Kẻ Nhắc Tuồng
Chương 44
Alphonse Bérenger là một ông già sáu mốt với sắc diện như một đứa trẻ.
Khuôn mặt hồng hào của ông trông như được gắn bằng một mạng lưới mao mạch chằng chịt. Khi cười, đôi mắt ông nheo lại thành hai đường chỉ. Ông đã lãnh đạo nhà tù từ hai mươi lăm năm nay, và chỉ còn vài tháng nữa là về hưu. Ông rất thích câu cá. Một cần câu cùng một hộp mồi và lưỡi câu nằm trong một góc văn phòng của ông. Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ là mối quan tâm duy nhất trong cuộc sống của ông.
Bérenger được nhìn nhận là một người tốt. Trong những năm tháng dưới quyền lãnh đạo của ông, nhà tù đã chưa từng nếm mùi kỷ luật sắt. Ông rất tử tế với các tù nhân, và các quản tù của ông cũng hiếm khi cậy nhờ đến vũ lực.
Alphonse Bérenger đọc Kinh thánh và theo chủ nghĩa vô thần. Nhưng ông tin vào cơ hội thứ hai. Ông cho rằng mỗi cá nhân nếu muốn đều đáng được ân xá. Bất luận anh ta đã phạm tội ác gì. Ông nổi tiếng là một người chính trực và luôn hòa nhã với mọi người. Tuy nhiên, thời gian gần đây, ông không tài nào ngủ được. Vợ ông bảo với ông nguyên nhân là do ông sắp về hưu, nhưng không phải thế. Điều quấy rầy ông trong cơn buồn ngủ là việc phải trả lại tự do cho phạm nhân mang số hiệu RK-357/9 mà không hề biết hắn là ai và liệu hắn có từng gây tội ác tày đình nào hay không.
– Gã này rất… quái gở. – Ông nói với Mila trong khi hai người bước qua cổng kiểm soát để tiến vào khu biệt giam.
– Quái gở thế nào ạ?
– Hắn hoàn toàn điềm tĩnh. Chúng tôi đã cắt nước, với hy vọng hắn sẽ thôi cọ rửa mọi thứ. Hắn tiếp tục lau chùi bằng giẻ. Chúng tôi tước luôn giẻ. Hắn chuyển sang dùng quần áo tù. Chúng tôi ép hắn phải dùng muỗng nĩa của nhà giam. Thế là hắn ngừng ăn.
– Vậy các ông làm thế nào?
– Đương nhiên chúng tôi không thể để hắn chết đói được! Tất cả mọi ý đồ của chúng tôi đều vấp phải một sự cứng đầu vô phương tháo gỡ… hoặc một sự đấu tranh trong ôn hòa, tùy cô nhìn nhận.
– Thế còn cảnh sát khoa học?
– Họ đã dành ba ngày xem xét xà lim của hắn nhưng không thể tìm được thứ gì cho phép phân tích mẫu ADN của hắn. Tôi cứ tự hỏi làm sao có thể thế được? Chúng ta mất hàng ngàn tế bào mỗi ngày, dưới dạng lông tóc, hoặc mảnh da chết…
Bérenger đã chứng tỏ toàn bộ sức kiên nhẫn của một người câu cá tội nghiệp, với hy vọng như thế là đủ. Nhưng vẫn không đủ. Lần thử sức sau cùng của ông là cô cảnh sát bất ngờ xuất hiện sáng hôm nay, với câu chuyện khó tin nhưng có thật của mình.
Họ đi theo hành lang dài đến một cánh cửa kim loại sơn màu trắng. Đó là buồng biệt giam số mười lăm.
Ông giám đốc nhà tù nhìn Mila.
– Cô chắc chắn chứ?
– Trong ba ngày nữa, gã ta sẽ ra tù, và tôi có cảm giác ta sẽ không bao giờ thấy lại gã nữa. Thế nên, tôi tuyệt đối chắc chắn.
Cánh cửa nặng nề mở ra rồi lập tức đóng lại sau lưng Mila. Cô bước vào trong thế giới của nghi phạm số hiệu RK-357/9. Gã trông khá khác với những hình dung của cô dựa trên chân dung được dựng lại bởi bà Nicla Papakidis, sau khi bà chui sâu vào trong đầu của Joseph B. Rockford. Ngoại trừ một chi tiết. Đôi mắt xám.
Gã có vóc người nhỏ, đôi vai hẹp, xương đòn nhô ra. Bộ đồng phục tù nhân màu cam tỏ ra quá rộng so với gã, tới mức gã phải xắn tay áo và gấu quần lên. Tóc gã ít và chỉ tập trung ở hai bên đầu.
Gã đang ngồi trên giường, một cái tô sắt đặt trên đầu gối. Gã lau nó bằng một miếng giẻ màu vàng nhạt. Trên giường, bên cạnh gã, có mấy bộ muỗng nĩa, bàn chải đánh răng và một cái lược nhựa. Có lẽ gã vừa mới chùi chúng xong. Gã chỉ hơi ngước mắt lên nhìn Mila, trong lúc tay vẫn không ngừng lau chùi.
Mila có cảm giác chắc chắn là gã biết lý do cô đến đây.
– Chào ông. – Cô nói. – Tôi ngồi xuống được chứ?
Gã lễ độ gật đầu, tay chỉ cái ghế đẩu kê sát tường. Mila ngồi xuống đó.
Tiếng cọ xát đều đặn của miếng giẻ trên kim loại là âm thanh duy nhất trong căn buồng. Những âm thanh đặc trưng của nhà tù hoàn toàn vắng bóng trong khu biệt giam, nhằm làm nặng nề thêm sự cô độc về mặt tinh thần. Nhưng hình như nó chẳng mảy may ảnh hưởng tới nghi phạm RK-357/9.
– Ở đây tất cả đều tự hỏi ông là ai. – Mila mở lời. – Thắc mắc đó đã gần như trở thành một nỗi ám ảnh, tôi nghĩ thế. Ít ra là đối với ông giám đốc nhà tù. Và cả với văn phòng công tố nữa. Các phạm nhân khác truyền tai nhau câu chuyện của ông.
Gã tiếp tục nhìn cô trơ trơ.
– Tôi thì không thắc mắc điều đó. Tôi biết câu trả lời. Ông là kẻ mà chúng tôi gọi là Albert. Đối tượng chúng tôi đang truy lùng.
Gã không phản ứng gì.
– Ông đã ngồi trên chiếc ghế bành của Alexander Bermann trong hang ổ khiêu dâm của hắn. Ông đã gặp Ronald Dermis ở cô nhi viện, khi hắn còn là một đứa trẻ. Ông đã có mặt trong biệt thự của bà Yvonne Gress trong lúc Feldher thảm sát bà ta và hai đứa con. Hình dáng ông rõ rành rành trên chỗ máu bắn lên tường. Ông đã ở cùng với Joseph B. Rockford khi hắn lần đầu tiên giết người trong cái lán bỏ không… Bọn họ là đồ đệ của ông. Ông đã xúi bẩy phần con người hèn hạ trong họ, khơi gợi sự độc ác trong họ, và luôn ẩn mình trong bóng tối…
Gã đàn ông tiếp tục lau chùi không mảy may suy suyển.
– Cách đây hơn bốn tháng, ông đã quyết định để cho mình bị bắt. Ông đã cố tình làm điều đó, tôi tin chắc như vậy. Trong tù, ông đã gặp Vincent Clarisso, bạn tù cùng xà lim của ông. Ông có gần một tháng để huấn luyện hắn, trước khi hắn ra tù. Sau đó, ngay khi được trả lại tự do, Clarisso đã thực thi kế hoạch của ông: bắt cóc sáu bé gái, cắt đi cánh tay trái của chúng, sắp đặt tử thi của chúng để tiết lộ tất cả những tội ác kinh hoàng chưa từng bị phát hiện… Trong khi Vincent hoàn thành công việc thì ông ngồi đây. Như vậy là không ai có thể buộc tội ông được. Bốn bức tường này là bằng chứng ngoại phạm quá lý tưởng… Nhưng kiệt tác của ông là Goran Gavila.
Mila rút từ trong túi ra một cuộn băng ghi âm tìm thấy trong văn phòng của nhà tội phạm học rồi quẳng nó lên giường. Gã đàn ông quan sát quỹ đạo parabol mà nó vạch ra trước khi đáp xuống cạnh chân trái của mình. Gã không nhúc nhích, thậm chí chẳng buồn tránh.
– Giáo sư Gavila chưa bao giờ nhìn thấy ông, ông ta cũng không biết ông. Nhưng ông thì biết ông ta.
Tim Mila bắt đầu đập mạnh. Đó là do cơn giận, nỗi đau xót, và cả một thứ khác nữa.
– Ông đã tìm ra cách tiếp cận ông ta trong khi vẫn ngồi trong này. Ông thật tài tình: khi người ta biệt giam ông, ông bắt đầu lảm nhảm một mình như thằng điên, thừa biết người ta sẽ cài micro để sau đó đưa các đoạn băng ghi âm cho một chuyên gia nghe. Không phải bất kỳ người nào, mà chính là người giỏi nhất trong lĩnh vực này…
Mila chỉ cuộn băng.
– Tôi đã nghe tất cả, ông biết không? Hàng giờ ghi âm… Những thông điệp này không phải để ném vào khoảng không. Tất cả là dành cho Goran… “Giết, giết, giết”… Ông ta đã nghe lời ông và giết hại vợ con mình. Đó là một công trình dài hơi tác động lên tinh thần của ông ta. Nhưng hãy nói cho tôi nghe một chuyện: ông làm điều đó như thế nào? Làm sao ông thành công được? Ông giỏi lắm.
Gã đàn ông không đáp lại câu mỉa mai, hoặc là không biểu hiện ra. Nhưng gã có vẻ tò mò muốn nghe phần tiếp theo của câu chuyện, vì gã không rời mắt khỏi cô.
– Nhưng ông không phải là kẻ duy nhất biết chui sâu vào trong đầu người khác… Gần đây tôi đã tìm hiểu rất nhiều về những tên sát nhân hàng loạt. Tôi đã biết chúng được chia làm bốn loại: mộng tưởng; hành đạo, khát quyền và tầm lạc… Nhưng còn một loại thứ năm nữa. Người ta gọi chúng là những tên sát nhân hàng loạt trong tiềm thức.
Cô lục trong túi và lôi ra một tờ giấy gấp tư. Cô mở nó ra.
– Kẻ nổi tiếng nhất là Charles Manson, người đã xúi giục các thành viên trong “Gia đình” của mình thực hiện cuộc thảm sát ở đường Cielo. Nhưng tôi tin có hai trường hợp còn điển hình hơn. (Cô đọc tờ giấy.) “Vào năm 2005, một gã người Nhật tên là Fujimatzu đã thuyết phục thành công mười tám người ở nhiều nơi trên thế giới mà hắn gặp qua chat, để khiến họ tự tử vào đúng ngày lễ Tình nhân. Tuổi tác, giới tính, tình hình tài chính và nguồn gốc xã hội của họ khác nhau. Họ là những người đàn ông và phụ nữ hoàn toàn bình thường, và có vẻ như không hề có vấn đề gì”. (Cô ngước mắt lên nhìn nghi phạm). Làm thế nào hắn thuyết phục được họ, điều này cho đến giờ vẫn là một bí mật… Nhưng ông nghe nhé, đây là những vụ tôi thích nhất: “Năm 1999, Rocher Glest ở Akron, bang Ohio, đã giết sáu phụ nữ. Lúc bị bắt, hắn bảo với các điều tra viên là hắn đã được ‘nhắc tuồng’ bởi một gã Rudolf Migby nào đó. Chánh án và bồi thẩm đoàn cho rằng hắn tìm cách giả điên. Họ tuyên án tử hình hắn bằng biện pháp tiêm thuốc độc. Vào năm 2002, tại New Zealand, một công nhân mù chữ tên là Jerry Hoover đã giết hại bốn phụ nữ, sau đó khai với cảnh sát là một tay Rudolf Migby đã ‘nhắc tuồng’ mình. Bác sĩ tâm thần của bên công tố nhớ lại vụ việc năm 1999 – vụ án mà rất khó có khả năng Hoover biết được – và phát hiện ra một đồng nghiệp của can phạm quả thực tên là Rudolf Migby và hồi năm 1999, hắn đã lưu trú tại Akron, Ohio”. Ông thấy sao? Ông thấy sự giống nhau ở đây chứ?
Gã đàn ông không nói gì. Cái tô của gã sáng bóng, nhưng có vẻ như gã vẫn chưa hài lòng về kết quả này.
– Một tên “sát nhân trong tiềm thức” không thực sự gây án. Hắn không thể bị quy trách nhiệm và bị trừng phạt. Để xét xử Charles Manson, người ta đã phải dùng đến tiểu xảo tố tụng, ngoài ra án tử hình của hắn đã được giảm xuống thành nhiều án chung thân… Một số nhà tâm thần học gọi các ông là “những kẻ dụ dỗ”, vì khả năng tác động lên những nhân cách yếu đuối nhất. Còn tôi, tôi thích gọi các ông là “những con sói”… Lũ sói hành động theo bầy đàn. Mỗi bầy có một con thủ lĩnh, và thường thì những con khác săn mồi cho nó.
Nghi phạm RK-357/9 đã lau xong cái tô và đặt nó xuống bên cạnh mình. Gã để tay lên đầu gối và chờ nghe đoạn tiếp theo.
– Nhưng ông, ông là kẻ giỏi nhất… (Mila bật cười). Không gì có thể chứng minh sự liên đới của ông trong các vụ án do bọn đồ đệ của ông gây ra. Không có bằng chứng chống lại, nên ông sẽ lại sớm được làm người tự do… Mà không ai có thể làm gì được.
Mila thở một hơi rất dài. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau.
– Tiếc quá: giá như chúng tôi biết được danh tính thật sự của ông thì ông sẽ trở nên nổi tiếng và đi vào sử sách, ông tin tôi đi.
Cô chồm người về phía gã đàn ông, đổi giọng đe dọa:
– Dù sao đi nữa, tôi sẽ khám phá ra được ông là ai.
Cô đứng dậy, phủi một hạt bụi vô hình khỏi tay mình rồi dợm bước ra ngoài. Nhưng trước đó cô muốn dành thêm vài giây cho gã đàn ông.
– Đồ đệ cuối cùng của ông đã thất bại rồi: Vincent Clarisso đã không hoàn thành kế hoạch của ông, bởi vì bé gái số sáu vẫn còn sống… Điều đó có nghĩa là ông cũng đã thất bại.
Cô dò xét phản ứng của đối tượng. Trong một tích tắc, cô có cảm tưởng như một điều gì đó đã đổi khác trên gương mặt từ nãy đến giờ không hề lay chuyển của gã.
– Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở bên ngoài!
Cô chìa tay về phía gã. Gã hơi bất ngờ, như thể gã không chờ đợi cử chỉ này. Gã quan sát cô một lúc. Rồi gã nhè nhẹ giơ một cánh tay lên bắt tay cô. Khi chạm vào những ngón tay mềm mại, Mila cảm thấy thật ghê tởm.
Hắn để tay mình trượt khỏi tay cô.
Cô quay gót, tiến đến cánh cửa sắt. Cô gõ ba tiếng và chờ đợi, ý thức được cái nhìn của gã đàn ông vẫn đang găm vào một điểm nằm giữa hai bả vai mình. Ở bên ngoài, một người nào đó mở chốt cửa. Trước khi cánh cửa kịp mở ra, nghi phạm RK-357/9 lần đầu tiên cất tiếng:
– Nó là con gái.
Mila quay lại nhìn gã, ngỡ mình nghe lầm. Gã đã lại cầm giẻ lên và tỉ mỉ lau chùi một cái tô khác, cô bước ra để cánh cửa sắt khép lại sau lưng. Bérenger tiến đến chỗ cô. Krepp đi cùng ông ta.
– Thế nào… cô thành công chứ?
Mila gật đầu. Cô chìa bàn tay vừa bắt tay nghi phạm ra. Krepp cầm lấy một cái kẹp và cẩn thận gỡ từ lòng bàn tay cô một lớp chất liệu mỏng mà ông đã gắn vào để lưu giữ các tế bào biểu bì của gã đàn ông. Để bảo quản nó, ông lập tức đặt nó vào trong một dung dịch kiềm.
– Bây giờ ta sẽ xem gã con hoang này là ai.
Ngày 5 tháng 9
Bầu trời điểm xuyết vài cụm mây trắng, chúng càng làm nổi bật màu xanh thuần khiết. Nếu co cụm lại, có lẽ chúng đã che được mặt trời. Nhưng chúng chỉ để mặc cho cơn gió cuốn mình đi.
Mùa hè năm nay rất dài. Mùa đông đã nhường chỗ cho mùa hè mà không có bước chuyển tiếp nào cả. Trời vẫn còn ấm.
Mila đã quay hết kính xe xuống trong lúc lái, để tận hưởng gió trời trên mái tóc. Cô nuôi tóc dài, nhưng đó chỉ là một trong những thay đổi nhỏ của cô thời gian vừa rồi. Một sự mới mẻ nữa là trang phục của cô. Cô đã thay chiếc quần jean bằng một cái váy hoa.
Trên ghế ngồi cạnh cô là một chiếc hộp thắt ruy băng màu đỏ. Cô đã chọn quà ngay không suy nghĩ nhiều, bởi từ giờ trở đi cô đặt niềm tin vào bản năng của mình.
Cô đã khám phá ra tính chất không thể đoán định trước của cuộc sống.
Sự mới mẻ trong cách nhìn nhận mọi thứ làm cô hài lòng. Nhưng vấn đề hiện tại là cảm xúc thất thường của cô. Đôi khi cô có thể ngừng lại ngay giữa cuộc đối thoại, hoặc giữa lúc đang bận rộn, chỉ để khóc. Vô duyên vô cớ, một hoài niệm lạ lùng và dễ chịu xâm chiếm lấy cô.
Trong một thời gian dài cô tự hỏi, những cảm xúc đều đặn trùm lên mình như những đợt sóng đó đến từ đâu. Giờ thì cô đã hiểu ra. Nhưng thậm chí cô không muốn biết giới tính của đứa trẻ.
“Nó là con gái”.
Mila tránh nghĩ đến điều đó. Cô cố quên chuyện đó đi. Cô còn những ưu tiên khác. Những cơn đói thường xuyên xâm chiếm lấy cô không báo trước và đã trả lại cho cô một chút dáng vóc nữ tính. Rồi thì, những cơn buồn tiểu tiện bất ngờ và khẩn cấp. Cuối cùng là những cú đạp nhẹ trong bụng mà cô cảm thấy đã được một thời gian.
Nhờ vào tất cả những điều đó, cô đã học được cách chỉ nhìn về phía trước. Thế nhưng, một điều không thể tránh khỏi, ký ức về những chuyện vừa qua thỉnh thoảng lại xâm chiếm lấy đầu óc cô.
Phạm nhân RK-357/9 đã ra khỏi tù vào một ngày thứ Ba trong tháng Ba. Gã vẫn vô danh.
Tuy vậy tiểu xảo của Mila đã thành công.
Krepp đã trích được ADN từ các tế bào biểu bì của gã và đưa vào tất cả những kho dữ liệu hiện có. Ông thậm chí đã tìm cách khớp chúng với những dữ liệu chưa định được danh tính trong các vụ án tồn đọng.
Nhưng ông không tìm được gì.
Có lẽ chúng ta vẫn chưa khám phá được toàn bộ mưu đồ của gã. Mila tự nhủ. Ý nghĩ đó khiến cô thấy sợ.
Khi gã được thả tự do, lúc đầu các cảnh sát liên tục theo dõi gã. Gã sống trong một ngôi nhà được cơ quan bảo trợ xã hội cung cấp, và mỉa mai thay, gã làm công việc quét dọn trong một trung tâm thương mại lớn. Gã không để lộ bất kỳ điều gì về mình, ngoại trừ những gì đã được biết. Dần dần, công tác theo dõi của cảnh sát được gỡ bỏ. Cấp trên của họ không thể trả thêm tiền làm ngoài giờ được nữa, và các chuyến theo dõi tình nguyện cũng chỉ kéo dài thêm được vài tuần.
Mila cũng tiếp tục giám sát gã, nhưng rồi ngay cả với cô, chuyện đó cũng trở nên ngày một mệt mỏi hơn. Sau khi biết mình có mang, mức độ kiểm soát của cô với gã thưa dần.
Rồi một hôm, khoảng giữa tháng Năm, gã biến mất.
Gã không để lại bất kỳ dấu vết nào, cũng không có gì tiết lộ về điểm đến của gã. Lúc đầu Mila đùng đùng nổi giận, nhưng rồi cô chợt nhận ra mình nhẹ nhõm một cách kỳ lạ.
Suy cho cùng, cô cảnh sát chuyên đi tìm người mất tích chỉ muốn gã ta mất tích hẳn.
Bảng chỉ đường cho thấy cô phải rẽ để vào khu dân cư. Cô làm theo. Đó là một khu khá đẹp. Những con đường hai bên toàn cây xanh phủ xuống những cái bóng y hệt nhau, như thể không muốn làm hại ai. Những ngôi biệt thự nhỏ tương tự nằm gần nhau, mỗi cái có một khu vườn xinh xắn phía trước.
Các chỉ dẫn trên tờ giấy mà Stern đưa kết thúc ở ngã ba trước mặt Mila.
– Stern, anh đang ở chỗ quái quỷ nào vậy? – Cô nói vào điện thoại. Trước khi anh kịp trả lời, cô đã nhận ra anh đang cầm di động ra hiệu cho cô ở phía xa.
Cô đậu xe ở chỗ anh chỉ rồi bước xuống.
– Cô khỏe không?
– Ngoại trừ những cơn buồn nôn, đôi chân phù nề và những lần chạy vội vào nhà vệ sinh thì… tôi khỏe.
Anh vòng tay ôm lấy vai cô.
– Đi nào, mọi người đang ở sân sau.
Thật buồn cười khi nhìn thấy Stern không càvạt lẫn comlê, thay vào đó là chiếc quần đùi màu xanh và áo sơmi hoa hòe phanh ngực. Nếu không có viên kẹo bạc hà bất ly thân trong miệng thì không thể nào nhận ra anh.
Mila để mình được dắt vào vườn, ở đó vợ của người cựu cảnh sát đang bày muỗng nĩa. Cô chạy đến ôm hôn chị.
– Chào chị Marie, trông chị đẹp lắm.
– Phải thế chứ, chị cô có tôi ở nhà cả ngày mà! – Stern vừa cười vừa nói.
Marie đấm vào lưng chồng.
– Anh đi lo đồ ăn đi.
Trong khi Stern tiến lại lò nướng để nướng xúc xích và bắp ngô, Boris bước lại gần, chai bia cạn nửa trong tay. Anh ôm chầm lấy Mila bằng đôi cánh tay vạm vỡ và nhấc bổng cô lên.
– Cô lên cân nhiều quá đấy!
– Lên cái mồm anh ấy!
– Mà, cô mất bao lâu mới đến được đây?
– Anh lo cho tôi cơ à?
– Không, chẳng qua vì tôi đói quá thôi.
Họ cùng cười. Boris vẫn luôn chú ý đến cô, không phải chỉ bởi cô là người đã tránh cho anh khỏi phải vào tù. Dạo gần đây anh chàng có hơi lên cân do cuộc sống ru rú ở nhà sau khi được Terence Mosca cất nhắc. Ông chánh thanh tra mới đã ngay lập tức sửa chữa “sai sót” nhỏ của mình, và cho anh một đề nghị không thể nào từ chối được. Roche đã từ chức ngay sau khi cuộc điều tra chính thức khép lại, không quên thu xếp với ban điều tra một lộ trình hạ cánh bao gồm một buổi lễ trao huy chương và một bài diễn văn long trọng. Nghe nói ông ta đã nghĩ đến việc chuyển sang làm chính trị.
– Ôi tôi ngu quá mất thôi. Tôi để quên cái hộp quà trong xe rồi! – Mila sực nhớ. – Anh đi lấy nó giúp tôi được không?
– Tất nhiên rồi, tôi đi ngay đây.
Khi thân hình vạm vỡ của Boris rời đi, cô mới nhận thấy những người khác.
Sandra đang ngồi trong chiếc xe lăn dưới tán một cây anh đào. Con bé không thể bước đi được. Việc này xảy ra một tháng sau khi Sandra rời bệnh viện. Các bác sĩ cho rằng sự tắc nghẽn thần kinh của nó có liên quan đến chấn động tinh thần. Con bé phải theo một chương trình phục hồi chức năng rất nghiêm ngặt.
Một cánh tay giả đã được lắp vào bên tay bị mất của Sandra.
Đứng bên cạnh Sandra là Mike, bố con bé. Mila biết anh khi đến thăm Sandra và thấy anh là người tử tế. Mặc dù hai vợ chồng ly thân, anh vẫn tiếp tục chăm sóc vợ con một cách tận tụy và trìu mến. Sarah đang ở bên hai bố con. Cô đã thay đổi rất nhiều. Cô sụt cân trong khi ở tù và mái tóc đã bạc trắng chỉ trong một thời gian ngắn. Án phạt dành cho cô khá nặng: bảy năm tù và bị sa thải khỏi ngành do phạm lỗi nghiêm trọng và mất luôn chế độ hưu trí. Cô được ở đây là nhờ một lệnh cho phép đặc biệt. Mila nhìn thấy cách đó không xa là Doris, người quản giáo đi kèm Sarah. Chị gật đầu chào cô.
Sarah Rosa đứng dậy đi đến chỗ Mila. Cô cố gắng mỉm cười.
– Cô khỏe không? Đứa bé ổn chứ?
– Điều bất tiện nhất là quần áo: tôi liên tục thay đổi kích cỡ, nhưng lại không đủ tiền để mua quần áo thường xuyên. Một ngày nào đó tôi sẽ quấn áo choàng tắm để ra đường!
– Tin tôi đi, hãy tận hưởng thời gian này, vì điều tồi tệ nhất còn chưa đến đâu. Trong ba năm đầu đời, Sandra đã không cho chúng tôi chợp mắt. Phải không Mike?
Mike gật đầu.
Dạo này mọi người đã từng gặp nhau trong một số dịp khác, nhưng không người nào hỏi Mila bố đứa bé là ai. Họ sẽ phản ứng thế nào khi biết cô đang mang trong mình đứa con của Goran?
Nhà tội phạm học vẫn đang chìm trong hôn mê.
Mila đã đến thăm ông một lần. Cô nhìn thấy ông qua một tấm kính, nhưng chỉ chịu nổi vài giây là bỏ chạy.
Điều cuối cùng ông nói với cô trước khi gieo mình xuống đất là ông đã giết vợ con bởi vì ông yêu họ. Đó là thứ lôgíc không thể chối cãi của việc yêu nhau lắm cắn nhau đau. Mà Mila thì không thể chấp nhận chuyện đó.
Một lần Goran đã khẳng định với cô: “Có những người ta tưởng đã hiểu cặn kẽ, nhưng thật ra chẳng biết gì về bọn họ…”
Cô đã nghĩ ông nói về vợ mình, và cô xem câu nói đó như một sự thật tầm thường, không là gì đối với đầu óc của ông. Cho đến khi cô thấy điều ông nói vận vào chính bản thân cô. Lẽ ra cô phải hiểu ra từ trước đó. Cô từng nói với Goran: “Vì em từ bóng tối chui ra. Và thỉnh thoảng, em phải quay lại với bóng tối”.
Goran cũng từng thường xuyên lặn xuống bóng tối sâu thẳm ấy. Nhưng một ngày, khi ông chui ra khỏi bóng tối, một thứ gì đó đã bám theo ông. Và nó không buông tha ông nữa.
Boris quay lại cùng với món quà.
– Anh đi lâu thế.
– Tôi không tài nào đóng cửa chiếc xe đồng nát của cô được. Cô nên thưởng cho mình một chiếc mới đi là vừa.
Mila cầm lấy món quà và đưa cho Sandra.
– Mừng sinh nhật cháu!
Cô cúi xuống ôm hôn con bé. Sandra luôn vui mừng mỗi khi gặp cô.
– Bố mẹ đã tặng cháu một cái iPod.
Con bé giơ món quà ra khoe. Mila đáp:
– Đỉnh thật! Phải nạp thật nhiều nhạc rock vào nhé.
Mike không đồng tình:
– Tôi thích nhạc Mozart hơn.
– Con thích Coldplay cơ. – Sandra nói.
Họ cùng nhau mở gói quà của Mila. Đó là một chiếc áo khoác nhung, với những chiếc đinh tán và họa tiết trang trí đủ kiểu.
– Wow! – Sandra thốt lên khi nhận ra nhãn hiệu của một nhà thiết kế nổi tiếng.
– Chữ “wow” này có nghĩa là cháu thích phải không?
Con bé gật đầu, miệng nhoẻn cười, mắt không rời khỏi chiếc áo khoác
– Ta ăn thôi! – Stern tuyên bố.
Họ cùng ngồi vào bàn dưới bóng của một cái chòi nhỏ. Mila nhận thấy Stern và vợ thường xuyên tìm nhau và đụng chạm nhau như một đôi tình nhân trẻ. Cô thấy phát ghen với họ. Sarah Rosa và Mike sắm vai một cặp bố mẹ tốt trước mặt cô con gái. Nhưng Mike cũng rất quan tâm tới Sarah. Boris thì luôn miệng pha trò khiến họ cười nhiều tới mức Doris bị mắc nghẹn. Hôm nay là một ngày thật dễ chịu và vô lo. Sandra chắc đã tạm quên đi tình trạng của mình. Con bé nhận được rất nhiều quà và thổi mười ba ngọn nến cắm trên chiếc bánh sôcôla dừa.
Khi họ ăn trưa xong thì đã quá ba giờ. Một cơn gió nhẹ thổi đến, mời gọi họ ngồi xuống bãi cỏ đánh giấc. Cánh phụ nữ dọn dẹp bàn, nhưng vợ Stern không cho Mila tham gia vì bụng cô đã khá lớn. Cô nhân cơ hội ở lại cùng Sandra dưới bóng cây anh đào. Cô xoay xở ngồi bệt xuống đất bên cạnh chiếc xe lăn.
– Ở đây đẹp quá. – Con bé vừa nói vừa nhìn mẹ dọn dẹp bàn ăn. – Cháu chỉ muốn ngày hôm nay kéo dài mãi. Cháu từng nhớ mẹ lắm… – Sandra mỉm cười nói thêm.
Chữ “từng” mà Sandra sử dụng cho thấy Sandra muốn nói đến một cảm giác nhớ nhung khác với điều mà nó cảm thấy khi mẹ ở tù. Nó đang muốn nhắc đến sự kiện đã xảy ra với mình.
Mila hiểu đó là một phần nỗ lực nhằm sắp xếp lại quá khứ của con bé. Sandra phải điều chỉnh lại các cảm xúc của mình, và chấp nhận một nỗi sợ dù đã trôi qua nhưng sẽ còn rình rập cô bé trong những năm tháng phía trước.
Một ngày nào đó, hai cô cháu sẽ nói về những chuyện đã diễn ra. Mila nghĩ đến việc kể cho con bé nghe chuyện của mình trước. Có lẽ điều này sẽ giúp ích cho nó. Hai cô cháu có rất nhiều điểm chung.
Đầu tiên hãy tìm từ ngữ để nói ra, cháu ạ, chúng ta có nhiều thời gian lắm…
Mila cảm thấy rất quý mến Sandra. Trong một tiếng đồng hồ tới, Sarah Rosa sẽ phải quay về trại giam. Lần nào cô cũng cảm thấy sự chia tay rất khó khăn đối với hai mẹ con.
– Cô đã quyết định chia sẻ với cháu một bí mật. – Mila nói với con bé để quên ý nghĩ vừa rồi đi. – Cô sẽ chỉ nói với mình cháu thôi… Cô muốn cho cháu biết ai là bố đứa trẻ cô đang mang trong bụng.
Sandra buột miệng cười.
– Mọi người biết rồi cô ơi.
Mila sững người vì bất ngờ, rồi cả hai cô cháu cùng cười. Boris đứng từ xa nhìn họ, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
– Phụ nữ ấy mà. – Anh chàng nói với Stern.
Khi đã thôi cười, Mila cảm thấy khá hơn hẳn. Một lần nữa, cô đã đánh giá thấp những người quý mến mình, và tự tạo nên những rắc rối không cần thiết. Thật ra mọi chuyện thường đơn giản vô cùng.
– Hắn đã đợi một người… – Sandra nói một cách nghiêm túc.
– Cô biết. – Mila đáp.
– Kẻ đó lẽ ra đã đến nhập bọn với hắn.
– Gã bị ngồi tù. Nhưng bọn cô không hay biết. Bọn cô thậm chí còn đặt cho gã một cái tên, cháu biết không? Bọn cô gọi gã là Albert.
– Không, Vincent không gọi kẻ đó như vậy…
Cơn gió nhẹ khẽ lay động những chiếc lá của cây anh đào, nhưng nó không khỏi khiến Mila đột nhiên thấy một cơn ớn lạnh dọc theo sống lưng. Cô chầm chậm quay sang Sandra và bắt gặp đôi mắt to của con bé đang nhìn mình, hoàn toàn không ý thức được những điều mà nó sắp nói ra sẽ có sức nặng như thế nào.
– Không. – Sandra điềm tĩnh nói. – Hắn gọi tên kẻ đó là Frankie…
Nắng đang rực rỡ giữa một buổi chiều đẹp trời. Lũ chim hót trong đám cây cối, không khí đượm mùi thơm và phấn hoa. Thảm cỏ xanh rì đang mời mọc. Mila sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc này, khi mà cô khám phá ra giữa cô và Sandra có nhiều điểm chung hơn cô tưởng. Vậy mà chúng vẫn luôn ở đó, sờ sờ ngay trước mắt cô.
Gã chỉ chọn các bé gái, không chọn các bé trai.
Steve cũng thích bọn con gái.
Gã lựa chọn các gia đình.
Cô cũng giống như Sandra, là đứa con gái độc nhất trong nhà.
Gã cắt cánh tay trái của nạn nhân.
Cô đã bị gãy tay trái khi ngã xuống cầu thang nhà Steve.
Hai nạn nhân đầu tiên là chị em kết nghĩa.
Sandra và Debby. Cũng giống như cô và Graciela trước đây nhiều năm.
“Bọn giết người hàng loạt, qua hành động của chúng, muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện”, Goran đã từng nói như vậy.
Và câu chuyện ở đây chính là chuyện của cô.
Tất cả mọi chi tiết đều nhắc cô nhớ đến chuyện ngày xưa và buộc cô phải nhìn thẳng vào sự thật khủng khiếp.
“Đồ đệ cuối cùng của ông đã thất bại rồi: Vincent Clarisso đã không hoàn thành kế hoạch của ông, bởi vì bé gái số sáu vẫn còn sống… Điều đó có nghĩa là ông cũng đã thất bại”.
Thật ra không có gì là ngẫu nhiên cả. Chính đó mới là hồi kết thực sự mà Frankie sắp đặt.
Tất cả tấn tuồng này là để dành cho cô.
Một cú quặn trong bụng khiến cô phải ngửa người ra sau. Mila cụp mắt xuống nhìn bụng mình. Cô cố không tự đặt câu hỏi liệu điều này có nằm trong kế hoạch của Frankie hay không.
Chúa trời im lặng, cô thầm nghĩ. Quỷ dữ thì thầm…
Thật ra, nắng vẫn tiếp tục rực rỡ trong buổi chiều đẹp trời. Lũ chim vẫn hót không mệt mỏi trong đám cây cối, và không khí vẫn nồng đượm mùi thơm cùng với phấn hoa. Thảm cỏ xanh rì vẫn luôn mời gọi.
Quanh cô, ở khắp mọi nơi, vạn vật có cùng một thông điệp.
Rằng tất cả đều giống như trước.
Tất cả.
Kể cả Frankie.
Kẻ đã quay lại, để rồi lại biến mất một lần nữa trong bóng tối sâu thẳm mênh mông.
Lời tác giả
Văn học trinh thám bắt đầu nhắc tới “những kẻ nhắc tuồng” khi trào lưu của các giáo phái nổi lên, nhưng gặp nhiều khó khăn khi phải tìm một định nghĩa của “kẻ nhắc tuồng” khả dĩ chấp nhận được trong các phiên tòa, bởi rất khó có thể chứng minh cái gọi là “sự nhắc tuồng” ấy.
Khi không có mối liên hệ nhân quả giữa bị cáo và kẻ nhắc tuồng, chúng ta không thể hình dung ra loại tội ác nào mà kiểu tội phạm này có thể bị cáo buộc. “Xúi giục hành động phạm tội” thường không đủ mạnh để cấu thành tội trạng. Bởi lẽ trong trường hợp của những kẻ nhắc tuồng, sự việc không đơn giản chỉ là ra lệnh và tuân lệnh. Những tên tội phạm này sử dụng phương thức giao tiếp bằng tiềm thức, và không “nhồi” ý đồ phạm tội trong đầu thủ phạm, mà “khơi dậy” mặt tối vốn dĩ tồn tại trong mỗi chúng ta. Chính điều này dẫn thủ phạm đến việc gây ra một hay nhiều tội ác.
Vụ Offelbeck năm 1986 thường được nhắc tới như một trường hợp điển hình: một bà nội trợ đã nhận được hàng loạt cú điện thoại nặc danh để rồi một ngày nọ, bỗng dưng đầu độc cả gia đình mình bằng cách bỏ thuốc diệt chuột vào món súp.
Cần nói thêm là tác giả của những vụ án tàn bạo thường có khuynh hướng chia sẻ trách nhiệm với một giọng nói, một ảo ảnh, hoặc những nhân vật tưởng tượng. Do đó rất khó có thể kết luận được hành vi phạm tội chỉ là kết quả của bệnh lý tâm thần hay là tác phẩm của một kẻ nhắc tuồng.
Trong số các nguồn tư liệu được sử dụng trong tiểu thuyết này, ngoài các sách giáo khoa về tội phạm học, về môn giám định tâm thần và các văn bản pháp y, tôi còn dẫn ra một số vụ điều tra của FBI, tổ chức đã có công tập hợp một kho dữ liệu đáng giá về những kẻ giết người hàng loạt và phạm tội ác nghiêm trọng.
Nhiều vụ trong số những tội ác được nêu trong truyện đã thực sự xảy ra ngoài đời. Tên và địa điểm của chúng đã được thay đổi vì đa phần các cuộc điều tra vẫn chưa kết thúc và việc xét xử còn chưa diễn ra.
Các biện pháp điều tra và giám định mô tả trong tiểu thuyết này là hoàn toàn có thật, dù trong một số trường hợp, tôi đã biến đổi chúng cho phù hợp với yêu cầu nội dung của câu chuyện.
Lời cảm ơn
Nhiều người nghĩ rằng viết lách là một cuộc phiêu lưu cô độc. Thật ra có rất nhiều người đã đóng góp vào sự ra đời của một câu chuyện, dù họ không nhận ra. Họ là những người đã nuôi ý tưởng, hỗ trợ và khuyến khích tôi trong suốt những tháng thai nghén nên cuốn tiểu thuyết này và là một phần cuộc đời của tôi, bằng cách này hay cách khác.
Với hy vọng họ sẽ ở bên cạnh tôi trong cả một tương lai dài phía trước, tôi muốn gửi lời cảm ơn tới họ.
Cảm ơn Luigi và Daniela Bernabò vì thời gian và sự tận tâm mà họ đã dành cho câu chuyện này cũng như tác giả của nó. Vì những lời khuyên đáng giá đã cho phép tôi trưởng thành hơn trong tư cách một nhà văn, giúp tôi định hình phong cách và tính hiệu quả của những trang viết này. Và vì đã đặt cả trái tim họ vào đó. Nếu bạn đọc được những dòng chữ này, thì phần lớn là nhờ ở công lao của họ. Xin cám ơn, cám ơn rất nhiều.
Cảm ơn Stefano và Cristina Mauri, những người đã đầu tư tên tuổi vào tôi và tin tưởng vào điều đó cho đến tận cùng.
Cảm ơn Fabrizio, “người nhắc tuồng” của tôi, vì những lời khuyên tàn nhẫn của anh, vì thái độ cứng rắn đầy tử tế của anh, vì tình yêu anh dành cho từng trang viết, từng câu chữ của tôi.
Cảm ơn Ottavio, người bạn mà ai cũng muốn có bên cạnh mình suốt đời. Cảm ơn Valentina, một người thật sự đặc biệt. Cảm ơn hai bé Clara và Gaia vì sự yêu thương chúng đã dành cho tôi.
Cảm ơn Gianmauro và Michela, với hy vọng tôi được ở bên họ những khi thực sự cần. Và cảm ơn Claudia, nguồn sáng của tôi.
Cảm ơn Massimo và Roberta vì sự ủng hộ và tình bạn chân thành của họ.
Cảm ơn Michele. Người bạn đầu tiên và thân thiết nhất của tôi. Cần phải nói là anh luôn có mặt mỗi khi tôi cần. Và anh biết tôi cũng sẽ luôn ở đó.
Cảm ơn Luisa, vì nụ cười dễ tiêm nhiễm và những bài hát vang mãi trong xe hơi trên những phố phường Roma.
Cảm ơn Daria và định mệnh cô đã dành cho tôi. Vì cách cô nhìn nhận thế giới và khiến tôi nhìn nó qua đôi mắt cô.
Cảm ơn Maria De Bellis, người đã canh chừng cho những giấc mơ trẻ con của tôi. Việc tôi trở thành nhà văn cũng là nhờ ở bà.
Cảm ơn Uski, “cộng sự” có một không hai của tôi.
Cảm ơn Alfredo, bạn đồng hành sôi nổi trong hàng ngàn chuyến phiêu lưu.
Cảm ơn Achille, người không có ở đó… nhưng luôn hiện diện.
Cảm ơn Pietro Valsecchi và Camilla Nesbit, và toàn bộ hãng phim Taodue.
Cảm ơn mọi người ở Bernabò Agency, những người đã dõi theo từng bước phát triển của cuốn tiểu thuyết này. Cùng với những người bạn đã đọc câu chuyện này ngay từ ban đầu và giúp tôi hoàn thiện nó qua những đóng góp xác đáng.
Cảm ơn gia đình lớn của tôi. Những người đã, đang và sẽ góp mặt vào đó.
Cảm ơn Vito, em trai tôi. Người đầu tiên được đọc câu chuyện này, và nhiều câu chuyện khác, sẽ luôn là như thế. Ngay cả khi bạn không thể nghe thấy, âm nhạc trong những trang viết này thuộc về cậu ấy. Và cảm ơn Barbara, người đã làm cho cậu ấy hạnh phúc.
Cảm ơn bố mẹ tôi. Vì những điều họ đã dạy dỗ tôi và những gì họ để cho tôi tự tìm hiểu. Vì con người hiện tại và trong tương lai của tôi.
Cảm ơn em gái tôi, Chiara. Người luôn tin vào các giấc mơ của cô ấy và của tôi. Không có cô ấy, cuộc sống của tôi sẽ trống trải kinh khủng.
Cảm ơn tất cả những ai đã đọc đến hết những trang sách này. Với hy vọng là tôi đã mang lại cảm xúc cho các bạn.
Donato CARRISI
* * *
[1] Cytofix: tên thương mại của một loại hóa chất dùng để tạo ra các lỗ thấm trên màng tế bào, cho phép thuốc nhuộm vào được bên trong tế bào.
[2] Một loại bệnh lệch lạc tình dục, đàn ông mắc bệnh này thích quan hệ tình dục với trẻ nhỏ chưa hoặc mới dậy thì.
[3] Tiếng Ý trong nguyên bản.
[4] Tiếng Pháp: Chúc ngon miệng.
[5] Thành phần cấu tạo của hồng cầu.
[6] Sự liên tưởng.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!