Dòng Sông Kỳ Bí
Chương 23: Thằng nhóc tên Vince
Whitey ngồi lên chiếc bàn làm việc trống trơn đối diện với bàn của Sean, cầm trên tay một bản báo cáo của nhân viên quản thúc phạm nhân trong thời gian thử thách.
“Raymond Matthew Harris – sinh ngày 6/9/1955. Lớn lên tại phố Twelve Mayhew ở khu Hạ, East Bucky. Mẹ là Delores, nội trợ. Cha là Seamus, một công nhân đã bỏ nhà ra đi vào năm 1967. Sau khi cha hắn ta bị bắt vì tội ăn cắp vặt ở Bridgeport, Connecticut, vào năm 1973 thì con trai cũng bắt đầu sinh sự. Nhiều lần phạm phải các tội như lái xe trong lúc say rượu hay phá rối trật tự công cộng. Ông bố qua đời ở Bridgeport năm 1979 vì xơ cứng động mạch. Cũng trong năm đó, Raymond kết hôn với Esther Scannell – thằng cha này quả thật là may mắn – và tìm được công việc lái tàu điện ngầm cho Sở giao thông Massachusetts. Con đầu lòng Brendan Seamus sinh năm 1981. Vào cuối năm đó, Raymond bị nghi ngờ dính líu tới một vụ biển thủ công quỹ hai mươi ngàn đô la tiền vé tàu. Lời buộc tội này cuối cùng bị hủy bỏ nhưng Raymond bị cơ quan đuổi việc. Sau đó thì hắn ta bắt đầu làm những việc chân tay lặt vặt, như thợ phụ sửa chữa nhà cửa, thu ngân tại cửa hàng rượu Looney Liquors, pha chế rượu tại quán bar và nâng cẩu hàng tại bến cảng. Lại bị đuổi khỏi việc nâng cẩu hàng vì thụt quỹ. Thêm một lần nữa bị buộc tội nhưng cáo trạng không thành mà chỉ bị sa thải. Sau đó bị thẩm vấn vì liên quan tới vụ cướp ở cửa hàng rượu Looney Liquors nhưng rồi lại được thả ra vì thiếu bằng chứng. Cũng trong năm đó còn bị thẩm vấn vì liên quan tới một vụ cướp khác ở cửa hàng rượu Blanchard Liquors tại hạt Middlesex rồi cũng lại được thả ra vì thiếu chứng cớ.”
“Bắt đầu được biết đến,” Sean nói.
“Đúng là hắn bắt đầu trở nên nổi tiếng,” Whitey tán thành. “Năm 1983, một đồng bọn của hắn, một tay Edmund Reese gì đó, đã khai ra Raymond trong vụ trộm bộ sưu tập truyện tranh quý hiếm của một nhà môi giới ở…”
“Truyện tranh?” Sean bật cười. “Ối giời ơi Raymond ơi là Raymond.”
“Một bộ truyện tranh giá một trăm năm mươi ngàn đô la đấy,” Whitey nói.
“Ra thế, xin lỗi.”
“Raymond phản bác rằng văn học thì không có hại nên chỉ bị bốn tháng tù trong đó có hai tháng là tù treo. Khi ra tù thì bắt đầu dính vào nghiện ngập.”
“Ái chà.”
“Là cocain, những năm tám mươi mà, hồ sơ phạm tội từ đó cũng bắt đầu dày lên. Raymond cũng đủ thông minh để che giấu những thủ đoạn kiếm tiền mua ma túy nhưng lại bị lộ trong khi mua bán chúng. Vì là phạm tội trong thời gian thử thách nên bị kết án một năm tù.”
“Và có thời gian suy nghĩ về các lỗi lầm của mình.”
“Không hề. Sau đó lại bị bắt một lần nữa vì tội buôn bán hàng ăn cắp xuyên quốc gia trong một chiến dịch phối hợp giữa bên trọng án và cảnh sát liên bang FBI. Thế nào cậu cũng muốn nghe chi tiết này. Đoán xem Raymond đã trộm gì? Đặt vào bối cảnh năm 1984 nhé.”
“Sếp không đưa ra tí gợi ý nào sao?”
“Hãy dùng bản năng của cậu mà phán đoán.”
“Máy ảnh.”
Whitey lườm anh một cái. “Máy ảnh gì. Mau lấy cho tôi một ly cà phê, cậu thế mà cũng gọi là cảnh sát à.”
“Vậy là gì?”
“Là bộ game trò chơi trí tuệ Trivial Pursuit. Cậu chắc chả bao giờ nghĩ tới phải không?”
“Truyện tranh và trò chơi trí tuệ. Anh chàng này quả thật rất có phong cách.”
“Cùng rất nhiều rắc rối. Hắn ta đánh cắp một chiếc xe tải ở Rhode Island và lái về Massachusetts.”
“Thế là bị cảnh sát liên bang tóm.”
“Thế là,” Whitey lại lườm Sean phát nữa. “Họ quả có tóm được hắn nhưng không thành án.”
Sean ngồi thẳng dậy, rút chân xuống khỏi bàn. “Hắn chỉ điểm ai à?”
“Có vẻ thế,” Whitey nói. “Sau đó, hồ sơ trống trơn. Nhân viên quản thúc của Raymond chỉ ghi chú rằng hắn ta đều đặn tới điểm danh cho tới khi mãn hạn thử thách vào cuối năm 86. Thế còn quá trình làm việc của hắn?” Whitey nhìn sang phía Sean.
“Tôi có thể bắt đầu chứ?” Sean nói và mở tài liệu của mình ra. “Quá trình làm việc, bảng lương, báo cáo thu nhập, bảo hiểm xã hội, tất cả đều chấm dứt vào tháng Tám năm 1987. Hắn ta giống như là biến mất không để lại dấu vết vậy.”
“Cậu đã cho kiểm tra trên phạm vi toàn quốc?”
“Việc đó đang được tiến hành, thưa sếp.”
“Cậu dự đoán những khả năng nào có thể xảy ra?”
Sean lại gác hai chân lên bàn, dựa sâu vào ghế. “Một là hắn ta đã chết. Hai là nằm trong chương trình bảo vệ nhân chứng. Thứ ba là hắn chui rất sâu, rất sâu dưới đất rồi đột nhiên hiện ra, tìm khẩu súng cũ và bắt chết cô bạn gái mười chín tuổi của con trai mình.”
Whitey ném tập hồ sơ xuống bàn. “Chúng ta thậm chí cũng chưa biết liệu đó có đúng là súng của hắn. Chúng ta chả biết gì sất. Chả ra cái thá gì cả Devine ạ.”
“Chúng ta đang vận động chờ khiêu vũ đấy thôi, trung sĩ. Thôi nào, sớm sủa thế này, đừng gắt gỏng với tôi chứ. Chúng ta có một gã vốn là nghi phạm chính trong một vụ cướp mười tám năm trước với khẩu súng gây án. Con trai của hắn hẹn hò với nạn nhân. Đối tượng lại từng có tiền án tiền sự. Tôi muốn điều tra thêm về gã này và con trai hắn. Mà con trai hắn thì sếp biết đấy, lại không có bằng chứng ngoại phạm.”
“Nhưng lại vượt qua máy phát hiện nói dối và cả hai chúng ta cũng đều nhất trí rằng thằng bé không có khả năng làm chuyện đó.”
“Có lẽ chúng ta đã lầm.”
Whitey dùng cổ tay dụi mắt. “Tôi đã ngán bị nhầm lắm rồi.”
“Sếp đang định nói là sếp cũng đã nhầm về Boyle?”
Whitey lắc đầu, tay vẫn dụi mắt. “Tôi không hề nói vậy. Tôi vẫn cho rằng gã này có vấn đề nhưng hắn có dính líu tới vụ Katherine Marcus hay không lại là chuyện khác.” Ông bỏ tay xuống, hai quầng mắt đỏ ửng. “Nhưng hướng Raymond Harris này cũng chả thấy hứa hẹn gì. Ừ thì điều tra thêm về cậu con trai. Không có vấn đề gì. Rồi cố tìm ra ông bố. Nhưng sau đó thì sao?”
“Lấy khẩu súng ra làm bằng chứng buộc tội,” Sean nói.
“Súng có khi đang nằm dưới đáy biển rồi cũng nên. Nếu tôi là thủ phạm thì tôi cũng sẽ làm thế.”
Sean ngẩng đầu lên nhìn Whitey. “Ông nên vứt nó sau khi cướp cửa hàng rượu mười tám năm trước.”
“Cũng đúng.”
“Thế nhưng hắn ta lại không vứt nó đi. Điều đó có nghĩa là…”
“Hắn không được thông minh sáng láng như tôi,” Whitey nói.
“Hay như tôi.”
“Cái này ban giám khảo vẫn đang cân nhắc.”
Sean duỗi người trên ghế, hai bàn tay lồng vào nhau phía sau gáy rồi đẩy hai khuỷu tay về phía tường cho tới khi cảm thấy mọi cơ bắp đều căng lên. Anh rùng mình ngáp một cái rồi thả tay xuống. “Whitey này,” anh nói, biết là đã đến lúc phải đưa ra câu hỏi mà anh đã cố lần lữa trì hoãn cả buổi sáng.
“Có chuyện gì?”
“Trong hồ sơ của ông có nhắc gì tới các đồng phạm của hắn không?”
Whitey lại cầm tập hồ sơ lên và giở vài trang đầu ra. “Một số đồng phạm được cảnh sát biết đến là Reginald (tức Reggie Duke) Neil, Patrick Moraghan, Kevin Sirracci Đồ Tể, Nicholas Savage, hừm, Anthony Waxman…” Đọc tới đây Whitey chợt ngẩng lên nhìn Sean và Sean biết rằng tên của người kia cũng nằm trong đó. “Jimmy Marcus,” Whitey đọc tiếp. “Bí danh Jimmy Khu Hạ,” cầm đầu một băng nhóm tội phạm khét tiếng có tên là Những chàng trai phố Rester.” Whitey nói xong và gập tài liệu lại.
“Không phải là lại xuất hiện những tình tiết mới sao?” Sean kết luận.
Jimmy chọn một tấm bia đơn giản, màu trắng. Người bán hàng nói năng nhỏ nhẹ, kính cẩn như thể bản thân anh ta cũng không muốn xuất hiện ở một nơi như thế này nhưng vẫn tìm cách dẫn dắt Jimmy tới chỗ những tấm bia đắt tiền hơn, những tấm bia bằng hoa cương có khắc hình các thiên thần, tiểu thiên sứ hay hoa hồng. “Hay là một cây thanh giá kiểu Celtic, một sự lựa chọn rất phổ biến đối với…”
Jimmy những đợi anh ta buông ra tiếp câu “với những người như các ông” nhưng người bán hàng kiềm lại được và kết thúc bằng mệnh đề “… với rất nhiều người hiện nay.”
Jimmy sẽ kiếm tiền xây cả tượng đài nếu có thể làm Katie hài lòng nhưng hắn biết con gái mình không phải là một người phô trương, thích trang trí cầu kỳ. Con bé thích mặc quần áo đơn giản, trang sức đạm bạc, không thích đeo vàng và hiếm khi trang điểm trừ những dịp quan trọng. Katie thích những thứ sạch sẽ, có một chút phong cách nhẹ nhàng, và đó chính là lý do mà Jimmy chọn tấm bia màu trắng và những chữ khắc trên đó được viết khá bay bướm. Người bán hàng cảnh báo Jimmy rằng điều đó sẽ khiến giá tiền đội lên gấp đôi nhưng Jimmy chỉ quay đầu lại nhìn gã diều hâu ấy bằng một ánh mắt khiến hắn loạng choạng lùi lại vài bước rồi bảo, “Muốn lấy tiền mặt hay ghi séc?”
Jimmy nhờ Val chở tới đây và khi rời khỏi lại một lần nữa chui vào trong chiếc Mitsubishi 3000 GT để lần thứ mười tự hỏi tại sao một gã ngoài ba mươi có thể lái một chiếc xe thế này mà không cảm thấy lố bịch.
“Chúng ta đi đâu tiếp đây, Jim?”
“Đi làm tí cà phê.”
Val thường hay bật mấy thứ nhạc rap vớ vẩn ầm ĩ trong xe, tiếng bass nện thình thịch lên cửa kính sẫm màu. Một thằng ranh da đen thuộc tầng lớp trung lưu hay một đứa da trắng đua đòi đang hát về gái gẩm, súng ống khiến Jimmy liên tưởng tới đám ca sĩ nhí nhố trên MTV mà hắn sẽ chẳng bao giờ biết tới nếu không nghe thấy Katie nhắc tên bọn họ trong lúc nói chuyện điện thoại với bạn gái. Jimmy đã rất cảm kích vì sáng nay Val không bật nhạc trong xe. Hắn ghét nhạc rap không phải vì đó là nhạc của người da đen sống tại những khu ổ chuột, vì đó cũng chính là nơi sản sinh ra những âm điệu P-Funk, soul và blues nguyên chất, mà chỉ vì không thấy nó tài tình ở chỗ nào. Tuôn ra mấy câu hài hước có chút vần điệu, có chút thô tục cùng với DJ tua tới tua lui mấy bản nhạc khác rồi biểu diễn mấy động tác phồng ngực lúc nói trước mic. Ờ đúng, rất thô ráp rất nguyên thủy, rất đường phố, rất thực tế, mẹ kiếp. Thì đái thành hình tên mình trên tuyết rồi nôn ra đó cũng có gì khác đâu. Có lần hắn nghe thấy một gã phê bình âm nhạc vớ vẩn trên đài nói rằng việc sử dụng âm điệu của các bài hát khác làm nền hát rap cũng là một “hình thái nghệ thuật” khiến một người không biết gì về nghệ thuật như Jimmy những muốn xông vào loa tát cho cái tên khốn hẳn là một gã da trắng, tinh vi và củ chuối kia. Nếu đó là nghệ thật thì phần lớn những gã trộm cướp mà Jimmy quen biết cũng đều là nghệ sĩ cả. Bọn họ hẳn sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra điều đó.
Hay cũng có thể là vì hắn đang già đi. Hắn vẫn biết rằng việc không còn hiểu được âm nhạc của những người trẻ hơn chính là dấu hiệu đầu tiên của sự chuyển giao thế hệ. Nhưng sâu trong lòng mình hắn biết là không phải vậy. Chỉ đơn giản là nhạc rap chẳng ra gì, nhạt nhẽo, đơn điệu và Val nghe nó cũng giống như việc cậu ta lái chiếc xe này, cố bám vào những thứ vốn chẳng có chút giá trị nào.
Họ dừng lại mua đồ ở quán Dunkin’s Donuts, vứt nắp ly vào thùng rác ngoài cửa rồi đứng dựa lưng vào thùng xe uống cà phê.
“Tối qua chúng tôi có ra ngoài hỏi han như cậu yêu cầu.” Val nói.
Jimmy đấm vào tay Val vẻ cảm kích. “Cảm ơn cậu.”
Val đấm lại. “Đấy không chỉ là vì cậu đã ngồi tù hai năm cho tôi, Jimmy. Cũng không phải là tôi cần tới đầu óc của cậu để xử lý công chuyện. Mà vì Katie là cháu gái tôi.”
“Tôi biết.”
“Có thể không phải ruột thịt hay gì đó nhưng tôi rất quý con bé.”
Jimmy gật gù. “Các cậu là những ông cậu tốt nhất trên đời này.”
“Cậu không đùa đấy chứ?”
“Tôi nói nghiêm túc đấy.”
Val nhấp một ngụm cà phê rồi im lặng trong chốc lát. “Thế này, có vẻ như cảnh sát đã nói đúng về O’Donnell và Farrow. O’Donnell thì lúc đó đang ở trong phòng giam của hạt. Farrow thì tham dự một bữa tiệc mà chúng tôi đã đích thân nói chuyện với bao nhiêu nhỉ, khoảng chín gã có mặt ở đó, tất cả đều làm chứng có lợi cho hắn.”
“Tất cả đều đáng tin cậy chứ?”
“Ít nhất thì có tới phân nửa là đáng tin cậy. Chúng tôi cũng đánh hơi xung quanh nhưng gần đây không thấy có vụ đâm thuê chém mướn nào. Phải tới năm rưỡi rồi chưa có vụ nào. Cậu cũng biết mà?”
Jimmy gật đầu, nhấp một ngụm cà phê.
“Cảnh sát thực sự chú trọng tới vụ này,” Val nói. “Họ kiểm tra tất cả các quán bar, các khu vực nóng xung quanh quán Last Drop, không bỏ sót chỗ nào. Tất cả gái điếm mà tôi hỏi đều đã bị cảnh sát thẩm vấn qua. Đám phục vụ quầy bar cũng vậy. Bất cứ ai xuất hiện ở quán McGills hay Last Drop đêm hôm đó đều đã khai báo. Tóm lại là cảnh sát đã ra tay, Jim ạ. Khắp nơi mọi người chỉ nghĩ tới chuyện này, đều cố nhớ lại những chi tiết có thể có ích.”
“Cậu có gặp người nào nhớ ra chuyện gì đó không?”
Val giơ hại ngón tay lên, nhấp một ngụm cà phê rồi mới nói. “Có một gã – cậu có biết Tommy Moldanado không?”
Jimmy lắc đầu.
“Ở khu Basin, thợ quét vôi. Hắn nhìn thấy một kẻ khả nghi trong bãi đỗ xe quán Last Drop ngay trước khi Katie rời đi. Hắn bảo gã đó chắc chắn không phải là cớm. Lái một chiếc xe ngoại nhập, khung lốp trước bị móp, phía ghế bên.”
“Ừ.”
“Còn có chuyện lạ này nữa, tôi nói chuyện với Sandy Greene. Cậu có nhớ không? Học cùng với chúng ta ở Looey?”
Jimmy nhớ tới cô bé tóc nâu buộc túm hai bên trong lớp học với những chiếc răng khểnh lúc nào cũng nhai đầu bút chì cho tới khi nó gãy rụp trong miệng rồi phun ra phì phì.
“Ừ. Giờ cô ấy làm gì?”
“Làm gái,” Val nói. “Trông tàn tạ không chịu nổi. Bằng tuổi chúng mình đúng không? Thế mà trông mẹ tớ trong quan tài còn khá hơn. Tóm lại cô ta là gái điếm có thâm niên cao nhất ở khu đèn đỏ xung quanh quán Last Drop. Cô ta nói có bảo trợ cho một thằng bé, một thằng bé lang thang hành nghề tại đó.”
“Một đứa bé?”
“Khoảng mười một mười hai tuổi gì đó.”
“Chúa ơi.”
“Ôi dào ơi, cuộc sống mà. Tóm lại cô ta bảo thằng bé đó tên thật là Vincent. Mọi người đều gọi nó là Nhóc Vince trừ Sandy vẫn luôn gọi nó là Vincent. Cô ta bảo thằng bé thích được gọi là Vincent hơn. Thằng bé già dặn hơn tuổi mười hai của nó rất nhiều. Vincent là một thằng bé đứng đường chuyên nghiệp. Cô ta bảo nó không ngại ra tay nếu có ai giở trò với nó, lúc nào nó cũng giấu một lưỡi dao cạo dưới vòng đeo chiếc đồng hồ Swatch của mình. Nó đứng đường sáu tối một tuần. Cho tới thứ Bảy vừa rồi.”
“Chuyện gì đã xảy ra với thằng bé vào tối thứ Bảy?”
“Không ai biết. Thằng bé biến mất tăm. Sandy bảo đôi khi nó trốn tại chỗ của cô ta. Nhưng khi cô ta trở về nhà sáng Chủ nhật thì đồ đạc của thằng bé đã biến mất. Nó đã cao chạy xa bay.”
“Vậy là thằng bé rời đi. Như thế càng tốt cho nó. Có lẽ nó muốn thay đổi.”
“Thì tôi cũng nói thế. Nhưng Sandy bảo không phải vậy. Thằng bé nghiện làm việc đó. Cô ta bảo thằng bé lớn lên sẽ trở thành một kẻ đáng sợ. Nhưng hiện giờ nó vẫn chỉ là một thằng bé thích công việc mà mình đang làm. Cô ta nói nếu nó bỏ đi thì chỉ có một lý do duy nhất, đó là nó sợ. Sandy cho rằng thằng bé đã chứng kiến chuyện gì đó khiến nó kinh hãi, hẳn phải vô cùng kinh hãi vì nó không phải là một đứa dễ bị dọa nạt.”
“Cậu có ai có thể do thám thêm không?”
“Có. Nhưng cũng không dễ dàng gì. Bọn trẻ con đứng đường không phải là một hoạt động có tổ chức. Cậu biết đấy, bọn nhóc đó sống lang thang trên đường phố, nhặt nhạnh vài đồng nếu có thể, lúc nào thích thì lại bỏ đi chỗ khác. Nhưng tôi sẽ cho người theo dõi vụ này. Chúng tôi sẽ tìm ra thằng bé Vincent đó. Tôi cho là có thể nó biết gì đấy về cái gã ngồi trong bãi đỗ xe ở quán Last Drop, hay có thể nó đã chứng kiến cái chết của Katie.”
“Nếu như cái chết của con bé có liên quan gì đó tới gã kia.”
“Moldanado nói cả người gã ta toát ra hung khí. Dù trời tối không nhìn rõ nhưng hắn vẫn cảm thấy có một luồng hung khí phát ra từ chiếc xe đó.”
Một luồng hung khí, Jimmy thầm nghĩ. Ối giời, thông tin mới có ích làm sao.
“Và chuyện đó xảy ra ngay trước khi Katie rời đi?”
“Đúng vậy, ngay trước đó. Cảnh sát đã phong tỏa bãi đỗ xe sáng thứ Hai, cử một đội tới đó cày xới tìm dấu vết.”
Jimmy gật gù. “Vậy là có chuyện gì đó đã xảy ra trong bãi đỗ xe ấy.”
“Chính thế. Đó chính là điều khiến tôi thấy khó hiểu. Katie bị bắt đi trên phố Sydney cơ mà. Cách đó tới mười dãy nhà.”
Jimmy uống cạn ly cà phê của mình. “Nếu con bé quay trở lại thì sao?”
“Gì cơ?”
“Nếu con bé quay trở lại quán Last Drop. Tôi biết giả thiết dễ thấy nhất hiện nay là con bé thả Eve và Diane về nhà rồi đi tiếp lên phố Sydney nơi xảy ra chuyện. Nhưng nếu con bé trước hết quay trở lại quán Last Drop thì sao? Nó quay lại đó, gặp phải hung thủ. Hắn ta bắt cóc con bé, bắt nó lái xe tới công viên Pen và rồi mọi chuyện diễn ra như cảnh sát nói?”
Val lăn lăn ly cà phê rỗng trong tay. “Cũng có thể. Nhưng con bé quay trở lại quán Last Drop làm gì?”
“Tôi cũng không biết nữa.” Hai người bọn họ cùng đi tới thùng rác để vứt ly cà phê đã uống xong. “Thế còn thằng bé nhà Just Ray, cậu có tìm thấy gì không?”
“Có hỏi han xung quanh về thằng bé. Ai cũng bảo nó rất hiền lành. Không bao giờ gây rắc rối. Nếu nó không quá xinh trai như thế thì chắc mọi người cũng chả nhớ là đã từng gặp qua. Eve và Diane đều nói là nó thật lòng yêu con bé. Kiểu tình yêu ghi tâm khắc cốt. Nếu cậu muốn tôi sẽ điều tra kỹ hơn về nó.”
“Chuyện đó cứ tạm hoãn lại đã. Cứ theo dõi và chờ xem có gì dẫn dắt tới nó không. Bây giờ phải đi tìm thằng bé Vincent trước đã,” Jim nói.
“Được thôi.”
Jimmy mở cửa xe thấy Val vẫn nhìn mình qua mui xe như đang có điều gì không biết nên nói ra hay không.
“Gì thế?”
Ánh mặt trời hắt lên mặt khiến Val khẽ nheo mắt lại, mỉm cười. “Gì cơ?”
“Cậu muốn nói gì thì nói đi. Là chuyện gì?”
Val cúi mặt xuống tránh ánh nắng, hai tay xòe ra trên nóc xe. “Tôi có nghe thấy một chuyện sáng nay. Ngay trước khi chúng ta xuất phát.”
“Vậy sao?”
“Đúng thế,” Val nói và nhìn về phía cửa hàng bánh rán trong giây lát. “Nghe nói hai viên cảnh sát kia lại tới nhà Dave lần nữa. Cậu biết đấy, Sean ở khu Thượng và lão đồng sự béo của cậu ta.”
“Dave có mặt ở quán McGills tối hôm ấy. Chắc họ lại muốn hỏi cậu ta chuyện gì đó nên quay trở lại thôi mà,” Jimmy nói.
Val rời mắt khỏi cửa hàng bánh quay sang nhìn Jimmy. “Nhưng họ mang cậu ta theo cùng lúc rời đi. Cậu hiểu ý tôi muốn nói gì rồi chứ? Cho cậu ta lên băng ghế sau chở đi.”
Marshall Burden xuất hiện ở đội điều tra án mạng vào giữa giờ ăn trưa và gọi Whitey trong lúc đẩy cánh cửa thông với phòng lễ tân ra. “Các anh cho tìm tôi?”
“Đúng thế. Vào đi,” Whitey đáp.
Marshall Burden đã có thâm niên hai mươi chín năm trong nghề và trông đúng là rất dày dạn kinh nghiệm. Ông có đôi mắt phong sương của một người đã nhìn thấy quá nhiều thứ không nên thấy ở đời cũng như ở chính bản thân mình. Ông di chuyển cái cơ thể cao lớn, da thịt đã bắt đầu chảy nhão như chực đi giật lùi về phía sau thay vì tiến lên phía trước, như thể tứ chi đang gây chiến với não bộ còn não bộ thì muốn thoái thác mọi chuyện. Bảy năm gần đây ông phụ trách phòng lưu trữ vật phẩm của cảnh sát nhưng trước đó ông từng là một trong những con át chủ bài của cảnh sát bang, có cơ hội thăng tiến tới hàm tá, từ lúc làm việc bên Đội chống ma túy tới Đội điều tra án mạng rồi Đội trọng án đều không gặp trở ngại nào cho tới một ngày tự dưng thức dậy và cảm thấy sợ hãi. Đó là một căn bệnh vẫn thường xảy ra với những cảnh sát ngầm hay thi thoảng, trên đường cao tốc, có những viên cảnh sát tuần tra giao thông đột nhiên không còn khả năng ép xe vi phạm vào lề đường vì tin rằng lái xe sẽ rút súng ra và liều chết với họ. Không hiểu sao một người như Burden cũng mắc phải chứng đó, trở thành người cuối cùng lết ra khỏi cửa, phản ứng chậm chạp khi có nhiệm vụ mới, đứng chôn chân ở cầu thang trong lúc mọi người hối hả leo lên.
Ông ta ngồi xuống cạnh bàn của Sean, người bốc ra một thứ mùi giống như trái cây nẫu, tay lần giở cuốn lịch bàn thể thao mà Sean để trên bàn, lật tới những trang từ tháng Ba.
“Cậu là Devine phải không?” ông hỏi mà không ngẩng đầu lên nhìn anh.
“Đúng vậy. Rất vui được gặp tiền bối. Ở Học viện chúng tôi có nghiên cứu một số ca phá án của ông.”
Marshall nhún vai như thể những ký ức về bản thân khiến ông hổ thẹn. Ông lại giở thêm mấy trang lịch nữa. “Vậy các anh cần gì? Tôi sẽ phải quay lại đó trong vòng nửa tiếng nữa.”
Whitey quay ghế tới gần Marshall Burden. “Ông có lần tham gia tổ công tác chung với FBI hồi đầu những năm tám mươi đúng không?”
Burden gật đầu.
“Ông đã hạ một gã từng ngồi tù ngắn hạn, Raymond Harris, vì tội đánh cướp một xe tải vận chuyển game Trivial Pursuit tại một trạm dừng chân ở Cranston, Rhode Island.”
Burden mỉm cười khi nhìn thấy một câu châm ngôn của Yogi Berra ghi trên quyển lịch. “Đúng vậy. Lái xe tải đi tiểu, không biết là đang bị theo dõi. Gã Harris đó cướp xe và lái đi mất nhưng lái xe đã kịp thời gọi điện báo cảnh sát nên chúng tôi đã lập tức can thiệp tại Needham.”
“Nhưng Harris lại được thả đi,” Sean nói.
Burden ngước lên nhìn anh lần đầu tiên và Sean thấy trong đôi mắt phong sương đó là một nỗi sợ hãi và căm ghét bản thân khiến anh hy vọng sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng tương tự.
“Không phải là được thả đi. Hắn chịu khai ra tên đứng sau, thuê hắn làm vụ này. Một gã tên là Stillson thì phải. Meyer Stillson, đúng thế.”
Sean từng nghe nói về trí nhớ siêu việt của Burden – thấy bảo giống như một cái máy ảnh – nhưng tận mắt chứng kiến ông quay trở về mười tám năm trước, rành rọt nêu tên họ đầy đủ của những người có liên quan như thể chuyện mới xảy ra ngày hôm qua khiến anh vừa khâm phục lại vừa thất vọng. Người như ông ta hẳn phải điều khiển cả cái sở cảnh sát này ấy chứ.
“Vậy là hắn ta khai ra kẻ cầm đầu và thế là xong?” Whitey hỏi.
Burden cau mày. “Harris từng có tiền án. Hắn không thể thoát nếu chỉ khai ra tên cầm đầu. Nhưng Đội chống băng đảng của cảnh sát thành phố nhảy vào cuộc để moi thông tin về một vụ án khác và thế là hắn lại khai ra một cái tên nữa.”
“Là ai?”
“Gã cầm đầu băng Những chàng trai phố Rester, Jimmy Marcus.”
Whitey nhìn Sean, một bên mày nhướng lên.
“Đó là sau khi xảy ra vụ cướp ở phòng kiểm tiền?” Sean nói.
“Vụ cướp phòng kiểm tiền nào?” Whitey hỏi.
“Đó là vụ khiến Jimmy đi tù,” Sean nói.
Burden gật đầu. “Hắn ta và một gã nữa đã đánh cướp phòng kiểm tiền của Sở giao thông công chánh Boston vào một buổi tối thứ Sáu. Xuất nhập trong vòng hai phút đồng hồ. Chúng nắm rõ thời gian bảo vệ đổi ca và thời điểm tiền được chuyển vào trong túi. Chúng có hai tên đứng ngoài phố để chặn chiếc xe tải tới nhận tiền. Bọn chúng hành động rất trơn tru, lại biết chính xác mọi chuyện xảy ra ở bên trong nên hẳn có người tiếp tay, một người đang làm việc hoặc từng làm việc ở đó một hai, năm về trước.”
“Chính là Ray Harris.”
“Chính xác. Hắn chỉ điểm Stillson và băng Những chàng trai phố Rester cho cảnh sát Boston.”
“Cả băng?”
Burden lắc đầu. “Không, chỉ có Marcus mà thôi nhưng hắn chính là kẻ cầm đầu. Lũ còn lại chỉ như rắn mất đầu, tự động tan rã. Cảnh sát Boston tóm hắn khi hắn vừa đi ra khỏi một nhà kho buổi sáng hôm diễn ra lễ hội diễu hành Thánh Patrick. Đó là ngày bọn chúng định chia tiền nên cảnh sát bắt được Marcus với một va li đầy tiền trên tay.”
“Hượm đã, thế Ray Harris có công khai trước tòa không?”
“Không. Marcus đã đạt được một thỏa thuận với cảnh sát truớc khi ra tòa. Hắn ta từ chối khai ra tên của đồng bọn và lĩnh hết tội về mình. Những tội trạng khác của hắn ai cũng biết nhưng chẳng ai có thể chứng minh được. Thằng bé lúc đó mười chín tuổi chứ mấy. Hay là hai mươi? Nó điều hành băng đảng đó từ hồi mười bảy tuổi và chưa bao giờ bị bắt. Bên công tố đạt được thỏa thuận hai năm tù giam và ba năm án treo với hắn vì biết là nếu ra tòa chưa chắc đã đủ bằng chứng buộc tội hắn. Nghe nói bên đội chống băng đảng rất điên đầu về chuyện này nhưng chả làm gì được.”
“Vậy là Jimmy Marcus không bao giờ biết được là Ray Harris đã bán đứng hắn?”
Burden lại ngẩng đầu khỏi quyển lịch, đôi mắt mờ mịt của ông ta nhìn Sean với chút khinh thường. “Trong vòng ba năm, Marcus đã giật dây mười sáu vụ cướp lớn. Có lần hắn cướp một lúc mười hai cửa hàng tại trung tâm vàng bạc đá quý Jeweler’s Exchange trên phố Washington. Thậm chí cho tới bây giờ vẫn không ai có thể đoán được hắn làm được điều đó bằng cách nào. Hắn đã vô hiệu hóa gần hai mươi loại báo động khác nhau – báo động khởi động điện thoại, báo động vệ tinh, và điện thoại không dây, toàn những thứ công nghệ mới nhất lúc bấy giờ. Mà hắn mới chỉ mười tám tuổi. Có tin nổi không? Mười tám tuổi nhưng có thể vô hiệu hóa các hệ thống báo động mà những kẻ trộm chuyên nghiệp khác không thể phá được ở tuổi bốn mươi.
Vụ Keldar Technics cũng thế. Hắn và đồng bọn trèo lên nóc nhà, làm nhiễu tần sóng của bên cứu hỏa rồi khởi động hệ thống tưới nước dập lửa tự động. Phải nói là quá xuất sắc vào thời điểm lúc bấy giờ. Bọn chúng cứ chờ ở trên nóc nhà cho tới khi hệ thống phun nước tự động vô hiệu hóa hệ thống giám sát và phát hiện chuyển động. Hắn ta đúng là một thiên tài. Nếu hắn ta chịu làm việc cho NASA thay vì cho bản thân thì chúng ta chắc phải đưa vợ con hắn đi nghỉ mát ở sao Diêm Vương. Các anh nghĩ là một gã thông minh như vậy lại không biết được ai đã bán đứng mình sao? Ray Harris biến mất khỏi trái đất này hai tháng sau khi Marcus được trả lại tự do. Các anh nghĩ sao về chuyện đó?”
“Ông cho rằng Jimmy Marcus đã giết Ray Harris,” Sean nói.
“Hoặc sai cái tên còi quỷ dị Val Savage ra tay. Các cậu hãy thử gọi cho Ed Folan bên quận 7 xem sao. Giờ cậu ta đã là đại úy bên đó rồi nhưng trước đây có làm cho đội chống băng đảng. Cậu ta có thể kể cho các anh nghe mọi chuyện về Marcus và Ray Harris. Tất cả cảnh sát làm việc tại East Bucky những năm tám mươi sẽ đều nói với các anh như vậy. Nếu Jimmy Marcus không giết Ray Harris thì tôi sẽ trở thành Giáo hoàng người Do Thái.” Nói tới đây ông ta đẩy quyển lịch ra rồi đứng dậy phủi quần. “Tôi phải đi ăn trưa. Chúc các cậu may mắn.”
Ông ta đi xuyên qua căn phòng, ngó đông ngó tây như để ghi nhớ lại từng chi tiết, có lẽ là chiếc bàn nơi ông ta từng làm việc, cái bảng liệt kê những vụ án mà ông ta theo dõi đặt bên cạnh các đồng nghiệp khác, về cái con người trước khi xảy ra chuyện đào ngũ, để rồi sống nốt quãng đời còn lại trong phòng lưu giữ vật phẩm và cầu nguyện cho tới ngày được về hưu để chuyển tới một nơi không ai còn biết tới mình nữa.
Whitey quay sang bảo Sean, “Giáo hoàng Marshall, Kẻ lầm lạc?”
Càng ngồi lâu trên chiếc ghế cọt kẹt trong căn phòng lạnh lẽo này, Dave càng thấm thía thì ra cảm giác ngầy ngật mà anh tuởng là dư âm của cơn say đêm qua chỉ là trạng thái tiếp theo của việc uống quá nhiều. Cơn giã rượu thực sự mới chỉ bắt đầu vào buổi trưa, gặm nhấm khắp người anh như một đàn mối, chiếm lấy các mạch máu và huyết quản, siết lấy trái tim và hành hạ bộ não. Miệng anh khô khốc và tóc đẫm mồ hôi. Anh có thể ngửi thấy mùi cơ thể của chính mình khi rượu bắt đầu bốc hơi qua những lỗ chân lông. Hai cánh tay và chân anh đầy bùn. Ngực ê ẩm. Một cơn suy sụp ập tới như thác lũ trong đầu anh, khiến anh đau nhức đằng sau hai hốc mắt.
Anh không còn cảm thấy mình dũng cảm. Hay mạnh mẽ. Sự tỉnh táo sáng suốt tưởng chừng bất biến của hai tiếng đồng hồ trước đã không còn nữa, giống như một vết sẹo rời khỏi cơ thể và biến mất, thay vào đó là một nỗi khiếp sợ cùng cực. Anh có cảm giác như anh sắp chết tới nơi và chết một cách đau đớn. Có lẽ anh sẽ đột tử ngay tại đây trên chiếc ghế này, dộng gáy xuống sàn, cả người lên cơn động kinh, mắt vằn lên những tia máu và anh sẽ tụt lưỡi mình vào thật sâu để không ai có thể kéo nó ra được nữa. Cũng có thể là một cơn nhồi máu cơ tim, tim anh hiện đang đập thình thịch trong lồng ngực như một con chuột bị nhốt trong lồng sắt. Hay khi họ thả anh ra khỏi đây, nếu như họ có ý đó, và anh bước ra ngoài phố, chợt nghe tiếng còi xe rít lên ngay bên cạnh, giật mình ngã sấp xuống đường vừa lúc bánh xe buýt khổng lồ lướt tới, lăn trên mặt anh và tiếp tục cuộc hành trình của nó.
Celeste hiện giờ đang ở đâu? Cô có biết anh đã bị bắt mang tới đây? Cô có quan tâm tới anh không? Còn Michael thì sao? Nó có nhớ cha mình không? Điều tệ hại nhất của việc chết đi là Celeste và Michael sẽ tiếp tục sống. Cái chết của anh có thể khiến họ đau lòng trong một thời gian ngắn ngủi nhưng rồi họ sẽ hồi phục và bắt đầu một cuộc sống mới vì đó là cách mà người ta vẫn làm hằng ngày. Chỉ có trong phim mới tồn tại những người không vượt qua được cái chết của người thân, cuộc đời họ cũng đóng băng như những chiếc đồng hồ hỏng không còn chạy nữa. Trong đời thực, cái chết chỉ là một thứ vô nghĩa, một sự kiện mà trừ bản thân người chết thì tất cả những người khác sẽ nhanh chóng lãng quên.
Đôi khi Dave vẫn tự hỏi có khi nào người chết nhìn xuống những người mà họ bỏ lại phía sau và bật khóc vì nhận thấy người thân của mình vẫn tiếp tục sống một cách dễ dàng mà không cần có họ. Giống như đứa con trai của Stanley Khổng Lồ, Eugene. Liệu thằng bé ở trên kia hay ở một nơi nào đó với cái đầu nhỏ bé bị rụng tóc và bộ quần áo bệnh viện màu trắng, có nhìn cha nó đang vui cười trong một quán bar và nghĩ, Bố ơi, con thì sao? Bố có nhớ con không? Rằng con từng sống trên đời này.
Michael sẽ có một người cha mới và khi vào đại học có lẽ nó sẽ kể với bạn gái về người cha từng dạy nó chơi bóng chày, một người cha mà nó không nhớ rõ. Chuyện đó đã xảy ra từ rất lâu rồi, nó sẽ nói vậy. Từ rất lâu rồi.
Và Celeste rõ ràng là vẫn đủ hấp dẫn để tìm thấy một người đàn ông khác. Cô ấy cũng không có sự lựa chọn nào. Sự cô đơn, tôi không còn chịu đựng được nữa, cô ấy sẽ nói với bạn bè mình thế. Và anh ấy là người tốt. Anh ấy đối xử rất tốt với Michael. Và bạn bè của cô ấy sẽ phản bội ký ức về Dave trong nháy mắt. Họ sẽ bảo, thật là tin mừng cho bạn. Đó là chuyện nên làm. Bạn cần phải tiến lên phía trước, tiếp tục sống cuộc đời của mình.
Còn Dave sẽ ở trên đó với Eugene, hai người họ nhìn xuống những người thân yêu của mình và ra sức gọi nhưng chẳng ai nghe thấy.
Chúa ơi. Dave những muốn chui vào một góc và cuộn lại như một tổ kén. Anh đang suy sụp, không còn chút nhuệ khí nào. Nếu cảnh sát quay lại, anh sẽ cung khai. Chỉ cần họ nồng hậu với anh một chút, mời anh thêm một lon Sprite nữa thì anh sẽ nói với họ tất cả những gì họ muốn biết.
Và rồi như đáp lại nỗi sợ hãi và sự khao khát hiện diện ấm áp của con người, cánh cửa phòng thẩm vấn bật mở ra trước mắt Dave và một cảnh sát mặc đồng phục bước vào, một người trẻ trung, mạnh mẽ với ánh mắt đặc trưng của cảnh sát, vừa lạnh nhạt vừa có chút hách dịch. “Ông Boyle, xin mời ông đi theo tôi.”
Dave đứng dậy và đi ra cửa, hai tay khẽ run lên, biểu hiện của người đang dần dần tỉnh rượu.
“Đi đâu vậy?” anh hỏi.
“Ông sẽ đứng xếp hàng để có người tới nhận diện, ông Boyle.”
Tommy Moldanado mặc quần jean và áo thun màu xan h lá cây lấm tấm vệt sơn. Những vệt sơn nhỏ lốm đốm còn vương cả trên mái tóc xoăn màu nâu của cậu ta, trên gọng kính dày cộp và đọng thành giọt trên đôi ủng làm việc bằng cao su.
Chủ yếu Sean lo ngại về cặp kính mắt. Bất cứ nhân chứng nào đeo kính xuất hiện trước tòa đều sẽ trở thành mục tiêu oanh tạc của luật sư bào chữa. Cũng đừng hy vọng gì ở bồi thẩm đoàn. Tất cả bọn họ đều là chuyên gia khi nói tới mối quan hệ giữa luật pháp và mắt kính do xem quá nhiều phim truyền hình về tòa án như Matlock và The Practice. Họ sẽ quan sát kẻ đeo kính đứng trước vành móng ngựa làm nhân chứng kia với cùng một ánh mắt dành cho nhũng tội phạm buôn bán ma túy, những người da đen không đeo cà vạt hay những tên tội phạm chấp nhận hợp tác với bên công tố.
Moldanado gí mũi vào tấm gương trong phòng quan sát và nhìn năm người đàn ông đang đứng xếp hàng ở phòng bên kia. “Tôi thực sự không nhận ra họ khi nhìn trực diện thế nào. Có thể yêu cầu họ quay sang trái được không?”
Whitey ấn vào chiếc công tắc trước mặt và nói vào mic. “Tất cả các đối tượng quay sang trái.”
Năm người đàn ông liền quay sang trái.
Moldanado tì tay lên tấm gương và nheo mắt. “Số hai. Có thể là số hai. Các ông có thể bảo hắn ta tiến lên một chút được không?”
“Số hai á?” Sean hỏi.
Moldanado quay đầu lại nhìn anh gật gật.
Người đứng thứ hai trong hàng là một cảnh sát của tổ chống ma túy tên là Scott Paisner, thường hoạt động trên địa bàn hạt Norfolk.
“Số hai,” Whitey thở dài. “Bước hai bước lên phía trước.”
Scott Paisner là một người thấp, đậm, để râu, tóc bắt đầu thưa nhiều ở hai bên đường rẽ ngôi. Trông có điểm giống Dave Boyle, lại cũng có điểm giống Whitey. Scott bước lên phía trước và Moldanado bảo, “Đúng, đúng hắn. Đó chính là gã mà tôi nhìn thấy trong bãi đỗ xe.”
“Cậu chắc chứ?”
“Tới chín mươi lăm phần trăm,” cậu ta nói. “Lúc đó là buổi đêm, các ông biết đấy. Trong bãi đỗ xe thì không có đèn mà tôi thì lại hơi say. Nhưng tôi gần như chắc chắn rằng đó chính là người tôi đã nhìn thấy.”
“Nhưng trong biên bản cậu không nói là hắn ta có râu?” Sean nói.
“Không có nhưng giờ nghĩ lại thì đúng, có lẽ hắn ta đúng là có râu.”
“Ngoài ra trong hàng không còn ai trông giống hắn ta nữa?”
“Ôi không,” cậu ta nói. “Chả giống tẹo nào. Họ đều là… cảnh sát phải không?”
Whitey cúi đầu xuống phía công tắc và lẩm bẩm, “Sao mình lại đi làm cái công việc chó chết này chứ?”
Moldanado nhìn Sean. “Gì cơ? Chuyện gì thế?”
Sean mở cánh cửa phía sau lưng. “Cảm ơn ông đã tới đây, ông Moldanado. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc với ông.”
“Tôi đã làm rất tốt đúng không? Ý tôi là tôi đã có thể giúp được các ông chút gì đó?”
“Dĩ nhiên rồi, chúng tôi sẽ gửi chuyển phát nhanh tới cho ông một phù hiệu tuyên dương của cảnh sát,” Whitey nói.
Sean mỉm cười với Moldanado, gật đầu chào tạm biệt rồi đóng cửa lại sau lưng cậu ta.
“Thế là không có nhân chứng,” Sean nói.
“Ừ. Rõ khốn.”
“Chứng cứ tìm thấy trong xe sẽ không thể đứng vững trước tòa.”
“Biết rồi.”
Sean thấy Dave đưa tay lên dụi mắt, mắt cậu ta nheo lại khi nhìn thấy ánh sáng. Trông như cả tháng chưa chợp mắt.
“Thôi mà, trung sĩ.”
Whitey rời khỏi chiếc mic quay ra nhìn Sean. Trông ông cũng bắt đầu kiệt sức, lòng trắng trên mắt đã biến thành màu đỏ.
“Mẹ nó chứ. Thả hắn đi thôi,” ông nói.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!