Hai vạn dặm dưới biển - Chương 43 - 44
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
99


Hai vạn dặm dưới biển


Chương 43 - 44



Chương 43

Hải Lưu Gơn-xtơ-rim

Chúng tôi không ai quên được sự kiện hãi hùng ngày 20 tháng 4. Khi thuật lại, tôi vẫn cảm thấy hết sức xúc động. Chuyện viết xong, tôi đọc lại rồi đọc cho Công-xây và Nét nghe. Họ thấy tôi đã thuật lại sự kiện một cách chính xác nhưng chưa sinh động lắm. Như trên đã nói, thuyền trưởng Nê-mô vừa nhìn xuống biển vừa khóc. Nỗi đau khổ của Nê-mô thật vô hạn. Kể từ khi chúng tôi có mặt trên tàu Nau-ti-lúx, đây là người đồng chí thứ hai của ông ta bị chết. Và chết một cách bi thảm! Chết mà không được an nghỉ giữa những đồng chí của mình trong nghĩa trang san hô. Về phần tôi, tôi đứt từng khúc ruột khi nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng thốt ra từ miệng người thủy thủ xấu số giữa trận chiến đấu quyết liệt. Người Pháp bất hạnh đó đã quên mất thổ ngữ vẫn dùng trên tàu mà trở về với tiếng mẹ đẻ, tiếng quê hương, dùng nó để kêu cứu lần cuối cùng, nhưng vô hiệu!… Thuyền trưởng Nê-mô trở về phòng riêng. Tôi không gặp ông ta suốt thời gian sau đó. Nhưng căn cứ vào cách đi đứng của con tàu mà thuyền trưởng Nê-mô là linh hồn, thì có thể đoán được rằng Nê-mô đã buồn bã, thất vọng và do dự như thế nào khi ngồi một mình trong phòng riêng. Tàu Nau-ti-lúx khi chạy tới, khi chạy lui, chẳng theo hướng nào nhất định. Nó bập bềnh theo sóng như một xác chết. Chân vịt đã được lau rửa sạch, nhưng gần như không hoạt động nữa. Thuyền trưởng Nê-mô lái tàu chẳng có chủ định gì. ông ta không đủ sức đi khỏi nơi diễn ra trận chiến đấu vừa rồi, đi khỏi vùng biển đã nuốt sống người bạn của mình! Mười ngày đã trôi qua như vậy.

Cuối cùng, ngày 1 tháng 5, tàu Nau-ti-lúx hướng hẳn về phía bắc như cũ và chạy ngang qua nhóm đảo Lu-cai. Tàu xuôi theo một dòng biển lớn nhất có ranh giới riêng, có các loài cá và nhiệt độ riêng. Tôi muốn nói về dòng biển Gơn-xtơ-rim. Đó là một con sông thật sự, nhưng chảy giữa Đại Tây Dương. Nước sông cũng mặn, thậm chí mặn hơn nước biển chung quanh. Độ sâu trung bình của nó là chín trăm mét, rộng trung bình sáu mươi hải lý. ở đôi chỗ, nước chảy nhanh 4 ki-lô-mét một giờ. Lượng nước dòng biển này cố định hơn các dòng sông khác trên trái đất nhiều. Dòng biển Gơn-xtơ-rim bắt nguồn thực sự từ vịnh Gát-xcôn. ở đấy nước biển được sưởi ấm một chút rồi chảy về phía nam, dọc bờ biển châu Phi xích đạo. Sau khi được mặt trời châu Phi hun nóng, nó chảy ngang qua Đại Tây Dương, tới mũi Xanh Rốc ở bờ biển Bra-xin rồi chia thành nhánh. Một bộ phận của nó hướng về nhóm đảo Ăng-ti và lại được hun nóng. ở đây, hình như được thiên nhiên trao cho chức năng cân bằng nhiệt độ, dòng Gơn-xtơ-rim hòa nước biển nhiệt đới với nước biển miền bắc. Được mặt trời ở vịnh Mếch-xích đốt nóng, dòng Gơn-xtơ-rim ngược lên phía bắc tới bờ biển Niu Phao-len ở Bắc Mỹ. ở đây do tác động của dòng nước lạnh đại dương, đến kinh tuyến 43, dòng biển chia thành hai nhánh. Một nhánh chịu tác động của tín phong tây-bắc, trở lại vịnh Gát-xcôn và nhóm đảo A-xo. Nhánh kia sưởi ấm bờ biển Ai-len và Na-uy rồi chảy tới Spit-béc, nơi nhiệt độ hạ xuống tới 4o nhưng vẫn đủ để tạo nên một vùng biển không bị đóng băng.

Tàu Nau-ti-lúx cứ theo dòng biển ấy mà đi. Ra khỏi eo Ba-ha-ma rộng mười bốn dặm và sâu ba trăm năm mươi mét, dòng Gơn-xtơ-rim chảy với tốc độ tám ki-lô-mét một giờ. Càng lên phía bắc, tốc độ nó càng giảm. Mong sao dòng biển giữ vững mãi được sự điều hòa này. Nếu lúc nào đó, Gơn-tơ-rim thay đổi tốc độ và hướng chảy, như người ta dự kiến, thì khí hậu các nước châu Âu sẽ bị lay chuyển rất mạnh, gây nên những hậu quả không thể lường trước được… Dòng biển chảy mạnh cuốn theo cả một thế giới sinh vật phong phú. Ban đêm nước ở đây lấp lánh lân tinh có thể sánh được với ánh sáng đèn pha trên tàu. Ngày 8 tháng 5, tàu chạy ngang qua mũi Gat-te-rax ở độ vĩ Bắc Ca-rô-li-na. Đến đây dòng Gơn-xtơ-rim rộng tới bảy nhăm hải lý, sâu hai trăm mười mét. Tàu Nau-ti-lúx chạy không có phương hướng rõ rệt. Trên tàu chẳng có ai canh gác. Phải thấy rằng trong điều kiện này có thể chạy trốn được. Bờ biển có người ở là nơi nương náu rất thuận lợi. Biển lúc nào cũng có tàu bè qua lại. Có thể hy vọng là sẽ được họ cứu. Tất cả những điểm đó là điều kiện tốt, mặc dù tàu Nau-ti-lúx còn cách bờ biển nước Mỹ ba mươi hải lý.

Nhưng một điểm khác rất đáng buồn, đã bác bỏ hoàn toàn kế hoạch của Nét. Thời tiết rất xấu. Tàu Nau-ti-lúx đang đến gần vùng bờ biển rất hay có bão, nơi chính dòng Gơn-xtơ-rim sản sinh ra gió xoáy và vòi rồng nước. Dùng chiếc thuyền con này mà lao vào vùng biển động thì có nghĩa là cầm chắc cái chết trong tay. Nét cũng đồng ý như vậy. Ngay hôm đó, anh ta bảo tôi:

-Thưa giáo sư, đã đến lúc chấm dứt tình trạng này. Tôi muốn hành động công khai. ông Nê-mô của ngài cho tàu chạy xa đất liền về hướng phía bắc. Tôi xin tuyên bố với ngài rằng tôi đã xin đủ cái đất Nam cực và sẽ không bao giờ theo ông ta đi Bắc cực cả!

-Biết làm thế nào, hả ông Nét, một khi việc chạy trốn không thể thực hiện được?

-Tôi vẫn giữ ý kiến của tôi. Ta phải nói chuyện với thuyền trưởng. Ngài không muốn nói chuyện với ông ta khi tàu ở vùng biển nước ngài. Nay tàu đang ở vùng biển Tổ quốc tôi. Tôi chỉ có một ý nghĩ: mấy hôm nữa tàu sẽ chạy ngang Tây Xcốt-len; gần Niu Phao-len có một vũng biển lớn, nơi con sông Xanh Lô-ranh đổ vào. Sông này là sông của tôi, sông của thành phố quê hương tôi. Chỉ cần nghĩ vậy là máu đã dồn lên mặt tôi và tôi đã thấy ngứa ngáy khó chịu. Giáo sư biết không, thà tôi đâm đầu xuống biển còn hơn là ở lại tàu này! ở đây mãi tôi sẽ chết mất! Rõ ràng Nét không thể chịu đựng được hơn nữa. Cái bản chất hảo hán của anh ta không thích nghi được với cảnh tù túng lâu như vậy. Vẻ mặt Nét ngày càng âu sầu hơn. Tôi cũng thông cảm với nỗi đau khổ của Nét vì chính tôi cũng nhớ quê hương đất nước da diết. Đã bảy tháng nay chúng tôi chẳng biết tin tức gì về mặt đất cả. Ngoài ra, sự lạnh nhạt của thuyền trưởng Nê-mô, sự thay đổi tính tình của ông ta, nhất là sau đêm chiến đấu với bạch tuộc, sự im lặng của ông ta

-Tất cả những cái đó khiến tôi nhìn thấy sự vật khác hẳn trước. Phải là người như Công-xây mới sống nổi trong môi trường đúng ra chỉ dành riêng cho cá voi và các động vật khác của biển sâu.

-Thế nào giáo sư?

-Nét Len hỏi vì không thấy tôi trả lời.

-ông muốn tôi hỏi thuyền trưởng Nê-mô xem ông ta định xử sự với chúng ta thế nào, phải không?

-Vâng.

-Mặc dù Nê-mô đã tỏ ý rõ ràng rồi?

-Vâng, tôi muốn xác định điều đó lần cuối cùng. Nếu ngài muốn, ngài có thể chỉ nói về tôi, nhân danh cá nhân tôi.

-Nhưng tôi rất ít gặp Nê-mô. Thậm chí ông ta tránh mặt tôi.

-Thế thì càng cần gặp.

-Tôi sẽ nói chuyện với Nê-mô, ông Nét ạ.

-Bao giờ nói?-Nét hỏi gặng.

-Khi nào gặp sẽ nói.

-Ngài A-rô-nắc, thế ngài muốn để tôi đến gặp Nê-mô à?

-Không, ông cứ để tôi. Ngày mai…

-Ngay hôm nay!

-Được. Tôi sẽ gặp Nê-mô hôm nay,

Tôi trả lời Nét vì cảm thấy nếu để anh ta trực tiếp làm việc này thì sẽ hỏng bét. Tôi ngồi lại một mình. Một khi vấn đề được đặt ra, tôi muốn giải quyết dứt khoát ngay. Tôi trở về phòng riêng và nghe thấy tiếng chân bước trong phòng thuyền trưởng. Không nên để lỡ cơ hội gặp ông ta. Tôi gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Tôi lại gõ và vặn quả đấm cửa. Cửa mở ra. Tôi vào. Trong phòng chỉ có một mình thuyền trưởng. ông ta không nghe thấy tôi vào vì mải cắm cúi trên bàn. Tôi đến gần, Nê-mô vội ngẩng đầu lên, nhíu mày và nói khá gay gắt:

-Ngài đấy à? Ngài muốn gì?

-Thưa thuyền trưởng. Tôi muốn nói chuyện với ngài.

-Nhưng tôi đang bận việc. Tôi để ngài được tự do một mình, chẳng lẽ tôi không được hưởng cái tự do đó sao? Cuộc gặp gỡ này chẳng có gì đáng phấn khởi lắm. Nhưng tôi quyết nghe cho hết để có thể nói được hết. Tôi lạnh lùng trả lời:

-Thưa thuyền trưởng, tôi muốn thưa với ngài một chuyện không thể trì hoãn được.

-Chuyện gì vậy?

-Nê-mô hỏi một cách châm biếm.

-Ngài vừa tìm ra một điều gì mà trước đây tôi chưa biết? Hay biển cả vừa lộ ra cho ngài những bí mật mới? Chúng tôi khó nói chuyện với nhau quá! Nhưng tôi chưa kịp trả lời thì Nê-mô đã chỉ cho tôi tập bản thảo đang mở ra trước mặt rồi nói một cách trang trọng:

-Ngài A-rô-nắc, đây là bản thảo đã dịch ra mấy thứ tiếng. Nó gồm có bản thông báo tóm tắt về những công trình nghiên cứu biển của tôi, may ra sẽ không mất đi theo tôi. Bản thảo này kèm theo chuyện cuộc đời tôi, sẽ được đặt trong một cái máy không chìm được. Ai là người sống sót cuối cùng trên tàu này sẽ ném máy xuống biển để nó tự do trôi theo sóng. Tên tuổi con người này ư? Tiểu sử nữa ư? Nghĩa là có lúc nào đó, bí mật của Nê-mô sẽ được sáng tỏ? Nhưng trong giờ phút này, điều đó đối với tôi chỉ là một phương tiện để tiến tới câu chuyện muốn nói. Tôi trả lời:

-Thưa thuyền trưởng, tôi không thể tán thành ý định đó của ngài. Không thể để những kết quả của nghiên cứu khoa học của ngài mai một đi được. Nhưng phương tiện mà ngài lựa chọn tôi thấy quá thô sơ. Ai biết gió sẽ đẩy cái máy đó trôi đi đâu và nó sẽ rơi vào tay ai? Chẳng lẽ ngài không thể nghĩ ra cách gì chắc chắn hơn? Chẳng lẽ bản thân ngài hay ai đó trong số…

-Không!

-Nê-mô ngắt lời tôi.

-Thế thì tôi và các bạn tôi sẵn sàng nhận bảo quản tập bản thảo của ngài, nếu ngài trả tự do cho chúng tôi…

-Tự do ư? -Nê-mô đứng dậy hỏi.

-Vâng, tôi muốn nói với ngài chính về vấn đề đó. Chúng tôi ở trên tàu của ngài đã được bảy tháng. Hôm nay, thay mặt bạn tôi và nhân danh cá nhân, tôi xin hỏi: ngài có định giam giữ chúng tôi vĩnh viễn không?

-Ngài A-rô-nắc, hôm nay tôi sẽ trả lời ngài như đã trả lời bảy tháng trước đây:

“Ai đã xuống tàu Nau-ti-lúx thì người đó không bao giờ ra khỏi tàu cả”.

-Nghĩa là ngài biến chúng tôi thành nô lệ?

-Nếu ngài muốn gọi thế thì tùy ngài.

-Nhưng ở đâu kẻ nô lệ cũng có quyền giành lại tự do ình! Và để đạt được mục đích đó, thì phương tiện nào cũng tốt!

-Có ai phủ nhận cái quyền đó của ngài đâu? Phải chăng đã có lúc nào đó tôi bắt các ngài phải thề bồi? Nê-mô khoanh tay trước ngực, nhìn tôi. Tôi nói:

-Thưa thuyền trưởng, ngài cũng như tôi đều không muốn trở lại vấn đề này. Nhưng một khi đã đề cập tới, thì chúng ta nên giải quyết đến nơi đến chốn. Xin thưa lại với ngài rằng, vấn đề này không phải chỉ liên quan đến riêng tôi. Đối với tôi, nghiên cứu khoa học là một nguồn cổ vũ, một niềm say sưa có thể khiến tôi quên hết mọi sự. Cũng như ngài, tôi có thể sống không cần ai biết đến, sống ẩn danh, với hy vọng mỏng manh là sẽ truyền lại cho đời sau những kết quả nghiên cứu của mình. Tóm lại, chỉ riêng tôi là có thể vừa thán phục ngài, vừa thích thú ngài, và đóng một vai trò mà tôi cũng hiểu được đôi phần. Nhưng trong cuộc đời ngài còn có một mặt khác rất phức tạp và bí ẩn, mà tôi và các bạn tôi không liên quan đến chút nào. Chính vì chúng tôi xa lạ với tất cả những gì riêng tư của ngài, mà chúng tôi không thể chịu đựng được hoàn cảnh hiện nay. Tôi cũng vậy, huống chi là Nét Len. Mỗi con người ở đời này đều xứng đáng được quan tâm tới. Ngài có bao giờ tự hỏi rằng lòng yêu tự do và căm ghét ách nô lệ có thể thúc đẩy những người như Nét mưu tính và hành động trả thù như thế nào không? Tôi ngừng lời, Nê-mô đứng dậy nói:

-Nét Len có thể mưu tính và làm gì, tôi không cần quan tâm đến! Có phải tôi tìm ông ta đâu! Giữ ông ta trên tàu này thì tôi thích thú gì? Còn ngài thì thuộc loại người có thể hiểu được tất cả, ngay cả sự im lặng. Tôi không có gì để trả lời nữa. Lần nói chuyện của ngài hôm nay về vấn đề này sẽ là lần cuối cùng. Vì lần sau, tôi có thể sẽ không trả lời nữa. Tôi đi ra. Từ ngày đó, chúng tôi sống rất căng thẳng. Tôi thuật lại chuyện này cho Nét và Công-xây nghe. Nét nói:

-Bây giờ ít nhất ta cũng biết rằng chẳng thể mong đợi gì ở Nê-mô. Tàu Nau-ti-lúx đang đến gần Long Ai-len. Dù thời tiết thế nào, ta cũng sẽ chạy trốn. Nhưng những triệu chứng của một cơn bão đã xuất hiện. Không khí chuyển sang màu trắng đục. Biển bắt đầu nổi sóng lớn. Chim chóc biến mất cả, trừ chim báo bão. áp kế hạ thấp rõ rệt, chứng tỏ không khí đã tích tụ nhiều hơi nước…

Cơn bão nổ ra ngày 18 tháng 5, đúng lúc tàu Nau-ti-lúx chạy ngang qua Long Ai-len cách những lạch biển Niu I-oóc mấy hải lý. Sở dĩ tôi miêu tả được cảnh bão tố này là nhờ thuyền trưởng Nê-mô muốn cho tàu đọ sức với bão trên mặt biển. Gió tây-nam lúc đầu rất mát, thổi với tốc độ mười lăm mét một giây, đến ba giờ chiều thì đạt tới hăm nhăm mét một giây. Thuyền trưởng Nê-mô đứng trên boong đương đầu với ngọn gió điên cuồng ấy. ông ta tự buộc ngang mình vào boong tàu để khỏi bị sóng dữ cuốn đi mất. Tôi cũng trèo lên boong, tự buộc mình như vậy, rồi vừa ngắm cảnh bão tố, vừa ngắm con người không ai sánh nổi, con người đang chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Gần năm giờ chiều, mưa rào ập xuống, nhưng gió vẫn to, sóng vẫn lớn. Cơn bão đi với tốc độ bốn nhăm mét một giây, hay bốn mươi dặm một giờ. Với sức gió ấy, nó phá đổ nhà, cuốn theo ngói, nhổ bật cả hàng rào sắt. Tuy nhiên, ngay trong bão lớn như vậy, tàu Nau-ti-lúx vẫn chứng minh lời một kỹ sư -bác học nói là đúng:

“Không một con tàu nào đóng tốt mà không đương đầu được với biển cả”. Tàu Nau-ti-lúx là một con thoi bằng thép ngoan ngoãn, cơ động, không có cột buồm và các thiết bị bên ngoài, nên có thể hiên ngang chống chọi lại biển dữ. Tôi chăm chú quan sát những đợt sóng khổng lồ. Chúng cao tới mười lăm mét và dài tới một trăm năm mươi, một trăm bảy mươi mét, còn tốc độ thì bằng nửa tốc độ gió, nghĩa là mười lăm mét một giây. Biển càng sâu, sóng càng cao. Bây giờ tôi đã hiểu được vai trò đặc biệt của sóng, khi chúng cuốn theo dưỡng khí và đưa nguồn sống xuống tận lòng biển sâu. Đêm tối cơn bão càng hung dữ. Trong bóng đêm, tôi nhận ra ở chân trời một con tàu đang vật lộn vất vả với sóng gió. Một lát sau, nó bị chân trời che khuất. Gần mười giờ đêm, bầu trời rực lửa. Mọi vật xung quanh đều chìm trong ánh chớp. Tôi không chịu nổi ánh sáng chói lòa ấy, nhưng thuyền trưởng Nê-mô thì lại nhìn không chớp mắt, dường như muốn thu cái hồn của bão tố vào mình. Dòng biển Gơn-xtơ-rim quả xứng đáng với tên gọi là “Vua bão”! Do sự chênh lệch nhiệt độ giữa nó và các lớp không khí nằm trên nó mà sinh ra tất cả những cơn gió xoáy khủng khiếp này… Tôi mệt lả nên nằm xuống mở nắp tàu ra rồi xuống phòng khách. Lúc đó cơn bão lên tới đỉnh cao nhất.

Trong tàu Nau-ti-lúx không ai có thể đứng vững. Gần nửa đêm, thuyền trưởng Nê-mô cũng quay xuống. Tôi nghe thấy tiếng nước từ từ chảy vào các bể chứa. Tàu Nau-ti-lúx nhẹ nhàng chìm xuống dưới mặt biển. Qua ô cửa mở, tôi thấy những con cá lớn hoảng sợ bơi như những bóng ma trong khoảng nước lấp lánh ánh chớp. Tàu vẫn lặn xuống. Tôi tưởng đến độ sâu mười lăm mét nó sẽ tìm thấy sự yên tĩnh. Nhưng không, những lớp nước trên cồn lên quá dữ dội. Muốn yên tĩnh thì phải lặn xuống sâu nữa, tới năm mươi mét. ở đây mới thực phẳng lặng, thực thanh bình! Ai có thể bảo rằng phía trên đang có một cơn bão khủng khiếp.

Chương 44

Ở Độ Vĩ 47o24’ Và Độ Kinh 17o28’

Cơn bão đã đánh giạt con tàu về phía đông. Thế là tiêu tan hy vọng chạy trốn lên bờ biển Niu I-oóc hay sông Xanh Lô-răng. Anh chàng Nét khốn khổ vì tuyệt vọng nên lảng tránh mọi người giống như Nê-mô, nhưng tôi và Công-xây thì vẫn không rời nhau. Tôi đã nói rằng tàu Nau-ti-lúx quay sang hướng đông. Đúng hơn là sang hướng đông bắc. Trong khoảng mấy ngày, khi nổi, khi lặn, tàu lang thang giữa đám sương mù mà người đi biển rất hoảng sợ. Sở dĩ có sương mù là do khi băng tan, hơi ẩm được giữ lại rất nhiều trong không khí. Biết bao tàu thuyền đã bị đắm ở đây! Sương mù dày đặc đã gây biết bao tai họa! Biết bao tàu thuyền đã va phải đá ngầm, khi tiếng gió gào thét át hẳn tiếng sóng gào, biết bao tàu thuyền đã đâm vào nhau mặc dù đã phát tín hiệu bằng đèn, đã rúc còi và rung chuông! Chính vì vậy mà đáy biển ở đây giống hệt một bãi chiến trường, nơi chôn vùi tất cả những kẻ bị đại dương đánh bại: có nhiều tàu thuyền cũ kỹ đã phủ đầy bùn đất, có những chiếc khác mới hơn, còn lấp loáng những bộ phận bằng sắt và bằng đồng dưới ánh đèn pha của tàu Nau-ti-lúx. Tàu Nau-ti-lúx đi giữa đống tàu thuyền hoang tàn ấy tựa như đang duyệt những xác chết. Ngày 15 tháng 5, chúng tôi tới mỏm phía nam của bãi biển Niu Phao-len. Nhưng tàu Nau-ti-lúx không ở lâu trong vùng biển gần bờ có nhiều tàu bè qua lại này. Nó ngược lên tới 42o độ vĩ bắc. Đó là nơi có một đầu dây cáp chạy qua Đại Tây Dương. Đáng lẽ tiếp tục hành trình lên phương bắc, tàu Nau-ti-lúx lại chạy về phía đông, hình như chuẩn bị chạy dọc theo dây cáp ngầm đặt trên đáy biển đã được thăm dò nhiều.

Ngày 17 tháng 5, ở độ sâu hai ngàn tám trăm mét, tôi trông thấy đường dây cáp. Công-xây tưởng lầm đó là một con rắn biển lớn và định xếp loại theo phương pháp của anh ta. Nhưng tôi giúp Công-xây thấy ngay sai lầm, và để anh ta đỡ bẽ, tôi liền kể cho anh ta nghe tỉ mỉ về lịch sử đặt dây cáp ngầm này. Dây cáp đầu tiên được đặt trong hai năm 1857 và 1858. Nhưng sau khi chuyển được chừng bốn trăm bức điện, nó ngừng hoạt động. Năm 1863, các kỹ sư lại chế tạo dây cáp mới, dài ba ngàn bốn trăm ki-lô-mét, nặng bốn ngàn năm trăm tấn rồi đưa lên tàu Grết I-xtơn. Công cuộc đó cũng thất bại. Ngày 25 tháng 5, tàu Nau-ti-lúx lặn xuống sâu ba ngàn tám trăm ba mươi mét, đúng vào chỗ dây cáp bị đứt khiến những người chủ của nó bị phá sản. Dây bị đứt cách Ai-len sáu trăm ba tám hải lý. Hôm đó, lúc hai giờ chiều, người ta thấy liên lạc với châu Âu bỗng bị đứt. Toán thợ điện quyết định trước hết phải cắt đứt dây cáp rồi mới vớt lên. Gần 11 giờ đêm, họ vớt được chỗ dây cáp bị hỏng, sửa chữa cẩn thận rồi thả xuống biển. Nhưng mấy hôm sau, dây lại bị đứt ở một chỗ nào đó ngoài đại dương, không thể vớt lên được. Người đề xướng chủ yếu ra công cuộc này là Ki-rux Phin liền đem cả gia sản của mình ra để xin làm một đường dây mới. Đường dây này được bảo đảm trong những điều kiện tốt nhất. Dây dẫn điện được bọc một lượt cao su cách điện, ngoài lại có một lượt vải đặc biệt. Tất cả được đặt trong một vỏ bằng kim loại. Ngày 13 tháng 7 năm 1866 tàu Grết I-xtơn lại ra khơi. Việc đặt dây được tiến hành rất tốt đẹp. Tuy vậy, không phải là không có chuyện. Khi tháo dây cáp ra, nhóm thợ điện mấy lần phát hiện thấy dây vừa bị đinh đóng vào, rõ ràng là nhằm làm hỏng dây. Thuyền trưởng An-đơ-xơn bèn triệu tập các kỹ sư và sĩ quan trên tàu lại để thảo luận về chuyện phá hoại này. Sau đó, cuộc họp công bố quyết định: nếu ai trên tàu bị bắt quả tang làm việc này thì người đó sẽ bị ném ngay xuống biển không cần xét xử gì. Từ đó việc phá hoại mới chấm dứt…

Đường dây cáp nằm yên đó, không bị sóng biển tác động. áp lực nước ở đây cũng thuận lợi cho dòng điện chạy từ châu Âu sang châu Mỹ chỉ mất ba mươi hai phần trăm dây đồng hồ. Thời gian hoạt động của đường dây này là vô tận, vì theo quan sát của các thợ điện, vỏ cao su bên ngoài càng ngâm trong nước biển càng tốt. Ngoài ra, dây cáp còn được đặt rất khéo trên cao nên không bao giờ xuống tới độ sâu có thể nổ được. Tàu Nau-ti-lúx đã xuống sâu đến bốn ngàn bốn trăm ba mốt mét, nhưng ở đây dây cáp vẫn không có vẻ gì là căng cả. Sau đó tàu chạy tới chỗ xảy ra chuyện rủi ro năm 1863, và ngày 28 tháng 5 chỉ cách Ai-len có một trăm năm mươi mét. Không biết thuyền trưởng Nê-mô có định lái tàu lên phía trên và đổ bộ lên quần đảo Anh-cát-lợi không? Không. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông ta lại đi về phía nam và quay lại vùng bờ biển châu Âu. Một câu hỏi rất quan trọng nảy ra trong óc tôi. Liệu tàu Nau-ti-lúx có dám vào eo biển Măng-sơ không? Từ khi tàu chạy gần bờ biển thì Nét Len lại tiếp xúc với những người xung quanh. Anh ta luôn hỏi tôi về điều đó. Tôi biết trả lời Nét thế nào? Thuyền trưởng Nê-mô không xuất hiện. ông ta đã cho Nét nhìn thấy bờ biển châu Mỹ, chẳng biết có cho tôi thấy bờ biển nước Pháp không? Trong khi đó, tàu Nau-ti-lúx tiếp tục đi về phía nam. Ngày 30 tháng 5, nó chạy qua Len-xen và nhóm đảo Xi-li ở bên phải. Nếu nó định vào eo biển Măng-sơ thì phải tiến thẳng về phía đông chứ! Nó không vào Măng-sơ thật. Suốt ngày 31 tháng 5, tàu Nau-ti-lúx chạy quanh mấy vòng ngoài biển làm tôi rất thắc mắc. Hình như nó đang tìm điểm nào đó trên đại dương, nhưng gặp khó khăn. Đến trưa, thuyền trưởng Nê-mô đích thân cầm lái. ông ta chẳng nói với tôi một lời. Vẻ mặt Nê-mô rầu rĩ hơn bao giờ hết. Nê-mô buồn phiền vì lẽ gì? Có thể vì gần đây là bờ biển châu Âu, hay vì những kỷ niệm về quê hương đã sống lại? Nê-mô cảm thấy gì trong lúc này? ông ta hối tiếc hay bị lương tâm cắn dứt? Những ý nghĩ đó vương vấn trong lòng tôi, đồng thời tôi linh cảm rằng trong tương lai rất gần đây, những bí mật của Nê-mô sẽ được sáng tỏ. Hôm sau, tàu Nau-ti-lúx lại lượn vòng như vậy. Rõ ràng là nó đang tìm kiếm một chỗ nào đó rất cần thiết. Cũng như hôm trước, thuyền trưởng Nê-mô lên boong xác định độ cao của mặt trời. Biển lặng, trời trong. Phía chân trời hiện lên một chiếc tàu lớn chạy bằng hơi nước. ở đuôi tàu không treo cờ nên tôi không đoán được là tàu nước nào. Lúc đó, tàu Nau-ti-lúx đứng yên. Xác định được độ cao của mặt trời, Nê-mô nói:

-Đây rồi! Rồi ông ta đi xuống. Chẳng biết ông ta có thấy chiếc tàu hơi nước kia đã đổi hướng đi và hình như đang tiến lại gần tàu Nau-ti-lúx không?

Tôi quay xuống phòng khách. Cửa sổ được đóng lại, sau đó tôi nghe thấy tiếng nước chảy ào ào vào các bể chứa. Tàu Nau-ti-lúx bắt đầu lặn xuống theo chiều thẳng đứng, và mấy phút sau thì xuống tới đáy sâu tám trăm băm ba mét. Đèn trên trần phòng khách tắt đi, các cửa sổ lại mở ra. Qua ô cửa kính, tôi lại thấy biển được đèn pha trên tàu chiếu sáng trong khoảng nửa hải lý đường bán kính. Tôi nhìn sang phải, nhưng chỉ thấy một khối nước phẳng lặng. Từ đáy biển bên trái tàu hiện lên một khối gì đó to lớn, khiến tôi chú ý ngay tức khắc. Nhìn kỹ, thì hình như nó là một chiếc tàu không có cột buồm bị chìm, mũi cắm xuống. Chuyện đáng buồn này chắc xảy ra đã lâu. Nếu chiếc tàu đắm bị phủ một lớp vôi dày như vậy thì nhất định nó đã nằm dưới đáy biển nhiều năm rồi. Chiếc tàu đó là thế nào? Vì sao tàu Nau-ti-lúx lại đến thăm nơi nó bị đắm? Tôi chưa biết nên suy nghĩ thế nào, thì thuyền trưởng Nê-mô bỗng cất tiếng nói chậm rãi, điềm đạm:

-Xưa kia chiếc tàu này có tên là “Mác-xây-e”. Nó được đưa xuống nước năm 1762 và có bảy mươi tư đại bác. Ngày 13 tháng 8 năm 1778, nó đã dũng cảm chiến đấu với tàu Prét-xtơn… Năm 1794, nước Cộng hòa Pháp đổi tên cho nó. Ngày 16 tháng 4 năm đó, nó gia nhập hạm đội của Vi-la-rê Gioay-ơ-dơ ở Brét. Hạm đội này có nhiệm vụ bảo vệ đoàn tàu do đô đốc Van Xta-ben chỉ huy chở lúa mì từ Mỹ về, và đã gặp hạm đội Anh. Hôm nay là mùng 1 tháng 6 năm 1868. Đúng bảy mươi tư năm trước đây, đúng ở nơi này, tàu Mác-xây-e đã dũng cảm chiến đấu với hạm đội Anh. Khi cả ba cột buồm đã bị gãy, hầm tàu đã ngập đầy nước và một phần ba số quân bị thương vong, tàu đã tự đánh đắm cùng với 356 chiến sĩ trên tàu. Sau khi cắm cờ ở phía lái, tất cả các chiến sĩ đã hô to:

“Nước cộng hòa muôn năm!” rồi theo tàu chìm xuống đáy biển.

-Tàu “Báo thù!” -Tôi kêu lên.

-Đúng là tàu “Báo thù”! Cái tên mới đẹp làm sao!

-Thuyền trưởng Nê-mô thầm thì, tay khoanh trước ngực.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN