Điểm Dối Lừa - Chương 47
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
56


Điểm Dối Lừa


Chương 47


Đi xuôi dòng sông băng, dấn mình vào bóng đêm thăm thẳm, Rachel Sexton thấy một luồng gió buốt giá đang thổi. Rất nhiều hình ảnh cứ ám ảnh tâm trí, làm cô phải băn khoăn suy nghĩ – tảng thiên thạch, loài phù du phát sáng, những hậu quả của sai lầm rất có thể xảy ra khi Norah Mangor khoan thăm dò phiến băng.

Một cái đệm đá nước ngọt đặc liền khối hoàn hảo, Norah đã khẳng định điều đó, đã nhắc cho họ nhớ rằng chị ta đã khoan thăm dò ngay bên trên và xung quanh vị trí của tảng thiên thạch. Nếu dòng sông băng này có lẫn những tua nước mặt chứa sinh vật phù du thì chị ta phải biết ngay. Chắc chắn thế. Tuy nhiên, linh tính mách bảo Rachel rằng giả thuyết đơn giản nhất là giả thuyết đúng. Có những sinh vật phù du đông cứng trong lòng dòng sông băng.

Đi thêm mười phút nữa, cắm thêm bốn cái đèn pháo sáng nữa, Rachel và những người khác đã đi được khoảng hai trăm năm mươi mét. Bất thình lình. Norah dừng lại.

– Chính là chỗ này. – Chị ta nói, giọng chắc nịch y như thầy phù thuỷ chuyên tìm nguồn nước, bằng những cách thức thần bí, đã chọn được địa điểm tuyệt vời để khoan giếng.

Rachel quay lại đằng sau và nhìn ngược lên con dốc. Bán sinh quyển từ lâu đã chìm vào trong ánh trăng đêm mờ ảo, nhưng ánh sáng phát ra từ những cây đèn cắm trên tuyết thì rất rõ, ngọn đèn xa nhất đang lấp lánh như một ngôi sao ở phía xa. Tất cả những cây đèn cùng nằm trên một đường thẳng tuyệt đối, như thể đã được tính toán cẩn thận từ trước. Rachel thực sự thán phục kỹ năng của Norah.

– Đó là một lý do nữa để không vượt lên trước xe trượt. – Norah nói khi thấy Rachel thán phục dãy đèn thẳng tắp. – Xe trượt luôn chạy theo đường thẳng. Nếu cứ để cho nó chịu tác động của lực hấp dẫn và tuyệt đối không can thiệp vào, chắc chắn chúng ta sẽ đi trên một đường thẳng.

– Mẹo hay đấy, – Tolland từ phía sau nói lớn. – Ước gì chúng tôi cũng có nhiều mẹo nhỏ như thế để áp dụng mỗi khi ra khơi.

“Đây chính là ngoài khơi rồi còn gì”, Rachel nghĩ, mường tượng trong đầu mặt biển tít sâu dưới chân họ. Trong một tích tắc sau đó, cô chợt để ý đến ánh đèn xa nhất. Tự nhiên nó biến mất, như thể ánh sáng vừa bị một vật lớn lướt qua che mất. Chỉ sau một tíc tắc, nó lại sáng. Rachel chợt cảm thấy lo lắng.

– Norah này, – cô gào thật to để át tiếng gió – ban nãy chị bảo là vùng này có gấu à?

Nhà băng hà học đang chuẩn bị cắm cây đèn phát sáng cuối cùng lên – hoặc là không nghe thấy gì, hoặc là đã cố tình lờ đi.

– Gấu Bắc Cực ăn thịt hải cẩu cơ. – Tolland nói thật to. – Chúng chỉ tấn công người khi con người xâm phạm lãnh địa của chúng thôi.

– Đây là nơi chúng vẫn ở có phải không? – Rachel không bao giờ phân biệt được địa cực nào có gấu, địa cực nào có chim cánh cụt.

– Đúng thế, – Tolland đáp. – Chính vì gấu nên người ta mới đặt tên đất này là Bắc Cực. Trong tiếng Hy Lạp, gấu có nghĩa là arktos.

Kinh thật. Rachel sợ hãi cố nhìn sâu vào bóng tối mịt mùng xung quanh.

– Nam Cực không có gấu. – Tolland nói. – Nên được đặt tên là anti-arktos – Cảm ơn Mike. – Rachel nói. – Nói về gấu thế là đủ rồi đấy.

Ông cười lớn:

– Phải rồi. Tôi xin lỗi.

Norah đã cắm xong cây đèn pháo sáng cuối cùng. Như những lần trước, luồng ánh sáng đỏ rực lại ôm trùm lấy họ, người nào trông cũng béo phị ra vì bộ quần áo bảo hiểm. Bên ngoài vùng sáng của bóng đèn, cảnh vật hoàn toàn mù mịt, như tấm vải liệm lớn màu đen bao trùm lên tất cả.

Rachel và những người khác cùng ngước nhìn lên, Norah đứng choãi chân, tay kéo chiếc xe trượt lùi lại vài mét, đến sát chỗ họ đang đứng, thận trọng trong từng thao tác. Sau đó vẫn giữ dây kéo thật căng, chị ta cúi xuống và lấy tay đẩy lưỡi phanh hình móng nhọn – những chiếc đinh bơn chĩa găm xuống mặt băng, giữ chiếc xe đứng im tại chỗ. Xong việc, chị ta đứng thẳng dậy, phủi quần áo sợi dây thừng quanh người Norah chùng hẳn xuống.

– Xong rồi. – Norah kêu to. – Bắt đầu vào việc nào.

Nhà tiến sỹ băng hà học đi vòng quanh chiếc xe trượt, đến cạnh mũi xe ở vị trí xuôi gió và bắt đầu tháo những chiếc khoá bướm cố định lớp vải bạt bảo vệ phủ kín dụng cụ. Cảm thấy từ đầu đến giờ mình hơi khắc nghiệt đối với Norah, Rachel tiến lên một bước, định giúp một tay bằng cách tháo những chiếc khoá ở đuôi xe.

– Chúa ơi, đừng! – Norah thét lớn, ngẩng phắt lên. – Đừng bao giờ làm như thế.

Rachel rụt tay lại, ngỡ ngàng.

– Đừng bao giờ mở khoá ở ngay đầu ngọn gió! – Norah nói. – Gió thổi ập vào ngay đấy! Chiếc xe này sẽ bay lên trời như diều đấy!

Rachel lùi lại.

– Xin lỗi tôi chỉ… Norah lừ mắt.

– Cả cô lẫn anh chàng cổ sinh vật kia đừng đi theo thì tốt!

Chẳng ai nên đi cùng chị cả, Rachel nghĩ thầm.

Mấy con gà mờ, Norah bực tức, thầm rủa ông Giám đốc cứ khăng khăng bắt Corky và Sexton cùng đi theo. Những kẻ khờ này có khi lại làm người khác chết oan không chừng. Chị ta thậm ghét phải lăng xăng chăm sóc những kẻ khác.

– Mikel! – Norah nói – anh hãy giúp tôi nhấc GPR xuống cái nào.

Tolland giúp Norah dỡ chiếc máy quét radar trong lòng đất (GPR) và đặt nó trên mặt băng. Chiếc máy này trông khá giống ba cái luỡi ủi tuyết nhỏ gắn song song trên khung nhôm. Toàn bộ chiếc máy dài không quá một mét, nó được nối với cái ổn áp và bình ắc quy để trên xe trượt.

– Radar đấy à? – Corky hỏi, cố hét to để át tiếng gió.

Norah lẳng lặng gật đầu. Máy quét radar trong lòng đất có độ phân giải cao hơn thiết bị PODS nhiều. Bộ phận phát của chiếc máy này sẽ truyền những làn sóng điện từ xuyên qua băng. Sóng này sẽ phản hồi với những tần số khác nhau khi gặp phải những chất liệu khác nhau. Nước tinh khiết khi đóng băng tạo thành những khối hình đá cuội. Tuy nhiên, nước biển đóng băng tạo thành những chùm tia vì nó có chứa natri. Đá nước muối làm cho sóng điện từ phản hồi không đều, và tần suất thấp hơn.

Norah khởi động máy.

– Tôi sẽ chụp ảnh cắt ngang toàn bộ phần băng xung quanh vị trí trục vớt tảng đá, – chị ta nói to – Phần mềm bên trong máy sẽ ghi lại hình ảnh và in ra. Đá nước biển sẽ là những đốm màu sẫm.

– In à? – Tolland ngạc nhiên. – In được ngay tại đây à?

Norah chỉ dây cáp nối từ máy GPR với chiếc máy khác được che phủ cẩn thận dưới vải tráng dầu. – Không còn cách nào khác.

Màn hình vi tính tiêu thụ quá nhiều năng lượng điện, cho nên những người nghiên cứu băng hà học trên thực địa thường dùng máy in. Màu không được rõ lắm, vì mực màu laze thường vón cục ở âm hai mươi độ C. Thời tiết ở Alaska đã dậy chúng tôi điều đó.

Norah yêu cầu mọi người đứng cạnh chiếc máy, nhưng xuôi theo hướng gió. Trong khi đó, chị ta chuẩn bị sắp xếp bộ phận phát để có thể quét chính xác vùng đã trục vớt tảng thiên thạch lên, cách xa khoảng ba sân vận động. Nhưng khi Norah nhìn về hướng mà họ vừa đi qua, chị ta không nhìn được gì.

– Mike này, tôi phải để bộ phận phát của GPR xếp thẳng hàng với vị trí của tảng thiên thạch, nhưng mấy cái đèn này làm tôi loá mắt. Tôi sẽ leo ngược lên dốc một chút và giơ tay thẳng một đường với những cây đèn thắp sáng, còn anh chỉnh máy nhé.

Tolland gật đầu, quỳ xuống bên cạnh chiếc máy.

Norah dận mạnh đinh đế giầy xuống mặt băng, nhoài người về phía trước và di chuyển ngược hướng gió, ngược dốc, về phía bán sinh quyển. Gió katabatic hôm nay thổi mạnh không ngờ, và sắp có bão. Nhưng không sao. Vài phút là xong ngay. Rồi sẽ ổn ngay thôi. Norah leo ngược dốc khoảng 20 mét, và ra khỏi vùng sáng, chiếc dây buộc cả nhóm vào nhau bị kéo căng ra.

Từ phía trên, Norah nhìn xuống. Khi mắt đã quen với bóng tối, thì thấy những cây đèn chiếu sáng đã nằm lệch về bên trái vài độ.

Chị ta điều chỉnh vị trí cho đến khi mình đứng trên cùng một đường thẳng với bóng đèn. Sau đó, chị ta dang hai tay ra như thể chúng là chiếc compa xoay người, nhìn thẳng về đúng hướng sáng.

– Tôi đứng thẳng hàng rồi đấy! – Chị ta hét to.

Tolland chỉnh máy GPR, rồi vẫy tay.

– Xong rồi!

Norah nhìn lên đỉnh dốc lần cuối cùng, thấy yên tâm vì đường về đã được chiếu sáng. Tuy nhiên chị ta thoáng nhìn thấy cái gì đó rất kỳ quặc. Trong một tích tắc, cây đèn gần nhất hoàn toàn biến mất. Norah chưa kịp nghĩ đến khả năng chiếc đèn ấy bị tắt thì nó đã sáng trở lại. Nếu là người không biết gì, Norah hẳn đã nghĩ ngay đến chuyện có người vừa xuất hiện xen giữa chị và cây đèn.

“Chắc chắn chẳng có ai ngoài này cả… Trừ khi ông Giám đốc NASA cảm thấy ân hận và đã cử một đội nhân viên đi hộ tống họ. Nhưng không thể có chuyện đó. Chắc chẳng có gì cả”, Norah nhủ thầm. Đó chỉ là vì gió quá mạnh nên đèn bị bạt sáng một lúc mà thôi.

Norah quay về bên chiếc máy GPR.

– Để thật thẳng hàng rồi chứ?

Tolland nhún vai.

– Chắc là thẳng rồi.

Norah đến bên bộ điều khiển gắn trên xe trượt và nhấn nút.

Chiếc máy phát ra tiếng rè rè khó chịu rồi thôi ngay.

– Được rồi, – chị ta nói – xong rồi đấy.

– Đã xong rồi cơ à? – Corky hỏi.

– Lâu ở khâu chuẩn bị thôi. Chụp ảnh thì một giây là xong.

Trên xe trượt, máy in bắt đầu lạch xạch hoạt động. Từ sau một tấm mi ca để bảo vệ, nó nhả ra một tờ giấy dầy cuộn tròn. Norah đợi cho đến khi in xong hết, rồi lấy tờ giấy ra. Rồi mọi người sẽ thấy, chị ta nghĩ thầm, mang tờ giấy đến bên cây đèn để mọi người cùng nhìn cho rõ. Không thể lẫn nước biển vào đây được.

Norah đứng bên cây đèn, tay giữ mép tờ giấy, mọi người xúm xung quanh. Chị ta hít thật sâu rồi mở tờ giấy ra xem. Những gì thấy trên tờ giấy làm cho Norah kinh hãi nhẩy dựng lên.

– Lạy Chúa tôi! – Chị ta nhìn trừng trừng, như không tin vào chính mắt mình. Theo như dự kiến, bức ảnh chụp mặt cắt của cái hố sâu đầy nước còn lại sau khi trục vớt tảng thiên thạch. Nhưng Norah không thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy mờ mờ hình một người lơ lửng trong hố. Máu trong huyết quản chị ta đông cứng lại.

– Ôi Chúa ơi…! Có một xác chết trong hố nước.

Những người khác cũng trân trối nhìn, kinh ngạc, im lặng.

Cái xác ấy nằm chúc đầu xuống trong cái hố hẹp, trông thật ma quái. Xung quanh cái xác dường như có một lớp vải liệm rất kỳ quặc. Giờ thì Norah nhận ra. Máy GPR đã ghi lại lờ mờ hình ảnh chiếc áo khoác dầy của nạn nhân, chiếc áo khoác dài bằng lông cừu trông rất quen.

– Đây chính là… ông Ming… – Norah thì thào. – Chắc ông ấy bị trượt chân..

Norah Mangor không ngờ rằng cú sốc khi thấy xác ông Ming trong hố nước chẳng thấm vào đâu so với một cú sốc nữa mà bức ảnh gây ra. Tiếp tục nhìn sâu xuống đáy hố nước, còn thấy một thứ nữa.

Phần băng đá bên dướt cái hố… Norah nhìn chằm chằm. Đầu tiên chị nghĩ đến khả năng máy bị hỏng. Nhưng rồi, xem lại thật kỹ, chị lờ mờ nhận thấy, rồi hiểu ra vấn đề. Trong khi gió vẫn quất mạnh khiến mép giấy đập phần phật, Norah chăm chú nhìn bức ảnh.

Nhưng mà… Không thể nào! Đột nhiên Norah hiểu ra sự thật, cảm tưởng như sự thật hãi hùng ấy vừa đào mồ chôn chính chị. Norah quên phắt tiến sĩ Ming.

Bây giờ thì Norah hiểu. Nước biển lẫn trong hố nước! Chị quỳ xuống bên cạnh cây đèn. Gần như nghẹn thở. Norah run bắn, tay vẫn giữ chặt tờ giấy.

– Lạy Chúa… tôi không thể ngờ. Thế rồi, đột nhiên trở nên vô cùng giận dữ, chị ta lao thẳng về phía bán sinh quyển của NASA.

– Lũ súc sinh! – Chị ta gào lên, át cả tiếng gió hú. – Lũ súc sinh đáng nguyền rủa!

Trong bóng đêm, chỉ cách đó 50 mét, Delta-Một đưa thiết bị bộ đàm lên sát miệng và chỉ nói vào máy có ba từ.

– Họ biết rồi.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN