn nhiều đám cỏ xanh của điểm cao 401 như sinh động hẳn lên. Rồi dưới đồi 209 cũng có địch. Bọn trong đồn Tà Cơn cũng tiến ra ở cửa ngõ bãi dù. Các mũi tiến quân đang còn rập rình, không đều nhau.

Cận đã thức dậy. Không phải bom của địch mà chính những loạt pháo đầu tiên của ta đánh thức Cận dậy.

Những quả đạn pháo đi trong ánh nắng sáng loé. Tiếng nổ đanh và gọn. Đài quan sát trên điểm cao 475 có thể nhìn rõ từng tốp địch trước mặt, vì thế đã chỉnh pháo bắn rất chính xác. Đội hình triển khai của địch đang bị vỡ ra. Moan đỏ mặt sung sướng quay lại nói với Cận: “Chưa bao giờ em được trông thấy chúng nó “bị” như thế này!”

Đợt tấn công thứ nhất đã bị đập nát.

Nhưng chỉ mười phút sau chúng lại bắt đầu oanh tạc trận địa. Cận lệnh cho anh em cứ ngồi trong hầm và tăng cường quan sát.

Non trưa, chừng hơn một đại đội lính thuỷ đánh bộ liều chết xông thẳng được tới chân Đồi không tên. Bom giội vài đợt đã thấy chứng xung phong lên.

Hoạt nhìn lướt qua đội hình tản khai của địch. Chúng nó bò bốn chân lổm ngổm, súng treo lủng lẳng trước cổ. Không biết trong điều lệnh chiến đấu của quân đội Mỹ có kiểu bò ấy không? Đa số chỉ mặc áo lót vằn xanh trắng. Một thằng vừa bò vừa phất phất lá cờ, nom rõ những hàng chữ xanh trên nền vải trắng. Không khí đang bị rang khô. Tàn cỏ tranh cháy bay mù trong khói bom. Miệng người nào cũng đắng nghét. Con mắt Hoạt theo dõi địch từng bước.

– Cho nổ súng đi anh Cận – Hoạt sốt ruột lắm rồi nên phải giục.

– Nổ súng – Cận hạ lệnh cho Moan- nhằm trúng thằng cầm cờ!

Nòng tiểu liên của Moan nổ bật trên cái thiết bị bắn. Thằng cầm cờ đang bò ngã vật xuống. Lá cờ hình tam giác bé bằng bàn tay đã nằm xuống đất. Ngay sau đó một hàng những cụm lửa bỗng sáng lóe lên như lửa hàn trước tiền duyên, những tiếng nổ làm mọi người choáng cả hai tai. Hoạt và Sĩ đã điểm hỏa cụm mìn điện đầu tiên. Chấm khói đen từ cụm mìn xòe ra như một cái nấm trùm kín hết tất cả. Giữa đám khói, trông rõ xác những tên Mỹ mặc áo trắng bị tung lên cao rồi rơi xuống. Hoạt và Sĩ ôm lấy nhau. Một bọn địch khác, khá đông, đang nằm chực dưới chân Đồi không tên vội vã quay trở lại. Trước mặt mọi người chỉ còn khoảng một trung đội địch đang co kéo nhau, cứ hai thằng nắm hai tay lôi xềnh xệch một thằng bị thương hay một cái xác, nửa phần dưới quyệt trên mặt đất. Trong lúc bọn địch đang lúng túng với nhau, Cận nắm thời cơ cho tiểu đội xung kích ” G…i…ế…t”. Tiếng Moan thét bằng giọng óc. Cả tiểu đội ào lên xung phong. Sau khi diệt thêm một số nữa, Cận lệnh cho anh em quay trở về hầm. Pháo địch bắn tới tấp. Máy bay lại giội bom. Mọi người vào trong hầm để ẩn nấp và lấy lương khô ra ăn. Họ ăn uống thoải mái, nói chuyện và rút kinh nghiệm đợt đánh vừa qua. Cận nhận định: “- Thằng Mỹ không giội bom vào trận địa ta trong vòng vài giờ nữa, đố chúng nó dám mò lên? Cậu nào buồn ngủ cố đánh lấy một giấc, tranh thủ đi! “.

Vài người đã ngủ nhưng lần này Cận lại thức. Anh trực tiếp đứng trong giao thông hào để cảnh giới. Hoạt đi từng hầm giục anh em sửa chữa công sự và động viên chiến đấu. Từ trong hầm Sĩ, tiếng sáo trúc vẳng đưa ra giữa tiếng bom nổ ầm ầm xung quanh. Lúc bom vừa ngớt, Hoạt vội vàng trở về vị trí chiến đấu của mình. Sĩ trông thấy Hoạt trở về anh liền giắt chiếc sáo bên thắt lưng to, đứng dậy. Hoạt và Sĩ lại bò ra ngoài để đặt mìn.

Mãi hai giờ chiều, chúng mới mở đợt tấn công thứ hai. Cũng bắt đầu từ ấy, các chiến sĩ phòng ngự phải đối phó với nhiều đợt tấn công ồ ạt liên tiếp. Đợt tấn công thứ ba nguy hiểm hơn cả, có khoảng chừng một trung đội địch tiến được tới trước mặt. Cận vẫn cho anh em nằm im, mỗi người cầm hai quả lựu đạn đã mở nắp. Chờ chúng tiến sát đến trước cửa hầm, Cận mới hạ lệnh cho ném. Một dây tiến nổ dăng thành hàng dài cách hầm chỉ khoảng năm thước. Loạt lựu đạn ném ra đồng loạt rất trúng dọn sạch quang mất một nửa số quân địch, một nửa bị đánh hất quay trở lại..

o O o

Mặt trời nghiêng về phía những đám mây màu hung hung đỏ ở hướng tây. Nắng chiếu xiên vào các hầm của Hoạt và Sĩ bị bom đánh sạt. Chúng tiếp tục oanh tạc và bắt đầu dùng bom na-pan. Tiếng nổ bùm bụp của bom xăng đặc kèm theo tiếng réo ù ù của lửa cháy.

Hoạt đang cảnh giới giữa chiếc hầm nóc hở hoác. Các hầm khác đều đang cháy. Hoạt điểm lại số người: Đã có bốn đồng chí bị thương và hi sinh. Cận cũng bị thương nặng trong lúc đang đang cảnh giới. Dưới chân đồi, chỗ mấy bụi gai xấu hổ bị bom xăng thiêu cháy đang bốc khói nghi ngút, có nhiều rất nhiều bóng mũ sắt có vạch trắng, lố nhố.

Hoạt liếc nhìn qua trên khoảng đất trũng đã ước tính chúng kéo lên tới một đại đội. Dưới chân Hoạt, Sĩ bị thương đang nằm nghiêng giơ một bàn tay lên:

– Hoạt, cậu đưa cho mình… trái mìn!

Hoạt trao cho Sĩ quả mìn cuối cùng. Khi anh ngẩng lên thì những tên địch đã chạy tới sát chỗ loạt lựa đạn đợt trước nổ. Hoạt đứng nép bên vách hầm, cặp mắt long lên: Có khoảng mười đứa đang xông thẳng đến trước mặt anh. Thằng chạy dẫn đầu tay trái kẹp súng ngang nách, tay phải cầm cổ một chai rượu – “Mẹ mày, mày dẫn xác đến làm bao đất chắn hầm cho ông đây!”. Hoạt nghiến răng nổ một phát. Nó ngã vật xuống suýt nữa đè lên người anh, chiếc mũ sắt lăn lông lốc vào cửa hầm nhảy qua người Sĩ. Anh với tay kéo cái xác chết đặt nằm ngang trước mặt và kê miệng súng lên, tiếp tục bắn ngã hai tên nữa. Lúc bấy giờ Hoạt mới sực nhớ đến cương vị của mình phải thay Cận chỉ huy chiến đấu. Hoạt đứng thẳng lên đảo mắt nhìn hai bên, thét to: “Các đồng chí đoàn viên, hãy chiến đấu bảo vệ trận địa đến cùng! “. Sau tiếng hô của Hoạt, Sĩ ôm trái mìn nhổm dậy nhưng Hoạt bắt Sĩ nằm xuống. Bên trái, Moan và một chiến sĩ thuộc đơn vị cao xạ đang quần nhau với khoảng gần một tiểu đội địch. Moan dùng lê đâm trúng giữa bụng một tên, lưỡi lê mút, anh co chân đạp ngã cái xác xuống, rồi nhanh nhẹn trở báng súng đập vỡ sọ một tên khác. Phía đầu bên phải trận địa, một chiến sĩ trinh sát bị thương vừa dùng A.K hạ thủ một tên bắn súng máy. Hoạt nhảy tới ôm khẩu súng máy vừa mới tước được bắn quét vào giữa một đám địch rất đông đứng xúm xít chung quanh cái hầm của Cận. Tràng đạn súng máy lia đầu gối như một con dao phạt vào giữa khóm mía.

Đợt xung phong thứ năm bị bẻ gãy. Hoạt liếc chiếc đồng hồ màu vàng trên cổ tay một tên Mỹ chết trước hầm Cận: Mới hơn ba giờ chiều.

o O o

Suốt cả buổi sáng, không lúc nào Lữ tắt máy được chừng mười phút. Có lúc hai ba nơi cùng gọi, anh phải lần lượt làm việc với từng đài một. Căn cứ vào những âm thanh ầm ĩ quen thuộc và tiếng súng nghe được từ các hướng, Lữ có thể xác định tình hình chung của những cuộc chiến đấu đang xảy ra chung quanh: Hai cánh quân địch bên trong và bên ngoài đang cố sống chết hội quân được trong ngày hôm nay. Bọn lính thủy đánh bộ bị vây liều mạng nống ra các mỏm đồi phía tây hòng bắt liên lạc với cánh quân “Ngựa bay” ứng cứu, bọn này đang giáp chiến quy mô với một lực lượng rất mạnh của trung đoàn 5 bên sườn phía đông 475 và đang bị đánh thiệt hại rất nặng. Hình như ban chỉ huy trung đoàn 5 có đặt sở chỉ huy tiền phương ở gần đây. Tảng sáng hôm nay, có một lần Lữ được báo chính ủy Kinh gọi điện thoại cho anh qua một cái máy mới đặt, khi Lữ tới được đài cầm lấy ống nghe thì chỉ được Nhẫn, trung đoàn trưởng bên ấy báo cho biết chính ủy Kinh đã đi theo đồng chí chính trị viên tiểu đoàn xuống chỗ bộ đội bố trí rồi. Không biết bố định dặn việc gì, hay chỉ muốn động viên mình?

Hai ngày qua, đài quan sát A.1 đã lùi xuống mỏm B, và hầm máy được đặt một chỗ xa đài quan sát hơn. Đại đội tham mưu ở nhà đã bắt đầu dùng một số phương tiện kỹ thuật riêng ngăn trở địch giao hội làn sóng, mật mã và “chìa khóa” cũng được thay đổi.

Hầm máy có hai cửa, một nhìn thẳng sang Đồi không tên, một quay về hướng mỏm A. Từ mỏm B sang Đồi không tên, chỉ cách bảy tám trăm thước. 3 giờ 15 phút, Lữ vẫn quàng ống tổ hợp bên tai, ngước mắt nhìn sang vẫn thấy im ắng. Về chiều nắng càng gay gắt. Sau năm lần đánh lui những đợt xung phong của địch, Đồi không tên lại trở lại im lặng, một vẻ im lặng đến dữ dội. Khói bom loãng dần, bụi đất đỏ bay lơ lửng trên nóc mấy cái hầm sụt lở, như một tấm màn thưa màu gạch non, từng đốm nắng đậu sáng lóe trên một chiếc mũ sắt. Rất nhiều đốm nắng đậu trên những đồ trang phục lính Mỹ chết nằm chất đống trắng xóa trước tiền duyên. Dưới mấy đường gờ giao thông hào phòng ngự, thỉnh thoảng lấp ló một cái đầu nhô lên quan sát trước mặt và hai bên sườn đội hình.

Bỗng Lữ trông thấy một người đang chạy trở về. Cái bóng cắp súng chạy lom khom, chạy nằm nằm chạy rất nhanh giữa những đám đất của các hố bom mới vẫn còn bốc khói. Mười phút sau Moan đã nép mình bên cửa hầm Lữ. Lát lâu Lữ mới nhận ra được, đầu tóc mặt mũi Moan đen sì, đất cát và thuốc đạn bám đầy trên quần áo nóng như lửa và khét lẹt. Moan nhổ ra một lọn đất lẫn cỏ khô, nhe hàm răng trắng lóa đã cứng đờ:

– Anh còn nước uống không?

Lữ trao cho Moan nửa bi đông nước từ sáng tới giờ anh chỉ dám nhấm nháp từng giọt một. Moan ngậm một ngụm, đưa chiếc lưỡi láng nước xoa trên hai vòm miệng, cứ ngậm mãi mới chịu nuốt. Ngụm nước suối đun sôi đã làm mắt anh sáng lên, người tỉnh hẳn ra.

– Trên ấy anh em thế nào? Lữ hỏi.

– Đánh sướng lắm? Chúng nó chết lấp gần hết các cửa hầm không có chỗ quan sát nữa.

Moan trở về lấy thêm đạn. Lữ thầm nuốt vội cơn khát vừa dâng lên đốt cháy cổ, quàng chiếc bi đông sắt lên vai Moan: “Đưa cho anh Cận và anh em trên ấy, cậu lên đi!”. Moan vác hai hòm đạn rời hầm Lữ trở về. Được một lát địch lại tiếp tục xung phong lên. Lần này Lữ trông thấy từ hướng đồi 209 sang, có hai chiếc xe tăng. Lữ được lệnh gọi bắn. Đợt tấn công có xe tăng yểm hộ bị đạn pháo và tiểu đội phòng ngự chặn đứng lại. Đạn pháo của ta tiếp tục dăng một hàng rào lửa trước cái lũng hẹp dưới chân Đồi không tên. Quãng bốn giờ chiều, địch oanh tạc cả ba mỏm đồi 475 hết sức dữ dội.

Đường dây điện thoại đứt. Một trinh sát viên từ trên đài phải vội vàng chạy xuống để nối dây và truyền lệnh gọi bắn. Nửa giờ sau, chúng tập trung ném bom mỏm B. Khắp mỏm B, khói đen khói xám lẫn đất cát bay mù. Dây điện thoại vừa nối xong đã đứt. Không còn nghe tiếng bom nổ nữa. Lữ chỉ thấy cái hầm của mình dồi lên dồi xuống, như đang ngồi trên mình ngựa phóng qua một cái vạc dầu. Rồi nghe tiếng ù ù phành phạch, những “thằng” trực thăng à? Nghe rất nhiều tiếng cánh quạt trực thăng, rất gần, Lữ nhảy ra khỏi hầm. Vừa lúc ấy trận địa 12 ly 7 bảo vệ đài quan sát (không biết bố trí ở đâu) bất ngờ phát hỏa. Một chiếc trực thăng đang bay qua đầu Lữ bốc cháy ngùn ngụt! Lúc bấy giờ bộ đội phục kích quân đổ bộ đường không của trung đoàn 5 bên sườn phía đông đã chuyển sang đánh chặn một đơn vị “Ngựa bay” hành quân theo đường 9, từ phía ngã ba thị trấn lên. Hai bên đang quần nhau. Lữ nghe súng nổ xa hơn, tận dưới đường cái, quãng bị che khuất giữa con đường và chân mỏm A tiếp giáp nhau.

Lữ bình tĩnh quan sát và xác định cái tình huống đang xảy ra trước mặt. Chà, chúng nó đã vứt quân xuống đầy mỏm đá “đầu gà” trên mỏm A rồi! Lữ quan sát thấy trên mỏm A có khoảng chừng hơn một trung đội Mỹ, những chiếc mũ sắt trắng lóa, nhiều đứa chỉ mặc độc một chiếc xi- líp đỏ lố nhố chung quanh mấy mỏm đá đen sì. Nắng buổi chiều đổ lửa xuống từng khuôn mặt và bắp thịt đỏ như gà chọi. Chúng nó, đứa đứng, đứa ngồi, đang hí hửng tung qua đầu trao cho nhau những chai rượu, những chai nước chanh giải khát, những bao thuốc lá hoặc băng đạn.

– “Mỹ không? Tiên sư chúng mày! Lữ chần chừ đứng nép bên ngoài cửa hầm máy để xác định thật đúng cái tọa độ gần như ở ngay trên đầu mình, y như có một đốm nắng chớp nhoàng trước mặt, một quả bom nổ ngay bên cạnh hất anh nhào vô hầm. Mảnh bom đã lia sượt qua trán Lữ. Máu chảy ròng ròng trên hai bàn tay anh bất thần đưa lên ôm mặt. Lữ thấy choáng váng chực ngã. Anh cố dùng hết nghị lực để đứng vững, và cố nhớ cái tọa độ trên mỏm A vừa xác định xong. Anh liền gọi bắn vào đấy. Tiếng gọi của chính anh, anh nghe cứ bồng bềnh bên tai. Máu lẫn mồ hôi chảy đầy hai tròng mắt. Máu từ hai bên má chảy cả vào miệng. Chỉ vài phút sau, đạn pháo đã nổ nghe như xé không khí trên mỏm A. Chừng hơn một chục quả đạn đồng loạt chụp xuống cái trung đội “Ngựa bay” đang chủ quan phè phỡn. Chúng chết hơn một nửa, mấy đứa kịp nấp vào các hốc đá, số sống sót vừa ngớt loạt đạn đã chạy ùa cả xuống mỏm B.

Có vẻ địch đang “khát nước” muốn đánh một trận cuối cùng. Từng tốp trực thăng ba chiếc một vẫn lao tới. Lần này chúng không đổ quân xuống mỏm A mà đổ ngay xuống ngay giữa mỏm B, nơi đang đặt hầm máy.

Lữ bị ngất đi. Vết thương ra máu nhiều quá. Anh tỉnh dậy cảm thấy đầu nóng bừng và khát nước ghê gớm. Anh sờ bi đông, không thấy. Máu trong miệng dơm dớp, mằn mặn. Chiếc hầm máy đã bị bom đánh sạt một mảng lớn trước cửa. Khoảng ánh nắng hình xiên xẹo trước mặt như nằm khuất sau một bức mành đỏ đang lay động. Máu còn ướt dính trên hàng mi, láng giữa tròng mắt. Bầu trời, mặt đất và chân trời ngập giữa sắc đỏ rực rỡ chưa tùng thấy. Anh uống một nước nước giải khát trên hai bàn tay, thấy khỏe khoắn và tỉnh táo hơn.

Trên khoảng đất nằm van vát đầy mảnh kim khí sáng lấp lánh có một búi cỏ khô, rễ nằm chổng ngược lên. Nắng đỏ rực lên mãi chung quanh cái búi cỏ trước cửa hầm, y như một vồng hoa mười giờ. Không gian tưởng như đang vỡ ra bởi tiếng động cơ của các loại máy bay. Chung quanh hầm Lữ, chỗ nào cũng có địch. Trên khoảng đất sườn đồi B chật hẹp, chúng đã vứt xuống đấy gần hai đại đội. Chúng đang tràn ra, đang di động, đang hò hét, đang hô khẩu hiệu và phất cờ. Tiếng súng trường và tiếng máy nổ khắp bốn phía. Chúng bắn súng và sục sạo. Một thằng to lớn, đeo kính kẹp mũi, hai mu bàn tay mọc đầy thứ lông vàng vàng lên tới chỗ đeo đồng hồ, hắn phát hiện được cái hầm máy và đoạn dây trời. Hắn lùi lại. Chúng hí hửng gọi nhau xì xồ bên ngoài. Một quả lựu đạn “mỏ vịt” ném vào. Lữ đứng dậy nhặt ném ra ngoài. Quả lựu đạn nổ trên lưng chừng ngoài cửa hầm làm bị thương mấy đứa và tạm thời chúng lùi lại. Lữ giang hai cánh tay ôm chặt lấy cái đài như sợ chúng có thể ùa vào cướp ngay trên tay anh. Anh ôm nó trong ngực, lúc này anh quý nó hơn là tính mạng. Anh vừa quyết định một việc vô cùng hệ trọng đối với anh, và quyết định hết sức nhẹ nhõm: Anh gọi bắn! Anh gọi rất hấp tấp, không kịp dùng ký hiệu mật mã – “Chúng bay hãy cầu chúa đi!”. Trong lòng anh chợt rung rinh một nỗi mừng rỡ. Tiếng anh gọi sang sảng:

– Bắn đi! Cho bắn ngay đi!

– Sao lại “Hái hoa vườn 75-34”?

– Tôi đã di chuyển đài rồi! Bắn ngay đi!

Anh giục rối rít. Anh gắt với đồng chí điện thanh liên lạc với anh và sau đó cả với đồng chí đại đội trưởng tham mưu của anh hiện đang ở sở chỉ huy trung đoàn. Vài phút sau, khi có chừng một tiểu đội địch xăm xăm hùng hổ kéo đến vây kín chung quanh chiếc hầm máy thì khắp sườn mỏm B đã rung lên dưới một làn đạn pháo: Chừng một chục quả lựu đạn tròn nhẵn, màu xam xám như những quả na chúng đã kịp thời vứt vào chỗ Lữ đứng, nhưng chỉ có hai quả lọt được vào bên trong hầm. Lữ liếc nhìn hai quả lựu đạn xì khói dưới chân trong một thoáng rồi bình thản đưa mắt nhìn ra ngoài; Cái sườn đồi nằm chênh chếch trên đó bọn địch đang chạy đi chạy lại nhốn nháo, khói mấy quả đạn đầu tiên che khuất một nhóm địch mặc áo trắng cũng đang chạy đi chạy lại và thổi còi ở phía sau, nom mờ mờ. Lữ bình tĩnh quan sát điểm chạm của những viên đạn vừa nổ. Anh đang gọi sửa bắn thì nắp hầm tung giật lên. Hai quả lựu đạn dưới chân anh nổ cùng một lúc. Lữ ngã gục ngay xuống. Máu từ trên mái tóc rủ lòa xòa ám đầy khói chảy xối xuống hai hố mắt và hai bên vai áo quân phục. Dòng máu chảy luồn trong ống tay áo, rỏ xuống mặt chiếc đài vô tuyến điện thành vũng. Đạn pháo nổ như tiếng sét đầu mùa hạ. Đó là trận tập kích pháo cuối cùng và dữ dội nhất trong ngày.

Lữ nằm gục trên chiếc đài, những ngón tay vẫn nắm chặt cái ống tổ hợp.

Người chiến sĩ điện thanh ấy trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước mặt. Rồi anh nhắm mắt hẳn. Những món tóc rất xanh rối bù dính bết máu phủ kín cả vầng trán lấm tấm mồ hôi đã trắng nhạt. Dường như từ trong ngực anh, chiếc đài vẫn đang nói sang sảng.

o O o

Tính đến 6 giờ chiều ngày thứ tư của cuộc hành Quân, lữ đoàn Kỵ binh đã bị thiệt hại nặng nề, nhưng vẫn không làm được nhiệm vụ giải vây cho bọn lính thủy đánh bộ ở Khe Sanh.

Chung quanh điểm cao 475 và Đồi không tên, chúng bị thiệt hại về quân số nặng nề nhất. Cái nút buộc của hai cánh quân trong ngày hôm đó không sao thắt lại được. Chiều tối, sau trận tập kích pháo của ta xuống mỏm B, địch sợ hãi không dám cho trực thăng hồng thập tự xuống nhặt xác nữa. Chúng đã phải bỏ lại gần một trăm tên trên một miếng đất nhỏ hẹp.

Đêm đầu mùa hạ, mặt trời vừa lặn thì trăng mọc. Máy bay trinh sát thả pháo sáng và các loại phản lực gầm rít trên bầu trời. Chúng ném bom các cửa rừng, xuống thị trấn và dọc đường 9. Bom tọa độ nổ tùng đợt rất dày dưới chân mỏm A và dọc theo dòng suối bên cạnh sở chỉ huy tác chiến liên tục, Nhẫn đã thấm mệt, râu hai bên hõm má mọc lởm chởm, thần kinh Nhẫn căng ra trên mặt một ván cờ đang dở dang. Nhẫn đang tổ chức lại bộ đội và điều chỉnh đội hình bố trí của các tiểu đội. Kinh đang làm việc với các chính trị viên tiểu đoàn trong một cái hầm không có nắp, đào sơ sài. Chỉ qua một ngày đêm, mới tính riêng trung đoàn 5 đã diệt hơn bốn trăm Mỹ và ngụy, đã tổ chức những trận đánh hết sức linh hoạt và liên tục. Bộ đội có thương vong nhưng tư tưởng bộ đội hết sức phấn khởi. Các chính trị viên đề nghị Kinh gửi một bức điện báo tin mừng cho trung đoàn pháo Sông Cầu. Đạn pháo binh đã yểm hộ cho bộ binh hết sức đắc lực. Đặc biệt trận tập kích pháo buổi chiều đã tiêu diệt một cánh quân Mỹ đổ xuống sau lưng đội hình của trung đoàn.

Trời vừa chập choạng, Nhẫn đã phái một đại đội bộ binh cùng với hai tiểu đội trinh sát lên tổ chức trận địa và bám địch ở hướng Tây Bắc. Khuê cũng đi theo hai tiểu đội trinh sát của mình. Đồi 475 ngập xác lính Mỹ. Các chiến sĩ trinh sát bộ binh tìm thấy một đồng chí chiến sĩ đã hy sinh giữa một cái hầm sập và mất nắp, như một cái rương mở toang. Khi Khuê được gọi tới thì anh đứng sững hồi lâu: Trước mặt Khuê, Lữ đang ngồi ôm chiếc đài, đầu gục xuống, y như sau một ngày làm việc mệt mỏi ngủ thiếp đi. Khuê ôm ngang vai bạn lay gọi một cách tuyệt vọng, bàn tay đặt trên ngực không hề thấy động đậy nữa, chỉ sờ thấy trong chiếc túi áo ngực mấy viên “tăng lực” và một ống thuốc lọc nước giập nát.

Khuê gỡ xác Lữ khỏi chiếc máy, đặt nằm ngửa dưới chân mình. Trước mặt Khuê, về phía cánh rừng của bờ sông Xê Pôn, mặt trăng mới mọc to như một chiếc thuyền đi tròng trành, mặt trăng đỏ quạch đang bốc cháy giữa một vùng ánh lửa chớp bom và những tia khói đèn dù để lại ngoằn ngoèo trên nền trời.

Dưới cái ánh trăng lờ mờ đỏ như lửa, các chiến sĩ trinh sát dùng xẻng khơi một cái huyệt. Họ chôn người con trai đồng chí chính ủy của họ ngay bên cạnh cái hầm máy, bên vị trí chiến đấu của anh.

Anh đã nằm yên mãi mãi ở đây, dưới những tầng đất cổ kính đầy khói bụi.

Mặt trăng đi mãi mà vẫn nấn ná không sao vượt qua khỏi cái đường viền những chỏm cây lô nhô ra ngoài chân trời…

Khuê ôm chiếc mũ sắt trước ngực đứng lặng yên mấy phút, lòng bồi hồi thương tiếc Lữ. Nhưng Khuê không hề lãng quên công việc. Anh lệnh cho các chiến sĩ của mình, từng người vượt qua một cái yên ngựa địch đang câu pháo tới để tiếp tục đi về phía bắc.

Đồi không tên hết sức im lặng. Khuê và các trinh sát viên bộ binh thò mũi giày vào chỗ nào cũng giậm phải mũ sắt, tiểu liên cực nhanh và xác Mỹ. Xác lính Mỹ ngả chồng chất đè lên nhau, đầu thằng nào cũng nằm hướng về phía trận địa phòng ngự, xác chúng đã lấp kín hết tất cả các cửa hầm.

Nào ai biết cụ thể và tất cả chi tiết diễn biến cuộc chiến đấu xảy ra ở đây trong ngày hôm nay? Từ ba giờ chiều, sau khi Moan đi lấy đạn trở về, địch tổ chức liên tiếp năm đợt xung phong nữa, đợt cuối cùng lực lượng đông gấp bội các đợt trước. Sử sách về sau sẽ ghi tên Quả Đồi Không Tên, gần một chục chiến sĩ trẻ tuổi, tất cả đều là đoàn viên thanh niên do một đồng chí đảng viên chỉ huy, họ đã đem ngực mình dựng thành chiến lũy cản mười đợt tấn công điên cuồng của địch. Họ đã chiến đấu đến người cuối cùng, không có một tên lính Mỹ nào bước nổi qua cái mảnh đất của Tổ quốc họ đứng cầm súng và ngã xuống, trong ngày hôm nay.

Khuê chốt lại một tiểu đội của mình thay thế tiểu đội của Cận tiếp tục làm nhiệm vụ phòng ngự và cảnh giới. Rồi anh dẫn một tiểu đội khác men dưới cái thung lũng đi về phía đồi 401 hiện địch đang đóng lại.

Trăng đã lên cao.

Một chiếc máy bay “ăn sương” bay qua vứt xuống Đồi không tên một loạt bom.

Một câu hát quen thuộc chợt vẳng lên giữa loạt tiếng nổ: “… Những cửa đầu ô tíu tít gánh gồng, đây Ô Cầu Rền, kia Ô Chợ Dừa, tà áo xanh nâu!… “.

– “Sao lại có một chiếc đài đang hát ở đây nhỉ”? Một chiến sĩ trinh sát sau loạt bom vừa ngẩng lên chợt cất tiếng hỏi. “Tiểu đội trinh sát mới được Khuê chỉ định ở lại làm nhiệm vụ phòng ngự bắt đầu đi tìm kiếm tử sĩ và chữa công sự. Họ mới đất tìm thấy một chiếc đài để trong góc một cái hầm sập. Tiếng hát vẳng lên từ giữa những thanh gỗ nằm ngổn ngang lẫn đất đá:

Hà Nôi tươi thắm sống vui phố hè,

Bồi hồi chàng trai những đôi mắt nào?

Hà Nội đẹp sao!

Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng!

Bóng Tháp Rùa thân mật em ấm lòng.

Hồng Hà tràn đầy,

Sông Hồng reo!

Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây!

Đây lắng hồn núi sông ngàn năm…

( “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi).

Máy bay vẫn lượn hoài trên đầu. Trong tiếng kim khí xoáy ghê rợn vào khoảng không, tiếng hát vẫn cất lên từ mặt đất. Như một hoài khúc, tiếng hát thật yêu đời và trang trọng.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN