Nàng vừa định hỏi đã xảy ra chuyện gì, thì thấy cung nhân lại đưa một người vào, người đó vóc đáng như ngọc,áo xanh phấp phới, chẳng phải là Giang Vãn Y đó sao?
Khương Họa Nguyệt và Giang Vãn Y nhỏ giọng trao đổi vài câu, tiếp đó lại tiến vào nội thất bắt đầu chuẩn mạch, lấy mấy thứ ra cho hắn xem. Như thế nửa canh giờ trôi qua, Giang Vãn Y đứng dậy, đeo hòm thuốc đi ra.
Khương Trầm Ngư ngồi trên ghế quan sát từ nãy giờ cũng vội vàng đứng dậy, có chút hoang mang nhìn Giang Vãn Y và tỉ tỉ, không biết có phải ảo giác hay không, sắc mặt của tỉ tỉ nhìn có vẻ càng buồn rầu hơn.
Khương Họa Nguyệt tiễn Giang Vãn Y ra ngoài xong cứ đứng bất động bên cửa rất lâu. Khương Trầm Ngư không kiềm được tiến đến kéo ống tay áo nàng hỏi: “Tỉ tỉ, sao thế?”.
Mắt Khương Họa Nguyệt đỏ lên, nước mắt rơi xuống.
Những rọt nước mắt này rơi xuống đường đột như thế, khiến Khương Trầm Ngư giật mình, cuống quýt hỏi: “Chuyện gì vậy? Xảy ra chuyện gì vậy, tỉ đừng khóc, các tháu y nói thế nào?”.
Khương Họa Nguyệt một tay túm chặt tay nàng, không ngừng run rẩy, mấy lần mở miệng đều ngẹn ngào không nói nên lời. Thấy tình cảnh này, Khương Trầm Ngư đành dìu nàng vào nội thất trước, sau khi đuổi đám cung nhân ra mới khẽ nói: “Rốt cuộc là chuyện gì?”.
Khương Họa Nguyệt ngẩng đầu, nước mắt nhòe nhoẹt trên mặt cũng chẳng buồn lau, chỉ bấu lấy tay nàng, không ngừng kêu: “Trầm Ngư, Trầm Ngư…”.
Mỗi tiếng nàng gọi, Trầm Ngư đều thưa, tiếng sau dịu dàng hơn tiếng trước.
“Trầm Ngư, ta ta… ta phải làm thế nào? Ta phải làm thế nào mới được đây?”.
“Tỉ tỉ, rốt cuộc là sao?”. Khương Trầm Ngư luôn cho rằng, luận về làm người, so với nàng tỉ tỉ chu đáo và lão luyện hơn rất nhiều, dù trong lòng có suy nghĩ gì cũng không hề thể hiện ra bên ngoài, hai người từ nhỏ tới lớn bên nhau, liệu đã mấy lần Họa Nguyệt có dáng vẻ như thế này? Không biết sự tình gay go đến đâu, mà có thể khiến người chị xưa nay luôn tự tin đầy mình của nàng khóc lóc như một đứa trẻ. Sau khi cha con họ Giang rời đi, Họa Nguyệt thành ra thế này, lẽ nào…
“Tỉ tỉ, tỉ bị bệnh sao? Bệnh rất nặng sao?”.
Khương Họa Nguyệt nghẹn ngào gật đầu.
Trái tim Khương Trầm Ngư chùng xuống, bất giác nắm chặt tay Họa Nguyệt, hỏi: “Là bệnh gì? Nghiêm trọng thế nào?”. Tuy tỉ tỉ quanh năm bốn mùa thường cảm gió cảm mạo, bệnh vặt liên miên, nhưng cũng đâu phải ốm yếu quá, lần này mắc phải bệnh gì mà khiến cho tỉ tỉ hoảng hốt sợ hãi đến mức đó.
Khương Họa Nguyệt hé miệng, nhìn quanh, ánh mắt càng thê lương hơn: “Ta ta… muội muội, đời này e rằng, ta… không thể… không thể có con được…”.
Khương Trầm Ngư phút chốc sững sờ, trong đầu trống rỗng, đến khi tỉnh táo trở lại, phản ứng đầu tiên là: “Tại sao?Cha con họ Giang nói vậy ư?”.
“Muội còn nhớ loại thuốc rất thơm mà ta luôn uống đó không?”.
Khương Trầm Ngư gật gật đầu.
“Kỳ thực, ta, ta đã cư kinh(*) rất lâu rồi… mà những thứ thuốc đó, uống suốt mà vẫn không thấy khỏi, ta lo lắng, cuối cùng không nhịn được bèn mời Giang Vãn Y tới xem bệnh, hắn được gọi là thần y, y thuật cao minh hơn cả đám thái y, kết quả, hắn nói với ta…”. Khương Họa Nguyệt nói tới đây liền không thể nói tiếp được.
Khương Trầm Ngư nheo mắt: “Là Giang Vãn Y nói với tỉ, tỉ không thể có thai ư?”, Họa Nguyệt liền gật đầu, nàng đứng bật dậy, bước ra ngoài, khiến Khương Họa Nguyệt giật bắn mình, vội vàng kéo nàng lại: “Muội định làm gì?”.
“Muội có chuyện muốn hỏi hắn ta”.
“Đừng, Trầm Ngư, chuyện này…”. Chuyện này che đậy e còn không kịp, sao có thể loan rộng ra ngoài.
“Nhưng!”.
Khương Họa Nguyệt níu chặt nàng, nói: “Muội đi hỏi hắn cái gì? Hỏi hắn có chuẩn đoán sai không ư? Hỏi hắn có thuốc trị không ư? Những điều đó ta đều hỏi rồi. Cơ thể của ta, ta là người rõ nhất… Nhớ năm đó, lúc hoàng thượng sủng ái ta nhất, đêm đêm ở lại, mà đều không có được giống rồng, huống hồ bây giờ nhan sắc héo mòn, ân điển thưa thớt…”.
“Tỉ tỉ…”
Khương Họa Nguyệt ôm lấy eo nàng, giống như đứa trẻ ôm chặt lấy mẹ, nói: “Ta sợ lắm… muội muội, ta sợ lắm”.
Khương Trầm Ngư cũng ôm chặt tỉ tỉ vào trong lòng, chỉ cảm thấy trái tim yếu ớt trôi bồng bềnh, trĩu dần xuống. Nàng biết Khương Họa Nguyệt đang sợ điều gì. Có thể nói, cuộc hôn nhân của Họa Nguyệt chỉ có một mục đích là che chở cho cả nhà. Hiện giờ, ngôi hậu để trống chính là cơ hội để các phi tần có cơ hội lên ngôi, ai có thể sinh được con rồng cho hoàng thượng thì người đó có khả năng trở thành hoàng hậu mới.Nhưng chính trong lúc này, thái y nói cho nàng biết, nàng không thể có thai, với nữ nhân mà nói, chuyện này là một cú sốc còn đáng sợ hơn cả cái chết. Họa Nguyệt vào cung đã ba năm, dần dần thất sủng, lại không có con cái, chuyện phong họng đã thành vô vọng, lại không được ân sủng, bảo nàng phải sống như thế nào nốt quảng đời còn lại trong chốn thâm cung này?
Khương Trầm Ngư vừa nghĩ đến đây, không kìm được cũng khóc theo. Nàng ôm chặt tỉ tỉ, lòng nghĩ, nhất định phải giúp tỉ tỉ, nhất định phải nghĩ cách, nhưng mà, bao nhieu trí tuệ lúc thường ngày, trong giờ khắc này đều biến đi đâu hết. Nàng ôm Họa Nguyệt đang khóc không thành tiếng, cảm nhận được cơn run rẩy và lạnh lẽo từ trên cơ thể của tỉ tỉ truyền tới, bỗng cảm thấy bi thương tột độ.
Nỗi bi thương sâu đậm đó cùng với lầu gác nguy nga, bầu trời u ám của hoàng cung, hình thành nên một nhà tù đời này kiếp trước, mà những người bị giam giữ trong đó đâu chỉ có một mình tỉ tỉ?
“Muội muội, chuyện này phải giữ kín, nhất định phải giữ kín!”. Khương Họa Nguyệt tóm chặt tay nàng, trong sự lo lắng còn mang theo nỗi sợ hãi khó nói, “Không chỉ với người trong cung, mà với cha mẹ, ca ca, cũng không được nói! Bởi vì… bởi vì…”.
Bởi vì hễ mà nói ra, nhất định sẽ dẫn đến sự khủng hoảng của cả nhà, khiến cha mẹ đau lòng… Khương Trầm Ngư đang nghĩ như vậy, Khương Họa Nguyệt đã nói tiếp với sự thê lương vô cùng: “Bởi vì một khi họ biết được, sẽ cho rằng ta đã không còn giá trị lợi dụng, biến thành một con cờ vô dụng, sẽ không còn đối tốt với ta như bây giờ…”.
Cả người Trầm Ngư giật bắn, nàng tuyệt đối không ngờ tỉ tỉ lại nói vậy!
“Kỳ thực, bây giờ họ đối với ta cũng không thể nói là tốt được, ít nhất là không bằng ba năm trước…”. Khương Họa Nguyệt lại khóc một chặp nữa, “Muội muội, tại sao số ta lại khổ đến thế?”.
Một câu, “Nếu làm, thì phải làm người trên muôn người; nếu gả, thì phải gã làm vợ của đế vương; như thế mới sống uổng kiếp này!” của mấy năm về trước giờ vẫn còn văng vẳng bên tai, đan xen với những lời này. Khương Trầm Ngư nghĩ, chắc chắn đã xảy ra nhầm lẫn ở đâu đó, nếu không, tại sao thiếu nữ diễm lệ ánh mắt cao vời, luôn luôn tự tin ngày đó đã không còn nữa? Tại sao ngày tháng vô âu vo lo, đơn thuần giản dị đó không còn nữa? Tại sao tất cả mọi thứ trước mắt đều bị trùng trùng sương mù làm cho mờ mịt, không còn thấy rõ nữa?
Chắc chắn là nhầm lẫn ở chỗ nào đó…
Trong Gia Ninh cung là mưa thảm gió sầu bao trùm, còn trong Bảo Hoa cung lại là ca vũ thăng bình.
Trong sảnh đường bệ vệ, rộng lớn, Hy Hoa đang nằm trên sập quý phi, tay nâng ly rượu, nhìn đám vũ cơ đang ca múa phía dưới. Những vũ cơ này đều do Thiên Nhạc Thự đều thu nạp mấy trăm nữ đồng, truyền dạy cầm vũ khúc nghệ, cực kỳ nghiêm khắc, sau vài ba năm đào tạo, những kẻ tư chất tầm thường sẽ bị phái đi làm những việc cực nhọc như bưng trà rót nước, những kẻ còn lại bắt đầu đăng đài hiến nghệ, chỉ có kẻ múa đẹp nhất mới có đủ tư cách tiến cung.
Nhưng cô nương này đều đương tuổi thanh xuân như hoa hé nở, dung mạo mỹ lệ dáng vẻ mềm mại, lúc này ca múa dặt dìu, tập trung đông đúc, đúng là cảnh tượng vui lòng đẹp mắt không thể tả xiết.
Hy Hòa nhìn ngắm, ánh mắt chợt thay đổi, cuối cùng giơ một tay lên, hết thảy tiếng nhạc, điệu múa đều ngưng bặt trong giây phút này.
Nàng chỉ một cô nương đẹp nhất trong đám vũ cơ, nói: “Ngươi, tên gì?”
Người đó khiếp sợ đáp: “Nô tì hộ Viên, tên Hạnh Phương”.
“Ngươi thích hoa hạnh?”. Ánh mắt Hy Hòa dán chặt vào hình hoa hạnh thêu trên váy nàng ta.
Viên Hạnh Phương thưa: “Vâng ạ”.
Hy Hòa lạnh nhạt nhìn nàng ta, bỗng đặt ly rượu trong tay lên chiếc bàn bên cạnh, đứng dậy bước xuống sập, đi chân trần từng bước từng bước tiến về phía Viên Hạnh Phương.
Đám vũ cơ nhất thời tim vọt lên tận cổ họng, trong khoảnh khắc, trong đầu hiện lên biết bao tin đồn về vị phu nhân ngang ngược kiêu ngạo, khó hầu hạ này, đặc biệt là Viên Hạnh Phương, trên trán mồ hôi lạnh đã túa ra chảy ròng ròng, vẻ mặt vô cùng sợ hãi.
Hy Hòa nhìn nàng ta với ánh mắt cao thâm khó dò hồi lâu, rồi cúi người, nâng váy nàng ta lên, xé thật mạnh, chỉ nghe thấy “xoẹt” một tiếng, chiếc váy đỏ tinhxaro, đã bị Hy Hòa xé toạc.
Sắc mặt tất cả đều trắng bệch. Viên Hạnh Phương càng kinh sợ kêu lên: “Phu nhân! Phu nhân… nô tì đáng chết! Nô tì đáng chết, xin phu nhân thứ tội! Xin phu nhân thứ tội!”. Nói đoạn quỳ sụp xuống.
Nào ai biết căn bản Hy Hòa chẳng đếm xỉa đến nàng ta, chỉ một mực xé nát đám hoa hạnh trên váy nàng ta thành mảnh nhỏ, trong chốc lát, cả sảnh điện im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng vải bị xé nát, âm sắc chói tai.
Cho đến khi cành hoa hạnh đó bị xé vụn, Hy Hòa mới đứng dậy, ánh mắt lạnh băng nhìn Viên Hạnh Phương. Viên Hạnh Phương đâu dám nói gì, chỉ dập đầu liên tục.
Đám vũ cơ mặt xám như tro tàn, bụng thầm nghĩ thôi xong rồi, không biết Hạnh Phương đã phạm phải kỵ húy nào của phu nhân, xem ra khó tránh bị phạt nặng, lôi ra chém đầu còn tốt, chỉ sợ là bị đánh thành tàn tật, cả đời coi như đã bị hủy hoại hoàn toàn.
Nào ngờ Hy Hòa không hề nổi giận như dự liệu, lại tháo chiếc vòng đeo trên cổ tay ra, đưa cho Viên Hạnh Phương, nói: “Cái này thưởng cho ngươi”.
Viên Hạnh Phương nước mắt như mưa, ngẩng đầu lên nhìn chiếc vòng đó, lại nhìn nàng, vẻ mặt vẫn không dám tin.
Hy Hòa nhét chiếc vòng vào tay nàng ta, sau đó lười biếng xua tay: “Các ngươi lui cả ra”.
Chúng cơ lúc này mới hay đã tránh được kiếp nạn, vội vàng khom lưng hành lễ lui ra, Hy Hòa gọi Viên Hạnh Phương lại, lạnh nhạt nói: “Bản cung không thích cái tên của ngươi, về đổi đi”. Viên Hạnh Phương nơm nớp lo sợ vâng vâng dạ dạ, loạng choạng đi ra.
Sảnh điện rộng lớn bỗng chốc lạnh lẽo, vắng vẻ trở lại, có cơn gió thổi qua, bảy tầng màn sa đều tung bay phấp phới, khiến mái tóc của Hy Hòa bay lên, nhìn như quỷ mị. Nàng giẫm lên những mảnh vãi trên đất, quay người chuẩn bị tiếp tục nằm lên sập, một đôi tay đột nhiên thò ra từ phía sau, ôm chặt lấy nàng.
Hy Hòa cả kinh, đang đinh vùng ra, nhưng chỉ nghe người đó cười nói bên tai: “Có nhớ trẫm không?”.
Là Chiêu Doãn.
Cơ thể tuy đã thả lỏng, nhưng trong lòng vẫn khiếp sợ, không kìm được quay đầu lại, nhìn thấy đôi mắt phượng hơi xếch, đang nheo mắt cười nhìn nàng, trong mắt là yêu thương vô hạn.
Quả nhiên là Chiêu Doãn.
Thấy quỷ rồi, lúc này chẳng phải y đang trên đường hồi kinh sao? Sao lại xuất hiện trong Bảo Hoa cung? Mà trên người lại vận trang phục của thị vệ!
“Hoàng thượng người…”.
“Sao trẫm lại về cung sớm chứ gì? Bởi vì trẫm rất nhớ Hy Hòa, muốn gặp Hy Hòa sớm hơn một chút, cho nên suốt dọc đường vung roi thúc ngựa, tách khỏi đại quân, trở về trước. Câu trả lời này đã được chưa?”. Chiêu Doãn nói đoạn hôn lên gò má nàng, đang định hôn môi, lại bị Hy Hòa đẩy ra, cười lạnh nói: “Hoàng thượng đến gặp thần thiếp lại cần ăn vận thế này sao? Lừa ai chứ?”.
Chiêu Doãn cười ha hả, cầm ly rượu trên bàn một hơi uống cạn, sau đó thuận thế ngồi xuống sập: “Quả nhiên vẫn là Hy Hòa hiểu trẫm, không lừa được, không lừa được”.
Hy Hòa thấy CHiêu Doãn thần sắc vui vẻ như thế, hẳn là tâm trạng rất phấn chấn, cuôi cùng không kìm được hỏi: “Hoàng thượng gặp chuyện gì tốt hay sao mà vui vẻ thế?”.
Chiêu Doãn chớp mắt: “Tru diệt phản quan, có tính không?”.
Hy Hòa khẽ hừ một tiếng, nét mặt sa sầm. Chiêu Doãn lại cười, một tay kéo nàng ôm vào trong lòng, nói: “Còn nữa, trẫm bí mật gặp vài người, hơn nữa còn tìm cho nàng một người cậu”.
“Cậu?”. Hy Hòa chau mày, “Họ hàng thân thích nhà thiếp đều chết hết rồi, ở đâu ra một người cậu”.
“Cho nên mới nói là tìm được”. Chiêu Doãn bỗng ngưng cười, cực kỳ nghiêm túc nhìn nàng, nói từng tiếng rành rọt, “Hy Hòa, nàng có muốn làm hoàng hậu không?”.
Lại một trận gió từ bên ngoài thổi vào trong điện, rèm sa khẽ bay, như mây mù tầng tầng bay bổng, đôi mắt Hy Hòa cũng giống như rèm sa, chớp cái đã mờ mịt.
“Tại sao lại chọn thiếp?”. Chiều đầu xuân trời vẫn se se lạnh, trong ánh nắng lốm đóm, nữ tữ áo trắng tóc đen, chân trần đứng trên ngọc lưu ly, nhẹ nhàng hỏi.
Thế là năm tiếng đó trở thành tiếng hoa nở, vừa gấp gáp lại vừa chậm rãi, vừa ngờ vực lại vừa kinh ngạc, vừa đau khổ lại vừa vui sướng, lo lắng trùng trùng, lại chẳng sợ điều gì.
Trên sập gấm, đế vương trẻ tuổi nắm lấy cả hai tay nàng, trong đôi mắt sâu thẳm phản chiếu bóng dáng nàng, từng lời loáng thoáng vang lên: “Vì có rất nhiều nguyên nhân: Không muốn từ bỏ quyền lực; không muốn xuất hiện một Tiết Hoài thứ hai; tỏ ra yếu đuối với những nước khác, để cho chúng tưởng rằng trẫm là một hôn quân háo sắc; còn nữa, điểm cuối cũng là… trẫm thích nàng”.
Mùng một tháng tư năm Đồ Bích thứ tư, đế quân về kinh. Chiêu Doãn khao thưởng ba quân, tứ phong Phan Phương làm Tả tướng quân, xử lại án sai của cha Phan Phương, đại xá thiên hạ, vạn dân chúc mừng.
(*)Cư kinh: Chỉ kinh nguyệt ba tháng có một lần