Lửa Hận Rừng Xanh - Chương 28: Phần kết
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
142


Lửa Hận Rừng Xanh


Chương 28: Phần kết


Trần, Đèo, Cầm, Bạc…

Mấy cuộc tang thương…

Hận tình muôn thủa…

Ngay sau lúc chia tay Võ Minh
Thần, Giao Long Nư vọt qua bức tường thành, ra khu sảnh tiền. Cả khu này đang hỗn loạn kinh hoàng. Bỗng nghe sau trận lửa cháy bừng bừng, rồi
thấy bọn Dạ Xoa mập dẫn chó sói chạy ngược xuôi tất tả, cả đám quái
khách tứ chiếng biết ngay Ma Vương Sắc đã đại bại, lập tức nhất hô bá
ứng, lũ quái khách trở mặt nổi dậy đánh cướp A Phòng, đoạt mỹ nhân, vàng bạc. Nhưng trong A Phòng chỗ nào cũng Dạ Xoa, chó sói canh phòng. Cuộc
hỗn chiến nổ bùng, lửa cháy ngụt, người hét, sói tru, náo động khu tiền
sảnh.

Đang kịch chiến, bỗng thấy Giao Long Nữ xông ra, từ lũ
quái khách đến Dạ Xoa đều tưởng người máu này vào phá trận, lập tức cả
hai phe hò hét nhảy sổ lại bao vây quên ca hiểm nguy ghê gớm!

– Thằng này có bộ vòng càn khôn Bành Tổ! Hãy ngăn nó lại, sau sẽ chia vòng!

Giao Long Nữ đang sốt ruột đi kiếm Tây Kiều, vùng hét lên một tiếng, vận khí ngũ hành, phóng thốc vào kẻ địch. Chỉ nháy mắt, cả đám đã bị đánh tan,
đứa chết đứa bỏ chạy tán loạn, cả bầy Dạ Xoa chó sói cũng dạt hết.

Giao Long Nữ không buồn đuổi cứ lao thẳng đến khu cửa hầm theo lời Thần dặn. Nhờ thông minh, thoắt nàng đã tới nóc ngôi nhà sọ. Bốn bề im lặng thẳm
sâu, Giao Long Nữ đứng trên nóc nhà quan sát mấy khắc nhìn sang bên kia
hồ nước phẳng lặng như tờ lẩm bẩm:

– Cứ như lời Võ huynh dặn bên kia bờ hồ là biệt cung “Tây Kiều Nương Nương”! Ta cứ vào cung, rồi sẽ liệu.

Như con én bay, nàng quăng mình xuống ngọn tường đền tả, hạ xuống dãy hành
lang dọc hồ nước. Vừa toan tiếng thẳng bỗng nghe tiếng người quát tháo
xế sau, cô gái quay mình lại.

Ngôi nhà đá sừng sững nằm dưới
vùng ánh sáng vàng úa hình sọ người nham nhở hết sức quái gở. Tiếng quát tháo từ trong hắt ra, lẫn tiếng người trong ngục sọ cười rú lên, giữa
tiếng phá phách ầm ầm, rồi một hình người cổ quái hiện mờ mờ tít trong
cửa song sắt.

– Hà ha! Hơn hai mươi năm trong ngục lạnh đêm nay
ta được thấy Chúa Sài lang hết thời, ngục lạnh không phá nổi nhưng ta
biết A Phòng sắp sụp rồi. Tây Kiều! Tây Kiều đâu? Đi đâu hết? Sao cái
cung này im như trong quan tài? Ha ha! No nhốt ta trong quan tài!

Tiếng người hét ra như cười khóc trong cơn mê sảng, làm Giao Long Nữ giật mình sực nghĩ:

– Đúng người bị nhốt trong ngục sọ kia rồi, cha ta… có lẽ cha ta? Như
mũi tên, Giao Long Nữ rún mình nhảy vọt qua xế hồ, đậu sịch trước thềm
cửa ghé mắt nhìn vào. Tít trong hình người đứng mờ mờ sau lần kính đầy
râu tóc bù xù. Nghĩ giây khắc, Giao Long Nữ lập tức vận thêm khí ngũ
hành, chụp tay vào chấn song giật mạnh. Chấn song cong veo gãy liền. Một bức tường bằng thủy tinh dầy hàng thước chắn kín khung cửa, dùng sức
cương khí Giao Long Nữ vung tay đấm vào tường kính, lao thốc mình vào.
Tường kính cực rắn phát ra một tiếng “rầm rắc rắc” vỡ luôn làm mấy mảng. Xô cái thứ hai, cả bức tường nứt bung, đổ sụp, vỡ làm trăm mảnh. Gạt
lia chân, Giao Long Nữ vọt vào. Bóng huyết khí cao lớn xô bắn thủy tinh
sịch hiện lù lù làm hình người đứng trong giật mình, lùi phắt lại,
tưởng hình huyết khí Ma Vương.

– Chúa Sài lang tứ túc? Mi… mi vào giết ta? Ha ha! Ta đợi đây hơn hai mươi năm trong ngục sọ, chán lắm rồi!

Hình người kêu tiếng Kinh, lẫn Thổ, Giao Long Nữ ngó sững. Đó là một người
đàn ông râu ria tóc tai bù xù, cởi trần trùng trục, chỉ khoác một mảnh
vải ngang bụng như mặc xà rông. Đời sống nhiều năm trong ngục lạnh đổ
xuống người ông ta, còn lưu lại trên mình đầy dấu vết tang thương những
vết sẹo cực hình khảo đả nổi bóng lọng, nhác trông tưởng đã bảy tám mươi dòm kỹ mới hay chưa đến ngũ tuần.

– Không phải là Sài lang Tây Sắc! Con… con đi tìm vợ chồng Bạc công chúa năm xưa bị Giao Long bắt trên Hồ Ba Bể!

Giao Long Nữ tiến vào, sức nóng lạnh kỳ dị làm người trong ngục lật đật lùi lại, kêu:

– Ai, ai lại có vầng huyết khí? Ai nhắc Bạc công chúa! Hồi hộp Giao Long Nữ run giọng:

– Con là đứa bé đẻ rơi ngày xưa trong quán nước gần Hồ Ba Bể đây! Phải
ông cũng bị Giao Long bat ngày đó, ngày tới hồ gặp mưa to gió lớn…
Phải “ông Trần”?

Người trong ngục kêu rú lên:

– Trời!
Gái nhỏ đẻ rơi năm nào còn sống đây sao! Ta… ta chính người họ Trần bị bắt cùng Bạc công chúa năm xưa đây… Nhưng nếu phải sao không đưa di
vật?

– Trời ơi cha! Cha ơi! Cha khổ đến thế này sao? Loài quái
vật nó hành hạ cha… thế này? Con chính là đứa con đẻ rơi năm xưa đã
học được bí pháp Bành Tổ đi tìm cha mẹ đây.

Giao Long Nữ vùng
thu vang huyết khí, hiện ra hình cô gái mặc quần áo đen tuyền, đẹp uy
nghi trong vùng ánh sáng úa vàng. Nàng vén tay áo chìa vòng xanh điểm
huyết nhào vào ôm choàng lấy “tù nhân”. Người tù ngục sọ cũng ôm lấy
nàng nước mắt chảy ròng ghé sát dòm mặt:

– Ôi! Hơn hai mươi năm đằng đằng, không ngờ gái nhỏ còn sống trên đời…

Xoảng! Chạm dây xích. Giao Long Nữ ngó xuống chợt để ý chân tay ông đều bị
xiềng chặt bằng những sợi lòi tói to bằng bắp chân. Chụp xiềng xông
huyết khí ngũ hành nung Giao Long Nữ rút búa bên mình chém đứt phăng lòi tói, quăng một xó.

– Cha ơi! Mẹ con đâu?

– Mẹ con, Bạc công chúa chính Tây Kiều Nương Nương ở cung bên hồ kia! Mẹ con cũng mơi vào đây…

Nước mắt chan hòa, Giao Long Nữ ôm người tù ngục lạnh hỏi thăm vài câu đoạn giục:

– Cha mau theo con ra khỏi ngục ma này tìm Tây Sắc Ma Vương báo oán!

Nó hành hạ cha hai mươi năm nay, nó sẽ phải đền tội!

Nghe lời nàng, chợt “ông Trần” đẩy nhẹ nàng ra, nói lớn:

– Hơn hai mươi năm khổ nhục, được thấy con còn sống là ta mừng rồi! Giờ chưa phải lúc nhận cha, hãy kíp đi kiếm mẹ!

– Dạ! Cha mau theo con! Giao Long Nữ nắm tay “ông Tran” dìu ra ngoài. Hai người vọt ra. Ông Trần đi trước, lần tới đầu hành lang. Bỗng nghe náo
động phía biệt cung, sơn cẩu tru hộc, trông vào, thấy một lũ quái khách khác hùng hổ xông vào đánh đàn sói, cầm đầu là Hấp Huyết Quỷ Nương, Bắc Tiếu Sát Tinh, bọn này đánh dạt đàn sói xẹt tới cửa cung làm lũ gái
hầu chạy túa. Bỗng thấy Bạc Khao Lan nhảy ra, chặn địch, Giao Long Nữ
băng mình vào hét:

– Mấy đứa khốn khiếp này! Sao dám vào làm
loạn cung sâu! Chị Lan để chúng đấy! Kình khí quật ầm ầm, lũ Bắc Tiếu
Hấp Huyết Quỷ Nương thất kinh bỏ chạy để lại mấy cái xác, chó sói táp
liền.

Đang cơn sôi máu hận, Giao Long Nữ còn vọt tới trước thềm, đánh bồi thêm một nhát kình khí nữa, làm hai, ba tên trúng đòn cháy
thui, cà kheo xương gãy mất đoạn, Quỷ Nương ngã bắn tung như trái cầu,
lăn vào cửa hầm, suýt nát thây.

Bạc Khao Lan đứng trên thềm, gọi lớn, Giao Long Nữ mới dừng tay, xoay mình lại. Khao Lan reo lớn:

– Phải chị Giao Long Nữ đấy không? Trời! Em đang mong chị, không ngờ lại
gặp đây. Ai kia? Người tù họ Trần cũng vừa chạy tới, Giao Long Nữ trỏ,
nói nhanh:

– Cha em đây! Em vừa pha ngục sọ, cứu “người” ra!

Bạc Khao Lan cúi chào, hú truyền bầy sơn cẩu dạt ra, xoay mình hướng vào nhà, gọi lảnh:

– Phu nhân! Phu nhân! Chị gái vòng xanh đã tới! Lũ ma nhân quái khách bỏ
chạy hết rồi! Phu nhân chớ ngại! Có tiếng thánh thót vẳng đưa ra, Khao
Lan, Giao Long Nữ, người họ Trần cùng chạy vào cửa cánh.

Khao
Lan vừa lao vào giữa phòng đã gặp mấy cô gái hầu xiêm y đen dáo dác chạy ra, tránh dạt sang bên. Có tiếng xà tích, nhạc vàng khua thoảng dừng
vội sau bọn gái hầu. Giao Long Nữ đứng khựng giữa khung cửa, xế sau
“người họ Trần” dừng ngay đầu bậc thềm trên. Ánh sáng lung linh. Ai nấy
dòm vào đã thấy Tây Kiều Nương Nương đứng xế bên khung cửa thông buồng
trong, mắt phượng mở to nhìn ra đầy vẻ sững sờ kêu:

-Gái vòng
xanh… người bao vầng huyết khí? Trời! Cả “ông Trần” nữa!Sao… sao
“ông” lại ra được đây? Không sợ Ma Vương chủ A Phòng nổi giận? Ma Vương
mới về…

Giao Long Nữ tiến vào một bước, đứng sừng sững, cao
lớn dị thường, sức nóng lạnh tiết ra hừng hực, làm bọn gái hầu lùi thêm. Người tù ngục sọ tiến vào, đứng ngay khung cửa, run giọng cảm động phi
thường:

-Gái vòng xanh phá ngục cứu tôi ra! Gái năm xưa… bà đẻ rơi trong quánnước chiều mưa gió gần Hồ Ba Bể!

Giao Long Nữ run lời vang âm:

– Ma Vương Sắc Chúa Sài lang đã bị Võ Minh Thần đánh bại. Mấy cửa trận
dữ, cung ma đã bị phá tan. Ma Vương đã đào tẩu về phía cung Mê, Minh
Thần rượt theo! Nó hết thời rồi, xin bà nàng chớ sợ!

Dứt lời, Giao Long Nữ lại bước vào thêm, Tây Kiều bỗng rung động toàn thân, lắp bắp:

– Gái đẻ rơi chiều mưa gió. Còn sống thực sao? Nếu đúng gái đẻ rơi, ta còn nhớ dấu vết…

Lời vừa dứt, vầng huyết khí bao quanh người Giao Long Nữ đã thu biến, dưới
ánh sáp, hiện ra một cô gái mặc quần áo đen, búi tóc, đỉnh đầu giắt cờ,
búa, dao gươm, súng mười phần đẹp, oai phong, khuôn mặt tắm nét sầu thân thế, coi càng tuyệt sắc!

Ai nấy đứng im, Giao Long Nữ, Tây Kiều bốn mắt nhìn nhau lạ thay huyết mạch thâm tình, vừa thấy rõ mặt nhau,
cả hai cùng dột lòng xúc động lạ thường như linh cảm ngay “có sợi dây
thiêng liêng vô hình ràng buộc lấy nhau”. Không sao cắt nghĩa nổi! Lặng
đi mươi khắc Giao Long Nữ mới lắp bắp:

– Đúng “Bạc công chúa” mẹ ta rồi! Hơn hai mươi năm đằng đẵng chồng chất tang thương, vẫn còn nguyên vẻ buồn xưa.

Tây Kiều cũng lẩm bẩm:

– Thương Kiều! Giọt máu đẻ rơi xưa ta chỉ được bồng giây lát, nhưng…
giữa ngực có một nốt ruồi đỏ bằng hạt vừng, một cái vòng điểm huyết, một sợi dây chuyền, nửa đồng tiền vàng, mảnh thổ cẩm làm tã!

Không
nói Giao Long Nữ rón rén bước vào chỗ cửa thông, giơ cổ tay đeo vòng,
kéo sợi chuyền đeo cổ, và mở banh ngực áo giật soạt ra một mảnh thổ cẩm
quấn mình run giọng:

– Mảnh vải này làm tã lót thay quần ao, còn dính máu đẻ thường quấn người con…

Ánh sáp vật vờ soi khuôn ngực trắng như ngà giữa rãnh bồng đảo hiện rõ một mụn nốt ruồi nhỏ màu hồng bằng hạt vừng.

– Thương Kiều! Trời ơi! Đúng con gái tôi đẻ rơi trên vùng Hồ Ba Bể rồi!
Con ơi! Con… hơn hai mươi năm nay, mẹ ngậm hờn, còn sống nổi đến giờ
là còn mong có ngày gặp lại mặt con.

Như tên bắn, Giao Long Nữ
nhào thốc vào vòng tay bà nàng Tây Kiều ôm chầm lấy người đàn bà bất
hạnh khóc òa lên như đứa con nít.

– Mẹ… mẹ ơi! Từ này được
biết cha mẹ bị Giao Long quái vật bắt đem đi không lúc nào con không
nghĩ đến mẹ cha. Hai mươi năm trời đằng đẵng, mẹ cha khổ biết chừng nào
dưới vuốt quái vật.

Hai người ôm chặt lấy nhau nước mat đầm đìa. Bà Tây Kiều vừa lay vừa nắn bóp khắp người Giao Long Nữ, hai mẹ con hôn nhau như mưa, hít từng hơi thở, uống từng giọt lệ tái ngộ. Bạc Khao
Lan, người họ Trần cùng bọn thị tỳ đứng ngoài, ai nấy cảm động khóc
rong.

Mấy gian phòng im lặng chỉ còn nghe tiếng nấc nghẹn, hai
mẹ con Tây Kiều cứ ôm nhau mãi, mọi người cùng đứng yên kính trọng phút
giây tái ngộ thiêng liêng nhất đời. Bạc công chúa xứ Thái đen nói qua
màn lệ:

– Thương Kiều con ơi! Hơn hai mươi năm nay không ngày
nào mẹ không ngồi nhớ con, tưởng tượng từng nét mặt con khi khôn lớn.
Giờ gặp mặt con mới biết khác xa như khi mẹ tưởng tượng. Ôi! Lòng trời
còn tựa, con mẹ trưởng thành, đã đep lại tài, mẹ chịu tủi nhục mấy chục
năm, giờ được gặp con có thác cũng vui rồi!

Nhớ tới cảnh cha bị xiềng trong ngục lạnh hơn hai mươi năm, mẹ bị quái vật cưỡng hôn, Giao Long Nữ vùng bảo:

– Mẹ đừng buồn nữa! Con sẽ giết Giao Long báo thù cha mẹ! Nó đang lẩn trong cung A Phòng này!

Tự nhiên Tây Kiều ôm con kêu lên:

– Thôi thôi con ạ! Oán thù nên cởi không nên buộc! Đừng nghĩ đến quái vật nữa! Gặp con là mẹ mừng rồi! Thương Kiều! Con nghe lời mẹ nhé! Quên thù xưa đi!

Ngạc nhiên, Giao Long Nữ kêu lên:

– Kìa mẹ! Sao mẹ lại nói thế? Hơn hai mươi năm nay nó hành hạ mẹ cha, nhốt chồng
trong ngục, bức hôn vợ, khiến con lìa cha mẹ bơ vơ, thù này có băm vằm
nó ra cũng chưa bù lại các nỗi khổ nhục nó bắt mẹ và cha con chịu, quên
thế nào được? Mà Thương Kiều phải tên con?

Tây Kiều gật đầu:

– Tên con đặt sau ngày đẻ rơi con tại Hồ Ba Bể! Con dốc lòng luyện tập,
nuôi chí báo cừu, lòng hiếu đó quỷ thần chứng giám, nhưng… nhưng thế
đủ rồi con, đừng nghĩ trả thù nữa! Mẹ không muốn con trả thù!

Quá kinh ngạc, Giao Long Nữ buông mẹ, vẫn nắm cổ tay bà, mở to mắt nhìn không chớp, kêu:

– Kìa mẹ! Hai mươi năm khổ nhục, mẹ không thù nó sao? Mẹ bị bức hôn, phải lấy quái vật. Cha bị nhốt trong ngục lạnh… căm thù không thấu tủy
xương?

Buồn cực độ, Tây Kiều ứa lệ, thở dài:

– Con ơi
tủi nhục này còn tủi nào hơn? Nhưng… nhưng mẹ biết thù ai bâygiờ, nếu
không chỉ biết buồn cho số mạng? Con ơi chẳng qua số mạng? Con ơi chẳng
qua số mạng chẳng ra gì!

Sửng sốt, Giao Long Nữ kêu lên:

– Kìa mẹ nói con không hiểu gì cả! Giao Long bắt mẹ, là kẻ đại thù còn
sao nữa! Anh Võ Minh Thần, có cha mẹ bị Ma Vương Sắc hấp sát anh quyết
giết Tây Sắc, con quyết giết Giao Long báo đại thù phụ thân! Chúng con
khổ luyện phép càn khôn Bành Tổ, chỉ cốt báo thù!

Tây Kiều chợt biến sắc hỏi:

– Thần nào có cha mẹ bị Tây Sắc hấp sát? Giao Long Nữ đáp liền:

– Dạ Võ Minh Thần, xưa mẹ anh bà nàng Thái trắng bị Tây Sắc rượt tận biên thùy Trung Khánh phủ, rồi bị hấp sát tại gốc tùng bên suối. Lúc đó anh
may được người cứu thoát, lớn lên, quyết tìm thù báo oán. Ba năm trước,
anh đã xuống A Phòng cung, suýt bị chết, vừa rồi đã móc thủng vầng huyết khí Ma Vương, chém nó loài cổ! Ma Vương thường gọi “thằng mặt sắt” vì
bao giờ lâm chiến anh cũng đội mũ trụ mặc giáp Chúa Thập Vạn Đại Sơn
tặng! Có khi giờ này, anh đã mổ bụng Tây Sắc rồi!

Tây Kiều tái mặt hẳn, la lớn:

– Trời, thì ra “người máu” kia là con nít vòng xanh, con chị Cầm Phi
Phụng! Trời! Oan nghiệt! Chồng giết vợ, con giết cha, một nhà oan
nghiệt! Con ơi! Làm thế nào bây giờ!

Kinh ngạc, Giao Long Nữ ôm mẹ hỏi:

– Mẹ… sao mẹ xanh xám mặt mày thế? Có chuyện gì thế, mẹ? Tây Kiều rên rỉ:

– Con ơi! Vì Tây Sắc Ma Vương chính là Đèo Văn Lang, cha ruột con nít vòng xanh Võ Minh Thần!

Như bị sét đánh, cả Giao Long Nữ, Bạc Khao Lan đều giật bắn người la lên kinh dị:

– Trời! Ma Vương Chúa Sài lang là cha ruột anh Thần? Con mê hay tỉnh thế
này. Con người cha sói là thế nào? Mà sao mẹ cũng có vòng xanh đeo cho
con?

Tây Kiều khóc òa như con trẻ:

– Vì… vì hai cái vòng đều của Tây Sắc, kẻ đeo vòng đều là con ruột Ma Vương! Con cũng là con Ma Vương!

– Trời! Mẹ nói sao? Con… con là con Tây Sắc Ma Vương Hồng Cẩu Quẩy? Nước mắt dòng dòng, Tây Kiều gật đầu.

– Còn Giao Long Chúa… con thuồng luồng tinh xưng Thủy Thần hồ Ba Bể bắt mẹ cha chiều xưa trên hồ?

Trầm lời, Tây Kiều bảo:

– Giao Long Chúa, Tây Sắc Ma Vương chỉ là một! Giao Long chỉ là quáivật
Tây Sắc đội lốt. Muốn cho thiên hạ tin có Giao Long Chúa, Ma Vương còn
tạo ra một Giao Long Chúa khác để có lúc đối đầu với Ma Vương trước mặt
chúng nhân!

Bạc Khao Lan bật kêu:

– Trời! Trách nào đòn huyết khí đánh ra giống hệt nhau! Kỳ lạ! Kỳ lạ!

Không tưởng tượng nổi! Giao Long Nữ lảo đảo, Khao Lan phải đỡ ngang lưng.

– Còn mẹ… mẹ đẻ ra con trước ngày bị bắt?

Ôm mặt nấc lên, bà Tây Kiều nghẹn ngào:

– Con ơi! Thảm cảnh này sao con biết được? Mà ai biết? Mẹ đã tưởng sống
để dạ chết mang đi, cho con khỏi khổ, nhưng chẳng qua số mạng đã đành!
Mẹ chính là vợ Ma Vương Tây Sắc, khi người còn là tù trưởng Đèo Văn
Lang!

Giao Long Nữ cũng khóc.

– Là vợ sao mẹ lại bỏ đi đến nỗi ra cớ sự. Nấc lên bà công chúa Thái đen run giọng:

– Chuyện này thê thảm lắm con ơi! Mẹ lấy cha con đã được hơn hai mươi năm, cũng như bà Cầm Phi Phụng…

– Bà ta phải là mẹ của Võ Minh Thần?

– Bà là mẹ ruột con nít vòng xanh “mặt sắt” Võ Minh Thần! Tên thực nó là
Đèo Văn Dũng, bà Cầm trốn trước rồi mẹ cũng phải trốn sau… chỉ vì…
cha con lúc đó. Con! Mẹ đau lòng xót xa đừng bắt mẹ nhắc vội! Cứ nhắc
đến cái chết của bà Cầm, mẹ không còn thiết sống nữa!

Bà gục vào mép cửa nức nở, Giao Long Nữ khổ sở kêu:

– Ma Vương là cha con, thế còn cha họ Trần đây, người đã bị Ma Vương hành hạ nhốt trong ngục lạnh để mẹ phải suốt đời tủi hờn mà sống?

Tây Kiều chưa kịp đáp “người tù ngục sọ” đã bước vào gần nói luôn, giọng khổ sở vô cùng:

– Kẻ già khốn khổ không phải cha cháu. Nay chuyện đã vỡ ra, kẻ già này
cũng đành tỏ thật. Già này không phải chồng Bạc công chúa mẹ cháu đâu!
Chỉ vì xót cảnh khổ bơ vơ của mẹ cháu lúc bụng mang dạ chửa, kẻ già này
mới liều thân đem mẹ cháu đi trốn, phải nhận làm vợ chồng, che mắt thế
gian, giữa lúc mẹ cháu bị lũ quái nhân rượt bắt cướp người cướp vòng
quý!

Giao Long Nữ lẩm bẩm:

– Minh Thần là con Ma Vương,
chàng là anh ruột cùng cha khác mẹ…? Trời! Cõi thế gian này chỉ có
nghịch cảnh xót xa? Anh ruột! Anh ruột! Trời!

Mấy tiếng cuối,
nàng kêu rú lên khủng khiếp. Chừng quá xúc động về mối tình oan trái,
yêu phải đúng anh ruột, cô gái tái mặt, hộc ra một búng máu, ngã vật
xuống bất thần làm Khao Lan không đỡ kịp!

Tây Kiều, Khao Lan, ông ho Trần, gái hầu thất kinh nhào tới ôm sốc Giao Long Nữ lay gọi. Tây Kiều khóc òa:

– Cô nương! Sao em nó lại thế này? Nó khổ vì biết là con Chúa sài lang?

Không kịp nghĩ, Bạc Khao Lan thương cô bạn gái, nước mắt ứa giòng, đáp như máy:

– Dạ có lẽ chị quá cảm xúc vì thấy hai đời liền đều gặp trái duyên, mẹ đã một đời khổ sở đến con, lại còn khổ hơn! Tội nghiệp, cũng cảnh mồ côi,
mẹ cha bị nạn quái, gặp nhau nên tương ứng tương cầu, chị ấy đã yêu lầm
phải anh Thần còn đâu!

Vừa nói tới đó, nàng nữ chúa Pi A Ya vùng kêu “trời” lấy tay che miệng vì bà Tây Kiều đã rú lên thê thảm, trợn
mắt ngã vật xuống, chết ngất liền.

Mọi người thất sắc xúm cả vào lay gọi. Bạc Khao Lan phải cho uống linh đơn, dùng thủ thuật đả thông
kinh mạch cho tiêu uất khí. Hai phút sau, người mới tỉnh. Nhưng hai mẹ
con đều khóc như mưa.

Bạc Khao Lan sực nhớ ra, vùng kêu:

– Chuyện gấp lắm rồi! Chậm, Minh Thần có thể giết chết Ma Vương! Bạc Tây Kiều giật mình nắm tay Giao Long Nữ:

– Trời! Con ơi! Làm sao bây giờ? Để con giết cha, nạn ấy nó sao sống nổi trên đời?

Tạm nén buồn đau, Giao Long Nữ vòng kéo Tây Kiều:

– Mẹ dẫn chúng con đi ngay… không muộn mất! Đây có lối tắt?

– Có! Vào cả đây! Cả bọn chạy vào trong. Tây Kiều mở nắp hầm, soi sáp dẫn cả bọn lao xuống, sơn cẩu ùa theo như rươi! Đường hầm quanh co lên
xuống, đang chạy nghe trốc đầu có nhiều tiếng động ầm am, biết trên kia
đang có cuộc huyết chiến. Nhưng không có ai lưu ý. Thoáng đã tới cửa
đàng kia. Giao Long Nữ đi trước trổ tầng nắp vọt lên. Mới hay đang đứng
ngay góc Bảo Tàng Viện Hấp Sinh, còn đang ngơ ngác sịch thấy, Than Nữ xứ Phù Dung cùng Pạc Hoọc Đại Vương Thoong Mềnh bắn mình qua cửa đến, hai bên dừng vội.

Thần Nữ reo to:

– Ô! Hay quá! Đây rồi! Cả “ông Trần” nữa! Mọi người đang đợi, Chúa

Thập Vạn Đại Sơn bảo chúng tôi tới!

Khao Lan hỏi:

– Ai trong đó? Xảy chuyện gì chưa?

– Đền thờ bà Cầm Phi Phụng! Đủ cả! Xin vào! Nhưng phải nhảy qua lối này,
để chó sói ngoài! Giao Long Nữ dắt Tây Kiều nhảy trước. Cả đám phóng
thẳng vào đền, và khựng lại trước cảnh im lặng thẳm sâu, đầy lệ thảm!

Trên bệ cao, Võ Minh Thần gục mặt vào mép bàn thờ bà nàng Cầm Phi Phụng cạnh có Quản Kình, gói di hài đã tháo đặt trước bài vị. Bên cột tả đền, Ma
Vương Sắc nấp bóng gục mặt rũ rượi như đã kiệt hết sinh lực, xế trong
chút Đèo Nguyệt Kiều gục mặt vào vách đền.

Phía ngoài thềm bậc
đá, vị Chúa Thập Vạn Đại Sơn đứng xoay lưng ra đối diện. Woong Lầu đứng
ngoảnh mặt ra ngoài, tay bưng thau máu đào xế bên cột hữu. Đông Âm Bá
Diện Khan Sao Linh đứng ngó sững mọi người, có lẽ lúc đó nàng ta mới
chợt hiểu là cảnh xót xa bất đắc chí của mình không còn có nghĩa gì nữa
trước cảnh nghịch tang thương oan khổ gớm ghê của gia đình Tây Sắc. Còn
từ cửa đền trở vào, Dạ Xoa, Cẩu Quẩy, thiết nhân đứng dọc bên vách như
phỗng!

Nghe động tất cả trông ra vẫn chưa rõ chuyện mẹ con Bạc công chúa, Minh Thần kêu lên:

– Kìa Giao Long Nữ hiền muội! Cả bà nàng Tây Kiều… Ồ! Lại cả ông Trần
nữa! Phải song thân em đấy không? Con quái Giao Long Chúa đâu?

Giao Long Nữ vừa đi vừa chạy vào, nhảy lên bệ, sổ lại chỗ Ma Vương đứng như
chực ôm chầm lấy, nhưng chợt lùi lại, kêu rú, sổ sang Minh Thần chực ôm, cũng rú, lùi lại ôm chầm lấy Tây Kiều vừa chạy theo lên.

Ma
Vương vừa hé mắt dòm thấy mẹ con Tây Kiều, “người tù họ Trần”, Ma Vương
vùng rống lên thống thiết, ôm lấy mặt chực bỏ chạy. Nhưng Chúa Thập Vạn
Đại Sơn đã giơ tay làm hiệu ngăn lại, ngoảnh sang phía Võ Minh Thần, cất tiếng chuông đồng dõng dạc bảo:

– Bạc công chúa Tây Kiều Nương
đệ nhị phu nhân của Tù trưởng Đèo Văn Lang, cha em sao em không làm lễ
ra mắt đi, Minh Thần Đèo Văn Dũng!

Võ giật mình giương mắt ngó
sững, lại nhìn xuống chỗ “ông Trần” nhưng chàng cũng vội cúi đầu chào
kính cẩn, Đại Sơn Vương lại tiếp:

– Đèo Nguyệt Kiều cũng do bà
sinh ra, sau ngày trên Hồ Ba Bể về cung APhòng! Còn Đèo Thương Kiều đây, gái đẻ rơi trên mặt Hồ Ba Bể là chị cùng cha mẹ với Nguyệt Kiều, và là
em cùng cha khác mẹ với hiền đệ đó!

Tay Đại Sơn Vương trỏ vào
Giao Long Nữ, Võ Minh Thần kêu rú “trời” kinh dị, mắt trợn trừng rồi im
bặt. Ai nấy cùng ngó sang bỗng thấy Thần từ từ đổ huỵch xuống như cây
chuối bị bắn gốc ngầm!

Mấy người la lên, chực sổ tới nhưng Đông Âm đã lẹ tay ôm xốc được ngang bụng, gọi lảnh:

– Minh Thần! Tỉnh lại… chàng!

Võ thở phào, mở mắt ngó quanh, đứng sổ người dậy, run giọng kêu bi thảm cực kỳ:

– Nguyệt Kiều là em, Thương Kiều cũng là em! Ta còn gì trên cõi thế gian đầy oan trái tang thương này!

Mọi người im lặng nhìn nhau, Võ vùng hỏi:

– Còn Giao Long Chúa xưng Thủy Thần Hồ Ba Bể từng huyết chiến với Ma

Vương?

Chúa Thập Vạn Đại Sơn trầm lời:

– Giao Long Chúa, Sài Lang Chúa chỉ là một. Ma Vương đã ngụy tạo ra một
thủy quái chúa dưới nước, thành hai quái vật, hai vụ án tuy hai nơi
nhưng… hỡi ôi! Xưa nay “họa vô đơn chí”, thảm kịch đè thảm kịch, cứ
thế chồng chất theo năm tháng, nguyên do cũng vì hai chiếc vòng xanh
điểm huyết! Hai chiếc vòng quý, một mưu vọng lớn lao! Chao ôi! Xưa nay
con người thông minh vượt bực, thà không có chí lớn còn hơn có chí lớn
mà nung chí sai lầm. “Chỉ tính nên công, bất cần nhân đức” đã gây nên
thảm họa cho người, còn tự buộc dây oan nghiệt vào mình không hay!

Giao Long Nữ vẫn ôm bà Tây Kiều khóc nức nở. Võ Minh Thần quay nhìn xuống chỗ “người tù ngục sọ” lẩm bẩm:

– Còn “ông Trần”? Chúa Thập Vạn cao giọng:

– “Ông Trần” chỉ là người ngoại cuộc, kẻ đã yêu Bạc công chúa từ khi còn
là “cô nàng Thái Đen” và đã phải âm thầm cam sống với mối tình tuyệt
vọng, khi vị tù trưởng Thái Đen gả công chúa cho tù trưởng Đèo Văn Lang
vì đã có lời hứa gả từ ngày còn trong bụng mẹ! Nhưng khi Bạc công chúa
kinh hồn chạy trốn, bơ vơ bụng mang da chửa, “ông Trần” đã hy sinh cứu
nạn, đem ẩn dưới hang ngầm Hồ Ba Bể, phải giả nhận vợ chồng để che mắt
thiên hạ và vì thế, “ông Trần” đã chịu tù đày hành hạ khổ sở suốt hơn
hai mươi năm trường trong ngục lạnh chỉ vì tam tình cao thượng đối với
người xưa!

Bàng hoàng, đau khổ, chàng tuổi trẻ vùng kêu thê thảm:

– Một nhà oan khổ, còn gì nữa đâu! Bao nhiêu năm nuôi chí báo cừu, kẻhấp
sát mẹ lại là cha ruột! Bao năm tháng tim đau hé mở, người yêu lại toàn
em ruột đồng huyết thống! Cõi thế gian này đầy nghịch cảnh trớ trêu, kẻ
khốn khổ này còn sống sao nổi với số mạng quá khắt khe nghiệt ngã thế
này?

Ai nấy đều lộ vẻ lo lắng nhìn mấy người họ Đèo, Thần Nữ,
Đông Âm, hai nàng họ Khan và Bạc Khao Lan tự nhiên ngó nhau, cúi đầu kín đáo thở dài. Bà Tây Kiều nhẹ vuốt lưng Giao Long Nữ, miệng hỏi nhỏ
nàng, mắt ngó cả về phía Nguyệt Kiều:

– Các con lầm… gặp nhau
đã có gì vượt xa chưa? Nấp sau cột, chừng Ma Vương cũng hiểu bà Tây Kiều nói gì. Ma Vương hé mắt lộ vẻ sợ hãi lạ thường, cả Nguyệt Kiều đứng
trong cũng hiểu ý, cô gái và

Giao Long Nữ cùng đỏ mặt lắc đầu mấy cái!

Vị Chúa Thập Vạn tinh ý cũng biết liền vùng cao giọng bảo:

– Xưa nay chuyện lầm lỡ là thường! Ta biết các em là người thanh cao
không có gì trầm trọng! Nay tình thương mến đó đổi ra tình huynh muội
càng tốt chứ sao?

Giọng nói của Đại Sơn Vương nghe đanh như thép và ấm như gió xuân làm gian đền vắng cũng đỡ đi nhiều lạnh lẽo tang
thương. Đông Âm Bá Diện buột miệng kêu thánh thót:

– Lạ thật!
Sau vụ Hồ Ba Bể, Chúa Sài lang tứ túc sao sinh được con người? Gái này
thật vẫn chưa hiểu hiện nay ông già họ Đèo là người hay chó sói? Trong
lốt Chúa Sài lang kia còn có gì không?

Đại Sơn Vương cao giọng:

– Chính thế! Chuyện bí ẩn thảm thê này, chắc nhiều người muốn biết! Nay
không thể nào giữ kín mãi, nhưng để người trong cuộc phải thốt ra, khổ
biết chừng nào! Bọn mỗ đây đã may mắn khám phá ra từng khúc phim dĩ vãng này để mỗ chấp nối, quay lại cho mọi người được rõ, để ai nấy được rõ!
Thoong, Woong à!

Gian đền thờ vụt chìm trong một thứ ánh sáng mơ hồ, huyền hoặc như mơ giữa cảnh đó chỉ thấy lờ mờ nhân ảnh, có mấy cặp
mắt sáng lên. Tiếng Chúa núi Vân Nam vang lên âm âm như mãi từ quá khứ
xa xưa “ám” về.

– Lâu lắm rồi! Hình như hồi đó nhà nước Đông
Dương mới đặt xong nền móng bảo hộ xứ này… Bốn phương coi như đã bình
định, nhưng ánh lửa sĩ phu vẫn còn cháy mãi, những cuộc nổi dậy chống
Pháp chưa dứt hẳn, lâu lâu, vẫn có vài tiếng súng nổ!

Trên miệt thượng nguồn Hà Giang có một vị tù trưởng lớn uy quyền trùm nửa xứ Thái Lai Châu.

Tù trưởng tiểu vương Đèo Văn Phục là người tài hoa, thông văn võ, thuộc
sắc tộc Thái trắng nhưng không lúc nào quên mình vẫn là người của dân
tộc Việt Nam, tâm hồn vẫn hướng theo sự thịnh suy bỉ thái của dân Nam.
Vì đã từ nhiều đời, các tù trưởng Thái trắng vẫn được các triều đại Việt phong quyền tự trị, tình giao hảo rất đậm đà, sâu sắc. Nên các tù
trưởng thường cho con cái về Kinh du học. Đến đời Đèo Văn Phục cũng thế, Văn Phục từ nhỏ đã hấp thụ văn hóa Thái Kinh, theo Nho học, chơi với
bạn người Kinh nhiều.

Khi người Pháp chiếm xong đất Nam, có đến
chiêu dụ các tù trưởng sơn cước và vẫn tôn trọng quyền tự trị như trước. Đèo Văn Phục nối chức cha làm tù trưởng, tuy bề ngoài quy phục nhà nước bảo hộ, bên trong vẫn giúp đỡ các nhà ái quốc Việt Nam. Nhưng lúc đó
vận nước suy vi, nhân tâm ly tán, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp chỉ như ánh sáng đèn dầu cạn, bùng lên rồi lại tắt ngấm.

Chiều kia, bộ
hạ Đèo Văn Phục đang cùng đám thê thiếp quân hầu bơi thuyền độc mộc trên sông Hắc, bỗng nghe súng nổ đì đùng nẻo hạ nguồn xa xa phía Đông ngạn.

Ngạc nhiên, Đèo Văn Phục bơi thuyền chầm chậm nghe ngóng. Chỉ mươi phút đã bặt tiếng súng.

Đèo thấy trời đã xế chiều bèn cho thuyền quay về. Bỗng nghe tiếng gọi ơi
ới, ai nấy nhìn lên Đông ngạn thấy một bóng cỡi ngựa bạch sốc một người
bị thương chi đó, đang vẫy gọi vẻ khẩn cấp hết sức.

Nhớ lại tiếng súng hồi nãy, Đèo Văn Phục vội truyền cho thuyền độc mộc vào bờ Đông.

Đến gần mới hay đó là một thiếu phụ Kinh, sốc một người trạc ba mươi, cả
hai đều mặc quần áo Chàm, súng đeo gươm dắt tua tủa. Người đàn ông bị
thương nặng, thiếu phụ bị nhẹ, vừa thở hộc xin nhờ thuyền, và cho biết
vừa thoát cuộc săn đuổi của quân Pháp.

Khi nói, nàng có vẻ e dè
thấy có quân hầu đeo súng dưới thuyền nhưng thế nguy phải liều. Đèo Văn
Phục bèn sai ghé thuyền đón cả người ngựa lên, bảo thiếu phụ:


Tôi là tù trưởng miền này vốn rất trọng các nhà ái quốc, xin bà chớ
ngại! Nàng an lòng, vực người bị thương xuống thuyền, cho biết chính
chồng nàng. Đèo Văn Phục dòm kỹ bỗng kêu lên, vì lúc đó mới nhận ra
người bị đạn chính là bạn học trước dưới xuôi. Thuyền mải miết ngược
dòng sông Hắc, xẩm tối về đến dinh, tù trưởng Đèo Văn Phục sai vực bạn
lên, gọi thầy thuốc tới chữa ngay. Thiếu phụ có vẻ thạo chuyện chiến
trường tên đạn hết sức, nàng tự tay gắp đạn ra, cho thầy thuốc Thái trị
thương. Máu chảy nhiều, người bị đạn lịm đi quá nửa đêm mới tỉnh, nhận
ra bạn nghe vợ kể, ông ta cảm động nắm lấy tay Đèo Văn Phục. Người này
là Thành Việt, họ Hoàng vợ là Nguyệt Tú, theo Lê viên tướng chỉ huy quân khởi nghĩa phục quốc, bị quân Pháp đánh tan, nghĩa quân tan tác, hai vợ chồng cùng ít tàn quân chạy lên Tây Bắc, bị Pháp săn đuổi, gặp giữa
rừng, quân tan tứ tán. Thành Việt bị đạn may vợ cứu sốc ngựa chạy được.

Nhưng vì vết thương quá nặng, gần sáng Hoàng Thành Việt nắm tay Đèo Văn Phục, ứa lệ bảo:

– Vận nước suy, biết đã gặp hồi bí nhưng chẳng lẽ ngồi im an hưởng, đệ
phải liều thân vì nước. Nay sức đã kiệt bơ vơ khách địa, vợ lại bụng
mang dạ chửa, đệ chỉ còn chút hơi tàn này, xin ký thê thác tử, nhờ huynh bao dung nếu được đệ có thể yên lòng nhắm mắt!

Đèo Văn Phục nắm tay bạn ứa nước mắt bảo:

– Huynh đừng bận tâm lo điều đó! Vợ huynh là chị đệ, con huynh là cháu
đệ, đệ xin hết lòng săn sóc, huynh cứ yên lòng tĩnh dưỡng, chớ nói
chuyện tử biệt làm chi!

Việt cười cảm động nắm tay vợ sa nước
mắt, nói chưa hết lời đã nhắm mắt, hồn lìa khỏi xác. Lê Thị Nguyệt Tu
vật mình than khóc thê thảm. Đèo Văn Phục hết lòng lo ma chay cho bạn,
an ủi vợ bạn, truyền người nhà giữ kín đừng tiết lộ ra ngoài. Ma chay
xong Nguyệt Tú an lòng ở lại tư dinh Đèo Văn Phục đợi ngày sanh nở.

Nguyệt Tú vừa đẹp vừa quả cảm, Đèo Văn Phục một lòng kính trọng xem như chị
không chút tà tâm, còn Nguyệt Tú thấy Văn Phục tử tế, ăn ở có đạo cũng
một lòng kính trọng nhờ đó khuây nhẹ lòng sâu nước mất nhà tan.

Mấy tháng sau Nguyệt Tú đẻ được một đứa con trai mặt mũi khôi ngô sáng sủa
hết sức. Nhưng nàng thuộc mẫu người đàn bà có lý tưởng đã yêu nước yêu
chồng đến chết không nguôi, nước, chồng đã mất không lấy gì thay nổi! Đẻ con xong đặt tên la Hoàng Thành Hắc Giang để ghi thời lưu lạc, Lê Thị
Nguyệt Tú cứ ôm con lại nhớ đến chồng đến nước, nước mắt chảy dòng dòng. Một hôm Nguyệt Tú lại cho bồng đứa nhỏ Hoàng Thành Hắc Giang lên Văn
Phục lạy ba lạy ứa lệ xin ký thác con thơ! Đèo Văn Phục giật mình vái
lại nhận làm con nhưng hết lời khuyên nhủ cho nàng đừng tuyệt vọng.
Nhưng ngay đêm đó, thừa lúc vắng người, nàng đã uống thuốc độc quyên
sinh.

Đèo Văn Phục cùng cả nhà ai nấy đều thương cảm. Chôn cất
xong, Đèo Văn Phục cảm lòng vợ chồng bạn, lại thấy Hoàng Hắc Giang mang
hai dòng máu anh hùng trong mình, Văn Phục bèn làm lễ nhận Giang làm
con, đặt tên là Đèo Văn Lang để ghi gốc chính.

Lớn lên Đèo Văn
Lang thông minh tuấn tú hơn người, học đâu biết đấy, văn võ tinh thông
chữ nghĩa thơ văn đã hay, cỡi ngựa bắn súng, bơi lội không ai bằng.

Mãi năm Đèo Văn Lang hai mươi tuổi, Văn Phục đã ngũ tuần mà vẫn không có
con trai. Lúc đó Văn Lang đang theo thầy học võ nghệ dị thuật tại núi
cao động thẳm. Một ngày kia Văn Phục cho tìm Văn Lang về, làm tiệc lễ,
lập Lang lên làm đích tử kế vị ngôi tù trưởng Thái thượng nguồn Hắc
Giang. Đèo Văn Lang có trí thông minh kỳ lạ, ai cũng phải phục, các tay
danh xứ Kinh, Thái, Tây, Tàu đương thời gặp Văn Lang ai cũng phải lắc
đầu, sợ cho óc thông minh của chàng!

Ít tháng sau, tù trưởng
Thái thượng nguồn Hắc Giang Đèo Văn Phục mang trọng bệnh. Biết không qua khỏi, một đêm Đèo Văn Phục cho gọi Đèo Văn Lang đến bên giường, cầm tay trối trăng mọi việc và lúc đó mới nói rõ nguồn gốc Kinh tộc của chàng
trai.

– Sở dĩ cha cố giấu con, vì sợ con phải buồn rầu ngay lúc
còn thơ dại. Nay con lớn khôn cha mới nói! Cha chỉ mong con sau này con
hãy nhớ lời cha trối!

Mãi lúc đó Văn Lang mới sực hiểu tại sao phụ thân cứ bắt mình xuống Kinh học từ nhỏ. Lòng cảm động, Văn Lang sụp lạy thưa:

– Cha nhận con làm con đẻ, lại cho làm đích tử, mà không muốn con quên
nguồn gốc, lòng bao dung đại lượng đó thật cao hơn núi, con dẫu lấy thân cũng không báo nổi ân sâu tái tạo, cha dạy gì con chẳng dám quên!

– Con đủ trí thông minh để chăn dắt bộ tộc Thái này! Cha chỉ mong sau này con có làm gì cũng nhớ đến dân tộc Thái, Kinh, nhất nhất phải thận
trọng. Được như thế cha an lòng nhắm mắt.

Văn Lang sụp nhận lời
trối. Chàng hiểu dưỡng phụ muốn chàng đừng quên gốc Kinh, hãy giúp Kinh, nhưng đừng vì thế làm làm tan xứ Thái.

Đêm đó, Đèo Văn Phục qua đời. Tang lễ xong, Đèo Văn Lang lên nối chức cha. Chàng làm theo đúng
lời cha trối, ở với dân Thái rất có da bao dung, vẫn kín đáo giúp dân
Kinh, người người quý trọng.

Ngày kia, Đèo Văn Lang cùng một bọn quân gia thuộc hạ thân tín mở cuộc du hành, săn bắn, kinh lý lãnh địa.
Mải vui, săn đuổi một con tê giác nguồn Nậm Na. Rừng Tây Bắc vốn hiếm
tê, chừng con này mới bên Vân Nam sang, nên Văn Lang mê lắm. Chiều kia,
vừa hạ được con tê, bỗng trời nổi mưa to gió lớn, ngay khi bọn Đèo đứng
bên sông rừng.

Bỗng giữa cơn mưa, thấy bên kia sông có nhiều
bóng người Thái nam nữ chạy dọc bờ giơ tay múa chân như kêu cứu. Ngạc
nhiên, bọn Đèo nhìn về nẻo thượng lưu, thấy ba con thuyền độc mộc thon
dài đang lao vùn vụt trên dòng lũ, trên mỗi thuyền có một bóng gái Thái
đang khua chèo, chống với lũ xiết giữa những mỏm đá thác nhấp nhô.

Có từng thấy giòng lũ mưa rừng chảy trên sông rừng có đá, mới biết mạng mấy cô gái kia đang treo sợi tóc.

Đèo Văn Lang vừa kêu: “Chà! Mấy cô kia nguy rồi” thì một con thuyền độc mộc đâm rầm vào mỏm đá bắn tung bóng gái chèo, chìm nghỉm. Giòng lũ vẫn
cuốn hai thuyền kia đi như tên. Hai cô gái gò lưng chống chọi với tử
thần, Đèo Văn Lang cởi vội áo ngoài phóng mình xuống nước. Lang vốn khét tiếng bơi lội như thuồng luồng, rái cá, thường nhảy xuống Hắc Giang bắt thủy quái như chơi nên chàng vượt chếch giòng đón thuyền, vừa quài tay
đỡ cô gái vừa giật lấy chèo thì con thuyền lao vào chân thác. Lang điều
khiển vượt thác trôi xuống hạ lưu, quàng luôn giây ghì lấy một mỏm đá
bên luồng xiết. Thoắt thuyền kia đã lao tới quăng dây móc ngoạm luôn mũi thuyền ghì lại. Nước xô thuyền lao thốc đi, Lang ghìm chặt, cư thế hai
tay hai thừng kéo miết. Lũ chảy mạnh tưởng kéo xả đôi người ra như ngựa
xé, nhưng Lang sức khỏe phi thường loáng đã lôi hai thuyền như một cho
cô gái kia lên.

– Hai cô ngồi xuống thuyền đỗ lại!

Độc
mộc lao như tên xô vào đá chìm nghỉm. Độc mộc Văn Lang lướt như tên bắn
kề sát tử thần nhưng chỉ mấy phút Lang đã lựa luồng ghé thuyền gần bờ,
quăng móc ngoạm gốc cây kéo thuyền vào cho hai cô gái lên Đông ngạn.
Trời vẫn mưa to gió lớn xóa cả sông rừng. Chậm phút nữa mưa mù quá cũng
không tài nào cứu nổi! Mãi lúc đó, Văn Lang mới kịp nhìn kỹ nạn nhân
xiêm y dán mình mẩy lộ rõ các đường cong, nét uốn tuyệt vời, đó là hai
cô Thái cả hai đều đẹp nhưng cô thuyền trước đẹp như tiên đến nỗi Đèo
Văn Lang phải ngẩn ngơ trong lòng.

Còn hai nàng thấy ân nhân cứu mạng là một chàng trai tuấn nhã hào hùng, cả hai vừa mừng vừa thẹn, cố
nhơn xiêm y lôi ra cho khỏi dán vào cơ thể.

Đoàn người ngựa tùy tòng của nàng đổ tới gái hầu dâng áo choàng, hai nàng cám ơn Văn Lang rối rít, kiếm chỗ tránh mưa.

Hỏi ra mới hay cô nàng là con gái quý của tù trưởng Cầm Văn Dung vùng Nam
Na. Tên nàng là Cầm Phi Phụng. Cô gái ngộ nạn là bạn nàng miệt Lai Châu
lên chơi, Phi Phụng tổ chức cuộc du ngoạn thượng nguồn Nam Na, tới đây
nhân thấy sông rừng đẹp, bèn mở cuộc thi bơi độc mộc, chẳng may thình
lình gặp mưa rừng, lũ xiết, lâm nạn giữa dòng.

Đèo Văn Lang từ
lâu đã nghe danh hoa khôi miệt Lai Châu, nay tình cờ gặp mới hay lời đồn còn kém người thực. Cầm Phi Phụng đẹp tuyệt trần, như kết tụ tinh hoa
núi đèo Tây Bắc.

Mắt phượng, mày liễu, môi cong, mũi thon, ngực
nở phây nếp áo, bụng thắt lưng ong, mông phình, da mịn như mỡ đọng mùa
đông, nhuận thịt thơm da tiết ra mùi thơm kỳ ảo, làm cho gỗ đá cũng đảo
điên, giọng như suối đàn, oanh hót, tính lại đoan trang, thông minh hết
sức. Cầm Phi Phụng như một đóa lan vương giả nở bên suối mùa xuân. Đèo
Văn Lang gặp, bị luôn tiếng sét ái tình, còn Phi Phụng gặp chàng trai
tuấn kiệt cũng bị tiếng sét luôn.

Hỏi ra mới hay chàng là tù
trưởng thượng nguồn Hắc Giang, người mà nàng cũng từng nghe danh từ lâu. Phi Phụng bồi hồi cảm ơn cứu mạng ngỏ lời mời Đèo Văn Lang về miệt ngã
ba Nam Na Hắc Giang chơi. Sau cơn mưa, Văn Lang từ biệt, sang Tây ngạn.

Hôm sau, Đèo Văn Lang cùng đoàn tùy tòng xuôi về hạ lưu Nam Na, tìm đến
chơi dinh tù trưởng Cầm Văn Dung. Cả nhà họ Cầm đã sửa soạn đón khách.
Vợ chồng tù trưởng Cầm Văn Dung cùng con trai Cầm Văn Đạt và con gái Cầm Phi Phụng ra cổng rước Văn Lang vào, đãi làm ân nhân thượng khách. Sau
dịp đó, duyên trời đưa lại, trai tài gái sắc nên giai ngẫu, ít tháng
sau, cả miền thượng Hắc Giang Nam Na hoa nở chim ca mừng cuộc hôn nhân
Đèo, Cầm.

Đệ nhất phu nhân lãnh địa không những được chồng yêu
mến vô cùng lại được cả bộ tộc Thái quý trọng vì Phi Phụng đã đẹp lại
hiền, ở với mọi người rất có lòng.

Năm sau Đèo Văn Lang sang
miệt Phong Thổ tình cờ qua đất Thái đen bỗng gặp một đám sơn tặc đang
rượt bắt mấy co gái Thái đen giữa rừng. Chúng gần bắt được thì Đèo Văn
Lang cùng bọn thuộc hạ xông tới cứu kịp đánh tan lũ sơn tặc. Mấy nàng
cảm ơn cứu mạng, mời Văn Lang về nhà, lúc đó mới hay đó là nàng công
chúa Thái đen cùng gai hầu đi chơi không may bị cướp rình bắt.

Nàng chính là Bạc Tây Kiều, con gái quý của tù trưởng Thái đen, tù trưởng
lưu Đèo lại tư dinh khoản đãi tình rất đậm đà. Đêm đó, Đèo lưu lại dinh
tù trưởng. Nào ngờ quá nửa đêm, sơn tặc kéo đến tấn công như vũ bão
quyết bắt kỳ được Bạc Tây Kiều.

Thế giặc mạnh hết sức, hơn ba
trăm tay súng cung nỏ thiện chiến tấn công bất thần như vũ bão. Trong
dinh đêm đó chỉ có non trăm tay chiến, một số dùng súng kíp và cung nỏ,
chỉ vài mươi phút chúng đã vọt tới tường rào bằng gỗ lim phiến xẻ đôi,
lửa đốt sáng rực, tướng giặc hét như sấm:

– Tù trưởng Thái đen!
Không chịu gả Tây Kiều ta sẽ thiêu rụi dinh này! Tù trưởng Bạc Tây
Thường truyền nổ súng trả lời. Tướng giặc nổi giận hạ lệnh vừa đánh vừa
quăng lửa vào đốt dinh ùa vào. Lúc đó Đèo Văn Lang say rượu cùng ngót
hai mươi thuộc hạ đang ngủ vùi sực tỉnh chạy ra, Đèo trổ tài thần xạ
đánh bọn giặc, lại dùng gươm đao giết tan quân giặc, đâm chết tên tướng. Giặc tan, cả nhà tù trưởng cảm ơn sâu, làm đại tiệc đãi, mãi khi đó lân la kể chuyện tỉ mỉ xưng rõ danh tù trưởng Thái đen mới nhớ ra Đèo Văn
Phục vốn chỗ quen xưa, hơn hai mươi năm trước, có lần vui chén, hai ông
đã hứa thông gia với nhau, nếu Đèo sinh trai sẽ lấy con gái Bạc, nếu Đèo sinh con gái sẽ gả cho trai Bạc. Nhưng Bạc Tây Thường lại chỉ đẻ được
mỗi người con gái Tây Kiều, còn Đèo cũng chỉ sinh con gái. Sau Văn Phục
nhận Văn Lang làm con, mãi nhiều việc cũng quên đi. Một phần ông nghĩ:
Lang không phải con đẻ, lời hứa xưa cũng chẳng nên bắt Bạc giữ lời vì cả hai chỉ hứa nếu “sinh ra”. Nay nhận chính con bạn xưa, Bạc tù trưởng
bèn nhắc lại lời hứa cũ quyết gả con gái cho chàng. Đèo Văn Lang thú
thật đã có vợ. Trên sơn cước, các bộ tộc đều theo tục lệ đa thê, coi
chuyện lắm vợ nhiều con đều là biểu hiện của giàu sang quyền quý, có tù trưởng lấy một trăm cô vợ là thường. Nên Bạc Tây Thường vui lòng gả Tây Kiều làm đệ nhị phu nhân.

Đèo Văn Lang xin khất, về hỏi ý vợ, làm Bạc Tây Thường phải ngạc nhiên, cười ngất, cho là chuyện lạ đời.

Về tới thượng nguồn Hắc Giang, Đèo Văn Lang đem chuyện hứa hôn ra nói cho
vợ hay, và để nàng định đoạt. Cầm Phi Phụng từ nhỏ đã quen sống trong
gia đình quý tộc theo tục đa thê, nàng lại rất yêu chồng, nhưng không
nghĩ buộc chồng chỉ biết có mình, mà lại nghĩ cưới vợ đẹp cho chồng mới
là phép yêu thương của Bà Nàng là chúa sơn cước. Nên Phi Phụng tán đồng
cuộc hôn nhân ngay và đứng lo mọi việc cưới đệ nhị phu nhân về cho
chồng. Cưới xong, Phi Phụng thấy Bạc Tây Kiều vừa đẹp vừa hiền, bèn kết
làm chị em, cùng thờ chồng, tình rất thiết tha! Đèo Văn Lang, yêu hai vợ vô cùng. Một công chúa Thái trắng, một công chúa Thái đen, cả hai đều
đẹp như tiên, sống trên mảnh tiểu giang sơn thượng nguồn Hắc Giang với
đủ quân gia tỳ thiếp, vàng bạc, lâm sản quyền uy chúa tể, Đèo Văn Lang
tưởng mình còn sung sướng hơn hoàng đế Nam Triều nhiều.

Nhưng
trí thông minh tuyệt vời của Đèo Văn Lang không cho chàng yên sống với
hạnh phúc quyền uy đó. Một chiều kia bơi thuyền trên sông Hắc, Văn Lang
thấy một cái xác chết trôi thối rữa nặng mùi, lại hôm khác thấy một ông
già hom hem bị chết nhọc nhằn khổ sở sau mấy chục năm khỏe mạnh tuấn tú. Lại hôm kia cùng vợ đi viếng phần mộ cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, Đèo Văn
Lang vụt nghĩ tới kiếp người mong manh sinh ra trưởng thành rồi thác,
hai tay buông xuôi trong vòng chớp mắt.

Lang chạnh niềm tưởng
đến mình, đến vợ, hình dung mấy cái huyệt sâu chực sẵn cuối đường hình
hài tan rữa, nhan sắc tiêu vong trước sức tàn phá ghê gớm của thời gian.

Từ đó, Đèo Văn Lang bị ám ảnh ghê gớm. Soi gương, nhìn vợ, nhìn hoa cỏ, Lang đều nghĩ đến cuộc tử biệt, tàn tạ đang chờ sẵn.

– Có cách nào tồn tại với thời gian? Chống sức hủy diệt của thời gian? Ít nhất cũng như loài khoáng sản?

Càng ngày, Đèo bị xoắn vào ý nghĩ “vô cùng thực tế mà xa vời không tưởng”
đó. Chàng càng dốc tâm học bí thuật rừng sâu, càng giỏi càng hy vọng
khám phá ra nẻo trường sinh.

Rồi ngày định mạng tới với chàng, huy hoàng như đóa hoa hồng nhung đầy gai góc.

Bữa đó, vào mùa hạ, Đèo Văn Lang tổ chức một cuộc săn dải thuồng luồng cho
vợ xem. Săn bắt thủy quái là một nghệ thuật tuyệt vời của dân nguồn
thượng Hắc giang. Đánh bả câu bằng heo con không kể, dân miền này có
nghề “tay không bắt dải” rất tài, bằng cách lừa cưỡi lên lưng con dải.

Đèo Văn Lang bắt dải không ai bằng. Bữa đó, trước đám đông, Tù trưởng ngậm
dao nhảy xuống sông Hắc, lặn vào tận hang sâu bắt một con dải rất to,
chỉ hai mươi phút đã tóm được. Thịt dải là món ăn quý. Đèo truyền làm
dải cho vợ thưởng thức. Nhưng khi mổ bụng dải, lại thấy một cặp vòng
xanh điểm huyết to gấp rưỡi vòng thường, ánh sáng chói lòa như dạ quang.

Ai cũng cho là lạ. Đèo Văn Lang cho là điềm tốt, sai làm hộp
vàng để ngay trong hộc tủ phòng riêng. Đêm kia, Văn Lang sực tỉnh phát
giác trên mái có khách dạ hành vút qua. Lang lẻn dậy, núp rình thấy hai
bóng mặc áo quần đen lẻn vào phòng khách, xông “mê hồn hương” vao buồng
tù trưởng.

Văn Lang rất giỏi ngoại khoa, vận khí, vờ im đợi,
thấy hai bóng lạ cậy cửa vào buồng mở tủ, bàn kiếm đôi vòng. Lang nhảy
ra, hạ được một tên, còn tên kia chạy thoát.

Đem tra hỏi, tên
này cắn lưỡi chết, trong mình không giấy tờ. Mấy ngày sau, gần ngày giỗ
Đèo Văn Phục, bỗng có một thầy địa lý Tàu xưng tận Tứ Xuyên sang, đi xem đất quý. Đèo đãi rất hậu, nhờ phúc cho ngôi mộ cha. Hai đêm sau, thầy
Tàu xông khói me lẻn vào buồng lấy trộm vòng điểm huyết. Đèo đề phòng,
nên lại bắt được. Thấy lão không phải hạng đê tiện, Văn Lang rất lạ bèn
dùng lời tử tế gặng hỏi hứa tha. Cảm ơn ấy lão thầy Tàu thở dài, bảo:

– Số tôi vô duyên! Quý vật tìm quý nhân, mưu tôi đã hỏng lẽ ra chết cũng
chẳng hé răng nhưng thấy ngài tử tế, không đành giấu: Từ vạn cổ, vốn có
lời đồn trên đời có một cặp “vòng càn khôn” vô giá ai bắt được có thể
đoạt quyền tạo hóa. Nay nghe đồn ngài bắt được tôi tìm tới. Thiên hạ khá nhiều kẻ biết, ngài khá lưu tâm.

Hỏi kỹ, lão cũng chẳng biết
“chìa khóa” ở đâu? Đèo Văn Lang tha lão thầy Tàu. Cuối năm đó, một đêm,
Lang ngồi sưởi với vơ, đem vòng ra xem, chẳng may Cầm Phi Phụng sẩy tay
đánh rớt một cái vòng vào bếp lửa cháy rực. Giật mình, Đèo dùng que sắt
cời than tìm, mãi mới thấy, nhưng khi lôi ra, soi dòm, sực thấy đường
nét lạ kỳ hiện trong ruột vong.

Nâng thử chiếc kia cũng vậy! Đèo Văn Lang có óc thông minh phi thường từ đó soi chép ra giấy, đêm đêm
ngồi nghiên cứu như dò mật mã.

Rồi một đêm gần sáng, chàng nhập
diệu, vụt đọc được hiểu được những đường nét kỳ quái kia. Mới hay là lối chữ tượng hình thời tiền hồng thủy pha lẫn lối tượng hình của loài
người thời hỗn mang chu kỳ thứ hai, ghi lại thuật trường sinh. Hấp tinh
đạo thần khí của Bành Tổ Lĩnh Nam.

Sau phút nhập diệu khám phá
ra được chữ tượng hình kỳ dị, viên tù trưởng Thái trắng Đèo Văn Lang dần dần đọc được hết các chữ trong ruột vòng. Thì ra đây là cặp “vòng càn
khôn” vô giá ghi lại phép hấp tinh đạo thần khí, luyện thuật trường
sinh, chống lại sức tàn pha của thời gian!

Mừng như chết đi sống lại, Đèo Văn Lang ghi tất cả ra các miếng da thuộc, từ đó ngày đêm đem
ra nghiền ngẫm say mê, cho là Thượng đế đã ban ân đặc biệt cho mình!
Tiếp đó xẩy ra liền mấy vụ cao thủ từ phương xa tới tấn công, hành thích đoạt vòng càn khôn, nhưng Đèo Văn Lang đã đề phòng, chúng không làm gì
nổi. Tuy vậy chàng cũng biết rằng từ đây chàng đang giữ một “bảo vật
chết người” và chàng hiểu từ đây chàng có hai con đường: Một là chết
nhục nhã, hai là tiến đến tài nghệ tuyệt luân, dấn bước trên đường luyện học.

Nhưng bộ vòng càn khôn có ba cái, chàng thiếu một lại chưa được trí thông minh như Đông Tửu, nên chỉ lãnh hội được tinh thần dị
thuật “hấp tinh đạo thần” theo nghĩa hấp tử tới hấp sinh của luật tạo
hóa hóa sinh hóa diệt.

Đèo Văn Lang lại là kẻ có lòng, trù trừ
chưa dám định bề nào. Ngày kia chàng có việc một mình một ngựa vượt biên thùy, ngược sông Hắc sang Vân Nam vào độ đông kha. Đến vùng Ma Lo, một
đêm trăng có tuyết rơi nhiều, chàng bị một đàn sơn cẩu loại hồng cẩu
quẩy dữ nhất rừng già tấn công, Đèo Văn Lang rút gươm, nhảy xuống đất
chém sói, bảo vệ cho cả ngựa. Nào dè “quỷ mắt đỏ” tới đông như rươi,
chồm vồ người ngựa.

Đang nguy sắp phải bỏ ngựa vọt lên cây bỗng
nghe tiếng chó sói tru lê thê đầu cốc, bầy sơn cẩu bỏ ngựa chạy về phía
có tiếng tru.

Lạ lùng, Đèo lần theo dấu sói in trên tuyết tới
cốc bèn thấy một bóng dị nhân chống gậy mặc áo da sói đang giỡn với đàn
sơn cẩu sói hơn một trăm con. Đèo giấu ngựa lần tới ra mắt, gặp Đèo, vị
nhân sói kia yêu ngay, ông ta trạc hơn năm chục, đời dã thú lang thang,
biết “nói tiếng sói” và chính là một pháp sư rừng cao tay, ông ta truyền dị thuật cho Đèo Văn Lang.

Từ biệt nhau, Đèo trở về lãnh địa.
Đêm kia cũng một đêm trăng lạnh, được tin sơn cẩu về miền, Đèo Văn Lang
ra rừng, thu phục. Bỗng gặp một bầy quái nữ tới vồ sơn cẩu, cắt tia máu
chân sau uống ừng ực.

Thấy Đèo, bầy nữ quái ùa bao vây chực bắt, nhưng Đèo cao bản lãnh, sau trận tử chiến, hạ được bọn này cả thẩy bẩy
nàng, nàng nào mặt cũng đẹp như yêu ma.

Tra hỏi mấy ả cho hay:
chuyên bắt đàn ông và sơn cẩu hấp huyết, máu người máu sói làm tăng tinh lực. Đèo Văn Lang thu phục đàn sói xong, định giết “thất quái nữ”
nhưng bỗng nhớ đến thuật hấp tinh đạo thần bèn nghĩ thầm:

– Bọn
này là ma nữ, để làm gì? Giết cũng uổng, sao ta không đem thí nghiệm
thuật của Bành Tổ? Bèn đem bảy quái nữ vào hang đá, làm một cuộc thí
nghiệm đầu tiên.

Không dè mới đến ả thứ ba, đã tiêu gân thịt,
biến thành cái túi da tanh khắm kinh người! Đèo trói bốn ả kia lại, sai
sói canh, đợi đêm sau hấp thử. Cứ thế, hết bẩy ả, Đèo đã thông cách “hấp tinh đạo thần”, vụt thấy trong mình khỏe lạ thường, như vừa uống tiên
đơn.

Đèo Văn Lang mê liền. Lòng yêu vợ càng nồng nàn, Đèo càng tưởng chuyện trường sinh.

Một hôm xem sách, đọc hai câu “ngã vi thiên hạ kế, khởi tích tiểu dân tai”
Đèo tưởng đến cái chết của cha mẹ ruột, đến cảnh quốc vong, lời trối của dưỡng phụ, lòng xốn xang hết sức. Đèo bị ám ảnh khá lâu, cho đến hôm
bỗng gặp một bầy hồng cẩu quẩy, mấy con đầu đàn to như người.

Trong khi thu phục, chẳng may có hai con quá hung tợn, bất thần nhảy chồm lên cắn cổ, Đèo phải hạ độc thủ, nhìn xác sơn cẩu to lớn nằm sõng xoài, Đèo tưởng đến thuật hấp trường sinh, vụt nẩy ý lạ:

– Tại sao ta
không làm chúa sài lang đầu đàn hồng cẩu quẩy để tiến hành việc luyện
thuật! Ta sẽ kiếm quái nữ ma đầu làm “chất liệu”.

Đèo bí mật lột da cẩu quẩy đầu đàn đem thuộc kỹ lưỡng, bộ phận nào chật, lại ghép thêm thành một bộ lông sơn cẩu rất đẹp, chui vào, cử động như thường.

Tư đó Đèo Văn Lang sống hai cuộc đời, một đời tù trưởng Thái và một chúa
sài lang tứ túc hồng cẩu quẩy! Chàng kiếm ma nữ hấp, nhưng hỡi ôi định
mệnh đã đành khi đặt chân vào con đường ghê gớm đầy máu lệ! Càng ngày
Đeo Văn Lang càng mắc bệnh “khát máu, khát hấp tinh đạo thần khí” thỉnh
thoảng lại lên cơn thình lình không khác kẻ bị yểm ngải độc nuôi bằng
máu để hóa Ma Lai.

Mỗi khắc lên cơn, Đèo lại mang lốt chúa sài
lang bắt đàn bà “hấp”. Và khi tới cơn, đầu óc choáng váng, da thịt bứt
rứt không sao chịu nổi tuy đầu óc vẫn tỉnh.

Rồi một đêm, sau khi hấp liền hai cô gái, ngồi luyện thuật trong rừng, xong, chàng trút bỏ
lốt sói ra, nhưng… không trút noi! Vì khi mang lốt này, chàng đã mặc
bộ quần áo mỏng bó sát người, hôm đó, ngồi luyện thành hỏa khí nóng ghê người, sức nóng làm cháy cả làn áo, làm cháy cả lần da thuộc, hai thứ
da người da thú đồng hóa dính vào nhau còn quá keo sơn!

Kinh
hoàng cực đo, Đèo Văn Lang đã dùng hết cách. Không sao cởi ra nổi! Thì
ra trong khi mang lốt hồng cẩu quẩy, chàng mải mê hấp luyện thuật kỳ,
quên khuấy là: dầu da thịt súc vật, da thịt người cái gốc vẫn không
ngoài ngũ hành biến the. Tinh thần, khí chàng hấp được của phái nữ kia
chính là tinh túy của ngũ hành, chuyển ra ngoài da, nó làm dẻo nhuyễn,
kết hợp luôn hai khối ngũ hành lại, có lẽ phải lóc tận xương mới bóc ra
được!

Nhưng cũng còn một chút may mắn là nó chỉ dinh chặt mình,
đầu mặt chưa dính. Lồng lộn, đau đớn suốt đêm lốt sơn cẩu vẫn dán cứng.
Đèo Văn Lang đành nuốt hận quay về dinh, bí mật sai làm một bộ giáp!

Mặc ra ngoài lốt sói, làm thêm một cái mat nạ mũ trụ sắt nữa chụp kín phòng khi hấp luyện khỏi dính nốt. Khi về dinh, mặc quần áo ra ngoài, tháo
cái đầu cẩu quẩy ra, không ai đoán nổi!

Cả Cầm Phi Phụng, Bạc
Tây Kiều cũng chưa hay. Ngay lúc ân ái với vợ, Đèo cũng vẫn mang giáp,
lấy cớ hiện có lắm kẻ thù rình hành thích.

Nhưng cơn bệnh khát
tinh lực huyết khí nữ nhân càng lúc càng nặng, có lần đang nằm với vợ,
Đèo Văn Lang bỗng nổi cơn khát suýt hại cả vợ quý nếu không kịp thời vọt ngựa đi vội!

Phi Phụng, Tây Kiều ngờ, hết sức gạn hỏi, Văn Lang chỉ kiếm lời gạt đi. Nhưng trước còn một tuần trăng hấp một lần, sau
hai, lâu dần cơn điên khát hấp lên hàng đêm theo thói quen thường vào
nửa đêm giờ Tý, giờ loài tứ quỷ, chim báng, chim lợn thường cất tiếng
kêu quái gở gọi hồn ma. Những lúc lên cơn, tâm tính Đèo Văn Lang cũng
thay đổi hẳn trở nên hung tợn lạ thường. Một đêm đang ngủ bỗng lên cơn
không chịu noi, chàng như loạn trí, trút luôn y phục chụp đầu sói phóng
sang dãy nhà đàn bà vồ nghiến một nàng gái hầu Thái, đem đi hấp. Phụng,
Kiều cùng một thị nữ rượt theo, thấy cái bóng cẩu quẩy phóng vào khu
phòng tù trưởng mat dạng. Hai nàng càng ngờ, để tâm dò xét. Đèo Văn Lang một phần sợ lộ, phần luyện hấp thành nghiện tinh thần huyết khí âm, lúc này như bánh xe lăn dốc không ngừng lại được. Lại thêm uất về vụ dính
da sói, phải mang suốt ngày đêm, Đèo càng hy vọng luyện thành công sẽ có thể gỡ lốt sói ra, nên quyết tâm luyện thuật.

– Phải lập một
cung A Phòng nhốt sẵn gái tơ làm chất liệu hấp luyện! Xưa nay các vĩ
nhân lập nên nghiệp lớn đều không qua lẽ “nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Nay ta cũng phải dẫm lên tiểu tiết dẫu có phải hại nhân mạng cũng chỉ hàng ngàn, so với thiên hạ nào có nghĩa gì? Thiên hạ một cái danh,
đã phải phí hàng núi đầu lâu so với việc ta có là bao? Hại ít mạng ma
đảo lộn được càn khôn, tìm được đường trường tồn cho nhân loại khi thành tài có thể phục quốc chiếm thiên hạ, tại sao không làm như Thiết Mộc
Chân xưa “ngã vi thiên hạ kế khởi tích tiểu dân tai”.

Đèo bắt
đầu kiến tạo cung A Phòng bí mật dưới đáy Hắc Giang, tại vùng biên địa
bên nguồn sông Đà, phía Tây Bắc lãnh thổ Thái tự trị. Thông minh, quyền
biến, sẵn vàng bạc thuộc hạ. Đèo sai đắp đập tát hết nước, mùa đông cạn, đào hầm, xây trên xây dưới theo mô hình làm sâu. Lại khám phá được mỏ
vàng, mỏ “đất đèn”, bế nguồn thác lũ quanh miền, lợi dụng sức gió làm
“thủy phong điện lực”, chạy máy trục điều động cơ quan…

Trừ
một số thủ hạ thân tín, nhan công kiến trúc A Phòng kỹ sư đốc công đều
được tuyển từ xa, cho uống thuốc ngủ, chở tới, mỗi toán làm một khu vực, không liên lạc với nhau, những chỗ tối mật Đèo dùng âm binh cẩu quẩy.
Xong bọn xây lại được uống thuốc ngủ đem về chốn cũ, cũng chẳng biết xây gì, tại miền nào, cho ai? Phương pháp này không hoàn toàn đảm bảo được
bí mật nhưng không tàn ác như phần đông vua, chúa xưa xây cất cung mồ bí mật thường chôn luôn kẻ xây cho kín đáo.

Cung A Phòng xong, Đèo Văn Lang đội lốt Chúa sài lang đi bắt gái tơ về nhốt đầy đàn. Đèo đóng
hai vai rất khéo, nhưng cuối cùng cũng bại lộ trước hai người vợ yêu
quý.

Một đêm, Cầm Phi Phụng đang ngủ, bỗng nghe tiếng sơn cẩu
tru lên lê thê trong đêm đông khan. Phi Phụng lẻn sang dãy nhà tù trưởng ở thấy bóng Chúa Sài lang vọt ra rừng. Đêm đó, Đèo ngủ tại dinh cách
cung A Phòng ngót mười dặm chim bay, Phi Phụng vào phòng không thay
chồng đâu, y phục còn ném bừa trên giường. Kinh nghi cực độ, nàng chạy
ra hướng sói tru tới cánh rừng đông khan trăng lạnh thấy Chúa Sài lang
đang hấp một nàng sơn nữ, chung quanh sơn cẩu như rươi.

Sơn nữ lạy van, khiếp sợ, Chúa Sài lang phát nói tiếng người âm u:

– Gái ngoan chớ sợ! Chúa Sài lang đem lên đỉnh cực lạc… Hà hà! Chỉ phút sau sơn nữ đã thành một cái “túi da người”. Chúa Sài lang chạy về dinh.

Cuối tuần trăng đó cũng nửa đêm. Phi Phụng chợt sang chỗ Đèo
nằm đúng lúc Đèo lên cơn, nhảy ra vồ một gái hầu đem về phòng hấp sát!
Hấp ngay khi chưa trùm cả lốt sói, Phi Phụng thấy chồng tuôn vòi vào
mũi gái hầu, nàng kinh hoàng quá, kêu rú lên ngã vật xuống.

Đèo
Văn Lang giật mình tha cả “túi da người” chạy ra, thấy vợ quỵ sõng soài, Đèo tỉnh cơn điên loạn, giấu “túi da”, vực vợ vào trong. Quá xúc động
sợ hãi, Phi Phụng lâm trọng bệnh, nằm liệt gường. Đêm ngày bị cảnh “hấp” ám ảnh, nàng chợt tỉnh chợt mê, kêu rú liên miên. Đèo Văn Lang chầu
chực bên giường, lo chạy chữa thuốc thang hết lời giải thích, nhưng Phi
Phụng vốn gái có từ tâm không chịu nổi cảnh ghê gớm hung ác, bất kể vì
mục đích gì.

Nàng đinh ninh Văn Lang đã hóa sói. Lang là Chúa
sài lang, thậm chí đến tên Lang cũng là cái tên định mạng! Nên, thấy Đèo Văn Lang, nàng lại ôm mặt rú lên khủng khiếp kêu “cái vòi, cái vòi đỏ”. Phi Phụng là mẫu đàn bà có lý tưởng, đã yêu thì tôn thờ tình yêu, thờ
chồng hết dạ, đã thất vọng, càng sâu đậm.

Tuy vậy nàng cũng khỏi ốm, nhưng lại mắc bệnh ám ảnh, nàng luôn luôn bị ám ảnh cho là mình
đang có “chồng chó sói”. Lúc này nàng đã có con, đẻ sinh đôi Đèo Văn
Dũng, Đèo Văn Kiệt. Đèo Văn Lang thấy vợ như thế, đem lòng đau đớn buồn
bực hết sức, đêm kia, đem tất cả thê thiếp xuống cung A Phòng.

Mấy phen Cầm Phi Phụng quyết định quyên sinh nhưng cả mấy lần nàng đều phải bỏ ý đó vì thương con thơ dại. Giữa cung sâu thăm thẳm, nàng phải cố
sống, chiến đấu với những ám ảnh nặng nề gớm ghê. Người đàn bà hiền đức
không sao quên nổi cảnh người chồng tuôn voi đỏ vào lỗ mũi gái tơ, hút
hết tinh lực não tủy hệt một con Ma Cà Rồng! Nàng lại là người sinh
trưởng tại miền Tây Bắc Việt Nam nên từ nhỏ được biết những chuyện quái
đản về các giống Cà Rồng hấp huyết nửa đêm bien thể vuốt mặt dài như chó sói, bay đi ăn bẩn uống dơ v. v…

Còn hàng trăm vị biến thể
hóa nàng được nghe nên càng tin chồng mình hóa sói cứ nửa đêm hóa hình
chúa sài lang đi hút tủy não đàn bà con gái!

Đèo Văn Lang hết
lời giải thích cho vợ biết chàng đang luyện bí pháp Càn Khôn, kiếm đường trường sinh nhưng Cầm Phi Phụng không khi nào quên nổi cảnh gớm ghê,
nàng tin sẽ có đêm đến phiên nàng phải chịu nạn khủng khiếp đó!

Phi Phụng kinh ghê đến phát cuồng thì Văn Lang cũng đau đớn lên vì tình yêu đã mất! Chàng vẫn yêu vợ, yêu hơn nũa. Nhưng nàng, tuy thương chồng, sự sợ hãi đã giết chết tình yêu!

Rồi một đêm hiu hắt, không chịu đựng nổi nữa, Cầm Phi Phụng bồng đứa con đầu lòng Đèo Văn Dũng trốn khỏi cung A Phòng.

Trốn khỏi A Phòng lòng đau như cắt, phải xa chồng, xa nơi đã sống tháng năm
đầy hạnh phúc. Cầm Phi Phụng cũng chưa tính chạy đi đâu, nhưng người đàn bà quá kinh hãi, tin chắc chồng đã hóa sói tinh hấp huyết tủy người và
sẽ hấp cả vợ con nên nàng phải bồng con trốn đi. Tuy vậy cũng chỉ bồng
được đứa con đầu lòng đeo vòng Đèo Văn Dũng, nàng thoát khỏi thượng
nguồn Hắc Giang, chay bừa về quê cũ miệt ngã ba Nam Na. Đèo Văn Lang đi
xa về không thấy vợ quý biết ngay nàng sợ hãi quá đã bỏ trốn! Đau đớn
khổ sở tủi nhục đến điên cuồng, viên tù trưởng bèn trùm luôn lốt sài
lang dẫn đàn chó sói, sơn cẩu, rượt theo dấu vợ con về thẳng vùng ngã ba Nam Na.

Cầm Phi Phụng bồng con, cỡi con ngựa bạch về được tới
dinh họ Cầm, thì cha nàng, tù trưởng Cầm Văn Dung vừa nằm xuống bất ngờ
sau một cơn bạo bệnh. Nàng ôm lấy quan tài khóc lóc, lòng đau đớn chất
chồng nhưng cũng không dám tỏ chuyện ghê gớm kia cho người anh là Cầm
Văn Đạt nghe, và chỉ nói là bị quái rượt.

Đêm sau, bỗng lính
dõng hớt hải chạy về dinh cấp báo: sơn cẩu, chó sói từ đâu kéo về bên
kia sông Nam Na đông như kiến, dân gian kinh hồn chạy tán loạn, có kẻ
nghe tiếng chúa sài tru tiếng người!

Ai nấy kinh hoàng, Cầm Phi
Phụng vội ôm con lên ngựa, rời khỏi tư dinh chạy như giông về hướng nui
Phản Tây Phàn Chapa. Cầm Văn Đạt cho một gái hầu có võ và hai lính dõng
khỏe theo hộ vệ. Bốn người bốn ngựa, chạy được tới Chapa rồi về Lao Cai, đáp tàu về xuôi vì nghĩ dẫu sói tinh cũng khó theo về đồng bằng thành
phố được.

Nhưng hỡi ôi! Định mạng khắt khe đã đành, tung tích
Cầm Phi Phụng bị lộ trước mắt lũ ma nhân, ác tặc vẫn bí mật theo dõi,
định đoạt vòng xanh điểm huyết.

Tàu tới Yên Bái có mấy tên toan
bắt cóc, một người lính dõng phải liều thân cản chúng cho gái hầu xuống
toa súc vật lấy ngựa cho Phi Phụng bỏ tàu chạy vào thị trấn, lúc tàu vừa đỗ.

Ba người ba ngựa, bồng theo đứa nhỏ vòng xanh chạy xuyên
sơn sang tỉnh Tuyên Quang. Tới Tuyên Quang suýt bị gian tặc bắt ngay bên chợ nếu không có một đàn sơn cẩu bất thần kéo vào thị trấn, làm cả trấn kinh hoàng tưởng loạn rừng. Thì ra chính “chúa sài lang” họ Đèo. Đèo đã dùng độn Lục Nhâm, ma xó ma gà tìm hướng Phi Phụng chạy, lối này ứng
nghiệm như thần, Đèo tới giết lũ gian tặc nhưng Cầm Phi Phụng lại tình
cờ thoát khỏi! Trên đường xuyên sơn, chạy liều sang Thái Nguyên, Cầm Phi Phụng cùng gia nhân chạy vào một động Mán Hồng Than hung dữ, may sao
lại gặp một lão thầy mo rất cao tay, xưa đã có lần tới chơi với cha
nàng, tù trưởng Cầm Văn Dung trên Nam Na!

Nghe Phi Phụng kể
chuyện cha mới mất, thân nàng bị quái nhân quái vật săn đuổi chẳng biết
chạy đâu cho thoát, lão thầy mo Mán thương cảm vô cùng lập tức dẫn ba
người tới trước bàn độc, đọc chú, cắn lưỡi phun máu vẽ bùa trao mỗi
người một đạo, bảo:

– Nay cô nàng bị quái đuổi phải ra khỏi
nước, lánh xa mới được! Mo đã giúp bùa “lạc hướng” nó khó dò đường cô
nàng đi, cô nàng cứ lên thẳng Cao Bằng, tới biên thùy Trùng Khánh Phủ
vượt biên sang Quảng Tây lánh nạn. Bên Tchen Ngan Fou mo có người bạn
già làm quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Trần Tế Đường. Ông quan trấn đó rất
tốt, cô nàng có thể sang đó nương náu, sau sẽ hay! Mo sai đứa đệ tử dẫn
đi đường tắt.

Phi Phụng cảm ơn thầy mo Mán, lập tức lên đường, có thêm một người Mán gan góc, thuộc rừng làm hướng đạo!

Một cuộc săn đuổi kỳ lạ nhất sơn lâm diễn ra giữa rừng núi điệp trùng Việt
Bắc, thầy mo Hồng Thầu cao tay, dùng âm phù đánh lạc hướng truy lùng
nhưng lại sơ ý quên là súc vật rất thính hơi, nhất loài khuyển mã chó
sói lại càng đánh hơi rất thính. Giống chó đánh hơi theo dấu, thường
ngửi mùi cỏ dập, tìm hướng hoặc ngửi hơi người vương trên đường đi. Với
một đàn sơn cẩu tinh khôn, đem theo cả chiếc áo lót của vợ, Đèo Văn Lang sục sạo đường mòn, đường nào cũng biết, tuy có chậm một chút, nhưng
cuối cùng vẫn theo đúng hướng Phi Phụng đi.

Và đúng buổi Cầm Phi Phụng chạy tới gần vùng biên thùy phân mao, Đèo Văn Lang bắt kịp. Cũng
vừa khi bọn Cầm bị một bầy chó sói hung tợn sồ ra vồ rượt, Đèo Văn Lang
xua tay đàn sơn cẩu ào tới vồ xé đàn sói rừng kia, trong cơn hỗn loạn,
bọn Cầm chạy tứ tán, người dõng Thái, đệ tử thầy mo Mán bị sói ăn thịt,
gái hầu thoát chạy được, còn Phi Phung phi lên nẻo biên thùy. Rồi…
thảm kịch diễn ra, định mạng đã dành cho người thiếu phụ xấu số trong
cơn yêu cuồng điên loạn, tuyệt vọng bị Phi Phụng coi là sói tinh, quyết
không chịu lấy nữa, Đèo Văn Lang lên cơn điên tui hận, đã hành hạ người
vợ quý, dùng phấn bột vàng kích dâm, làm mê tâm loạn trí cuồng thân
nàng, bắt phải quỳ lạy xin ban ân giao hợp và cuối cùng đã hấp sát nàng
ngay dưới gốc tùng trước mắt Chúa núi Mã Đầu Quảng Tây! Một người đàn
ông tuấn nhã hào hoa, tài cao chí lớn, yêu vợ vô cùng đã giết ngay vợ
quý trong lúc tình yêu lên tới độ điên cuồng, hỡi ơi! Thảm kịch cổ kim
hãn hữu thê lương muôn đời… Tất cả chỉ vì định mạng, vì chí lớn! Ôi!
Chí lớn đặt sai đường “khởi tích tiểu dân tai”, tai ách đã vận luôn vào
bản thân gia đình mình.

… Chúa tể Thập Vạn Đại Sơn chợt dừng
lời thở phì một hơi dài, như vừa trút được cả ngọn Tây Phàn trong lồng
ngưc. Dư âm trầm buồn còn vang nhẹ trong căn đền im lặng mênh mông. Có
tiếng rú khủng khiếp, trong bóng mờ chúng nhân yên như tượng, bên cột
bóng Tây Sắc Ma Vương ôm lấy mặt lảo đảo chập chờn. Có nhiều tiếng thở
dài não ruột, liền mấy tiếng nấc nghẹn rung lên mơ hồ có tiếng nửa vừa
khóc vừa hỏi:

– Còn gì nữa không?

– Còn! Họa vô đơn chí, oan nghiệt… Đường hấp sát bước đầu vấy máu, tất sau còn đầy nước mắt! Sau cơn hấp vợ thành cái túi da, sục tìm con không được. Đèo Văn Lang
chạy về Cung A Phòng không thấy vợ hiền con dại, Văn Lang cười khóc như
điên. Theo thời gian, bệnh hấp càng tăng và oan nghiệt lan sang thú vật. Đệ nhị phu nhân Tây Kiều họ Bạc, từ ngày Cầm Phi Phụng mất tích, Tây
Kiều cũng sinh nghi để tâm dò xét. Rồi một đêm nàng cũng phát giác ra
chuyện khủng khiếp dưới A Phòng và thấy tận mắt cảnh chồng nàng tru rú
xé xiêm y gái tơ tung vòi đỏ vào lỗ mũi người hút chòm chọp…

Lúc đo Tây Kiều gần ngày đẻ, trông thấy ghê hồnm, suýt trụy thai, cũng đinh ninh chồng hóa loài ma quái sói tinh, hấp huyết quỷ. Tây Kiều cũng bỏ
trốn luôn, lần này nhờ Đèo sang rừng Thượng Lào thu sói, luyện “trành”.
Bạc Cong Chúa chạy sang Bắc Cạn yên ổn. Một mình một ngựa, thân gái dặm
trường nàng chạy vào dinh tuần phủ, cầu cứu “ông Trần”. Ông Trần lúc đó
là công tử Trần Hùng, con quan tuần phủ Trần Thành. Mấy năm trước, Trần
Thành trấn nhậm Lào Cai, Trần Hùng có dịp đi săn qua xứ Thái đen, tình
cờ hạ được hai con cọp dữ, mấy tên giặc Thổ cứu Bạc Công Chúa. Trần Hùng cũng giỏi võ, lại là trai minh chính, đường hoàng, tướng mạo khôi ngô.
Trai con quan Nam dưới Kinh, gái con tù trưởng tiểu vương sơn cước, trai tài gái sắc lạ gì cảnh đồng thanh tương ứng, hai người từ đó yêu nhau!
Mối tình Kinh Thái nên thơ nào ngờ chưa kịp đi tới hôn nhân thì Bạc Công Chúa bị cha gả cho Đeo Văn Lang.

Vì hiếu, vì phong tục rừng
xanh, Bạc Công Chúa phải gạt lệ dứt tình về làm đệ nhị phu nhân tù
trưởng họ Đèo. Nàng cố yêu chồng quên chuyện cũ. Nay gặp cơn kinh hoảng, nàng chạy tới gặp Trần Hùng nhờ cứu nạn. Thương xót cố nhân, Trần Hùng
quyết hy sinh giúp nàng, bàn nhau giả nhận vợ chồng che mắt chúng nhân.
Trần cùng thủ hạ dẫn Bạc Tây Kiều sang Hồ Ba Bể định ẩn dưới hang sâu.
Nào dè quân ma theo dõi đoạt vòng, đoạt ngươi đẹp, quân Trần bị đánh tan tành, Trần đưa được nàng tới gần hồ, thì nàng đau đẻ, vào quán sinh
con! Trong khi đó, Đèo Văn Lang lại dùng độn toán, ma xó tìm ra hướng Hồ Ba Bể. Không may cho Tây Kiều, Trần Hùng. Hồ Ba Bể lại là nơi Đèo Văn
Lang dùng làm cứ địa, tạo ra quái vật Giao Long Chúa cho thủ hạ ngầm
chiếm lĩnh khu hồ, thả cả thuồng luồng thực xuống đấy. Khi tìm ra phương hướng Đèo Văn Lang lên thẳng Hồ Ba Bể, vào hang ngầm của Trần

Hùng bắt lão canh hang nằm đợi đấy. Quả nhiên khi thầy trò Trần Hùng phò mẹ
con Bạc Tây Kiều chạy tới bên hồ bị quái nhân rượt gấp cả bọn đã nhảy
xuống nước lặn vào hang ngầm rơi vào vuốt Giao Long chúa.

Biết
Hùng, Kiều trước thương nhau, Đèo Văn Lang ghen hờn hết sức. Nhưng sau
lần điên rồi hành hạ vợ quý giữa cơn cùng loạn, Đèo Văn Lang đã hối hận
vô cùng, nên không dám làm Tây Kiều tuyệt vọng. Đèo đem Trần Hùng về
nhốt ngục sọ sát Tây Cung. Đèo nguyền khi nào Trần Hùng phá nổi ngục ra
ngoài, Đèo sẽ tha, đồng thời khi nào Tây Kiều dửng dưng trước cảnh Trần
Hùng bị hành hạ, Trần mới khỏi bị hành, sở dĩ Đèo kéo dài cảnh đó, một
phần vì lòng ghen sâu cay, phần sợ Trần chết, Tây Kiều cũng chết và Kiều sợ nếu mình quyên sinh Trần sẽ phải chịu cực hình trong ngục sọ nên
nàng phải sống!

Người đàn bà khổ sở còn cố sống vì còn chút hy
vọng gặp lại con thơ đã trao cho bà Mán tiền vô danh. Đèo Văn Lang vẫn
tiếp tục mò luyện phép trường sinh, lần từ hấp sát tới hấp sinh. Đèo
luôn luôn bị ám ảnh vì cái chết của Cầm Phi Phụng, nên tuy có đủ Ngũ
Cung, Thập Viện đầy rẫy gái đẹp, Đèo vẫn một lòng yêu Bạc Tây Kiều, hiến vợ đủ thứ trừ chuyện ra ngoài một mình. Nhưng dẫu được yêu chiều, lòng
người vẫn không hết khủng khiếp thường bị cảnh hấp tinh ám ảnh.

Tuy vậy, sau đó nàng còn đẻ một lần nữa với Đèo Văn Lang, người con gái đó
là Đèo Nguyệt Kiều. Do Đèo giục, và cũng do lòng thương Cầm Phi Phụng,
Bạc Tây Kiều lại nhận người em Dũng, là Kiệt làm con mình, và chính Kiệt cũng tưởng nàng là mẹ đẻ. Nhưng Đèo Văn Lang lại không nuôi Kiệt dưới A Phòng, sợ con bị cảnh này chi phối tâm hồn, viên tù trưởng thông minh
này đã bắt đầu lo nghiệp báo, sợ con đi vào đường cha đã đi.

Nên Đèo gửi Văn Kiệt đi học nơi xa, thành tài mới bí mật gọi về truyền thêm tài thuật ngoại trừ phép “hấp luyện trường sinh”. Cũng không cho Văn
Kiệt gặp Nguyệt Kiều, không cho bén mảng tới Thập Viện A Phòng!

Nào ngờ, Văn Kiệt có tính ma mãnh, thường lẻn đi xem các viện của cha, lập
tức ao ước được “nối chí” cha! Kiệt do thám lần mò chép được bản sao chữ tượng hình trong vòng Càn Khôn, lại có cả bản giải và bí mật thực hành
liền. Và khi cả thiên hạ đã đồn ầm về một quái nhân hấp gái tơ lỳ không
kém Tây Sắc. Đèo Văn Lang, Tây Kiều biết chuyện thì Đèo Văn Kiệt đã khét tiếng Nhũ Hoa Thần, hấp đàn bà đến nát ngực hoa! Đễn nỗi mò xuống bắt
cả đầm non con gái Tây Gầm, gieo tiếng oan cho Minh Thần, mò xuống cả
Nam Na, bức hôn chị họ không hay! Hỡi ôi! Hơn hai mươi năm đằng đẵng,
Trần, Đèo, Cầm, Bạc mấy cuộc tang thương, hận tình muôn thủa. Một nhà
tan nát họa thảm nhãn tiền chỉ vì… thả mồi bắt bóng, mồi hạnh phúc
đang nhai lại thả ra đuổi bắt cái bóng xa xa, bóng bắt chẳng được mồi
kia không còn. Nhưng nghĩ cho cùng, cũng chỉ tại quá thông minh, quá
nhiều hạnh phúc, mà phải chịu cảnh tang thương, oan trái, chẳng qua cũng do mạng số, tù trưởng Đèo Văn Lang đi lầm nước cờ hạnh phúc, gây nên
bao nhiêu tai họa, nghĩ cho cùng, đã phải trả giá đắt cả một đời hạnh
phúc, tính cũng đáng thương thay!

Chúa núi Vân Nam kể một hơi
dài, vang trong cảnh im lặng thẳm sâu, âm hưởng thấm vào tận hồn người.
Tự nhiên có tiếng thở dài nhè nhẹ, buồn mang mang như gió thổi mặt sông
dài. Có tiếng nấc, giọng Võ Minh Thần cất lên run run:

– Huynh
trưởng! Mẹ em chết đã ngoài hai mươi năm nay còn nghe giọng nói? Một bàn tay giơ lên, phất một cái, ánh sáng huyền ảo bừng lên.

Đại Sơn
Vương đẩy mọi người vào phía sau bàn thờ Cầm Phi Phụng, Thoong Mềnh ấn
cái nút, trên cột nền hậu cung bỗng mở ra một đường hầm có đèn sáng với
những cần trục, dây “cu-roa” xích sắt, trên xích có đặt một day kèn hát
mở sẵn.

– Tiếng mẹ em chỉ là tiếng được thu vào đĩa từ xưa. Đèo
Văn Lang, cha em, yêu vợ vô cùng, chỗ nào cũng để máy thu thanh, cho vào từng bộ đĩa ngày nào cũng vặn nghe.

Sau tấm thảm kịch biên thùy Trùng Khanh Phủ, vì quá nhớ vợ, Đèo bèn thiết lập tại biệt cung đền thờ mỗi nơi một bộ máy chạy “cu- roa” xích sắt, cho mở kèn di động dưới hầm âm chạy theo xích, nghe như có người nói thực! Đêm nào Đèo cũng cho
diễn lại những cuốn băng thu thanh để sống với kỷ niệm xa xưa, nghe
giọng vợ, nghe “tiếng dĩ vãng” để có ảo tưởng như người xưa còn sống.
Ban nãy, sau khi biết Minh Thần chính là con nít vòng xanh, Đèo khổ sở
điên cuồng không dám nhận con. Bèn chạy về đây “diễn” lại tích xưa cho
hồn đỡ khổ để chờ cuộc định đoạt cuối cùng của số mạng chính ông cũng
góp phần.

Đại Sơn Vương hất hàm một cái. Cô gái đứng trong cỗ
quan tài phía sau bước ra, nhảy xuống hầm cho chạy máy hát. Tiếng Cầm
Phi Phụng lanh lảnh:

– Lang quân! Đố chàng biết thiếp đứng đâu đấy? Ha ha! Chàng làm gì mà đứng ngẩn ra thế. Lại coi này, thằng Dũng nó đang cười…

Tây Sắc Ma Vương nãy giờ vẫn gục cột đền, rũ rượi, bỗng lảo đảo bước vào, rống lên:

– Phi Phụng! Nàng đứng trong cõi u minh, nàng nhìn rõ chứ! Thằng Dũng con ta về báo oán… Ha ha! Hiếu tử! Hiếu tử! Nó không quên thù phụ mẫu, em ơi! Hãy đợi anh, đợi anh! Em đâu? Em đâu?

Đại Sơn Vương ra hiệu tắt máy nắm lấy Tây Sắc ngó trừng trừng vào mắt Ma Vương phát giọng trầm uy:

– Hãy bình tâm lại! Không có gì phải kinh sợ! Trong cõi u minh Cầm Phi
Phụng đã tha thứ cho ông khi trao đứa bé đẻ rơi. Bạc Tây Kiều cũng đã
dặn không báo thù, tuy lòng đầy khủng khiếp!

Tướng núi Vân Nam vùng nói lớn:

– Chồng giết vợ, định mạng khắt khe gieo xuống mái nhà nhưng định mạng đã ngừng tay oan nghiệt, từ khắc mỗ tới đền thờ này kịp ngăn cản lưỡi kiếm báo cừu! Đèo Văn Dũng, Thương Kiều, còn gì không tới nhận cha!

Võ Minh Thần, Giao Long Nữ cũng quay nhìn Tây Sắc Ma Vương, Bạc Tây Kiều nhẹ đẩy Giao Long Nữ ra nghẹn ngào run giọng nhỏ:

– Cha con mê cuộc trường sinh, gây nên tai vạ, lam cho lòng mẹ khủng
khiếp suốt bao năm không nguôi, khổ sở buồn đau… Nhưng mẹ, mẹ đã tha
thứ. Mấy chục năm nay, cha con phải mang lốt sói có gì vui đâu.

Giao Long Nữ vụt ngó Minh Thần, cả hai lại vụt nhìn lên tượng ảnh bà nàng
Cầm Phi Phụng. Rồi không hẹn nhau, cả hai cùng chầm chậm tiến lại chỗ
Tây Sắc Ma Vương đứng gục sau cột, Ma Vương bỗng xua tay, kêu rú:

– Không không! Không còn gì nữa! Đèo Văn Lang đã chết rồi. Ta… ta chỉ
là Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy Chúa Sài lang tứ túc, đừng ai tới gần ta!

Ma Vương rời cột lùi ra, chực bỏ chạy. Nhưng Đại Sơn Vương, Woong Lầu,
Thoong Mềnh, Thần Nữ, Đông Âm, Quản Kình đã lẳng lặng tiến ra, đứng dàn
ngang bệ đá, chắn mất lối đi.

Võ Minh Thần, Giao Long Nữ tiến
mấy bước lò dò rồi bất thần cả hai cùng nhào tới, rồi ôm chầm lấy Ma
Vương Cẩu Quẩy như không còn biết ghê sợ bộ lông lá xồm xoàm vuốt sài
lang lởm chởm nữa!

Tây Sắc lùi một bước, lảo đảo chạm vách đá,
rồi chừng như không kiềm chế được nỗi xúc động thấy mặt hai đứa con oan
trái lưu lạc cách biệt từ trứng nước, Tây Sắc cũng giang rộng cánh tay
ôm choàng lấy hai con, khóc rống lên thống thiết. Võ Minh Thần, Giao
Long Nữ cũng khóc òa như con nít và từ từ tuột xuống quỳ cả dưới chân Ma Vương.

– Cha… Cha ơi! Hãy tha tội cho con… đã vô tình phạm tới cha!

– Cha ơi! Bao năm trời luyện võ thuật báo đại cừu phụ mẫu, co bao giờ con dám ngờ kẻ đại cừu ấy lại là cha! Cha tha tội cho con.

Ma Vương run rẩy cúi xuống, sốc Giao Long Nữ, Minh Thần đứng dậy, đưa hai bàn
chân đầy vuốt nhọn như chực lau nước mắt cho con, lại thôi, giọng rống
lên thê thảm:

– Con ơi! Cha có tội lớn với mẹ con, có tội lớn
với loài người, cha… cha không còn là giống người nữa, cha là chó sói, người hóa sói, chỉ làm tủi nhục cho vợ con!

Bọn Đại Sơn Vương thấy cảnh cha con gặp lại, ai nấy đều rưng rưng cảm động nhìn lên ảnh tượng Cầm Phi Phụng.

Ba cha con Ma Vương nói với nhau những gì cũng chẳng ai nghe rõ, riêng Đèo Nguyệt Kiều gục vách đá, bỗng quay nhìn ra, và chạy ùa lại ôm chầm lấy
bà Bạc Tây Kieu khóc nức nở. Bà công chúa xứ Thái đen ôm con vuốt nhẹ
lưng cong, mà lệ chảy giòng giòng.

Bỗng Đại Sơn Vương nói lớn:

– Đèo Văn Lang lão trượng! Ác mộng đã qua, hãy quên ác mộng, cha con trùng phùng, bà Phi Phụng cũng ngậm cười trong cõi u minh!

Võ Minh Thần, Giao Long Nữ nghe lời Đại Sơn Vương, cả hai vùng buông Ma Vương ra, lùi một bước sụp xuống, run giọng:

– Từ lớn lên, chúng con chưa hề được thấy mặt cha, xin phụ thân cho chúng con được thấy dung nhan!

Ma Vương chưa nói chi, Đại Sơn Vương tiếp liền:

– Chính thế! Mỗ cũng vừa định nói! Đèo lão trượng luyện công mới bị dính
người, đầu mặt chưa sao! Mỗ đã nghĩ tới một vị thánh y có thể giúp ông
giải phẫu lấy được lốt sói ra và trị cơn bệnh hấp! Đó là Thánh y Hải
Thượng Lãn Ông tái thế miền Mai Hoa Thung Si Công Linh từng cứu mạng cho Minh Thần! Giờ ông cũng nên cho con nhận diện.

Tây Sắc Ma Vương đứng im mấy khắc vẻ suy nghĩ, đoạn lặng lẽ bước lại phía sau cột đền,
đưa “tay vuốt” nhón mép cằm, lột khoảng đầu mặt ra.

Ai nấy hồi
hộp, nhất Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, cả hai cùng nín thở nhìn vào cột,
Thần sực nhớ lại mấy năm trước đột nhập tận Mê Cung, nhân lúc Ma Vương
đang nằm xoay lưng ra, bên ngọn đèn dầu lạc. Trong vách có treo một tấm
gương phản chiếu. Thần đã thoáng thấy hình cẩu quẩy nằm, nhưng lại hiện
một bộ mặt người, mặt một ông già quắc thước, hai mắt sáng như điện, chỉ vụt thoáng như tia chớp, nên chàng không nhớ rõ từng đường nét, nay
càng sinh hồi hộp.

Tâm lý hiếu tử bấy lâu khổ vì nguồn gốc thân
thế mịt mờ nay sắp được thấy mặt cha lòng thổn thức không cùng, cả hai
ngó khong chớp mắt. Im lặng ngạt thở, chừng nửa phút sau, vẫn thấy Ma
Vương loay hoay, bất thần Ma Vương hét lên một tiếng toàn thân chấn động ngã vật xuống.

Thất kinh ai nấy chạy sổ lại, Minh Thần, Giao
Long Nữ đứng gần nên sốc được Ma Vương lên lay gọi. Ma Vương bỗng nín
khóc, vùng ngửa mặt cười thét lên như điên:

– Định mạng! Ha ha!
Định mạng đã dành oan oan tương báo! Thiện ác đáo đầu! Gieo gió gặt bão! Ha ha! Giờ ta mới biết sợ thiên công!

Vẫn chưa ai hiểu chuyện gì, Đại Sơn Vương phải lên tiếng hỏi, Ma Vương mới trầm giọng bảo:

– Dính rồi! Dính chặt vào rồi! Dính như mình mẩy. Thế là toàn thân thể đã dính đều lốt Ma Vương Hồng Cẩu Quẩy! Từ nay, không còn cách nao trút bỏ nữa! Da sói đã dính da người, huyết khí chu lưu, thành Ma Vương Cẩu
Quẩy!

Mọi người giật nảy mình, nhìn nhau biến sắc, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Đèo Nguyệt Kiều vùng kêu “trời” kinh hoàng nhào tới, nắm
“tay” Tây Sắc run giọng:

– Phụ thân! Sao thế phụ thân? Sao lại dính?

Nhưng Tây Sắc cứ ngửa mặt cười sằng sặc, cười muốn rung chuyển cả đền đài
như muốn trút hết khí lực còn lại trong mình theo tiếng cười thống hận.
Chúa Thập Vạn Đại Sơn tiến lại gần, giọng đượm lo lắng trầm hỏi:

– Ông nên bình tĩnh? Phải ông vừa nói da mặt da sói mới dính vào nhau? Hình như ông vẫn mang một lần mặt nạ sắt bên trong mà?

Cười thêm tràng nữa, Tây Sắc mới chịu ngừng, gỡ nhẹ tay bọn Võ Minh Thần ra nghiêm giọng bảo:

– Hơn hai mươi năm nay, mỗi lần khoác lốt Chúa sài lang, Tây Sắc vẫn đeo
mặt nạ trước, nhưng đêm nay Tây Sắc lại đeo lốt Giao Long Chúa, có lót
giáp sẵn, nên không đeo mat nạ. Về tới cung A Phòng, trùm lốt sói ngoài. Giáp này chỉ có từ vai xuống nên khi trùm lốt sói ngoài, da sói dán sát da mặt. Và khi tử chiến với Dũng Minh Thần, Tây Sắc đã vận hết ngũ hành cương khí, thân thể căng phồng, tiết sức nóng thành vầng huyết khí nung cả giáp sắc lốt sói, tuy có sức hàn chế giải, nhưng khi bị đòn kiệt
lực, sức hàn tiêu, da mặt da đầu dính luôn vào da sói lúc nào không biết nữa! Hỡi ơi! Định mạng đã dành lưới trời lồng lộng, thiện ác báo đầu
oan oan tương báo, không sao tránh khỏi!

Dứt lời Ma Vương đưa mắt nhìn Bạc Tây Kiều, nhìn tượng ảnh Cầm Phi Phụng nước mắt chảy giòng giòng, nói lớn:

– Đèo Văn Lang đã thành “người chó sói” mang lốt oan nghiệt gớm ghênày để đền tội hại sinh linh. Cung A Phòng này dựng trên mỏ “đất đèn”. Đêm nay động vỡ từng khoảng lớn, có thể nổ bất ngờ! Tất cả mau lên mặt đất!

Võ Minh Thần vụt nam lấy tay Ma Vương run giọng:

– Phụ thân! Đêm nay sắp hết, mai đây trời sẽ sáng! Lốt oan nghiệt gớm ghê này đã đền lại tội năm xưa. Phụ thân mau theo chúng con lên mặt đất,
Thánh Y Lãn Ông sẽ lột xác sói cho cha!

Đại Sơn Vương cũng nghiêm giọng bảo:

– Dũng Minh Thần nói đúng! Cõi thế gian này đã quá nhiều oan trái xót xa, giờ tới lúc gia đình đoàn tụ! Hãy giải tán ngũ cung thập viện, cho nổ A Phòng, cùng nhau lên mặt đất! Hải Thượng Lãn Ông Mai Hoa Thung là bực
Thánh y, sẽ giúp ông trở lại nguyên hình tù trưởng cũ!

Ai nấy
xúm vào khuyên giải! Riêng Trần Hùng nãy giờ vẫn đứng im dưới bệ suối.
Từ lúc vào đền, chứng kiến chuyện oan trái xót xa, Trần không phát một
cử động nhỏ, không hé môi nói nửa lời. Hơn hai mươi năm, lòng Trần còn
đầy uất hận, nay vừa nghe Tây Sắc nói dứt lời, Trần Hùng vùng nói lớn:

– Đèo Văn Lang! Ông lên cơn giết Cầm Phi Phụng nuôi chí sai lam, tàn hại
sinh linh, hơn hai mươi năm qua nhốt ta trong ngục lạnh, bắt chịu đủ cực hình tủi nhục. Đời người chỉ có một thời xuân xanh, nay tuổi trẻ đã
qua, cực hình đã chịu, dẫu có chặt mười cái đầu Tây Sắc thì cực hình ta
đã chịu rồi, vợ ông đã chết sinh linh nào còn? Vậy Trần Hùng này không
thù oán chi ông đâu, hãy sống với vợ con chuộc lại thời cuồng sắc. Một
cái am vắng biên thùy đang đợi hay nếu ông không còn ghét, Trần này
nguyện đem nốt quãng đời còn lại làm bạn với ông cho đến ngày cởi bỏ lốt sói.

Giọng thành khẩn đầy độ lượng của kẻ đã uổng đời thanh
xuân vì sự ghen lầm của Tây Sắc làm mọi người đều cảm động, nhưng vừa
nghe dứt, Tây Sắc vùng cười thét:

– Trần Hùng! Ta ngã ngựa rồi
ông không oán người ngã ngựa, cư xử trượng phu với ta! Nhưng ta cám ơn,
không nhận được! Ông hy sinh cho tình cao thượng, tất cả mọi người đứng
xung quanh đều biết hy sinh cao thượng, ta đây Tây Sắc lại không biết
làm bạn, cha, chồng những người cao thượng sao? Thuật hấp sinh đã luyện
thành công, ta còn mang lốt sói này làm gì nữa? Để sống với mọi người
sao? Để kéo dài chuyện oan nghiệt nhãn tien? Không! Lúc này ta xin tất
cả mau rời khỏi A Phòng!

Câu cuối Tây Sắc nói như hét và quay luôn sang phía Đèo Nguyệt Kiều bảo:

– Kiều con! Mau ra truyền Dạ Xoa nổi hiệu cả ngũ cung thập viện, cấp tốc
rời cung, đem theo chó sói! Và mau dẫn mẹ con, các anh chị mọi người lên mặt đất gấp! Phải mau! Với con, không cần cờ lệnh!

Nhưng Đèo
Nguyệt Kiều vẫn ôm bà Tây Kiều khóc nức nở, không nhúc nhích. Tây Sắc
giục như quát “đi mau, chậm A Phòng sẽ nổ”, nàng vẫn bất động, Võ Minh
Thần, Giao Long Nữ cùng mọi người đưa mắt nhìn Đại Sơn Vương cầu cứu,
viên Chúa Thập Vạn Đại Sơn tiến lại sát Tây Sắc, trầm giọng đanh nghiêm
đượm nhiều thương cảm:

– Đèo Văn Lang tù trưởng! Lãn Ông sẽ đủ
sức bóc lốt sói giúp ông hiện nguyên hình tù trưởng! Nếu ông nghĩ tới
lỗi lầm xưa, xin hãy vì vợ con theo mỗ lên mặt đất!

Tây Sắc vừa
lắc đầu chưa kịp nói chi, thình lình, giữa đêm sâu, lòng đất bỗng nổi
lên những tiếng ầm ầm không khác tiếng thiên binh vạn mã chuyển dịch rồi khắp bốn phương tám hướng có nhiều tiếng súng nổ chát chúa, toàn tiếng
súng tay, súng tự động.

Ai nấy vụt lắng tai nghe.

– Lũ ma nhan quái khách nổi loạn cướp A Phòng.

Đèo Nguyệt Kiều vùng bảo:

– Khu đền này cách biệt, ngăn luôn tiếng động phía đó! Lũ quái có làm loạn cũng không thể nhiều tiếng súng đến thế?

Nàng vừa dứt lời, bất thần xa xa day lên hàng chục tiếng ầm ầm đì đùng như
long trời lở núi, lòng đất cung A Phòng rung chuyển không khác bị một
trận ném bom giật mìn phá, địa lôi, rồi cứ thế hàng loạt tiếng đì đùng
vang dội lại tiếng ầm ầm rung chuyển đat mỗi khắc thêm gần.

Chúa Thập Vạn Đại Sơn vụt kêu khẽ:

– Có trận đánh lớn! Đó là tiếng đại pháo kích! Ít nhất phải hàng trăm khẩu cùng nã một lúc!

Không khí trong đền vụt trở nên nặng nề khó thở. Tây Sắc Ma Vương vùng phát tiếng trầm u:

– Tiếng súng đại tấn công! Có cả tiếng địa lôi, thủy lôi phục phát nổ! Cuộc đại chiến trên mặt đất…

Lời chưa dứt, đã nghe những tiếng đì đẹt vang vọng càng mau, gần thêm, dữ
dội hết sức, xen những tiếng ầm ầm ép lòng đất thẳm rung chuyển đền đài
gấp bội.

Ngay khi đó, xế phía trước đền, bỗng dậy lên những
tiếng ào ào như gió gào mưa hú, thiết kỵ bôn hành, lắng nghe mơ hồ có
lẫn tiếng quân reo, sói tru, quái hét, kéo lê trong đêm quanh A Phòng.

Đoán có trận chiến dữ nhưng vẫn chưa ai đoán chắc chuyện gì xảy ra, thình
lình nghe ngoài cửa đền, nổi lên hàng loạt sói tru nhọn hoắt, lẫn tiếng
quát tháo giật giọng, vài tiếng súng đì đẹt có tiếng hét “nó trong này,
đúng nó trong này” rồi lại nghe tiếng gươm đao chan chát.

Ai nấy ngạc nhiên ngoảnh trông ra, sịch thấy một bóng mặc quần áo Chàm Thổ,
đội mũ trụ, bắn vọt từ ngoài cửa thông “Viện Hấp Sinh” vào trong đền,
thân pháp nhanh như con cắt. Nhưng khi vừa hạ chân xuống nền đá giữa đền bóng áo chàm này lại lảo đảo chao người mấy cái mới lấy lại được thăng
bằng, ôm ngực thở mạnh, xem vẻ đã tiêu hao quá nhiều sức lực. Bóng chàm
đưa mắt nhìn khap mấy gian đền rộng thâm u, chợt giật thót mình một cái
khi nhận ra nhiều bộ mặt vừa quen vừa lạ, đứng câm nín dọc dưới lên khu
bệ trước bàn thờ. Tia mắt dừng chỗ Bạc Tây Kiều, Tây Sắc Ma Vương, Đèo
Nguyệt Kiều, bóng chàm lưỡng lự, lúng túng, e ngại mấy khắc, đoạn tiến
thẳng lên bệ, chạy tới chỗ Ma Vương Tây Sắc đứng, nói một tràng tiếng
Thái, sau khi lắp bắp chào bà Tây Kiều không thành tiếng:

– Bẩm, Độn Thủy Cung, Độn Thổ Cung bị quân địch đại tấn công! Bọn quái khách
tứ xứ nổi dậy làm loạn cung A Phòng định cướp gái ngũ cung thập viện,
cướp của cải bảo vật! Chúng lại mới có thêm đồng đảng xuống tiếp viện.
Một bọn cao bản lãnh đã tới trước Mê Hồn Cung này! Chúng hò nhau đi sục
kho vàng bạc, định cướp cả bảo tàng viện, hấp sát hấp sinh! Tình thế rất nguy, can ngăn không nổi!

Dứt lời bóng chìm chợt lột mũ trụ ra. Dưới làn ánh sáng vật vờ, hiện ra bộ mặt giong Võ Minh Thần như đúc:
Nhũ Hoa Thần mình bị mấy vết gươm đao chém rách áo lòi cả giáp bên
trong.

Nhiều người bật kêu “ồ”, Tây Sắc Ma Vương lẩm bẩm:

– Đến phút này, sát nghiệp vẫn không rời Chúa Sài Lang! Hừ! Lũ quái khách này lớn gan trở mặt làm loạn A Phòng! Sao không mở cơ quan cản chúng?

Nhũ Hoa Thần thở phào:

– Bẩm, cơ quan có khu đã bị vỡ, máy cái bị một trái mìn nên hỏng khá
nhiều! Âm binh quỷ xó nhiều khu đã bạt! Nhưng lũ quai khách còn chưa
đáng ngại bằng quân địch ngoài tấn công! Chúng đông như kiến, tiến theo
đại pháo chần hoa cải và hình như chúng có cả sơ đồ vị trí A Phòng!

– Quân nào?

– Bẩm, quan binh! Có lẽ quân đoàn lưu động dã chiến biên thùy cua tướng Tây Gầm. Đủ cơ đội binh chủng! Đại pháo như mưa.

Tây Sắc Ma Vương rúng động toàn thân, buồn bực hết sức vừa nghe tới đó, Tây Sắc vụt thở phì, cúi đầu lẩm bẩm:

– Định mạng! Hừ! Lúc ta còn đủ uy lực huyết khí càn khôn chúng làm gì
nổi? Tại sao chúng lại tổng tấn công đúng lúc ta bất lực, chán chường?
Hừ! Chỉ thương đám gái ngũ cung thập viện phải nát thân vì đại pháo.

Mấy khắc qua vẫn chưa ai lên tiếng, bỗng Tây Sắc quay qua Nhũ Hoa Thần, giọng vụt trở nên oai nghiêm hết sức:

– Đèo Văn Kiệt! Kia là Đèo Văn Dũng anh ruột mi cùng cha cùng mẹ, và Bạc
Thương Kiều, em ruột mi cùng cha khác mẹ. Hãy nhìn anh mi, em mi, từ lớn lên lưu lạc bốn phương, nuoi chí báo thù cho cha mẹ, khổ công luyện
tập, chí lớn, tài cao, đức rộng, lòng hiếu nghĩa cảm động đến trời, nên
luyện tập được bí pháp càn khôn! Còn mi, mặt đẹp như trăng rằm, lòng đen như mực, chỉ tính chuyện làm càn, sao chưa ăn năn hối ngộ, nhận anh em, lấy đó làm gương?

Nhũ Hoa Thần tuy đã từng làm chuyện gớm ghê,
nhưng xưa nay rất sợ cha mẹ, nghe Ma Vương nói như quở trách, chàng ta
tái xanh mặt mũi, vừa ngượng vừa sợ, ấp úng đáp:

– Con… Con
thấy cha theo đường hấp luyện kỳ công, con tưởng học làm như cha không
phải là tội lỗi… Con… con muốn được nổi tiếng như cha! Tây Sắc Ma
Vương nghe nói, vùng ngửa mặt rống lên thê thảm “Oan nghiệt! Oan
nghiệt! Oan gia! Oan gia! Ôi! Ta đã làm gương xấu cho con…”. Bèn thở
phì dịu giọng thê lương bảo:

– Văn Kiệt! Con hiểu lầm rồi! Cha
gây chuyện dữ vì mê cuồng muốn mưu thuật trường tồn cho chúng sinh, con
không hiểu nổi! Nay con phải theo anh, em mà cải tâm sám hối may mới
tránh được vòng oan nghiệt!

Đèo Nguyệt Kiều bèn đỡ lời kể qua
câu chuyện bí ẩn giòng họ Đèo, Nhũ Hoa Thần nghe xong sững sờ như bị sét đánh đứng ngó trân trân và lừ đừ nhào tới om lấy Minh Thần, Giao Long
Nữ khóc tạ tội.

Bỗng nghe ngoài đền náo động, người hét sói tru inh ỏi, đao thương chan chát lẫn tiếng ào ào cuồng loạn:

– Vào đi anh em ơi! Nó trốn trong này, hầm vàng trong đó, mau lên, chậm Tây Gầm chiếm mất! Anh em ơi!

Ai nấy trông ra giữa cảnh hỗn loạn ánh sáng vật vờ qua khung cửa mở thoáng gian ngoài, có hơn chục bóng nữ nhân quái khách đánh dạt chó sói, Dạ

Xoa, chạy xộc vào, nhảy múa như điên, có tên thay mỹ nữ hấp sinh ngồi trên
sập, sướng quá chạy ùa lại tranh nhau vồ bắt, có lũ phóng thẳng qua cửa
thông.

Rầm! Như trong ác mộng, cả đám sụp hầm bí mật mất dạng, tiếng rú thất thanh kéo lê sâu hun hút.

– Coi chừng sập bẫy! Bắt mụ Dạ Xoa dẫn đường! Coi kìa! Nó đứng trong đền!

Tiếng hét vọng vào, lẫn tiếng hỗn chiến, Tây Sắc Ma Vương vụt đứng thẳng
mình, lắc vai khô giọng “Hừ! Lũ khốn phản trắc, dám tới Mê cung đền thờ
làm loạn”, va Tây Sắc phóng mình xuống bệ.

Tiếng đì đùng ầm ầm từ xa vẫn vọng tới, Đại Sơn Vương bỗng vươn tay nắm lấy Ma Vương, đẩy nhẹ vào, nghiêm giọng:

– Huyết khí ngũ hành tán kiệt, ông chớ ra chỗ súng gươm vô tình! Để mỗ mở đường lên mặt đất.

Dứt lời, Chúa Núi Vân Nam cùng Thoong Mềnh, Woong Lầu dợm quăng mình ra cửa đền, nhưng ngay khi đó, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ nhất tề lau lệ, nhảy vọt ra cản lối cao giọng:

– Bất tất huynh trưởng phải nhọc sức với lũ ma đầu quái khách bất lương!Để chúng em ra đuổi chúng cho xong! Xin đợi!

Dứt lời, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ cùng lắc mình nhảy vèo xuống dưới, sóng hàng tiến ra. Mọi người ngó theo. Bóng hình thanh tú của đôi trai gái
vừa ra đến cửa đã bị vầng huyết khí hổ phách xóa nhòa, dưới ánh sáp, hai bóng đỏ cao lớn kỳ dị vượt qua khu sập mỹ nữ… oai nghi như hai bóng
Thiên Thần Máu!

Đúng lúc đó, từ ngoài một bọn hơn hai mươi bóng
quái khách, ma nữ ùa vào gươm đao sáng lòa. Sịch thấy hai bóng đỏ tiến
ra, cả lũ khựng lại giật mình dáo dác, kêu:

– Ma Vương, thằng
mặt sắt! Sao mi cùng đi? Qua làn huyết khí, Minh Thần, Giao Long để hai
lỗ hổng mắt, trông ra, nhận thấy trong bọn có cả Hấp Huyết Quỷ Nương,
Tiểu Sát Tinh Bắc Tiếu v. v…

Minh Thần hét:

– Lũ mi
muốn vào đây mượn đường về âm phủ? Giao Long Nữ quát “lũ này xưa từng
rượt bắt mẹ em trên Hồ Ba Bể, để chúng làm gì”. Hai bóng máu đồng loạt
vung tay kình khí, bùng bùng chát xoảng! Bịch bịch! Súng gươm bắn văng,
bóng người bay tung dật dờ như hình giấy hàng mã, lẫn tiếng rú khủng
khiếp! Lốc kình quơ hình giấy ném ra ngoài như ném bấc.

Đám ma
nữ quái khách này nhiều kẻ bản lãnh cao cường còn tung chưởng kình đỡ bị huyết khí càn khôn đốt thành than nát như cám, bọn chúng còn sót tên
nào, bỏ chạy tán loạn. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ rượt theo ra tới cửa
tò vò, dưới vầng trăng sao tinh tạo, Giao Long Nữ thoáng nhìn ra bóng
Tiểu Sát Tinh Bắc Tiếu giữa đám quái khách, cô gái sực nhớ lại có lần
suýt bị nó hại mạng, lập tức vọt qua cửa tò vò, hét lớn:

– Mi
còn định chạy đâu? Theo tiếng quát đường trảo kình huyết khí vút đi quật thốc vào đám quái khách nhưng bọn này khôn hết sức đã kịp thời vật luôn mình xuống vèo như trái cầu, có kẻ lại cất vọt người lên. Tuy vậy, một
đường búa chém xả lên cao chặt bay gót chân Bắc Tiếu, xả đôi mình một
tên tướng thổ phỉ tầu, lia đứt thêm cặp cà kheo của Hấp Huyết Quỷ Nương. Bắc Tiếu, Quỷ Nương kêu ré lên ngã nhào xuống bị xác thổ phỉ rớt “huỵch huỵch” trúng lưng. Lưỡi búa Giao Long xả xuống như chớp giật chém phanh xác chết làm mấy mảnh nữa, sạt vai tóc Bắc Tiếu, Quỷ Nương. Cả hai ôm
nhau nhảy vọt ra tòa long đình chui luôn xuống hầm còn lũ kia kẻ lao vào mồm sói đứa nhảy tõm xuống hồ, người chạy xé ra nẻo khác kiếm đường tẩu thoát. Giao Long Nữ, Võ Minh Thần vừa toan rượt theo, bỗng nghe có
tiếng gọi sau lưng. Hai người dừng chân, ngoái nhìn lại thấy Nhũ Hoa
Thần Đèo Văn

Kiệt, Đèo Nguyệt Kiều trong Mê Hồn Cung chạy ra hấp tấp. Đèo Nguyet Kiều nói lớn:

– Phụ thân và Chúa Thập Vạn Đại Sơn sợ anh chị lạc cung, sai em đuổi theo dẫn lối cho mau. Người truyền, đánh đuổi xong, lập tức cho Dạ Xoa,
trành, xó, chó sói di tản đàn bà A Phòng lên mặt đất, rồi hãy lộn cung
Mê đền thờ!

Nhũ Hoa Thần tiếp:

– Cung A Phòng lên xuống
mấy tầng, rộng lắm, có lẽ nên chia làm hai toán, mau hơn. Toán Đông
Nam, toán Tây Bắc, mỗi toán đi mấy viện.

Minh Thần gật đầu:

– Phải đó! Vậy Thương Kiều đi với Nguyệt Kiều, còn em Kiệt dẫn anh! Bốn
anh em, hai toán, vọt đi hai ngả mất dạng. Tiếng hỗn loạn vang động khắp A Phòng. Xa xa, trên cao, những tiếng đại pháo súng lớn, nhỏ vẫn nổ dòn thêm dữ, vọng xuống cung sâu vẳng như tiếng trên trần đưa xuống âm ty. Khắp bốn phương tám hướng chỉ cần lắng nghe ít khắc, cũng đoán nổi cuộc đại tấn công đã tới hồi quyết liệt, địch quân đưa pháo kích đang tiến
thẳng tới khu trung tâm thượng nguồn Hắc Giang biên bên trên vị trí cung A Phòng. Tuy không ở cung ngầm này từ nhỏ, nhưng Nhũ Hoa Thần Kiệt cũng đã thuộc hết cơ quan bí mật trong cung. Võ Minh Thần theo chàng ta lên
tới cung trên vùng Tây Bắc. Vừa ra đến nơi đã thấy cảnh tượng hỗn loạn
khac thường. Lửa cháy bừng bừng, gái cung nhốn nháo, bọn Dạ Xoa đang xua bầy sơn cẩu chặn đánh một đám quái khách ma nhân đang cướp mỹ nhân. Bọn này đông khoảng năm sáu chục tên Tàu Kinh Mán Thổ toàn hạng cao cường
lại co cả hai, ba tên pháp sư rừng mặt mày nanh ác hết sức. Quái khách
nhảy nhót giết sói, pháp sư xỏa tóc trấn áp trành, xó giữ cung, viện Nhũ Hoa đã bị một lũ luồn phá vỡ cửa sau ùa vào bắt gái đẹp.

Gái
Nhũ Hoa Cung sợ hãi kêu thất thanh, kéo nhau chạy bừa ra cửa trước, quái khách vồ được năm, sáu nàng lôi đi sềnh sệch. Bầy sơn cẩu khu này chỉ
hơn một trăm con, xem chừng sắp bị quái khách đánh tan. Võ Minh Thần bảo Nhũ Hoa Thần:

– Em cứ đứng ngoài, khỏi cần vào! Liệu làm hiệu
gọi người mấy cung họp lại. Dứt lời, chàng vọt thẳng vào giữa vùng lửa
trận gươm đao, hét như sấm:

– Dạ Xoa! Gọi sói lùi cả lại! Đã có ta diệt lũ khách phản phúc này!

Tất ca trông lại, ai nấy ngạc nhiên, thoạt nhìn tưởng Tây Sắc Ma Vương,
nhưng dòm kỹ qua vầng huyết khí trong như hổ phách, chúng thấy lờ mờ
nhân ảnh, có nhiều tên khách nhận ra, kêu ré lên:

– Người máu! Người máu! Mặt sắt phá trận Ngũ Hành đuổi đánh Tây Sắc sao lại ra đây?

Nhũ Hoa Thần chạy vào một căn nhà gần đấy, rung chuông làm hiệu gọi bọn Dạ
Xoa mập ra trấn cung. Lập tức, bọn Dạ Xoa bỏ cuộc chiến hú gọi đàn sơn
cẩu, lùi ào cả vao cung bảo vệ mỹ nữ. Võ Minh Thần xông vụt vào giữa đám quái khách vung tay gạt bắn từng tên, tiến thẳng tới Cung Nhũ Hoa, Thần hét:

– Mấy tên khốn kia! Khôn hồn bỏ bọn đàn bà ra, chậm mất
mạng. Mồi ngon trong tay khi nào chịu buông, lũ quái vừa lôi gái vừa rút súng bắn đì đẹt. Minh Thần nổi giận xông lại, vươn tay chụp gáy chúng
quật vào nhau, túm tới đâu kêu xèo xèo cháy da cháy thịt, oai không khác con cọp dữ vào giữa đàn dê non. Nháy mắt đã có năm, bảy tên cháy thui, nát xác, kêu rú, chạy như ma đuổi, không còn dám tiếc gái đẹp nữa. Thần hô:

– Dạ Xoa! Dồn gái Nhũ Hoa Cung bảo sửa soạn di tản!

Theo tiếng quát, chàng vọt lại đám khác. Uy lực kình khí ngũ hành thật ghê
gớm, chàng sấn vào rừng súng gươm, tung kiếm âm dương hào nhiệt chém như chớp giật mưa sa, làm đám quái khách thất đởm, bay hồn vía, chạy tán
loạn. Một tên tướng thổ phỉ còn cố hét:

– “Người máu”! Nị đánh Ma Vương, tụi ngộ cướp phá A Phòng, không tốt cho nị sao lại giết tụi ngộ?

– Lũ mi được đón xuống làm thượng khách lại trở mặt làm loạn không giết lũ mi, để làm gì?

Kiếm Đông Quân chém bay đầu cuồng tặc, chỉ trong nháy mắt lũ quái khách đã
chết khá nhiều, hè nhau chạy như vịt. Động đức hiếu sinh, Minh Thần
ngừng tay kiếm hô lớn:

– Dạ Xoa! Truyền gái các cung ra ngoài
thềm hết, tụ một chỗ. Phút chốc, gái Nhũ Hoa, Tế Yêu, Túc Hoa v. v…
dắt díu nhau, tay xách nách mang, theo Dạ Xoa chạy ùa ra lố nhố như mưa. Đếm sơ cũng hàng mấy trăm gái đẹp, lại hai nàng đứng đầu cung Tây Sắc, Minh Thần dùng tiếng Thái Thổ bảo:

– Từ phút này, các nàng được thả xuất cung, trở về với bản quan gia đình!

Vậy hành trang có gì đem theo hết, ta dẫn lên mặt đất. Gái A Phòng bàng hoàng như mơ ngủ, ngó nhau. Một nàng ứng tiếng hỏi:

– Bẩm “người” tha, hay lệnh Chúa Vương? Nếu không phải lệnh của Chúa Vương, chúng em khong dám đi?

– Sao? Mấy nàng thích đời nô lệ dưới A Phòng?

– Dạ, không hẳn thế! Nhưng chúng em ai cũng chịu “ngải hầu” của Chúa Vương, có về quê cũng không sống nổi, vì ngải hành!

Tim bỗng nhói như bị dùi đâm, sực nhớ lại việc làm tàn khốc của Ma Vương Sắc suốt mấy chục năm Võ Minh Thần vùng cao giọng:

– Tất nhiên các nàng sẽ được ban ngải giải, vì lệnh thả về bản quán chính do… Chúa Vương ban! Mỹ nữ cung viện reo mừng rỡ, nhưng lại có nhiều
nàng nhao nhao hỏi:

– Thưa “ngài”, tại sao Chúa Vương lại thả bất ngờ… Hay… hay Chúa

Vương đã bị “ngài” giết?

Minh Thần nói lớn:

– Chúa Vương vẫn bình an! Tình thế gấp rồi, cung A Phòng có thể sụp đổ, chớ dài lời! Mau theo ta lên mặt đất!

Đám mỹ nữ mấy cung viện líu ríu tuân theo. Gái viện nào vẫn mặc nguyên xiêm y viện đó. Bọn hở đùi, bọn hở ngực, hở eo, coi lạ mắt hết sức.

Chàng Nhũ Hoa Thần lúc này không còn lòng dạ nào thưởng thức cái đẹp gái A
Phòng nữa, chàng ta vọt đi trước dẫn đường, bọn Dạ Xoa mập xua bầy sơn
cẩu chạy hai bên hộ tống Võ Minh Thần, lên xuống quanh co ít phút sau
chợt hết đường hầm, phía trước hiện ra một giếng ngũ giác đường kính độ
hai thước tây dựa vào vách đá dựng. Tiếng nổ đì đùng vang âm lòng đất
nghe rất dữ. Lắng tai phân biệt được cả tiếng súng nhỏ mơ hồ.

Nhũ Hoa Thần dừng bên giếng ngũ giác bảo:

– Tới rồi! Trên mặt đất đánh nhau dữ dội chỉ ngại chúng đã tiến sát Cung Thủy.

Dứt lời chàng trai giật một mấu chốt cơ quan. “ùm” nước bắn tung tóe, giữa
cột nước nhô lên một cái đầu chó sói khổng lồ, người chui mõm lọt. Kịch! Soạt! Mõm sói há hốc nhả bắn ra một cái lưỡi liềm sát bờ giếng!

Nhũ Hoa Thần quay bảo bọn Dạ Xoa:

– Đưa gái cung, sơn cẩu ra ngoài núi, đợi lệnh! Thần Võ dặn thêm:

– Vạn nhất có gặp quan binh, cứ bảo theo lệnh “người áo Chàm” thả đàn bà con gái về bản quán! Thả ca sói về rừng!

Bọn Dạ Xoa mập này cũng chưa hiểu chuyện chi đã xảy ra trong hậu cung Chúa
Sài lang Tây Sắc nhưng thấy Đèo Văn Kiệt công tử truyền lệnh, các mụ răm rắp tuân theo. Cả đám rạp chào anh em Thần, đoạn theo loi “thang lưỡi
sói” nối đuôi nhau chui xuống giếng ngũ giác.

Nháy mắt, đoàn
người, thú đã khuất dạng. Nhũ Hoa Thần bảo Minh Thần lùi lại. Đoạn vung
tay đánh vào một phiến đá nhỏ bên vách. Liền mấy tiếng “kịch” phát ra,
tiếp luôn một tiếng “ùm” rất to, nước tóe như mưa rào. Minh Thần nhìn
ra, đã thấy trần hang đổ sụp xuống, lấp kín luôn lối “ngũ giác tuyền”.

– Đi… anh! Ta trở lại đền thờ! Giơ cao cây đuốc, hai chàng trai theo
đường hầm bí mật lộn về khu Mê Hồn Cung. Qua mấy viện Tây, Bắc, lửa đã
tắt, mấy dãy cung vắng ngắt đến lạnh người!

Khi hai chàng về đến Mê Cung thì Giao Long Nữ cùng Đèo Nguyệt Kiều cũng đã đi di tản được
đám mỹ nữ các cung viện Đông, Nam, trung tâm lên mặt đất, vừa trở về.
Nhưng tiếng súng đại tấn công ngày càng dữ dội, ầm ầm muốn lở đất long
trời.

Thấy bọn Thần trở về, Tây Sắc Ma Vương vùng nói lớn:

– Quan quân sắp tới A Phòng! Tất cả đợi đây, lão phải thân đi thâu thập
âm binh trành xó! Dứt lời, Ma Vương Sắc phóng luôn xuống bệ nhưng dáng
chạy có vẻ loạng choạng kiệt lực nhiều.

Viên Chúa Thập Vạn Đại
Sơn ngó Minh Thần hất hàm một cái, Thần, Nguyệt Kiều, Giao Long Nữ cùng
chạy theo đòi đi kèm, nhưng Ma Vương đã xua tay nói lớn:

– Mình Nguyệt Kiều đủ rồi! Hai cha con vọt đi.

Tiếng tù và rúc vang âm, lẫn tiếng sói tru lê thê trong đêm lòng đất… Mọi
người đợi trong hồi hộp. Tiếng súng lớn nhỏ vẫn vang vọng triền miên,
lẫn tiếng lôi phục mìn phá nổ. Thời khắc nặng nề trôi.

Vùng A
Phòng im lặng, chỉ vẳng đưa về từng tràng tù và, sói tru, thình lình xế
phía trước đền, bỗng phát liền mấy tiếng nổ ầm ầm, kinh thiên động địa,
nghe rất gần, rồi tiếng súng trận vụt ào ào đổ xuống cực dữ, rõ hẳn hơn
lúc trước.

– Mìn chôn, lôi phục phát nổ chăng?

– Không phải tiếng mìn! Đúng tiếng đại pháo! Lạ thật! Sao dưới A Phòng lại có tiếng đại pháo? Không lẽ…

Đại Sơn Vương vụt giơ tay làm hiệu “suỵt”:

– Hình như có tiếng người kêu…? Quả nhiên đúng lúc đó, vẳng ngoài xa
chút vừa nổi lên mấy tiếng kêu thánh thót, giọng đàn bà thình lình lại
năm, sáu tiếng “đùng, đùng” phát nổ xế trốc Mê Hồn Cung nghe rõ cả
tiếng đất cát đá vụn bắn rào rào “chíu chíu” lại có tiếng sói tru, hộc.
Đại Sơn Vương nhíu mày kêu nhanh:

– Tiếng Nguyệt Kiều! Hình như
vừa xẩy chuyện chi… Mọi người chạy ùa ra cửa đền. Nhưng vừa tới cửa đã thấy một bầy sơn cẩu to lớn cùng Đèo Nguyệt Kiều “phò” Ma Vương Sắc,
Kiều sốc nách Ma Vương gập mình “tay” ôm ngực thở hồng hộc. Minh Thần
lúc này đã thu vầng huyết khí, vội nhảy ra xốc Ma Vương vọt vào đền.

Ánh nến vật vờ, ai nấy giật mình thấy nơi ngực Ma Vương lông lá đỏ lòm, Máu loang đọng giọt.

Đại pháo rớt xuống A Phòng… Phụ thân bị hất tung mấy thước, mảnh đạn trúng ngang ngực.

Nguyệt Kiều vừa dứt lời, Ma Vương đã gập mình, hộc ra một búng máu, mồm mép đỏ lòm. Nhưng Ma Vương đã gỡ tay Nguyệt Kiều, Thần ra, đứng thẳng mình vịn cột đền, vừa thở vừa nói:

– Mau… rời khỏi nơi này! Đại pháo
rót trúng vị trí A Phòng, cung viện có thể phat nổ, nếu trúng giếng “đất đèn”. Mau vào hậu cung!

Dứt lời, Ma Vương loạng choạng chạy lên bệ thờ. Mọi người chạy theo đỡ. Minh Thần hỏi với:

– Vết thương nơi ngực.

– Không sao! Mới vào thịt hơn ly! Tới bệ trên, Thần giữ Ma Vương lại ba lần xem vết thương.

Nguyên Tây Sắc bị dính lốt hồng cẩu quẩy, nên mặc giáp vào, lại mang một bộ
lốt nữa ngoài cùng. Nhờ vậy, mảnh đạn chỉ cứa vào da thịt hơn ly, nhưng
vì sức ép quật bắn ra xa, nhằm lúc kiệt lực, sau trận tử chiến với Thần
Võ, nên bị động tới tâm can, mới hộc máu ra. Còn vết kiếm Minh Thần chém cũng phạm vào cổ, nhưng máu đã cầm.

Tây Sắc mới đưa mọi người
vào tới hậu cung, bỗng nghe trốc đầu nổ ầm am, đền đài rung chuyển, tiếp liền những tiếng nặng chịch như đá tảng lăn lóc trên đền.

Đại Sơn Vương ngửa mặt lên kêu:

– Đại pháo rớt trúng A Phòng rồi! Vòm trời tinh tạo chắc bị thủng, đạn rớt xuống Mê Cung này!

Nghe Đại Sơn Vương nói, mọi người mới sực nhớ tới “vòm trời tinh tạo” với
những vì sao lấp lánh mọc rải rác quanh vầng trăng khuyết đầy vẻ phi
phàm, từ lâu vẫn chưa ai hiểu được kiến tạo ra sao? Võ Minh Thần lẩm
bẩm:

– Không lẽ đại pháo xuyên qua đất xuống tận A Phòng? Đại
Sơn Vương, Ma Vương Sắc chưa ai kịp lên tiếng, bỗng vụt nổi lên hàng
loạt tiếng bích kích pháo, sơn pháo, đại bác thần công đì đùng phát nổ
khắp xa gần, hàng trăm trái một lúc, riêng nóc Mê cung đền thờ trúng
hàng vài chục trái địa pháo, tiếng nổ ầm ầm, đá lớn đá nhỏ quật vào núi, vang âm dữ dội, đền thờ Mê Cung rung chuyển tưởng chừng bị núi sụp như chơi.

Tây Sắc Ma Vương hô lớn:

– Da Xoa trấn cung đâu!
Mau xuống mở cửa hầm bí mật dưới hậu cung này! Nguyệt Kiều nổi hiệu gọi
hết nữ thiết binh, sơn cẩu di tản hết “bảo tàng viện hấp sinh” theo ngã này! Đèo Văn Kiệt! Đem di hài tượng mẹ con lên mặt đất! Mau lên! Đại
pháo câu bừa, trúng giếng “đất đèn” lôi phục A Phòng trong nháy mắt!

Bọn Dạ Xoa, Nguyệt Kiều dạ ran, bắt tay luôn vào việc. Ai cũng hiểu tình
thế đã nghiêm trọng cực kỳ, như ngồi trong lò thuốc súng. Viên Chúa Thập Vạn Đại Sơn bỗng cau mày vụt nói lớn:

– Đại pháo Tây Gầm chần
hoa cải, xoáy trôn ốc, người vật dưới này không kịp thoát ngoài tầm đạn
pháo! Phải lên trước gặp tướng Tây Gầm bảo y ngừng cuộc tấn công! Nếu
cần, phải bắt sống y làm con tin áp đảo. Cần một người theo ta!

Cả đám giơ tay đòi đi, nhưng Võ Minh Thần đã nói lớn:

– Huynh trưởng cho em đi một mình đủ rồi! Đạn đang bắn như mưa, em có
vầng huyết khí xông pha tiện hơn! Huynh trưởng kèm cha em! Đại Sơn huynh có thể yên tâm! Nhưng phải coi chừng đại pháo!

– Theo ý huynh trưởng tướng Tây Gầm đóng phương nào?

– Phương Đông, xế hạ lưu sông Hắc, phía Bắc ngạn! Nếu muốn chắc, cứ bắt võ quan hỏi, sẽ ra. Thôi! Đi mau! Chúc thành công!

Minh Thần vừa vọt tới miệng hầm, thì Ma Vương nhô lên, Đại Vương nghiêng tai nghe tiếng đại pháo nổ ầm ầm, vùng bảo Minh Thần:

– Có lẽ hiền đệ nên dùng ngã “thăng thiên” mau hơn “độn thổ”. Lên tới mặt đất, bọn ta sẽ bắn pháo kép làm hiệu liên lạc.

Giao Long Nữ đòi đi theo Minh Thần, Đại Sơn Vương bảo:

– Cuộc di tản này còn nhiều nguy hiểm, hiền muội ở lại, mở đường “độn thổ” tốt hơn.

Võ Minh Thần phóng mình ra cửa đền. Đại pháo vẫn nổ ầm ầm, đá đất bắn tứ
tung. Theo đường hành lang quanh co, Thần vọt ra cửa Cung Mê, đứng nhìn
lên “vòm trời tinh tạo”.

Vầng trăng khuyết vẫn treo lơ lửng, sao thưa lấp lánh, sương mờ khí, đá chăng lê thê vô định. Bỗng lại một loạt thần công, kích pháo nổ ầm ầm. Vòm trời rung dữ, vầng trăng rung theo
như sắp rụng, năm, sáu tảng đá lớn trên sườn núi Mê Cung rớt kình kịch
văng ầm xuống ngay xế trước cửa tò vò. Giữa tiếng pháo kích, bỗng “đùng” một tiếng, ngoài hồ nước, trông ra, tòa long đình đã bị vỡ tung một
góc, rớt “ùm” xuống hồ, nước bắn tóe cầu vồng. Võ Minh Thần rùng người
một cái, vầng khí ngũ hành tiết huyết khí lưỡng nghi bao phủ khắp mình
chàng vọt ra giữa hồ xoay người dòm lên núi Mê Cung bỗng liền mấy tiếng
nổ hai, ba vì sao tắt ngấm.

Thần để hở hai lộ mắt, phóng mình
lên núi Mê. Rặng núi này không cao. Thoắt chàng đã vượt lên ngọn núi,
vòm trời tinh tạo như cái vung úp chụp A Phòng. Đứng trên ngọn núi, Thần chú mục quan sát vòm trời xam xám giống hệt vòm trời thiên nhiên, nhưng nhìn kỹ, Thần chợt lượng được khoảng cách không cao xa mấy, nhưng thoạt trông vẫn cao thẳm vì những đám mây vẽ rất tài tình.

Rút ra một trái hỏa pháo, Thần đập vọt lên trời và hỏa pháo kẻ một luồng ánh sáng
rực chói lòa lên cao. Nhưng kỳ dị thay! Tới ba chục thước, năm chục
thước, một trăm, hai trăm thước vẫn không đụng vòm trời tinh tạo, hỏa
pháo thăng thiên bỗng biến mất. Ngó theo đường pháo đi, Thần đã thoáng
thấy một khoảng có hai màu trời khác nhau, trên độ cao hơn ba chục sải,
nhưng cách ngọn núi khá xa. Vận sức càn khôn cương khí, Minh Thần đánh
ngược lên một nhát trảo kình, sầm! Tiếng động như đánh vào cửa sắt! Tới
nhát thứ ba trảo kình đã móc vào lỗ hổng, giật mạnh! Sầm! Chát, từ trên
rớt xuống một mảng chi to bằng miệng thúng cái. Đất cát, hoa cỏ, lá vàng bay lả tả như mưa. Thần chụp được mảng kia, bổ thử vào ngọn núi. Coong
coong! Tiếng kêu như tiếng cồng đồng, kiểng sắt, âm vang.

Thì ra đó là một mảng thép đóng ghép khum khum như mảnh vung nồi, mặt dưới sơn vẽ màu mây xám, mặt trên còn bám đầy đất cát rêu phong. Quăng mảnh thép đồng ghép, Võ phóng luôn một đường kình trảo, móc trúng mép lỗ thủng,
mượn đà, vừa giật vừa tung vọt mình lên như trái cầu.

Thân hình
Võ bắn vút qua lỗ thủng, và ngay khi còn lơ lửng trên không Võ đã cảm
thấy vừa ra khỏi thế giới A Phòng để “phóng” lên một thế giới khác, hàng nghìn âm ùa vào tai, đại pháo nổ ầm ầm mạnh gấp ngàn lần vừa rồi.

Thần Võ quay mấy vòng, hạ chân xuống, bàng hoàng, tưởng mình vừa ra khỏi
giấc mơ để rơi vào giấc mơ khác. Vì chân chàng đứng trên một trái đồi
cao vòi vọi, cỏ xanh mơn mởn, giữa những giàn hoa phong lan, móng rồng,
thiên lý điểm lác đác những tán cay lòa xòa, cao nhất cũng chỉ ba thước, mùi hoa bưởi, kỳ đà, phật thủ, hương cau tỏa ngào ngạt quện vào mùi lan cùng móng rồng, thiên lý nghe nhẹ hẳn người!

Và trên đầu chàng
là một vòm trời cao thăm thẳm, vòm trời thiên nhiên với vầng trăng vằng
vặc xế phương Tây, tỏa ánh vàng hắt hiu thơ mộng. Nhưng cảm giác thơ
mộng huyền ảo vụt biến nhanh, và lại từng tràng đại pháo nổ đì đùng
quanh mình. Liền mấy trái sáng vọt lên lơ lửng trốc đầu, chiếu rực từng
giò hoa ngọn lá, khắp bốn phương tám hướng dậy tiếng súng nổ, quân hò,
sói tru, ngựa rống vang lừng, báo hiệu cuộc đại chiến đang tới hồi khốc
liệt!

Xoay một vòng, Võ Minh Thần thấy chỏm “đồi thép” cách hơn
năm chục thước, lập tức phóng vụt lên ngọn cao chót vót. Nhờ ánh trăng
với ánh hỏa pháo lập lòe gần xa, chàng nhìn bao quát được cả một vùng
rộng và bất giác bật kêu “ồ” sửng sốt! Mãi lúc này chàng mới hiểu rõ lối kiến tạo thần tình vĩ đại của Ngũ Cung Thập Viện A Phòng!

Thì
ra “cung A Phòng dưới đáy Hắc Giang” chỉ là một vùng cung động trên mặt
đất, với những đường vào chính thức phải độn thủy dưới lòng sông. Qua
mấy đường hầm độn thủy, sẽ tới A Phòng… Tây Sắc Ma Vương đã cho xây
dựng cung động gần Hắc Giang choáng cả một vùng biên địa, chia thành
nhiều khu vực, có cả những ngòi nước lưu thông, với một hệ thống đường
hầm rất tinh vi bí ẩn khắp trên cao, dưới thấp. Trong A Phòng cũng có
khu vực cung động thiết lập trong ruột núi đá, đồi đất, ngoài đường giao thông thường, còn đường bí mật xuống quanh co, lấy hồ nước, long đình
làm cửa. Lại cho đào những hầm đat máy chạy bằng sức nước, gió, di động
các cơ quan bằng máy trục, bánh xe, dây “cu roa”, xích sắt. Rồi tất cả
vùng cung động A Phòng này được lợp bằng mấy lần đồng thép chì gang thủy tinh, mica theo đường cong khum như cái vung khổng lồ úp chụp lấy. Phía dưới được ghép những ngọn đèn hình trăng sao và những ngọn đèn kín được che lớp kính màu, tạo từng vùng ánh sáng xanh đỏ trắng tím vàng chiếu
xuống các khu cung viện, thành thử trăng sao tinh tạo ánh sáng phi phàm
ngũ sắc. Bên trên cái vung kim khí lại được đổ một lớp đất khá dầy,
trông cây cỏ hoa lá um tùm. Đứng xa trông vào chỉ là một trái đồi mơn
mởn, vút cao. Không ai có thể ngờ đó là một cái đồi nhan tạo một cái
vung kim khí lợp đất úp lên những ngọn đồi đất, núi đá thật! Ngoài ra,
trên mặt đất lại còn những con suối nhỏ, do máng nước trên cao đổ xuống
suốt ngày đêm, coi càng tự nhiên. “Vung nhân tạo” này như bưc tường ngăn cách trong ngoài, tiếng động thường không vọng tới được! Nãy tình cờ có nhiều trái đại pháo rót vào một chỗ, thủng lớp mái A Phòng, đạn mới
chui xuống phía dưới cung.

– Ôi! Quả là một công trình kiến trúc phi thường thế gian hãn hữu! Nguyên cái cung này đã tốn biết bao vàng
bạc, tâm cơ, mồ hôi máu lệ mới tạo được nên. Mấy mươi năm hấp luyện mò
dị thuật hại bao nhân mạng cuối cùng dính lốt sài lang thành người chó
sói! Oi! Mối giây oan nghiệt gớm ghê, bao nhiêu bi đát chỉ vì đại chí
sai lầm, gây bao nhiêu tai vạ! Nay quan binh mở trận đại tấn công nếu
không cản lại, đêm nay còn chết hại nhiều nhân mạng.

Võ Minh
Thần vừa thở dài, than thở bỗng liền mấy trái sáng từ phía Nam rót lên
vòm trời, đậu lơ lửng trốc “đồi nhân tạo” sáng tỏ từng đóa hoa ngọn lá.
Đại pháo lại câu từng tràng vào đúng vị trí A Phòng, đất tung cây gẫy,
tiếng nổ

ầm ầm rung chuyển dưới chân Võ. Bỗng liền mấy phát nổ
gần chỗ Võ đứng, cành cây gẫy rắc, đất vụn bắn tung, tạt cả vào mình
chàng rào rào.

Như mũi tên, chàng trai phóng thẳng về hướng Đông xế. Xuống lưng chừng, chàng nghe tiếng súng nổ dữ dội, dưới ánh hỏa
pháo, thấp thoáng có nhiều người giật chạy qua chạy lại ẩn hiện giữa cây cỏ, sương mờ. Rải rác, một vài cụm rừng đã phát cháy rực, tiếng kèn Tây thổi, tù và rúc, quân hét sói tru, ngựa hý náo động đêm rừng. Chỉ quan
sát qua, Võ đã hiểu quan binh đánh vào cả mấy ngả theo phép “tứ diện
đồng công, tiền pháo hậu xung, xung đồng pháo kích”.

Võ chạy
thẳng xuống chân đồi tới thung lũng. Cái bóng cao lớn đỏ khé vừa sịch
ra, quân A Phòng nhiều tên đã thấy rạp chào cung kính:

– Chúa
Vương gia giáng lâm! Vạn tuế Chúa Vương gia! Địch quân đã chọc thủng
“Độn Thủy Cung” sắp phá vỡ “Cung Độn Thổ”, xin Chúa Vương gia cứu trận!

Đạn bắn như mưa, Chưởng vệ “Độn Thổ Cung” phong lại, có hơn chục bóng hồng
cẩu quẩy xách súng vọt theo hộ vệ. Đoán chúng là người mang lốt sói, Võ
Minh Thần cũng không xưng danh chỉ vùng hỏi:

– Phải tướng Tây Gầm chỉ huy trận tấn công?

– Dạ, chính hắn!

– Biết y đóng đâu không?

– Bẩm không! Nhưng hắn vẫn có thói quen đóng ngay dàn đại pháo, mà phía bờ sông, đại pháo bắn đi nhiều nhất!

Thần Võ nhìn theo tay trỏ, nói nhanh:

– Ta đi kiếm Tây Gầm! Các ngươi cố giữ vững phòng tuyến! Dứt lời, Thần
lao đi nhanh như tên bắn, dọc thung đồi, súng vẫn nổ ran, đạn xé không
khí… Bất thần nghe tiếng: Chúa Sài lang… kia! Phơ! Phơ! Lố nhố trong trăng loang lổ, có nhiều bóng hình nhô ra, lên cò súng lạch cạch, một
bóng cao lớn dắt cành lá, khua ba toong, lùi sau bụi rậm. Thần nhảy vọt
tới, chụp luôn, giữa tiếng súng đì đẹt. Bóng này kêu thét, cành lá ngụy
trang, vai áo cháy xém, cũng may y có mặc giáp dầy. Thần quát chìm:

– Chớ sợ! Mỗ không phải Tây Sắc Ma Vương! Mỗ cần gặp Tây Gầm!

Thần nhổ cành lá ném đi, lộ ra viên quan ba đứng tuổi. Viên quan này thất kinh rơi cả gậy ấp úng:

– Phía núi đá… chỗ đại pháo…

Thần vọt đi. Tới rặng núi đá, chàng đi qua bờ bụi. Tới đúng căn lều chỉ huy
sau mỏm đá. Nhưng chỉ thấy một viên quan năm và một ít võ quan đứng quây quanh một cái bàn cây nham nhở đặt tấm bản đồ hành binh. Thần vào, sĩ
tốt thấy, kêu inh ỏi, nhưng chàng đã nắm được viên quan năm hỏi:

– Sáu Tây Gầm đâu? Mỗ là kẻ đánh đuổi Ma Vương! Giờ A Phòng chỉ có toàn nhân, mỗ muốn đình cuộc chiến, khỏi chết hại!

– Ồ! Chậm mất rồi! Quan sáu vừa ngược thượng nguồn, kiếm lối đánh vào cung Ma Vương! Bản chức khong đủ thẩm quyền ra lệnh!

Theo tay viên quan này trỏ, Minh Thần vụt luôn ra bờ sông, cướp cái canô,
phóng ngược thượng nguồn. Hơn dặm đã tới vùng “Độn Thủy Cung” nơi có cửa xuống A Phòng. Ca- nô quan binh đuổi theo bắn đì đẹt. Đội tiền phong đã đánh lên bờ, chiếm khu đồi bên Bắc ngạn, dồn địch thủ vào trong.

Đang ngơ ngác sục tìm, bỗng thấy một bóng trắng như vôi từ dưới Hắc Giang vọt lên, phóng tới rặng núi đá.

Thần bỏ ca- nô rượt theo. Súng nổ chát chúa. Bóng trắng biến mất. Bỗng nghe
tiếng kèn thê thảm trên ghềnh, âm hắt vào trận. Thần vọt lên, thấy một
“hình tuyết xóa” ngồi thổi kèn, chàng mừng rỡ gọi lớn:

– Nam
Khấp! Nam Khấp tiên sinh! Tieng súng lớn nhỏ vang vọng bốn bề không át
nổi tiếng Thần gọi nhưng hình tuyết đang mải thổi kèn, không nghe thấy.
Tiếng kèn hắt xuống trận thành một thứ âm khủng khiếp làm các toán quân
đen trấn mũi đang chống trả, bong ngẩn ngơ buồn rũ, không buồn lẩy cò
nữa. Chàng trai bèn lấy cây súng cối ra, thổi một tràng vào miệng súng.
Lối này gọi “thiết pháo khẩu” chính của Đại Sơn Vương truyền dạy cho
Thần, âm thép phát ra như vũ bão, lập tức xoắn lấy tiếng kèn quái gở,
làm luôn sức tác động quân đen cùng tĩnh trí phản công lại. Minh Thần
vừa thổi vừa phóng lên gềnh cao. Bóng tuyết khối đứng dậy, xoay mình
nghiêng lại. Minh Thần vọt đứng trên một mỏm đá đối diện. Âm tắt, bóng
tuyết vùng hét:

– À Ma Vương Cẩu Quẩy! Thần giơ tay lên, hỏi lớn:

– Phải Nam Khấp tiên sinh đó không? Hình tuyết giật mình sửng sốt hô nhỏ:

– Nếu phải người bạn trẻ, hãy vào đây!

Hai bóng trắng đỏ vọt lại sau mỏm đá kín, cùng thu hàn, huyết khí từ cổ lên. Thì ra chính lão Nam Khấp!

Thấy rõ mặt Thần. Lão vùng reo mừng rỡ:

– Ôi chao đúng bạn trẻ mỗ lão đây rồi! Giờ này sao bạn mới tới đây? Hay lắm! Đang tấn công, bạn xuống bắt Ma Vương càng tốt!

Minh Thần cố nén buồn rầu, bảo Nam Khấp:

– Ngu mỗ xuống A Phòng rồi! Chuyện chết hại sanh linh, mỗ vội xuống kiếm tướng Tây Gầm điều đình!

Nam Khấp nghe nói, mừng khôn xiết, hỏi dồn:

– A! Bạn trẻ đã hạ được Ma Vương Sắc, phải thế không? Ôi! Mỗ lão mới độn
thủy cung A Phòng nhưng mấy cửa động đều bị lấp hết, chẳng hiểu vì lẽ
gì?

Minh Thần trầm lời bảo:

– Chuyện đó sau sẽ nói rõ!
Chỉ biết hiện có hàng ngàn người bị kẹt dưới hỏa lực đại bác, cuộc tấn
công đã thành vô ích, vì A Phòng kể như đang giải tán! Mỗ cần gặp Tây
Gầm!

– Tây Gầm vừa đi lược trận! Nhưng bạn trẻ hãy cho biết đầu đuôi? Thần chưa tiện kể dài dòng, kiếm lời nói cho qua, hỏi lại:

– Rời Yên Bái, tiên sinh lên thẳng đây gặp Tây Gầm? Nam Khấp đáp:

– Mỗ lão sợ người bạn trẻ một mình tới hang ma động quái bất lợi nên mỗ
lão bàn với Đông Tửu, rồi đi kiếm ngay tướng Tây Gầm! May sao gap đúng
lúc Tây Gầm đang hành binh lên xứ Thái. Mỗ lão đưa kế hoạch đánh cung
động Ma Vương và dẫn Tây Gầm tiến công, chọc thủng mấy phòng tuyến tới
đây! Lão tính xuống A Phòng do thám kiếm bạn, không ngờ cửa xuống đã bị
lấp hết!

Minh Thần chép miệng thở dài:

– Cám ơn tiên
sinh đã nghĩ yểm trợ mỗ! Nhưng giờ thì chuyện đã thay đổi hẳn, vụ tấn
công trở thành tai hại! Hiện chị em Thần Nữ, Đông Âm, Bạc Khao Lan, Đại
Sơn Vương, Chú Thoong Mềnh, Woong Lầu, hàng ngàn người còn dưới đó. Long Nữ cũng đều dưới đó. Cả phụ thân mỗ, các em mỗ, cha mẹ Giao Long Nữ
cũng đều dưới đó! Cung A Phòng xây trên mỏ “đất đèn” có thể nổ bất thần! Phải đình cuộc tấn công trước khi A Phòng phát nổ?

Nam Khấp vỗ đùi than:

– Ôi chao! Lão mỗ thật nhanh nhẩu đoảng không ngờ chuyện lại xoay ra thế! Giờ biết tính sao đây? Tây Gầm đã nhất quyết phá tan sào huyệt Ma Vương cẩu quẩy, bình định xứ Thái, lệnh bắn nát A Phòng!

Minh Thần đanh giọng:

– Cứ gặp Tây Gầm rồi sẽ liệu! Không lẽ ông ta không nghĩ tới đám nạn nhân dưới A Phòng? Đại pháo đang câu trên nóc cung ngầm!

– Đi! Hai người lại tiết hàn huyết khí phóng xuống thung lũng quanh quẩn
mấy chỗ vẫn không gặp, hai người lại theo bờ sông ngược lên thượng nguồn giang biên, sang đất Tàu Vân Nam. May sao lại gặp một sĩ quan liên lạc, trỏ hướng Tây Gầm. Hai người vòng lên Tây Bắc biên tới chỗ viên quan
sáu Tay. Lúc này quan binh đã đánh dồn quân đen vào cả “ngọn đồi nhân
tạo”, đại pháo đang nã như mưa từ các bụi núi đá tới đồi thung, lại từ
đồi ra, dồn ép lại. Lửa cháy từng cụm rừng nhỏ. Sáng rực một vùng biên
đại. Tren ghềnh núi Tây, chiếu thẳng vào khu A Phòng. Tây Gầm đang chống “ba toong” đứng sau dàn đại pháo, mặt bốc lên sắc hớn hở. Sực thấy Nam
Khấp cùng “bóng đỏ” phóng lên, Tây Gầm vội truyền quân đón hỏi. Hai
người vọt lên, đứng cách độ hai mươi thuớc chếch, Nam Khấp nói vọng lên:

– Quan Sáu! Có người bạn muốn gặp.

Thầy trò Tây Gầm lại tưởng Chúa Sài Lang vùng hỏi:

– Phải Ma Vương Cẩu Quẩy? Thần đáp:

– Mỗ Minh Thần đây! Mỗ dưới A Phòng lên, dưới đó còn hàng ngàn mạng! Quan sáu kíp ra lệnh ngừng bắn!

Đoạn Thần kể qua tình hình, nghe xong, Tây Gầm vụt hỏi:

– Còn Tây Sắc thế nào?

– Y… y bị trọng thương, đã trốn mất, giờ bọn mỗ điều khiển A Phòng giải thoát nạn nhân!

Tây Gầm nheo mắt, nhìn chiến trường khốc liệt nói lớn:

– Phải lùng bắt Tây Sắc kỳ được! Nó là trọng phạm, thoát sẽ gây hậu họa
khôn lường! Còn đồng đảng, thú dữ, xó trành cũng phải tiêu diệt gap!

Thần hét:

– Nhưng… Cung ngầm có thể phát nổ. Hãy cho lệnh rút ra xa, khỏi hại mạng người vô can!

Lời vừa dứt, bỗng liền một tràng đại pháo nổ đùng đùng, quan binh ào qua
thung rượt quân đen, thú binh lên “đồi nhân tạo”. Bất thần từ dưới lòng
đất phát lên liền mấy tiếng nổ kinh thiên động địa, tiếp theo hàng trăm
tiếng nổ rải rác khắp ngọn đồi, đất cát, hoa lá, cỏ cây cùng những tảng
“vung kim khí” bắn lên đen sẫm không khí, dưới A Phòng vọt lên những
cột khổng lồ thấu trời. Phần lớn tiếng nổ phát ra từ phía trung tâm
“trái đồi nhân tạo”, chạy đi bốn bề tám hướng, còn một số ít nổ tung.
Chỉ trong giây khắc, cả khu đồi đã đầy cột khói, hình như có cả tiếng
địa lôi, thủy lôi phát nổ nữa, ầm ầm khủng khiếp.

Chừng lúc này mới tin lời Minh Thần, tướng Tây Gầm múa “ba toong” hét như sấm:

– Lùi lại! Lùi ra xa! Ngừng bắn! Ngừng cả lại! Không cần lệnh, cả hai phe đương chiến đấu kinh hồn táng đởm, chưa hiểu chuyện gì xảy ra, tất cả
hè nhau bỏ chạy như vịt. Không ai bảo ai, chẳng kẻ nào còn bụng dạ bắn
súng nữa, quân đen xua thú binh bỏ phòng tuyến chạy ào ào xuống chân
đồi, các cơ đội quan binh cũng ào ào om súng đạn chạy xa chân đồi thung
lũng, ngã sấp ngã ngửa, cảnh tượng vô cùng rối loạn! Nhưng tiếng nổ dưới lòng đất càng phát dữ như sấm sét. Cứ sau tiếng nổ, kim khí, đất cát,
hoa cỏ, đá vụn đá lớn bắn tung lên, cột lửa phụt lên theo chói lòa. Nào
ngờ lửa dưới A Phòng lan nhanh, hàng ngàn “con rồng lửa” rượt theo quân
dự chiến, nháy mắt đã liếm sát gót người vật. Đã thế, nhiều phía, mép
chân đồi cũng phát nổ, ầm ầm. Rải rác nhieu bóng người vật nổ lớn vọt
trên cột lửa như đàn ngóe. Ầm! Một phát nổ lớn vang lên ngay chân đồi xế trước mặt, tiếng rú lê thê vút lên theo hình người lơ lửng, nhiều hình
rã tan như trong ác mộng. Thình lình, ngay giữa ngọn đồi trung tâm A
Phòng nổi dậy một tiếng nổ to khủng khiếp tưởng tiếng bom hàng triệu cân cũng không hơn nổi, vang động cả một khu biên địa, màng tai người vật
muốn vỡ tách như chơi, kêu vo vo ù tai, nhiều kẻ nghe không thấy gì nữa! Sau tiếng nổ, cột khói khổng lồ phụt thấu trời mây, tiếp liền mấy tiếng nữa, cả khu đồi nhân tạo bị đẩy bắn lên cao, thoáng trên ngọn lửa xanh
lè, có bóng nhà cửa, long đình, đền đài, đá núi, đất tảng, nước, dầu
nhựa… tung lên vỡ nát như trong mơ. Ai nấy giật mình, bịt vội tai,
chớp mắt trông vào, cả khu A Phòng đã biến mất, giờ chỉ còn là một biển
lửa cao ngất, xanh lè… mùi khét đất đèn xông sặc sụa khắp biên địa.
Kinh hồn! Bỗng “biển lửa A Phòng” vụt bò khắp tám hướng, lửa sinh
phong, gió thổi ào ào, lửa reo đùng, bò tới đâu, lại phát tiếng nổ tới
đó chừng chạm kho đạn, địa lôi thủy lôi… chi đó!

Cả hai phe
địch thủ đã chạy vào nhau lố nhố, người kêu, sói tru thất thanh. Sói
cũng không thiết vồ người, người cũng chẳng buồn giết sói. Bóng nào chạy chậm ngã dúi lại được đám đông chạy bốc phăng tha bừa theo giống lũ bị
thịt!

– Chạy cho mau! Rút khỏi vùng này! Nổi hiệu kèn rút binh! Kèn hiệu! Kèn…!

Kèn thổi líu lưỡi. Võ Minh Thần đứng sững trên ghềnh núi, ngó trừng trừng xuống khu cung động A Phòng khủng khiếp kêu lên:

– Trời! Hàng ngàn mạng dưới A Phòng chẳng hiểu đã thoát ra ngoài vòng lửa mênh mông, thung rừng bắt cháy, chẳng hiểu mọi người ra sao, chưa thấy
báo hiệu?

Nam Khấp cũng lo ngại hết sức! Mỏ đất đèn phát nổ mạnh vượt hẳn sức tưởng tượng, dự đoán của mọi người! Sức nóng hắt lên ghềnh đến độ cành lá teo rủ, hình tuyết bọc Nam Khấp cứ kêu xèo xèo, rỉ nước
tong tong mòn trông thấy. Thần nghĩ tới đám đàn bà con gái ngũ cung thập viện A Phòng mới nhô lên, đợi ngoài mép cung kỳ.

Đang lo, bỗng
thấy viên tướng Tây Gầm vừa hét, múa ba toong vừa chạy xuống, la như
sấm. Đám tòng nhân Tây, Ta, Nùng, Thổ theo lũ lượt. Theo sức lửa cháy,
hơi nóng táp ngùn ngụt tưởng trong vòng trăm thước cách, người vật chắc
sẽ chín quay như bo lò!

– Chạy xuống mau! Chậm chết hết! Minh
Thần Nam Khấp hét như sấm. Còn cách chỗ hai người năm sáu thước, bỗng
tướng Tây Gầm trượt chân ngã nhào. Nam Khấp vọt lên, sốc phăng Tây Gầm
và một viên quan nữa, Võ Minh Thần cũng thu huyết khí dưới bàn tay, chụp hai phóng xuống đồi. Nhờ phi hành, hai người xuống tới chân đồi lửa còn cách hơn thước. Cứ thế phóng thẳng cả xuống ca nô, chạy lách thượng
nguồn. Còn Võ Minh Thần lập tức chạy vong biên thùy về hướng Đông Bắc
khu A Phòng. Chạy tới đâu cũng gặp quân binh quân đen của Tây Sắc, chó
sói hò hét thất thanh chạy thục mạng xa vòng lửa cháy, cảnh tượng khủng
khiếp không khác “chạy lửa tận thế”. Nhiều kẻ, lửa chưa liếm tới đã cháy mỡ xèo xèo coi thật ghê rợn. Lúc này cuộc chiến tự động ngừng hẳn,
nhưng lòng Minh Thần chưa bao giờ lại lo sợ đến thế, gặp đám nào cũng
hỏi, nhưng không thấy người dưới A Phòng đâu cả! Thần vừa chạy men vòng
biển lửa, hú gọi như điên, tiếng kéo lê thê vang động núi rừng, cũng bị chìm mau trong tiếng hỏa chạy. Nhưng chỉ có… cảnh kinh hoàng sáp lại, tiếng nổ phụt đì đùng rải rác khắp nơi.

Bọn người dưới A Phòng
đi đâu? Ngay sau lúc chia tay với Võ Minh Thần, Tây Sắc Ma Vương đã hô
mọi người kịp thời rời đền thờ Mê Cung nhảy xuống hầm.

Dưới này có một đường ngầm hết sức kín đáo, ăn quanh co dưới lòng đất A Phòng.

Nào dè mới đi được hơn một thước, thình lình đèn dưới hầm chợt tắt. Nhưng
vẫn còn đuốc sáp. Con đường này cứ một quãng lại có cửa đóng. Thình lình phía trước đất rớt ào ào! Đại Sơn Vương hét lớn:

– Lùi lại! Dấu hiệu sụp hầm! Cả đoàn rùng rùng lùi vội. Tiếng đại pháo bỗng nghe nổ
ngay trốc đầu, rung chuyển lòng đất. Tại các mỏ than, đất vụn tự nhiên
rớt xuống là đều sụp lò. Quả nhiên “rầm rắc”! Cách chỗ Đại Sơn Vương mấy thước, hầm sụp liền, sụm phăng gỗ chống. Tiếng đại pháo nghe càng rõ.

Rầm rắc! Chị em Thần Nữ đi đoạn hậu lại hầm sụp sau lưng!

Ai nấy thất kinh. Đông Âm kêu lớn:

– Hừ! Thiên địa định chôn sống người ta chăng? Đại Sơn Vương lách lên
quan sát, hô mọi người bới đất. Ngay sau chỉ ít phút đã bới được lỗ
hổng. Ma Vương lại hô mọi người đi gấp. Cuối cùng tới cửa hầm ra.

Ma Vương nói lớn:

– Cửa này trổ lên mặt đất, ngay một con thác mở bằng máy trục! Dứt lời,
cầm chốt giật. Nào dè cửa vẫn trơ trơ. Cửa thép, ngoài ghép đá dầy nặng
hàng mấy tấn. Ma Vương vừa quay bảo “máy mở hỏng rồi” bỗng nghe tiếng
súng ầm ầm tiếp liền những tiếng kinh thiên động địa vô cùng khiếp, mùi khét nồng nặc.

Thất kinh, Tay Sắc vụt quay nhìn mọi người kêu lớn:

– Cung A Phòng phát nổ rồi! Mọi người ngó nhau. Bóng dáng tử thần lởn vởn trong đường hầm. Như đáp lời Tây Sắc lại thêm mấy tiếng kinh thiên động địa nữa phát nổ về phía xế sau lưng mọi người, tiếng ầm ầm vang ngân
trong lòng đất, tiếp theo đó là những thứ âm vang vô cùng quái gở cứ
ngân chuyển bất tận, tưởng chừng đang có thiên binh vạn mã, hàng vạn
chiếc thiết xa nghiến xích trên mặt đất. Có người buột miệng kêu:

– Hình như tiếng động đang kéo tới! Không lẽ Tây Gầm cho thiết xa xuất trận?

Viên Chúa Thập Vạn Đại Sơn đưa mắt nhìn mọi người, khuôn mặt quắc thước thoáng hiện vẻ thê lương ái ngại.

– Không phải thiết xa binh mã, đó là tiếng lửa tràn! Mỏ đất đèn dưới đáy A Phòng phát nổ, nổ theo các giếng lôi phục, phát cháy từ bể, hỏa sinh
phong, tiếng dưỡng khí, rừng cây, tiếng nước bốc hơi… giờ biển lửa
đang lan tràn tứ phía!

Lời vừa dứt, mùi đất đèn cháy càng nồng
nặc, liền đó là sức nóng kinh người. Bóng tử thần hiện rõ trong đường
hầm. Đại Sơn Vương vụt hỏi Tây Sắc:

– Chỗ này thuộc khu vực nào?

– Đã ra khỏi khu đất A Phòng khá xa! Nếu không đã chết thui rồi! Nhưng mo đất đèn nổ, cháy theo các đồ dẫn hỏa, sức lửa này chưa biết thế nào mà
lường! Đám quân dự trận sát A Phòng chắc có nhiều toán bị lửa thui!

Dứt lời, Tây Sắc vùng nín thở, quật mạnh vào cửa hầm! Rầm! Cửa hầm vẫn trơ trơ. Tây Sắc bật dội lại, xô mạnh vào Đại Sơn Vương.

Viên Chúa núi Vân Nam đỡ Tây Sắc, và sấn lại gần cửa, vận cương khí, đánh
luôn ba nhát phản phong mạnh như sấm sét! Sình sình! Cửa hầm rung
chuyển, nhưng vẫn trơ trơ. Tây Sắc thở dài:

– Cửa này ghép mấy
lần thép đá, hầm này dưới ruột núi đá, phải chi xảy ra trước đây ít giờ! Đại Sơn Vương lại nhảy tới cửa phá nữa, nào dè cửa quá chắc chắn, không phá nổi.

Thoong Mềnh chúa núi “Đầu Ngựa”, Woong Lầu, Thần Nữ,
Đông Âm, Bạc Khao Lan… người nào cũng thử dùng công lực phá cửa, cửa
vẫn trơ trơ, ai nấy mồ hôi ra như tắm.

Tây Sắc Ma Vương vụt kêu ai oán:

– Lửa “Kim” hỏa trận Ngũ Hành trên A Phòng cũng chắc gần như thế này.

Đèo Văn Dũng đã phá vỡ! Phải chi có Dũng!

Lời vừa dứt, bỗng nghe tiếng vọng phía sau:

– Để con thử xem! Thì ra Giao Long Nữ Đèo Thương Kiều. Nẫy giờ nàng cùng Nhũ Hoa Thần

Đèo Văn Kiệt đi sau dìu bà Tây Kiều, hai mẹ con đang an ủi lẫn nhau. Sực nghe than, cô gái mới dìu mẹ chạy lên.

– Xin tất cả lùi xa, phòng hầm sụp.

Giao Long Nữ đến cách cửa một thước. Mọi người kéo ra, giơ cao đuốc.

Cô gái vận ngũ hành cương khí, tất cả thành một hình thù đỏ như hổ phách
“sình sình sình” liền mấy huyết kình đánh thốc vào cửa, cả khu đường hầm rung chuyển dữ, trông vào cánh cửa thép đã bị loải mấy khoảng bàn tay.

Lúc này sức nóng khét đã kinh người, tiếng biển lưa tràn thêm gần cả mấy
cánh rừng trên cháy đùng đùng, ai nấy ướt sũng mồ hôi. Giao Long Nữ vận
hết khí ngũ hành, phóng “rầm” cả người vào phá cửa, sức mạnh ghê người.

Ai nấy nín thở trông lên, bất thần nghe “ầm” một tiếng kinh thiên, cả khu
cửa đổ sụp, cái bóng đỏ Giao Long Nữ biến mất, sau những tiếng rầm rầm
kịch kịch.

– Trời! Thương Kiều bị chôn vùi rồi! Bà Tây Kiều rú.
Đại Sơn Vương lòng rúng động, vẫn phải trấn tĩnh tinh thần, hô mọi người lùi lại, đoạn cùng mọi người xông tới bới đất. Kinh tâm hồi hộp đến
ngạt thở. Lắng nghe phía trong đống đổ sụp vẫn có tiếng động mơ hồ nhưng chỉ nửa phút, bỗng im bặt. Trọn một phút trôi qua. Nhiều người muốn
ngộp thở, và sức nóng ghê gớm, nhất bọn gái hấp sinh đi theo.

Ai nấy đang hì hục bới từng tảng đá lớn nhỏ bỗng Đại Sơn Vương thấy nóng mặt lạ thường vùng lắng tai ra hiệu vụt hô:

– Lùi lại cả! Lùi mau! Ai nấy tháo lui hàng chục thước, bỗng nghe tiếng
thình thịch phía cửa hầm sụp, rồi đá tảng bị xé đẩy bắn văng xa, cái
bóng Giao Long Nữ vẹt đá vọt ra như trong mơ. Mọi người reo to, cô gái
hô lớn:

– Phá được cửa hầm rồi, xin mời tất cả ra mau! Biển lửa
đang tràn tới khu này! Dứt lời, nàng lại ra ngay, mở rộng thêm đường
hông, ai nấy rùng rùng tháo khỏi đường hầm.

Mọi người thở phào,
lau mồ hôi, không khí ùa vào phổi. Lúc đó mới hay, quãng dưới ham này ăn dưới ruột núi, trổ lên một cái hang khá rộng, phía ngoài còn có đá
phiến che lấp. Giao Long Nữ đã xô nát hết!

Tây Sắc đi trước,
cùng nàng dẫn đường. Ra khỏi hang, đoàn người chạy xuống núi, trông về
phía A Phòng, ai cũng phát kinh, thấy biển lửa.

– Thân hình thành chó sói, uổng bao sinh linh, vợ hiền cũng mất! Biển lửa này sẽ còn theo ta bao nhiêu kiếp nữa?

Giọng Ma Vương rất trầm, thật buồn, nghe cực kỳ u uẩn như tích chứa cả niềm
hối hận, luyến tiec xót xa của một kiếp nhân sinh vừa để mất tất cả lẽ
sống đời người, mất hết sau một cuộc viễn chinh đầy máu lệ không tới
đích! Chỉ có mấy người nghe thấy, Đại Sơn Vương tính cắt ngang luôn ý
tưởng thê lương của Ma Vương. Chúa núi Vân Nam chợt cao giọng bảo:

– Thế cũng hay! Cung A Phòng phát cháy… vừa đúng lúc…! Nó sẽ lùi vào
dĩ vãng rồi sẽ là một bóng hình của dĩ vãng! Dĩ vãng chôn vùi trong biển lửa! Kỷ niệm xót xa cũng vùi theo! Giờ tới hiện tại! Đèo Văn Dũng Minh
Thần đi gặp Tây Gầm, tiếng súng đã im, ta nên báo hiệu cho Dũng!

Tây Sắc Ma Vương đi theo A Phòng! Hãy tha thứ tội cho Tây Sắc! Tây Sắc đi
tìm Cầm Phi Phụng! Bà Tây Kiều, Nguyệt Kiều, Giao Long Nữ bỗng kêu lên.
Đại Sơn Vương nói lớn:

– Mọi người đã tha tội cho Tây Sắc phạm tội vì ý hiện mê cuồng! Tây Sắc lùi mấy bước, nói như hét:

– Nhưng Ma Vương không tha tội cho Ma Vương! Ma Vương phải mang lốt sói đi tạ tội trong cõi u minh!

Tiếng vang âm, mọi người nhao nhao chạy tới, bỗng giật mình nghe tiếng quát dữ dằn:

– Đúng! Còn bọn ta nữa! Chúng ta không tha tội cho Tây Sắc Ma Vương Hồng Cẩu Quẩy!

Ai nấy giật mình xoay người nhìn lại vẫn chẳng thấy bóng nào. Viên Chúa tể Thập Vạn Đại Sơn vùng quát lớn:

– Ai đó? Muốn gì sao không ra mặt? Tiếng lạ hắt lên ghềnh:

– Đại Sơn Vương Thần Xạ! Nghe đồn Thần Xạ là tay anh hùng lạc thảo ghét
thói tà gian ác độc, sao tối nay lại đi cùng Ma Vương Sắc? Chuyện này
chỉ có bọn mỗ với Ma Vương. Thần Xạ vô can xin chớ dự tới!

Thoong Mềnh núi Mã Đầu hét:

– Muốn gì ra mặt! Chớ nhiều lời! Lời vừa dứt, bỗng nghe tiếng cười ngạo
nghễ vang trong đêm trường rồi từ phía ghềnh dưới bắn vọt ra hàng chục
bóng đen, hàng loạt “mũi tên” vút lên, thân pháp cực lẹ, ào cái, mười
bóng đã đứng sững trên một mỏm đá đối diện bọn Ma Vương Sắc cách chỉ độ
mươi sải.

Lúc đó ánh lửa A Phòng sáng rực ra soi mặt người khá
rõ dưới ánh lửa chập chờn. Đó là một bọn tuổi trạc ba mươi tới hơn năm
mươi già trẻ nam nữ lố nhố, mặt mày hầm sát khí đứng nhìn Ma Vương Sắc
trừng trừng kẻ nào cũng mang súng ống gươm đao tua tua. Một lão trạc ngũ tuần, râu ba chòm, nhích lên nửa bước, phát tiếng chói tai, trỏ vào Ma
Vương Sắc:

– Đêm nay là đêm chúng ta tới đòi nợ máu! Không ngờ
tới chậm, cung APhòng phát nổ lại gặp mi đây! Sói tinh ác độc! Con cái,
chị em chúng ta có tội gì mà mi bắt đi hấp thành cái túi da đến nỗi oan
hồn vơ vẩn không nơi tựa, không được siêu sinh?

Chưa ai lên tiếng, một mụ trạc hơn tứ tuần, mặt mày lạnh lẽo tiến lên, hét:

– Sài lang Chúa Ma Vương tứ túc! Hai mươi năm xưa, mi đang đêm tới nhà,
bắt em gái ta lên kiệu đem đi hấp sát, ta vì kém sức, phải nuốt hận,
trốn đi kiếm nơi khe sâu rừng thẳm luyện thuật bào cừu! Nay Cung A Phòng nổ cháy, đáng trời quả báo, mi còn định trốn đâu? Ta cần buồng gan mi
tế oan hồn em gái!

Riêng Ma Vương Sắc đứng ngó đám kia trừng trừng không phác một cử động nhỏ, đợi bọn kia kể tội xong, Ma Vương vùng trầm giọng:

– Các ngươi là ai ta cũng không nhớ nữa, nhưng nếu là thân nhân những kẻ bị hấp sát ta sẵn lòng nghe! Muốn gì?

Cả đám hét: “Muốn mổ bụng moi gan mi móc ruột mi”. Ma Vương gật đầu:

– Xuống hạ nguồn Hắc Giang đợi đấy, bọn ngươi sẽ được toại ý! Nhưng cả đam nhao nhao quát:

– Cẩu quẩy! Mi tìm lời dối gạt định tẩu thoát! Không được, chúng ta muốn mi nộp mạng ngay bây giờ!

– Lũ ngốc! Ma Vương không nói dối! Lão râu thưa hét:

– Bất tất nhiều lời, mau nộp mạng!

Đại Sơn Vương bỗng cau mày sang sảng giọng:

– Các ngươi không biết điều! Tưởng tài thuật của các ngươi đã quán
thếsao? Nếu Ma Vương Sắc xông vầng huyết khí, các ngươi có còn được thế
chăng? Ta đã tha tội cho Tây Sắc Ma Vương, ta không cho các ngươi chạm
tới!

Cả mười người đều ngửa mặt cười ngất một tràng, lão râu ba chòm thưa thé giọng:

– Hơn ba mươi năm lăn lộn giang hồ, giờ ta mới được nghe lời nói lạ tai.
Đại Sơn Vương Thần Xạ lại đem cả thanh danh bênh Tây Sắc Ma Vương tứ túc hồng cẩu quẩy loài sói tinh cùng hung cực ác chuyên tàn hại sinh linh!
Chúa Thập Vạn! Mỗ lão có lời can, xin đừng để nhơ danh vì loài tinh sói! Người như Thần Xạ sao có thể hồ đồ đến thế?

Đại Sơn Vương cau mày, nói lớn:

– Các ngươi làm sao hiểu được chuyện thê lương bí ẩn dưới A Phòng! Ta đây bao giờ cũng hành động quang minh chính đại, khi ta bỏ qua dĩ vãng Tây
Sắc, tất nhiên phải có cớ chính đáng!

Cả bọn lại cười rú lên, mụ đàn bà hét, loạn óc rồi! Một cái mõm sài lang chúa hấp sát hàng trăm,
hàng ngàn, toàn hạng gái tơ đang độ, chém đầu ngàn lần chưa hết, nước
nguồn Hắc Giang cũng không rửa sạch tội, một lòng hối hận suông có nghĩa gì.

– Nay mụ là đàn bà nông cạn xin hỏi Thần Xạ: Vậy cứ tàn hại sinh linh cứ cuồng dâm loạn sát, coi người như rác, rồi một phút hối
hận đã đủ chuộc hết tội tầy trời vậy là theo đúng nhân đạo, thiên đạo
sao? A cứ như Thần Xạ nói, sự đau khổ của con người, cả hàng mớ nhân
mạng nữa cũng không bằng một phút hối hận của một con chó sói thành
tinh! Mạng người rẻ quá!

Tiếng cười đầy vẻ chế ngạo, cất lên the thé, ai nấy nhìn Đại Sơn Vương, tưởng giận như chơi, nhưng viên Chúa
Thập Vạn Đại Sơn chỉ đưa mắt nhìn một, không nói gì. Có lẽ nghĩ tới đám
sinh linh đã chịu thác oan vì giấc mộng mê cuồng của viên tù trưởng tài
hoa nuôi chí lớn sai lầm.

Nhưng thấy Đại Sơn Vương im lặng nàng Đông Âm Khan Sao Linh đã vọt lên nói lớn:

– Chẳng riêng Chúa Thập Vạn Đại Sơn, bọn ta cũng tha tội cho Tây Sắc Ma
Vương vì những lẽ thảm thê mà các ngươi không thể biết, chúng ta đang
đưa Tây Sắc ra khỏi cơn ác mộng, quyết không để kẻ nào phạm tới Ma
Vương!

Đám người kia lại cười ngất, một gã lùn mập trạc tứ tuần, giắt hai búa sau vai tiến lên nói oang oang:

– Nàng nào vừa nói đó! À! Bá Diện Thánh Quân hay Thần Nữ xứ Phù Dung, làm sao mỗ phần biệt nổi? Nhưng nếu là Bá Diện thì lạ thật! Mỗ nghe “con ma trăm giọng” từng tử chiến với Ma Vương sao đêm nay cũng về phe Tây Sắc? Tại sao? Mà tại sao đủ mặt giang hồ tứ chiến đại thu của Ma Vương tứ
túc đêm nay lại đi cùng Ma Vương định bênh luôn loài sói tinh đã tàn hại sinh linh?

– À phải đó! Chính mỗ gia cũng đang lấy làm lạ. Tại
sao cung A Phòng lại bị lính Tây Gầm bắn nổ, các người lại có mặt trong
đoàn người tỵ nạn của Ma Vương? Cho biết lý do, bọn mỗ gia còn liệu!

Tây Sắc Ma Vương vùng xua tay, kêu lớn:

– Không, không! Chuyện này là dưới A Phòng đã theo cung viện chìm vào
biển lửa, các ngươi không được quyền biết chuyện đó! Chỉ cần biết Ma
Vương Tây Sắc trả các ngươi cái xác xuống hạ nguồn mà lấy!

Cả đám lộ vẻ nóng nảy, xua tay, hét dữ quát:

– Nếu không cho biết bí mật, đừng hòng thoát khỏi ghềnh này! À mỗ hiểu
rồi! Chuyện bí mật làm điên đảo lòng người không là kho vàng Tây Sắc,
tất chẳng ngoài bí ẩn vòng càn khôn!

Lập tức cả Thoong Mềnh, Woong Lầu cùng tràn lên, hét như sấm:

– Không được nói càn! Chúng ta chỉ biết đại nghĩa, không cho các ngươi
phạm tới Ma Vương là không cho phạm, sao có chuyện vòng càn khôn? Các
ngươi tài cán gì dám phạm tới? Đã không biết điều chớ trách chúng ta!
Cách đây mấy giờ Ma Vương đâu có để các ngươi phải nói tới câu thứ hai?

Đám “mười bóng lạ” kia càng ngửa mat cười rú lên ngạo mạn, một gã cao lênh
khênh, mặt choắt, mặc áo rộng đen lòa xòa, sau vai lại giắt mấy lá cờ
ngũ sắc, vùng cất tiếng gai sắc lạnh lẽo như băng:

– Tưởng bọn
ta không biết Tây Sắc Ma Vương có vầng huyết khí, có trành, xó, chó sói
quân gia lợi hại? Hà hà! Hơn hai mươi năm nuôi chí báo cứu, chuyện trên
giang hồ hẳn ta còn biết rõ sao không lượng tài nghệ của Ma Vương. Bất
tất nhiều lời, ta xin nói lời trước, ai vô can xin chớ dự vào, bọn ta
quyết moi gan Chúa Sài lang báo đại cừu cho người thân thích, ngay bây
giờ.

– Ma Vương Sắc! Ta cho quyền được ngang nhiên đấu chiến! Còn tất cả dang xa ra!

Tiếng hét vang trong đêm trường hừng hực căm hờn, hét xong, cả mười gã cùng
dàn hàng ngang trên ghềnh đá chênh vênh, coi như mười cái bóng u hồn từ
cõi âm lên đòi mạng.

Không hẹn nhau, cả Thoong Mềnh, Woong Lầu,
Thần Nữ, Đông Âm, Bạc Khao Lan, Trần Hùng, Quản Kình, Nguyệt Kiều đều
tiến lên, riêng Giao Long Nữ, Nhũ Hoa Thần đứng đoạn hậu bảo vệ bà Tây
Kiều và đám gái A Phòng.

Tây Sắc chợt ngó về phía bà Tây Kiều, giơ tay nói lớn:

– Xin đừng ai nhọc lòng động thủ! Tây Sắc nói “chuyện” với cừu nhân cũng đủ rồi!

Viên Chúa Thập Vạn cùng hô lớn:

– Không được! Cuộc đấu chiến bất công! Ma Vương đã… Ông định nói “kiệt
lực rồi” nhưng vội hãm ngay, nào ngờ Tây Sắc đã bất thần thu hết tàn
lực, nhảy vọt sang phía ghềnh kẻ thù đứng. Nhiều tiếng kêu rú. Thân hình chúa sài lang vừa cất bóng khỏi mặt ghềnh hơn hai thước, đã có bảy,
tám bàn tay thò vụt theo phát kình trảo túm lấy lưng, lôi giật lại. Đại
Sơn Vương ấn Tây Sắc vào tay Đèo Nguyệt Kiều, quát chìm:

– Bọn này không biết điều! Đám người kia! Bọn ta không thể đứng nhìn các người hại Tây Sắc, biết điều lui mau.

Bọn lạ quát lớn:

– Thù tích hơn hai mươi năm, chúng ta quyết không tha Ma Vương tứ túc. Nếu kẻ nào cản trở chúng ta quyết không tha.

Sát khí chờn vờn, Đông Âm Bá Diện nổi nóng hét “múa mép! Có tài gì giở ta
coi” lập tức tên mặc áo thụng đen nhón cổ áo rũ phạch một cái đã thấy y
mặc áo choàng ngũ sắc, nhảy lùi lại phía sau, xô luôn tới phất cờ múa
gươm gỗ hú một tràng lê thê toàn tiếng Mán rừng.

Lập tức phía
sau nổi âm phong lạnh lẽo, một lũ hình Mán Sơn Đầu từ kẹt đá nhảy vọt
ra, mắt trợn trừng trắng dã, nhe răng nhọn lắc lư, tay xòe khum như vuốt cọp chực vồ coi hung tợn hết sức.

Người nào đã biết qua dị
thuật rừng sâu, đều hiểu rõ sức mạnh kinh hồn của âm binh trành, xó,
người tài võ đến mấy cũng không cự noi, nếu không biết thuật trừ.

– Giờ các ngươi đã chịu lui cho ta bắt Ma Vương chưa? Nhưng nàng Nữ Chúa Pi A Ya đã vọt lên quát lảnh:

– Mo, ké, quỷ xó Mán rừng kia! Lũ mi dám phạm tới giống chúa Phi Mã Yên
Sơn chúa tể các loài ma, thần rừng thiêng? Mo, ké Pi A Ya đâu?

Lập tức, phía sau vọt lên một cặp thầy Mo, mụ Ké uy nghi, hú một tràng binh âm kẹt đá nhảy ra cả một đàn. Thần Nữ Khan Mây Linh cũng vội tiến lên,
hú gọi Quỷ Đồng Nhi cặp quỷ xó nhi đồng cực linh vọt ra, uy mãnh. Đông
Âm, Nguyệt Kiều, Giao Long Nữ, Quản Kình cũng hú vang Song Ma đều ào ào
xông lên lũ lượt.

Bọn kia hét lên phẫn nộ, lão râu thưa cười:

– À! Thần Xạ cầm đầu bênh vực Chúa Sài lang hung ác! Chúng ta thề sinh tử!

Đại Sơn Vương chợt nghĩ ra kế. Quát lớn:

– Bọn ta cũng không dự vào chuyện này nếu các người dám đấu chiến công bằng!

Lão râu thưa hét:

– Thần Xạ muốn sao?

– Một đấu một! Nhưng các ngươi chống sao nổi Ma Vương? Bọn kia cười ngạo, lập tức bảo nhau, rút cả xó ra sau.

Đại Sơn Vương cũng tryền mọi người lại, bảo Giao Long Nữ:

– Xông vầng huyết khí! Ra! Giao Long Nữ gật đầu. Bỗng nghe tiếng hét gọi
“Ma Vương đâu! Ra đền nợ máu” Giao Long Nữ vội xông vầng huyết khí, nhảy vọt lên. Tên râu thưa và mụ đàn bà trẻ đã đứng giữa cục trường cũng
xông vầng hắc khí bao mình, tin tưởng sẽ hạ được Ma Vương. Nào dè bí
pháp càn khôn vô cùng lợi hại. Giao Long Nữ đã chụp sát vầng hắc khí. Lũ đồng bọn thấy nguy lập tức hè nhau hô quỷ xó nhập tràng. Bên này bọn
Thần Nữ cũng truyền âm binh quỷ nhảy vào. Một cuộc loạn đả kinh thiên
động núi diễn ra, cực dữ dội, chỉ năm phút bọn kia đã bị đánh tan, ào ào thu quân rút vội.

Bọn Đại Sơn Vương không rượt theo, chưa kịp
nghĩ suy lại thấy một đám bảy tám bóng khác mặc toàn quần áo trắng phía
Bắc xông tới, hét như điên:

– Tây Sắc! A Phòng ra tro, mi còn tính chạy đâu? Đêm nay, mi phải trả nợ máu xưa hấp sát thân nhân ta!

Mọi người xông ra, thấy bọn này còn cổ quái hơn bọn trước, một lũ lòa xòa
như một bầy ma dữ, mặt mày gớm ghiếc, nhìn qua đã biết chúng đã sống như dã thú giữa khe sâu động thẳm luyện kỳ công dị thuật. Đặc biệt tất cả
đều trạc tứ tuần, toàn đàn ông, không rõ thuộc sắc dân nào, râu tóc dài
thượt xỏa sợi, mắt đỏ khé như mắt thú dữ “ăn” đèn san!

Tự nhiên
bọn Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau, cố nén thở dài, nghĩ đến nghiệp
chướng của viên tù trưởng họ Đèo. Đằng sau bà Tây Kiều cắn môi, nấc
nghẹn, ôm lấy Giao Long Nữ lúc đó cũng vừa thu vầng huyết khí càn khon.

– Lại một đám nữa đến đòi nợ máu! Con ơi! Có ai hiểu cho cha con hóa sói
là đã trả nợ chúng nhân rồi! Còn cách nào trả gớm ghiếc hơn thế nữa?

Hai cô gái ôm mẹ, nước mắt chảy ròng. Nhưng từ lúc Tây Sắc bị chính con
trai (Võ Minh Thần, Dũng) đánh gần chết, phát điên cuồng nhớ Cầm Phi
Phụng, nhớ con, sinh hối hận, rồi dính luôn đầu sói hoàn toàn thành chúa sài lang, một loại thân người da sói, bà Tây Kiều bỗng sinh lòng xót xa vô hạn. Lại thấy thầy trò Đại Sơn Vương, chị em Thần Nữ là người ngoài
cuộc đều có lòng độ lượng tha thứ cho Ma Vương, bà càng thấy thương
“người chồng nghiệp chướng gớm ghê”! Giao Long Nữ run giọng cảm động:

– Mẹ, mẹ tha thứ cho cha con…

– Chính mẹ mới cần được tha thứ! Suốt bao năm, tuy trong cơn mê luyện
thuật lạ gớm ghê, cha con vẫn một lòng yêu mẹ, tưởng nhớ bà Cầm, mà mẹ
đã đáp lại bằng sự kinh tởm.

Bỗng cả mấy người giật mình trông
lên thấy lũ bóng trắng lòa xòa kia đã hú gọi âm binh kéo tới phủ vây cả
khu vườn núi lãnh khí trùng trùng. Một bóng quái dị cổ đeo cặp liềm bán
nguyệt cười thét:

– Thế sự đảo điên, chính tà lẫn lộn hết rồi! Ai như thầy trò Đại Sơn Vương

Thần Xạ sao lại đi phò chúa sài lang tứ túc?

Không ai lên tiếng, bóng khác vùng quát:

– Ma Vương Sắc một loài sói yêu nghiệt mau ra nộp mình chịu tội!

– Các ngươi là ai? Muốn gì?

– Mi không nhớ sao? Hai mươi năm xưa vợ chưa cưới của chúng ta bị mi bắt đem đi hấp sát, mi đã quên?

– Dĩ vãng chết rồi! Đầu óc ta chỉ nhớ “lệnh bà thoát xác” còn chỗ nào nhớ chuyện khác? Giờ mi muốn gì?

– Thủ cấp mi! Tim, gan, lá lách… cả cái xác mi, về lột da xả thịt, còn chưa đã oán cừu thấu xương!

Ma Vương cười rú lên:

– Chó sói ăn thịt người, muốn ăn thịt sói, thế cũng công bằng! Vậy xuống hạ nguồn Hắc Giang chờ đó, sẽ có xác Ma Vương!

Cả đám cùng hét:

– Sói tinh! Phải nop ngay bây giờ!

Đông Âm Bá Diện nóng tiết, mắng lớn:

– Lũ quái! Không biết điều, các ngươi tài cán gì đòi lấy xác sống Ma Vương?

Liền mấy tràng hú thê lê, cả đám quái nhân áo trắng cùng ào tới bắt Tây Sắc. Nhưng bọn Thần Nữ đã đề phòng, lập tức ra “quyết” xua quỷ xó, âm binh
chặn lại, người tung võ khí đánh nhau.

Trận chiến khốc liệt diễn ra như sấm sét. Giao Long Nữ nhảy sổ vung huyết kình giật lia mấy
đường, bọn áo trắng vừa túng thế, bỗng nghe tiếng hét vang động triền
núi, lại hai, ba đám khác kéo tới từ phía sau núi xông ra bắt Tây Sắc.

Tây Sắc đứng bên vách đá buồn rũ rượi, vừa ngẩng trông sang, bọn kia đã
nhào tới. Giao Long Nữ phóng vèo tới đánh tung mấy bóng xuống ghềnh
dưới. Nào dè từ mỏm đá trốc đầu, sau cục trường liền hai bóng cao lênh
khênh bao hắc khí vọt xuống túm luôn Ma Vương bắn vút lên hàng mấy
trượng. Giao Long Nữ giật mình toan nhảy theo, bỗng nghe tiếng hét như
sấm sét. Một bóng “người máu” từ đâu vọt tới, chụp hai bóng đen quăng
đi, ôm lấy Ma Vương hạ xuống chỗ bà Tây Kiều đứng bên đàn sơn cẩu.

Võ Minh Thần! Chàng tuổi trẻ đặt Ma Vương đứng một chỗ và phóng thẳng lên
cục trường vận khí ngũ hành đánh đuổi đám cường địch. Nháy mắt cả đám đã bị đánh tan, bỏ chạy hết. Bọn Đại Sơn Vương cũng không có ý truy sát.

Sườn núi lại rơi vào yên lặng, xa xa, phía Cung A Phòng ngọn lửa đang hạ
thấp, các cánh rừng ngoại vi lửa cũng dừng lại, nhưng vẫn sáng rực biên
thùy. Bọn Đại Sơn Vương vừa tụ nhau lại giữa cục trường, thình lình nghe “bốp” một tiếng, hỏa pháo vọt lên trời lơ lửng trốc núi, sáng lòa. Mọi
người đang ngơ ngác dòm quanh, bỗng “đùng đùng” thần công đại bác kích
pháo nổi tràng, đá vụn, mảnh gang bay “chíu chíu” như mưa. Ai nấy giật
mình cúi rạp bất ngờ tiếng đạn pháo lại im bặt.

Rồi có tiếng ồm ồm như lệnh vỡ, toàn tiếng Thổ Thái Tây Bắc lơ lớ:

– Tất cả khách tứ chiến nam nữ biên thùy đứng yên, không hề chi! Bản chức chỉ cần bắt trọng phạm sát nhân!

Bọn Sơn Vương đảo mắt trông quanh. Dưới ánh hỏa pháo sáng lòa, bỗng thấy
vách núi xế Tây Nam đối diện cục trường theo thế núi thước thợ uốn cong, xịch nhô ra một bọn cao lớn vạm vỡ mặc toàn quần áo “ka ki” vàng nhạt,
đội mũ “kép” lố nhố sau lưng có nhiều họng súng tự động chĩa tua tủa.
Đứng đầu la một viên tướng Tây chống “ba toong”, cạnh có một người lính
Thổ cao lớn cầm cây cờ hiệu “quân đoàn lưu động biên giới”.


Tây Gầm! Và dưới ánh lửa chờn vờn khắp núi trên đồi thung dưới, những
họng súng đại pháo đen ngòm chĩa cả lên sườn núi sẵn sàng nhả đạn! Xa xa từ nhiều phía lại có tiếng kèn chuyển quân nổi chìm trong gió, đổ cả
về phía này. Đại Sơn Vương Thần Xạ trầm mặt bảo:

– Chúng ta bị
bao vây rồi! Tây Gầm giỏi thật! Hành binh biến trá, đang nghe lửa, đã
chuyển vây ngang được, phiền dữ à! Cứ để mỗ đối phó!

Bèn tiến lên, quát giọng sảng:

– Tây Gầm! Ông muốn sinh sự với bọn giang hồ biên giới? Sao bỗng dưng chuyển binh vây chúng ta?

Hai bên cách nhau một con thung vực hẹp không tới một trăm thước. Tây Gầm chống ba tong dõng dạc:

– À! Chúa miền Thập Vạn Sơn Vương Thần Xạ Vân Nam! Tiên sinh lạc thảo sao cũng có mặt tại vùng biên hẻo lánh này? Bản chức có lời chào! Tướng lạc thảo yên lòng, bản chức hành quân đêm này chỉ cốt đánh A Phòng bắt
trọng phạm Tây Sắc Chúa Sài lang không liên can gì tới người khác!

– Tây Gầm! Rất tiếc, cuộc tiến binh của ông hơi chậm, A Phòng bốc cháy ra tro, bọn mỗ đã xuống A Phòng giải quyết xong mọi chuyện rồi. Bất tất
ông khỏi nhọc sức nữa!

Tướng Tây Gầm gọi lớn:

– Đại Sơn
Vương! Tây Sắc tàn hại dân gian làm loạn thượng du, nạn nhân bị chết kể
hàng ngàn, không kể đàn bà bị bắt cóc! Bản chức phải đem Tây Sắc ra
trước pháp luật! Tứ chiến giang hồ, lạc thảo biên thùy đừng dự vào cho
tròn hòa khí!

Đại Sơn Vương nói vọng sang, giọng sảng tựa chuông đồng:

– Cung A Phòng đã cháy tiêu, tất cả đã vào dĩ vãng, đàn bà con gái còn
sống cũng đã được tha hết, quân gia sơn cẩu sẽ giải tán, sáu Tây Gầm còn muốn gì nữa? Bất chiến tự nhiên thành đó là cái may nhất của nhà nước,
ông không nên tham lam quá!

Tây Gầm cau mày, ngoắt tay một cái, viên quan võ tùy cận mang ra một cái “micro” chạy pin giọng ồm ồm vang trong đêm rừng:

– Đại Sơn Vương! Bản chức được lệnh quan toàn quyền thống sứ phải bắt kỳ
được trọng phạm đưa ra xử, trấn an dân chúng Đông Dương! Bản chức phải
làm tròn sứ mạng!

Đại Sơn Vương khô giọng:

– Hãy coi như Tây Sắc đã cháy theo cung A Phòng! Hãy báo cho thượng cấp biết tất cả
đã bị xóa nhòa, từ nay Tây Sắc chỉ là một bóng hình ảo ảnh trong chuyện
hoang đường!

Tây Gầm quát:

– Trọng phạm phải ra trước
pháp luật! Không ai có quyền định đoạt! Đông Âm sôi tiết hét lảnh chục
giọng làm sĩ tốt bên kia núi giật nẩy mình:

– Sáu Tây Gầm định đưa sài lang chúa đầu đàn ra trước vành móng ngựa? Có đạo luật nào nói đến chuyện khôi hài đó chưa?

Câu nói bất thần của Đông Âm Bá Diện làm Tây Gầm đứng ngẩn ra trong giây
khắc, đám tòng nhân cũng phải đưa mắt nhìn nhau. Vì thực ra cũng chưa ai để ý đến điều đó, bấy lâu nay, các quan chức nhà nước chỉ biết săn đuổi một con quái bốn chân biết nói tiếng người hành động như người, và coi
đó như một “người Sói”. Giờ nghe Đông Âm nói, cả bọn mới sực nhớ tới
chuyện đó. Nhưng chỉ mấy giây, viên quan sáu Tây Gầm vùng nói lớn:

– Chính điều kỳ dị đó làm toàn quyền thống sứ ra khẩu lệnh buộc bản chức
phải bắt kỳ được Tây Sắc đem về Hà Nội. Hiện tượng Tây Sắc đã làm rúng
động cả bên Tây, các nhà khoa học không tin trên đời có thể có một giống bốn chân linh mẫn yêu ma đến thế! Nên bên Tây đã truyền sang: tốn đến
mấy cũng phải bắt cho kỳ được!

Đại Sơn Vương, Đông Âm chưa kịp lên tiếng, Võ Minh Thần đã lướt lên, quát lớn:

– Sáu Tây Gầm! Bất tất nhiều lời, ông nên rút binh về là hay hơn hết! Vụ
Ma Vương Sắc đã xong rồi, ông nên quên đi, coi như một cơn ác mộng biên
thùy! Đừng tính chuyện bắt Ma Vương nữa! Bọn mỗ vừa đánh đuổi hai đám
đến làm phiền! Nếu ông muốn bắt, chắc hòa khí không còn!

Sáu Tây Gầm nhìn sang, cũng chẳng rõ Nhũ Hoa Thần hay Võ Minh Thần. Ông ta ngơ ngác hỏi:

– Thần nào? Phải Thần bắt cóc con gái ta?

– Không! Đây là Thần Võ ke đem con gái ông về đoàn tụ! Tây Gầm lộ vẻ kinh ngạc trợn mắt kêu:

– Thần họ Võ kẻ đại thù của Tây Sắc bốn chân suốt bao năm khổ luyện kỳ
công nuôi lòng báo oán, giờ cũng muốn bảo toàn cho Sói tinh? Ta điên đầu mat!

Đại Sơn Vương nghiêm mặt nói lớn:

– Chẳng có gì lạ đâu! Vật đổi sao dời, đời người ta thay đổi là thường, xưa nay vẫn có
những chuyện bí ẩn người ngoài không nên biết tới là hơn! Trước khi A
Phòng phát nổ, cuộc đổi thay đã diễn ra dưới A Phòng! Nay tất cả bọn mỗ
đều một lòng bảo vệ Tây Sắc Ma Vương, ông chẳng nên động tới?

– Tại sao lại có chuyện đó?

– Đừng hỏi!

– Không được! Bản chức phải bắt hung phạm! Minh Thần thét:

– Ông tài cán gì đòi làm chuyện đó? Nay ngoài trăm thước thì ông mạnh
nhất biên thùy nhưng trong vòng năm mươi ông là kẻ yếu nhất! Tây Gầm
phất ba toong một cái, liền hàng chục phát súng lớn nổ vòng quanh bọn
Đại Sơn Vương đứng nhưng vừa đủ để đạn không phạm tới ai. Viên tướng Tây giơ ba toong lên tứ bề im lặng, mặt lộ nét sửng sốt kêu:

– Phải Võ Minh Thần kẻ đại thù của Tây Sắc Ma Vương Hồng Cẩu Quẩy?Bản chức
được Nam Khấp cho biết tin Thần đi diệt Ma Vương, bản chức kéo binh tới
cũng có ý giúp Thần sao giờ bỗng nhiên thay đổi? Sao lạ vậy?

Minh Thần cùng mọi người đứng yên chẳng biết nói sao cho tiện. Vì chuyện bí
mật dưới A Phòng, tuy chẳng ai bảo ai, mọi người cùng cảm rõ là chỉ nên
chôn điều bí mật đó vào đáy lòng là hay hơn hết!

Nhất Ma Vương
Sắc lại càng muốn chôn vùi chuyện đó, vì chuyện lỡ ra, cả con cháu giòng họ bộ tộc sẽ mang tai tiếng, còn gì uy danh! Lúng túng mấy giây, Minh
Thần vùng nói vọng sang:

– Quan sáu Tây Gầm! Có những chuyện ông không nên biết là hơn! Giờngu mỗ chỉ xin ông quên chuyện này đi, coi
như đó là một cơn ác mộng biên thùy và rút ngay binh về trấn! Nếu còn cố bắt Ma Vương, chắc không tránh nổi một cuộc đổ máu tai hại, vì bọn mỗ
quyết không để cho kẻ nào phạm đến Ma Vương!

Tây Gầm quét lia cặp mắt mèo, quát lớn:

– Bản chức không thể rút binh về, nếu không có cớ chính đáng! Thấy Ma
Vương không bắt giải ve Hà Nội, bản chức sẽ có tội với thượng cấp!

Đại Sơn Vương thấy Tây Gầm cứ nhất định đòi bắt Ma Vương, lại muốn rõ lý do, Chúa Thập Vạn nói lớn:

– Sáu Tây Gầm! Ông là một trong “tứ dị” Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc
Tiếu, xưa nay vẫn nổi tiếng đa mưu túc trí, thức thời, sao giờ còn cứ
khăng đòi bắt Tây Sắc, đòi biết chuyện riêng của người? Hãy quên đi! Coi tất cả là cơn ác mộng!

Tây Gầm cười khô:

– Ác mộng còn đứng kia, bản chức yên tâm sao nổi? Đại Sơn Vương dõng dạc:

– Này sáu Tây Gầm! Mỗ nói lời cuối, từ nay Ma Vương chỉ là một bóng mờ dĩ vãng, gái A Phòng đã được phóng sinh, Giao Long Chúa Hồ Ba Bể cũng
không còn, mẹ con cú Chúa Phàn Siêu Hóa cũng thành huyền thoại. Tất cả
bị xóa nhòa. Tự dưng Tây Gầm bất chiến tự nhiên thành, còn muốn gì hơn
nữa!

Nhưng Tây Gầm vẫn bị thượng lệnh và óc tò mò chi phối, cứ
đòi bắt hung phạm, lại tin vào dàn đại pháo bách phát bách trúng, nên
vẫn không chịu lui. Đại Sơn Vương nhìn Minh Thần ngoắt tay! Thần quăng
luôn cây dù. Nhũ Hoa Thần cũng ném dù y cho Woong Lầu, hai thầy trò Đại
Sơn Vương cắp nách vẩy “tặc tặc” đạn sẹt mang tai Tây Gầm, sói tung luôn chom mũ.

– Trong vòng trăm thước ông không thể mạnh hơn bọn mỗ! Nên rút là hơn!

Nhưng Tây Gầm đã nhảy vào sau mỏm đá, đại pháo chần hơn hai mươi quả đồng loạt “O” quanh cục trường, viên quan sáu hét:

– Bản chức cho một phút! Đại pháo cứ bắn đều! Hàng loạt thần công kích
pháo kế tiếp đì đùng, xoáy trôn ốc quanh chỗ Đại Sơn Vương cách nửa
thước một quả dệt thành một màng lưới đạn rất tài tình làm ai nấy phải
cúi rạp xuống.

Thình lình nghe dưới chân núi có tiếng hét lê thê:

– Dừng lại quan sáu! Ai nấy dòm xuống. Dưới ánh lửa từ xa hắt tới, cái bóng trắng xóa của Nam

Khấp đang phóng như bay lên ngọn đồi. Thoắt chỉ còn cách chỗ Tây Gầm núp non một tram thước. Tự nhiên Tây Gầm nghĩ thầm:

– Nam Khấp là bạn tốt của ta nhưng rất có cảm tình với Thần Võ! Không nên để lại gần! Bèn hô “Chặn lại! “. Tiếng đại pháo “o” luôn Nam Khấp khiến lão phải đứng lại.

Súng ngừng Nam Khấp hét:

– À sáu Tây Gầm! Ông cho xả pháo cầm chân ta?

Tây Gầm nói lớn:

– Nam Khấp tiên sinh chuyện này rắc rối, tiên sinh không nên dính vào!
Bản chức không thù gì anh em giang hồ tứ chiến, nhưng buộc lòng phải bắt Ma Vương Sắc, không có lý để trọng phạm đào tẩu?

Nam Khấp cười ré:

– Các bạn lão mỗ là người ngay thẳng, trước quyết bắt giết Tây Sắc, nay
quyết bảo vệ Tây Sắc là có lý do. Lão mỗ tin bạn không cần lỳ do. Sáu
Tây Gầm nếu có tin mỗ cũng nên làm thế!

– Rút sao được! Nam Khấp cười lớn:

– Không rút thì mỗ rút… cái này, ta tặng Tây Gầm một bài chơi!

Dứt lời, lôi cây kèn ra đưa lên miệng thổi, tiếng ầm ầm như sấm sét. Bọn
Đại Sơn Vương cùng đưa “thiết pháo khẩu” thổi một tràng, tiếng nghe như
vũ bão, xé màng tai làm lính Tây Gầm kinh tâm hoảng trí, muốn loạn như
chơi. Tiếng dữ lại ngừng. Rồi trong đêm chỉ còn tiếng kèn Nam Khấp, nghe buồn hơn cha chet làm sĩ tốt ai nấy đảo điên gan ruột, nước mắt như
mưa, chỉ còn ít kẻ cứng vía còn bóp cò thả đạn nổi. Tây Gầm thất kinh
cũng phải bịt chặt lỗ tai, gầm lên:

– Nếu không chịu nộp mình, bản chức cho rót xuống đầu lập tức! Đại Sơn Vương ngó quanh, hô:

– Để mỗ nghĩ hai phút! Bỗng nghe phía sau Tây Gầm có tiếng kêu lớn “Quan
Sáu! Có người máu đang lao tới”. Tây Gầm hô “chặn lại”. Pháo nổ đì
đùng, thình lình nghe tiếng ai quát lạnh như tiền:

– Tây Gầm! Phiền quan sáu cho dừng lại! Mỗ muốn nói chuyện riêng!

Tây Gầm dáo dác nhìn quanh, chẳng thấy ai.

Tiếng bí mật cười hà hà hắt xuống:

– Sáu Tây Gầm! Ông sắp loạn óc rồi. Chặn cách nào khi không thấy mục
tiêu? Coi chừng! Nếu ỷ vào đội pháo đang cơn giận ông có thể bị quật
chết! Hoặc nó sẽ rót luôn xuống đầu quan sáu!

Viên tướng Tây
cùng đám tùy cận ngửa mặt lên trông chột dạ. Bọn họ đang đứng trong kẹt
núi rộng năm bảy thước phía sau là ghềnh đá nhấp nhô của một trái núi
thấp chạy về hướng Đông Nam, Tây Gầm đã lập một phòng tuyến theo hình
cánh cung ôm lấy khu núi này.

Trên các ghềnh đá trăng soi sương
trôi chẳng thấy bóng nào cả nhưng khi Tây Gầm ra hiệu cho hai, ba viên
tùy cận thuộc giới cao thủ vọt lên trấn đóng, cả mấy viên đều bị một
luồng kỳ phong mật đánh thốc vào yếu huyệt ngã lộn cổ xuống nằm quay lơ. Quá mê “con mồi” Ma Vương, Tây Gầm múa ba toong hét như điên:

– “Người máu” nào đó dừng lại! Tiến tới gần ta cho rót giữa cục trường bên kia!

Tiếng kèn Nam Khấp, tiếng “thiết pháo khẩu” của bọn Đại Sơn Vương ré lên ít
tiếng rồi im chỉ còn tiếng kèn Nam Khap vang lên, theo điệu “lâm khốc”,
điệu kèn đám ma, cực kỳ bi thảm, nghe như chết cha chết mẹ, chết vợ,
chết con, làm bao nhiêu sĩ tốt buồn rười rượi, lụy chảy dầm dề, bủn rủn
tay chân, chỉ còn số ít là tỉnh táo nhưng tiếng đã bat đầu nổi loạn,
chẳng ra hàng lớp gì cả! Bỗng lại nghe mấy tràng súng tự động nổ sau
núi, tiếng bí mật vụt quát lớn:

– Người máu sắp tới, mỗ bắt sống Tây Gầm! Chỉ còn ba mươi thước nữa, người máu sẽ tới sau lưng, biết
điều ra lệnh đừng bắn, còn kịp! Chậm, chết oan chớ trách! Trong vòng vài mươi thước ông không cậy vào binh hùng tướng mạnh được đâu!

Tiếp theo tiếng quát, có một bàn tay vô hình túm lấy ngực áo viên tướng Tây, nhấc bổng lên đặt xuống. Bất thần tiếng bí mật lại kêu:

– Tây
Gầm! Mạng ông nguy rồi. Quỷ Đồng Nhi đã tới kịp. Tây Gầm nhoài mình vươn cổ nhìn sang bên kia núi trước, bỗng thất kinh, thấy hai đốm xanh lè
như hai đóm tĩnh lạc vật vờ trôi qua thung lũng hẹp, lướt lên sườn núi
nhanh như gió.

Sống tại biên thùy nhiều năm, viên quan sáu không lạ gì sức lợi hại của trành xó, nên vội đưa ba toong lên trời kêu lớn:

– Ô! La! Cả đến bạn già thân nhất cua ta là Nam Khấp giờ cũng bên Tây
Sắc, ta còn mong gì bắt nổi Ma Vương, lính kèn đâu! Nổi hiệu ngừng bắn!

Lính kèn đứng bên thổi liền, tiếng đồng vang lên, tiếng kèn Nam Khấp, tứ bề
tiếng đại pháo tắt liền. Miền biên địa ngoại vi A Phòng rơi vào im lặng
mênh mông, chỉ có tiếng lửa cháy xa xa đang hạ thấp ngọn dần.

Bàn tay vô hình buông ngực áo Tây Gầm, viên quan sáu lại hô:

– Các cơ đội rút! Từ nay Tây Sắc Ma Vương chỉ là một bóng mờ ảo giác,
Chúa Sài Lang tứ túc chỉ là một tích chuyện thần kỳ trên tờ báo cáo gửi
về Hà Nội, Pari! Anh em tứ chiến giang hồ! Hãy nhớ kỹ điều đó! Phần bản
chức Tây Gầm này sẽ cố quên câu chuyện kỳ lạ này, câu chuyện sẽ làm ta
mất ngủ nhiều đêm! Nổi kèn rút binh!

Kèn đồng lại vang lên, các
cơ đội lục tục giải binh rút khỏi “vòng chiến địa ma quái” đã làm tóc
gáy họ dựng lên, ngay khi được lệnh lên đường vào “cõi Ma Vương”.

Vừa khi đó, bóng đỏ cũng vừa vụt tới, đứng sừng sững trên ghềnh đá mõm phía sau Tây Gầm. Chừng chưa nhận ra hiệu rút binh, bóng đỏ dơ luôn bàn tay
máu, chụp xuống định túm cổ viên quan sáu.

Nhưng có tiếng quát giật:

– Bất tất… Cô nương! Tây Gầm đã thuận rút quân!

Thì ra bóng đỏ này là Giao Long Nữ. Thấy tình thế nguy ngập vì pháo đội Tây Gầm, cô gái chạy vòng sang toan bắt tướng Tây Gầm áp đảo, buộc phải rút theo lối Tào Muội nắm áo Tề Hoàn Công bắt trả đất Vấn Dương cho nước
Lỗ! Nghe gọi cô gái đưa mắt nhìn quanh. Cách ba, bốn thước, trong một
hốc đá có một khóm sương mờ vụt tan loãng hiện ra một người trẻ tuổi mặc quần chùng, áo dài trắng như học trò, hai con mắt sáng như hai vì sao
khuya.

– Đông Tửu… đại huynh!

Bọn Tây Gầm cùng kêu lên “Ô! Nhà bác học”. Ai nấy dòm lên. Đông Tửu bước ra khỏi hốc, chào Tây
Gầm, đoạn lại sát Giao Long Nữ khẽ bảo:

– Giờ mới chính là lúc
cô nương cùng Võ Minh Thần Dũng không nên rời tù trưởng nửa bước. Nếu
không “người sẽ đi theo bà Cầm Phi Phụng” và những oan hồn đã thác vì
Tây Sắc!

Giao Long Nữ vọt ra sau ghềnh đá, thu vầng huyết khí càn khôn. Đông Tửu đăm đăm khẽ nói:

– Thực ra ngu mỗ đã bắt đầu ngờ vực có chuyện khác thường từ khi biết rõ
Chúa Sài Lang và Giao Long Chúa cùng luyện vầng huyết khí giống hệt phép hai cái vòng càn khôn! Khi thấy chuyện Nhũ Hoa Thần ngu mỗ càng tăng
nghi vấn. Đêm cô nương và Minh Thần cùng mơ lạ, ngu mỗ càng tin mình
nghĩ đúng, nhất là sau đêm Ma Vương tới nhà tù trưởng Cầm Văn Đạt mắng
Nhũ Hoa Thần. Ngu mỗ bèn tới nhà Văn Đạt, đã gặp Đại Sơn Vương tại đó!
Rất tiếc cả nhà ông ta đã về Lai Châu, nhưng cũng tìm được ít manh mối
về người rể họ Cầm là tù trưởng Đèo Văn Lang! Và khi tới A Phòng, lặn
được vào căn hầm có máy thu thanh thì bọn mỗ đã biết rõ điều bí ẩn thảm
ve nguồn gốc họ Đèo.

Thở dài chàng tiếp giọng thật buồn:

– Đời người có những điều bí ẩn không sao lượng nổi! Bí ẩn thảm thê có
thể làm lòng người tan tác nhưng dẫu sao còn hơn phải sống trong sa mù!
Giao Long Nữ bất giac ứa nước mắt nhìn Đông Tửu thở dài hỏi:

– Đại huynh đã biết mọi chuyện thê thảm trong gia đình em? Huynh đã biết anh Võ Minh Thần là anh ruột cùng cha khác mẹ với em?

Ngậm ngùi, chàng trai nhìn cô gái, gật đầu, khẽ bảo:

– Dẫu sao biết được nguồn thân thế còn hơn sống trong sương mù. Nay là
lúc nước sôi lửa bỏng không phải lúc nghĩ đến mình! Phụ thân và mẫu thân cô nương đã chịu quá nhiều oan khổ, giờ có lẽ ta nên tính sao dứt oan
cho “người”. Nhất phụ thân cô nương với hàng ngàn mạng sinh linh ám ảnh
linh hồn thêm tai họa hóa sói, “người” chắc khó bình tĩnh lắm! Cô nương
nên quay về kèm sát mới được! Tôi biết cô nương hiện giờ… buồn lắm,
nhưng trước nỗi khổ của lệnh song đường, tôi tưởng còn thê thảm hơn…
chúng ta nhiều! Giao Long Nữ lau mắt bắn vọt mình về phía núi bên kia
rồi mất dạng. Chàng bác học ngó theo im lặng bỗng thở phì lôi trong mình ra một bình rượu ngửa cổ tu ừng ực. Và khật khưỡng biến sau ghềnh đá
mất dạng. Bên kia núi bọn Đại Sơn Vương nghe lệnh kèn rút binh ai nấy
thở phào như trút được gánh nặng ngàn cân trong ngực. Đại Sơn Vương tiến lại dịu dàng bảo Ma Vương Sắc:

– Quân Tây Gầm rút. A Phòng sắp
thành tro, tất cả đang đi vào dĩ vãng, giờ là lúc ông nên nghĩ đến hiện
tại! Hiện tại huy hoàng đã bắt đầu! Ngày mai trời lại sáng!

Tây
Sắc vùng ngửa mặt cười sằng sặc. Nãy giờ Tây Sắc Ma Vương cứ đứng tựa
vách núi im như pho tượng, mặc cho mọi việc diễn biến quanh mình. Bộ mặt chó sói dính che hết khuôn mặt thực, không ai đọc được sắc diện Ma
Vương, chỉ có đôi mắt đỏ ké đang chuyển sang màu trắng nhạt, vụt mất hết anh mê cuồng dữ tợn, trở nên sâu thẳm như ẩn tích cả nỗi sầu cõi thế
mênh mang. Đang lơ đãng nhìn các cơ đội lục tục rút theo hiệu kèn, lại
nghe Sơn Vương nói, Ma Vương ngoảnh lại ngó Chúa Núi Vân Nam, trầm giọng bảo:

– Than Xạ! Ông nói đúng! Tất cả đã rơi vào dĩ vãng, đã chôn vùi trong biển lửa A Phòng! Giờ chỉ nên nghĩ đến hiện tại!

Mọi người nghe lời Ma Vương, có ý mừng thầm, kín đáo đưa mắt cho nhau. Nhưng Ma Vương đã khẽ giọng tiếp:

– Hiện tại… Đèo Văn Lang không còn nữa, chỉ còn Tây Sắc với nỗi cô đơn khủng khiếp trong lòng!

Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Đèo Nguyệt Kiều, Nhũ Hoa Thần, Đèo Văn Kiệt
đồng loạt buông lời “Không không! Phụ thân không cô đơn! Phụ thân
còn…”.

– Vợ yêu quý Bạc Tây Kiều, các con ông và… còn nhiều thứ nữa, các con ông nói đúng!

Điềm nhiên, Ma Vương ngửa mặt nhìn vầng trăng xế, phát âm sầu mang mang:

– Thần Xạ! Ông là người giang hồ từng trải, lại không biết đến nỗi cô đơn khủng khiếp trong lòng người sao? Kẻ kỳ tài xuất chúng, kẻ nuôi chí lớn bao giờ chẳng cô đơn, hạng mưu đồ nghiệp phi thường, tàn hại sinh linh, khi tỉnh cơ cuồng mộng, chán mưu đồ, lòng càng cô đơn khủng khiếp,
không sao hòa hợp được với người đời nữa!

Đại Sơn Vương kín đáo
thở dài, hiểu rõ nỗi lòng Ma Vương đang bị sức hối hận gớm ghê dầy vò,
thêm nỗi đau hờn hóa sói, Đại Sơn Vương đanh giọng bảo:

– Mỗ
hiểu lòng cô đơn đó! Nhưng Ma Vương không cần thiên hạ nữa! Vợ con thân
thích và những kẻ giang hồ khoáng đạt cũng đủ cho Ma Vương quên… dĩ
vãng!

Giọng sầu mênh mông, Ma Vương trầm lời rung động:

– Cám ơn Thần Xạ, người bạn trẻ độ lượng! Cám ơn tất cả đã vui lòng quên
dĩ vãng Ma Vương! Nhưng Ma Vương tứ túc Hồng Cẩu Quẩy không thể yên lòng sống với những tâm hồn độ lượng của người thân thích với xác sài lang
ghê tởm này! Dĩ vãng vẫn còn nguyên trong hồn Tây Sắc với hình ảnh hấp
sát chất chồng. Hiện tại đây, Tây Sắc vẫn còn nguyên hình ảnh biên thùy
phân mao, buổi chiều đó, trời nổi gió vàng hiu hắt, nắng bụi hoàng hôn,
mặt trời như cái mâm đồng nung đỏ sau sương mờ, bên gốc tùng biên Trùng
Khánh phủ. Cầm Phi Phụng khỏa thân bị Ma Vương hấp thành cái “túi da
người”… Ôi thôi! Người vợ yêu quý suốt đời vừa đẹp vừa hiền đã bị Tây
Sắc hấp… Không bao giờ Tây Sắc quên được hình ảnh kinh khủng đó! Các
người có ai biết nàng đã nói gì trước khi bị hóa kiếp không? Chúa Mã Đầu chiều đó tẩm đất náu trên chặng ba tùng có nghe thấy không?

Thoong núi Đầu Ngựa khẽ lắc, Ma Vương bỗng lại rống lên thống thiết cực độ:

– Các người không biết nhưng Ma Vương nghe rõ! Trong cơn tâm thần loạn
trí vì ngải độc hành. Khi vòi đỏ tuôn vào lỗ mũi, nàng vừa dãy lên đành
đạch vừa rên rỉ, nàng lắp bắp như tiếng nói từ tiềm thức phát ra “Người
ta kể lại, nó sẽ báo cừu… Làm sao ngăn nó?” Nó là con nít vòng xanh,
trong cơn hấp hối kinh khiếp, nàng vẫn không thù chồng, vẫn sợ con sẽ
giết cha, vậy mà trong cơn cuồng loạn, Tây Sắc đã hấp nàng như hấp gái
qua đường. Tại sao? Tại sao? Nó lên cơn hấp sát, nó tưởng nàng khinh nó
bỏ đi? Trong cơn điên loạn có thể như thế lắm, nhưng trong tiềm thức chỉ vì nó quá yêu nàng, nó muốn giữ nàng vĩnh viễn, nó tưởng nàng kinh tởm
căm ghét nó không chịu được nên chỉ vì quá yêu nàng! Sau cơn mê cuồng
loạn sát, nó mới hiểu nàng bỏ đi chỉ vì quá kinh sợ, tưởng chồng hóa sói sẽ hấp cả vợ con. Hình ảnh dưới gốc tùng biên Trùng Khánh phủ, từ đó ám ảnh Ma Vương hơn hai mươi năm rồi, buổi hoàng hôn ghê gớm đó vẫn sáng
rực trong hồn Tây Sắc ám ảnh nó trong giấc mơ nặng nề. Cũng vì thế mà
năm sau, Bạc Tây Kiều lại bỏ đi, lần đó gặp lại Tây Kiều chạy trốn cùng Trần Hùng, nó căm giận ghen tuông còn hơn lần trước, mà vẫn không hấp
sát Tây Kiều! Hơn hai mươi năm rồi, Tây Sắc cô đơn giữa hàng ngàn mỹ nữ, giữa cung vàng lầu ngọc, lòng trống trải mênh mông nó chỉ còn sống nổi
nhờ mỗi ngày còn được nghe giọng nói của vợ xưa!

Giong Ma Vương
càng lúc càng nức nghẹn, hai con mắt dữ lụy đầm đìa khiến bọn Đại Sơn
Vương cũng phải ngậm ngùi rưng rưng nước mắt. Bà Tây Kiều ôm mặt nấc
lên, mấy anh em Võ Minh Thần cũng cắn răng cố nén tiếng khóc òa.

Thình lình Ma Vương Sắc rú lên trỏ về phía Nhũ Hoa Thần.

– Phi Phụng! Phi Phụng đã về kìa… nàng về đón Ma Vương. Ai nấy nhìn
theo. Lúc đó Nhũ Hoa Thần vẫn ôm tượng ảnh bà Cầm Phi Phụng đứng bên
vách núi cách đó năm, sáu mươi thước. Gói di hài đặt ngay trong lòng pho tượng thờ. Ánh trăng mờ úa ánh lửa xa xa vật vờ soi chiếu, ngay sau
lưng Nhũ Hoa Thần rõ ràng có một bóng đàn bà trắng như vôi tỏa vừa hiện
lên, đã vụt chìm biến vào ánh trăng khuya vì hai đốm hồn Quỷ Đồng Nhi từ bên kia thung lũng quay về, lao vụt vào pho tượng như muốn đuổi tà!

Giật mình Thần Nữ Phù Dung nương vùng quát lớn:

– Quỷ Đồng Nhi! Không được làm oan hồn Bà Cầm kinh sợ. Đồng Nhi rút xa đợi lệnh Chúa Nàng.

Hai đốm quỷ xó lập tức xẹt vào hốc đá khuất như hai con đom đóm lớn nhưng
bóng trắng kia không thấy hiện ra nữa. Ma Vương nói lớn:

– Cầm Phi Phụng đã về đón Tây Sắc! Tây Sắc vào cõi u minh chịu tội cùng nàng!

Dứt lời Ma Vương đưa cả hai bàn “chân” vuốt nhọn lởm chởm móc vào cuống
họng toan dựt đứt. Nhưng Đại Sơn Vương đã đề phòng kịp thời phát trảo
kình nắm lấy kéo ra nghiêm giọng:

– Ma Vương! Bình tĩnh! Nay kỳ
công hấp sinh đã luyện thành, cha con tái ngộ, Ma Vương không thể ra đi vội vã! Hãy nghe ngu mỗ bình tâm lại! Mấy anh em Minh Thần xúm lại
khuyên can. Ma Vương vùng bảo:

– Vào đường hấp luyện trường sinh là muốn sống ngàn đời cùng Phi Phụng, Tây Kiều, sợ ngày tất cả bị hủy
diệt. Nay Phi Phụng không còn, Tây Sắc là kẻ sống thừa trên cõi thế! Với hình xác sài lang, Tây Sắc đã ra ngoài nhân loại.

Bà Tây Kiều cũng lên tiếng an ủi, tỏ lòng xót xa, Đại Sơn Vương chợt bảo:

– Bọn my nữ A Phòng vẫn không thấy hay đã bị thiêu trong lửa? Quân A
Phòng loạn chiến chạy lửa rút đâu? Hãy nghĩ đến hàng ngàn sinh linh còn
thất lạc!

Mãi đến lúc này mọi người mới sực nhớ tới đám nữ nhân di tản khỏi A Phòng, Ma Vương bảo:

– Ta nên đi kiếm chúng! Cho Ma Vương đã nguôi lòng u uẩn, mọi người cùng
mừng thầm. Cả bọn lập tức cùng Ma Vương dẫn đám gái hấp sinh chó sói
xuống núi. Lúc đó, các cơ đội Tây Gầm đã lục tục rút về hướng Bắc Giang. Theo lệnh Ma Vương, bọn Đèo Nguyệt Kiều đi trước lần tới vùng cửa ngầm A Phòng trở lên. Nhưng tới gần đó thì ngọn lửa A Phòng đã lan tràn liếm
cháy cả vùng đèo núi kia vào biển lửa từ hồi nào!

Thất kinh Đèo Nguyệt Kiều chạy quanh rúc tù và vang động:

-Dạ Xoa! Dạ Xoa… Ngũ cung thập viện Đã tưởng mỹ nữ cháy thui hết,
nhưng vừa hết hồi tù và đã nghe tù và đáp lại rồi! Bọn Dạ Xoa dẫn đoàn
mỹ nữ từ một rừng núi phía Tây kéo tới lũ lượt! Ít phút sau lại thấy
cánh phía Đông Bắc kéo tới. Hỏi mới hay đã trổ lên sườn núi không ngờ
đúng tầm súng Tây Gầm, bọn Dạ Xoa liền dẫn mỹ nữ chạy xa tầm đại pháo.
Được một quãng lại gặp trận chiến, cả đám phải núp trên núi, men rút
dần, nhờ vậy mới thoát nạn lửa thiêu. Ma Vương truyền nổi hiệu

họp binh.

Tây Sắc Ma Vương hô lớn:

-Dạ Xoa! Hãy chia nhau đi kiếm người bị lạc! Nổi hiệu gọi toán quân độn thổ, độn thủy cung còn sống sót, dẫn tất cả gái Ngũ cung Thập viện tới
“Thác Linh” nghe Chúa Vương dạy việc.

Bọn đàn bà Dạ Xoa mập trấn cung dạ ran. Tây Sắc bảo bọn Đại Sơn Vương:

– Giờ chúng ta đến “Thác Linh”!

Viên Chúa Thập Vạn Đại Sơn khẽ hỏi:

– Thác Linh? Phải phía thượng nguồn Hắc Giang biên, nơi có vầng hào quang chiếu lên trời? Ta tới đó có chuyện gì cần thiết?

– Có chuyện cần tính trước khi trời sáng! Xin cứ tới đó rồi sẽ hay!

Dứt lời, Tây Sắc quay đầu bước đi liền. Hình như Ma Vương đã mất nhiều khí lực, dáng đi lảo đảo, tâm sự mang mang.

Đại Sơn Vương, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Đèo Nguyệt Kiều và bà Tây Kiều,
Nhũ Hoa Thần ôm tượng ảnh, di hài bà Cầm Phi Phụng đi liền sau, rồi tới
bọn Đông Âm Bá Diện, Thần Nữ Phù Dung, Bạc Khao Lan, Thoong Mềnh, Voong
Lầu, Quản Kình lục tục theo sau với đám binh âm, chó sói, tòng nhân.
Riêng ông Trần Hùng đi lẫn vào đám đông, cúi đầu câm lặng, như tích chứa trong lòng cả biển tang thương.

Lối đá quanh co khúc khuỷu,
băng qua mấy dải núi trập trùng, giây lát đã tới vùng “Thác Linh”. Một
miền biên địa núi đèo trùng điệp, con sông Hắc uốn khúc giữa núi đèo,
ngay xế dưới chân mọi người, giữa giòng nước xiết, thác nước nhấp nhô
trắng xóa ầm ầm, xế bên sông có một dãy núi cao, trên ngọn núi có một
con thác lớn chảy ào ào như dải lụa bạch vắt lưng trời đổ xuống Hắc
Giang, tung bọt trắng xóa. Bên cảnh núi sông vụng thác hùng vĩ, có một
tòa miếu trắng như vôi tỏa nằm ngay lưng chừng “Thác Linh”.

Phía bên miếu, sườn núi thoai thoải rộng, Tây Sắc Ma Vương dẫn mọi người men vòng núi đá, trỏ sang bảo:

– “Thác Linh” kia ban đêm có một vầng hào quang chiếu trên trời. Dân biên thùy cho là núi thác có linh thần ngự trị nên mới làm miếu thờ. Miếu
này làm từ lâu lắm rồi, trước bằng gỗ, cách đây nửa thế kỷ xây lại bằng
đá trắng tìm được ngay trong vùng này!

Ai nấy trông sang quả thấy có một vầng hào quang mờ mờ như một vệt trăng khuya, chiếu thẳng lên không, coi rất lạ.

Tây Sắc truyền đám người A Phòng đứng lại bên sườn núi thoải, đoạn cùng bọn Đại Sơn Vương, Võ Minh Thần vòng sang cả bên khu miếu Sơn Thần. Sườn
núi này ít cây cối, quanh miếu có mấy cây đại lớn, trông rất cổ kính.
Đứng trước cửa miếu, nhìn sang, cách một cái vực hẹp chừng năm, bảy
thước, thấy con Thác Linh lưng chừng đổ xuống Hắc Giang khí nước lạnh
toát, vực hút sâu như miệng con mãnh xà há đớp luồng thác đổ. Thác Linh
trông thật hùng vĩ khiến lòng người càng nhẹ đi nhiều nỗi sầu cõi thế
nhỏ nhen. Tây Sắc đưa mọi người đến trước tòa cổ miếu trỏ sang núi Linh
hỏi mọi người:

– Có vị nào biết tại sao ngọn núi thác kia ban đêm lại có hào quang chiếu lên không?

Mọi người đang quan sát núi Linh chưa ai nói gì, Đại Sơn Vương đến cạnh Tây Sắc nói nhỏ:

– Phải tất cả công trình kiến trúc cung A Phòng đều do vầng hào quang kia mà ra chăng?

Tây Sắc vụt ngó Đại Sơn Vương, ánh mắt đầy kính phục kêu:

– Chà! Bấy lâu thiên hạ vẫn đồn Chúa Thập Vạn Đại Sơn thông minh mẫn tiệp khác người giờ quả tiếng đồn không sai! Xưa Tây Sắc phải mất cả tuần
mới khám phá ra nổi! Giờ xin mời tất cả vào trong miếu!

Lời vừa
dứt, bỗng nghe tiếng chó sói sủa vang, rồi thấy bốn, năm con sói đầu
đàn, Hồng Cẩu Quẩy của Tây Sắc, Bạc Khao Lan, từ dưới núi chạy xộc lên,
hướng vào miếu, tru lê thê.

Bạc Khao Lan vụt thấp giọng:

– Sơn cẩu đánh thấy hơi người lạ trên miếu! Chắc trong miếu có người! Tây Sắc, Khao Lan ra hiệu, sơn cẩu mới không tru nữa. Miếu vắng lặng không
tiếng động sinh vật.

Đại Sơn Vương xòa tay phát điện kình, xoa trước mặt một đường bán nguyệt, bất thần vùng quát lớn:

– Ai trong đó? Đêm khuya muốn vào miếu làm gì?

Im phăng phắc. Tướng núi lại hô:

– Nếu không lên tiếng, ta chém chớ trách!

Gươm Mèo tộc, chém xả vào một đường mạnh như vũ bão. Lưỡi thép chạm tóe lửa, Võ Minh Thần từ ngoài vọt vào, nói nho:

– Gươm lớn không tiện lách, huynh trưởng để em! Dứt lời, chàng trai rút
soạt cặp tiểu kiếm Đông Quân, chém “véo véo” vào lòng miếu tối. Lưỡi
thép chứa khí ngũ hành hàn nhiệt, một nóng như lửa têm, một lạnh như
băng đảo, soàn soạt trong lòng miếu hoang, nghe như xé lụa.

Thình lình nghe “chát chát”, có vật chạm kiếm khí, tiếp liền tiếng người kêu tru tréo, giọng Kinh:

– Ôi chao! Đứa nào tới đây gây sự chém tao?

Tây Sắc quát:

-Ai đó? Đang đêm sao dám phạm miền “Thác Linh”? Ra mau! Tiếng ai cười sằng sặc:

-Ai đó? Nghe tiếng quen dữ à? Phải tiếng Ma Vương Sắc? Ôi chao! A

Phòng phát cháy, Tây Gầm đại tấn công, Chúa Sài lang còn sống được sao? Tây Sắc lạnh lùng:

– Ra mau? Sao dám lần mò vào miền cấm địa?

Tiếng trong cười ré:

– Cấm địa? Hà hà! Của chung thiên hạ đứa nào biết thì làm chủ, ta tưởng
Chúa Sài lang thác rồi nên tới chiếm lĩnh? Giờ phải người còn thọ, của
quý chia đôi! Nếu không thích, ta làm một “tiếng” định hơn thua càng
tốt!

Ma Vương hô “ra”, tiếng dị hô “vào”, bất thần liền hai
luồng kình phong từ lòng miếu bay ra quật thốc cửa miếu. Đại Sơn Vương
nổi giận đánh vụt phản phong vào chặn lại, bắn “bốp” theo một trái hỏa
pháo, sáng lòa. Võ Minh Thần vừa toan chém xả vào miếu, bỗng nghe tiếng
quát “khoan, tao ra” rồi phía hậu cung có một bóng phương phi vọt ra
đứng sau cây cột đá, dưới ánh hỏa pháo lập loè sáng rực, hiện ra một lão phương phi trạc ngũ tuần, mặc áo gấm lam cúc đại đóa, đầu đội khăn xếp, hai mắt tinh nghịch như con nít.

– Đổ Bác Thần! Vừa thấy mặt người áo gấm cúc đại đóa, Võ Minh Thần vùng kêu sửng sốt:

– Đổ Bác Thần! Kìa “vua cờ bạc”, sao lại mò tới miếu hoang này làm gì? Tưởng lão tiên sinh đang gây sòng dưới phố chứ?

Người trong miếu chính lão Thần Đổ Bác, lão ẩn sau cột hậu cung ló đầu ra,
thấy Võ Minh Thần đứng với Tây Sắc, Đại Sơn Vương bất giác kêu lên sửng
sốt cực độ:

– Ôi chao! Tưởng ai hóa người bạn trẻ Thần Nhũ Hoa!
Ôi chao đêm nọ trên chuyến tàu Phú Thọ Yên Bái, người anh em vồ đầm non
con gái Tây Gầm ngồi trong toa nhai nhu, lão Đổ này thấy chuyện đổi đời
đã muốn giải nghệ, ngồi cười cho sướng mồm! Nay mò miếu hoang lại gặp
người anh em đi cùng Tây Sắc như tri kỷ, lại cả Thần Xạ Vân Nam kèm
bên… Ôi chao! Chuyện đời sấp ngửa như “quay đat”, lão Đổ này lại muốn
chơi mấy canh xì phé rồi! Sầu vạn cổ! Điên đầu vẹo cổ! Ha ha!

Minh Thần nói lớn:

– Đổ Bác Thần! Chuyện còn uẩn khúc mỗ đâu phải Nhũ Hoa Thần, lão tiên sinh tới đây làm gì đó?

Đổ Bác Thần rút trong bọc ra bộ đồ nghề xóc đĩa, thứ bát có âm lạ như tiếng đàn chai, lão xóc liên hồi, tấu ê a:

– Phụ đồng cờ! Phụ đồng bạc! Phụ đồng đổ bác! Nhập vào con bạc! Làm một
canh, người anh em! Tính ăn lầm thua, vô ý mất tiền! Tây Sắc Ma Vương!
Làm một “tiếng”! Được ăn cả ngã về không… Cầm đỏ ăn không kịp!

Minh Thần bước vào, bảo:

– Đổ Bác Thần! Đây không phải nơi mở sòng! Tiên sinh vào đây làm gì? Nam Đổ cười sằng sặc:

– Thần ngốc! Thế người anh em đến đây làm gì? Chia đôi nhé! À, còn Thần
Xạ Vân Nam, Tây Sắc, thôi chia tư? Lão Đổ này ăn một phần thôi! Một phần kho vàng “Thác Linh” đủ phú quý rồi!

Minh Thần ngạc nhiên quay nhìn, Tây Sắc Ma Vương trầm lời:

– Tòa hoang miếu thờ thần hoàng kim!Thác Linh này chính là kho vàng vô
giá! Vàng trong ruột núi, đêm chiếu hào quang, cung A Phòng xây nên cũng nhờ vùng Thác Linh này!

Mãi lúc đó, Võ mới hiểu lời Đại Sơn Vương nói hồi nãy. Quay vào phía Đổ Bác Thần, Ma Vương bảo:

– Nam Đổ! Lão sẽ có phần vàng! Nhưng giờ hãy tạm lui, Tây Sắc có chuyện riêng!

Không thể tả nổi vẻ kinh ngạc của vua cờ bạc này. Ông ta xốc cả khăn xếp gãi đầu. Lão ôm đồ nghề gọi lớn:

– Hồ lỳ đâu! Ra mày! Tiếng bạc này “khê rồi”. Có tiếng dạ ran, hơn chục
bóng người mặc áo the khăn đóng trong lòng miếu chạy ra, ngơ ngác, coi
đúng bọn cờ bạc bịp, cả đám ra ngoài cửa, lại một phen trợn mắt thấy bọn Đông Âm đủ mặt đứng đó. Lão ghé tai hỏi Quản Kình, nhưng Quản Kình ngậm miệng. Chẳng ai hé môi. Tây Sắc thắp đuốc sáp đưa Thần Xạ, Thần Võ vào
hậu cung. Vách tường dựng đứng thì ra Đổ Bác Thần cũng mới mò tới, chưa khám phá ra. Tây Sắc giật một cái chốt bí mật, mở ra một cửa hầm đen
thui, sâu hút.

– Mỏ vàng trong ruột núi, đường hầm ăn thông sang bên Thác Linh! Mỏ này vàng già nhiều khi vón cục lại to bằng trái cam,
nguyên chất phần lớn, chỉ trở qua đã dùng được không như quặng vàng sống khác. Đèo Văn Dũng! Hãy thay cha khai thác vàng, phát cho đám thủ hạ,
mỹ nữ A Phòng, làm tiền về quê làm lại cuộc đời!

Dứt lời, Ma
Vương đóng luôn cửa hầm cùng Thần Xa, Thần Võ quay ra ngoài miếu. Đứng
trước khu miếu, nhìn về hướng Đông, Hắc Giang quanh co uốn khúc, xa xa
là cung động A Phòng đang cháy, ngọn lửa sinh phong ào ào, đã hạ nhiều
sức nóng, nhưng vì dưới A Phòng có nhiều hồ lach, mạch nước, mỏ đất đèn
vẫn phụt lửa xanh lừ, khét lẹt tàn lửa đốt rừng bay đầy trời.

Trăng xế núi Tây, từ mấy ngả tiếng tù và vang động, các đám tàn quân độn thổ
độn thủy đang đứng đầy sườn núi. Một bên là các bầy mỹ nữ các cung viện A Phòng, ai nấy mặt mày dáo dác vẫn chưa hết kinh hoàng sửng sốt trước
biến cố kỳ dị xẩy ra. Nhiều tên quân đen còn mang thương tích đầy mình
sau trận tử chiến với lính Tây Gầm, nhiều tên đã bị lửa liếm cháy cả áo quần. Lẫn vào các đội quân đen trùm cả mặt là những toán lính Hồng Cẩu
Quẩy đeo súng ống như người. Thực ra đây cũng chỉ là những toán xung
kích cao thủ giỏi khinh công mang lốt sơn cẩu!

Giây phút lại thấy mấy mụ Dạ Xoa dẫn tới hàng đàn sơn cẩu, sói bị lửa chạy tản vào rừng.

Đứng trên khu miếu nhìn xuống dưới trăng tà, quân thú của Ma Vương vẫn còn
đầy đàn tuy đã bị chết khá nhiều, lực lượng này vẫn dư sức làm đảo điên
thiên hạ.

Im lặng mênh mông. Chỉ có tiếng “Thác Linh” đổ ào ào,
hòa với tiếng thác dưới sông tạo thành một thứ âm hùng tráng, gợi trong
lòng người những giấc mộng dọc ngang trời đất. Như thông cảm sự tàn tạ
của một công trình lớn lao vừa đo nát, Võ Minh Thần bất giác thở dài,
khẽ bảo Đại Sơn Vương:

– Huynh trưởng! Cõi đời này thật lắm
chuyện tang thương oan uổng trớ trêu! Tổ phụ mẫu chúng em một đời hy
sinh vì nước chết đi, mộng chẳng thành, vài nắm xương tàn trên rừng
thiêng nước độc! Cha em một đời nuôi chí lớn, một tay gầy dựng cơ đồ,
mộng lớn của “người” tan tành trong khoảnh khắc, chỉ vì em!

Đại Sơn Vương đặt tay lên vai Thần Võ khẽ bảo:

– Tất cả đều do mạng số! Đất có tuần, nhân có vận, xưa nay vận bại thành không qua số mạng! Hiền đệ hãy nghĩ tới luật nhân quả! Lời vừa buông
bỗng nghe Tây Sắc sịch đứng sau lưng từ lúc nào bảo:

– Chúa Thập Vạn Đại Sơn nói đúng đấy! Xưa nay gieo nhân nào được nhận quả đó! Việc
mưu đồ đại sự là việc nhân đức ngay lành, phải theo chính đạo. Nếu dùng
cách dữ là gieo nhân dữ tất phải nhận quả chẳng lành! Cha mẹ đại chí,
hấp luyện kỳ công ít người chưa thấy, nay mắc vong oan nghiệt là đúng
lắm. Vợ thác oan, thân hình hóa sói, thọ thương… tán lực, vỡ cơ đồ,
tình phu phụ chẳng còn, gặp lại con không mặt nào đoàn tụ… đó là những quả chẳng lành cha phải nhận vì đã gieo nhân xấu! Nay cha hỏng việc, mà con lại thành công, đó là chuyện “Tái ông thất mã”, hãy coi đó là tấm
gương chớ lấy làm buồn!

Dứt lời Ma Vương bèn quay lại, truyền
Nhũ Hoa Thần, Đèo Nguyệt Kiều khiêng bàn trong miếu ra đặt tượng ảnh di
hài Cầm Phi Phụng lên đó và thắp mấy nén hương nghi ngút!

Đoạn lảo đảo tiến ra bên ghềnh đá gần cây đại lớn, giơ tay lên nói lớn:

– Nghe đây! Quân các cung, đàn bà con gái các viện! Các ngươi đến với ta
bấy lâu, có kẻ hơn hai mươi năm một lòng trung nghĩa, xa cách người thân thích quê hương, không dám ta thán, vì sợ ngải hành! Suốt bao năm, các
ngươi khổ sở, không được ân huệ nào đặc biệt. Nay A Phòng đã cháy, ta
cho tất cả về bản quán! Ta sẽ ban ngải giải, và mỗi người sẽ được một mớ vàng bạc về lập nghiệp!

Lạ thay! Tất cả đàn ông đàn bà đều nhất loạt kêu lớn:

– Chúng nô xin theo hầu Chúa Vương trọn đời! A Phòng cháy! Xin Chúa Vương lập cung khác, nô bộc nguyện dốc tâm xây đắp, dầu chết không ngừng!

Tây Sắc dòm xuống đám thủ hạ, mỹ nữ ngũ cung thập viện hình như có vẻ cảm động, “tay” vịn cành đại rung nhẹ. Bỗng vùng quát:

– Chớ nhiều lời! Các ngươi khá về bản quán và quên cơn ác mộng A Phòng
đi! Còn ta nay đã luyện thuật hấp sinh thành công, ta cũng sẽ… vào
rừng sâu ẩn tích! Các ngươi hãy xuống bờ Hắc Giang chờ ngải giải và vàng lộ phí!

Hình như cái “không khí kỳ dị phi phàm dưới A Phòng” đã ăn vào mạch đám thủ hạ, mỹ nữ các cung viện. Hầu hết tuy có mừng vì
đoàn tụ với gia đình, nhưng ai nấy có vẻ ngẩn ngơ luyến tiếc lạ. Tuy
vậy, vốn đã quen tùng phục chúa tể A Phòng, cả đám không dám noi gì
thêm, chỉ kêu “Chúa Vương vạn tuế” rồi tất cả đều phủ phục xuống chào,
đoạn đứng lên cúi đầu ủ rũ đi xuống mạn bờ sông. Ánh trăng chiều vàng úa soi từng đoàn người vật lặng lẽ kéo đi trông như những cái bóng đang đi vào cõi xa xôi nào.

Tây Sắc giơ một tay lên cao và cứ thế bất
động, dòm theo. Bọn Đại Sơn Vương cũng đứng im lặng trầm mặt, tự nhiên
ai cũng thấy buồn mang mang. Bà Tây Kiều đứng sát trong miếu với Giao
Long Nữ, Đèo Nguyệt Kiều trông ra nước mắt cứ chảy giòng giòng. Bỗng
thấy Tây Sắc thở phào một hơi khá dài, quay mình lại, chậm bước vào chỗ
Đại Sơn Vương, Thoong, Woong đứng phát giọng trầm bảo:

– Cám ơn
thầy trò Chúa Thập Vạn Đại Sơn! Cám ơn lòng độ lượng rộng như Đông Hải.
Cám ơn Đông Âm Bá Diện Khan Sao Linh! Phù Dung Thần Nữ, cám ơn tất cả đã thương họ Đèo gặp vòng oan nghiệt, sẵn sàng quên chuyện khủng khiếp hơn hai mươi năm trường tội ác Ma Vương. Nhưng dĩ vãng đè trĩu linh hồn,
với lòng tốt này Tây Sắc còn biết làm gì hơn nữa…

Đại Sơn Vương dịu dàng bảo:

– Qua cơn giông tố trời lại sáng! Bóng xế trăng tà rồi thái dương hồng sắp lên! Hãy quên dĩ vãng! Tù trưởng định… làm gì?

Thở dài Tây Sắc lẩm bẩm:

– Còn làm gì khác nữa? Chó sói còn làm cách nào hơn là… trở lại rừng già sống đời dã thú để cố quên dĩ vãng gớm ghê.

Nhiều người kín đáo thở dài khẽ rùng mình như đã hình dung được tất cả nỗi
sầu khủng khiếp của con người mang dính lốt sói để sống cô đơn lang
thang trong rừng già giữa bầy dã thú. Bà Tây Kiều, bọn Võ Minh Thần vùng kêu lên:

– Không không! Minh Thần tiến lại bảo:

– Phụ thân khá bình tâm! Con sẽ đi triệu Thánh y Mai Hoa Thung giải phẫu lấy lốt da sơn cẩu ra, phụ thân không phải đi đâu!

Tây Sắc lắc đầu:

– Hai thứ da đã hòa làm một, vị ti huyết quản thông nhau, lấy ra được, chỉ còn là cục thịt ghê tởm hơn lốt sói!

Dứt lời, chợt Tây Sắc vùng nói lớn:

– Cầm Phi Phụng thác oan hơn hai mươi năm di hài chưa chôn! Tây Sắc làm lễ táng! Tiếc thay! Không có phường kèn!

– Lão tiên sinh Nam Khấp… người đâu rồi?

Có tiếng người vong khắp đó đây, rồi một bóng lòa xòa từ ghềnh tối phía
dưới vọt lên, đứng trước mặt mọi người, hiện ra một ông già quắc thước
nhưng sắc diện như chứa đựng cả nỗi sầu cõi thế muôn đời: Nam Khấp!

– Có chuyện chi cần mỗ?

Ma Vương bảo:

– Người oan thác nếu được nghe kèn Nam Khấp hồn chắc được siêu sinh!

Kẻ có tội lỗi ra đi có kèn Nam Khấp, cuộc tử ly chắc được nhẹ nhàng! Nam Khấp gật đầu:

– Mỗ lão chưa hiểu chuyện chi, nhưng lão cần đến Khấp, Khấp đâu quan
ngại! Ôi! Cõi đời này cuối cùng rồi không thoát phân ly! Nói xong, lão
tiến lại bên bàn thờ Cầm Phi Phụng đưa kèn lên miệng thổi liền.

Tiếng kèn vang lên, buồn khủng khiếp như oán, như than, tích phát cả vạn nỗi
sầu dương thế, ai nghe thấy cũng dậy lòng sầu ghê gớm.

Nam Khấp
mới thổi hết nửa bài kèn, ai nấy nước mắt đã như mưa. Tây Sắc Ma Vương
đứng trước tượng ảnh Cầm Phi Phụng, lụy chảy dầm dề, tưởng chừng suốt
đời ngang dọc chẳng bao giờ Ma Vương được khóc như thế!

Đến nỗi
thầy trò Đại Sơn Vương là người ngoài cuộc mà cũng tự nhiên thấy mủi
lòng ứa nước mắt. Trạnh niềm tử biệt, xót xa cho cảnh oan nghiệt trong
gia đình người nghĩa đệ.

Dứt bài kèn, thì chính lão Nam Khấp mắt cũng đỏ hoe, Ma Vương buồn rũ rượi, rút trong túi da ra một cục ngải
cho Võ Minh Thần, bảo:

– Đèo Văn Dũng! Hãy thay cha giải ngải
độc cho đám thủ hạ mỹ nữ A Phòng, cấp lộ phí cho họ về nguyên quán! Con
là con trưởng, hãy thay cha trông nom các em! Trong mấy đứa chỉ có Đèo
Văn Kiệt là đứa dại có thể đi theo đường cha đã đi!

Minh Thần đỡ lấy cục ngải ngơ ngác:

– Nhưng… cha định đi đâu?

– Cha vào rừng còn đi đâu nữa?

– Không cha ở lại với chúng con! Bao nhiêu năm oan nghiệt phụ tử chia ly
nay mới gặp nhau xin cha hãy quên dĩ vãng cho chúng con được phụng dưỡng sớm khuya!

Nguyệt Kiều, Giao Long Nữ cũng lên tiếng khẩn nài nhưng Tây Sắc không nói gì chỉ thở dài:

– Cha mong các con hãy cố quên chuyện lầm lẫn trước đây. Chợt quay nhìn hai chị em Thần Nữ, Bạc Khao Lan, Tây Sắc trầm lời bảo:

– Văn Dũng! Số con cũng như số cha, thường gặp duyên kỳ! Hãy trông gương cha… đừng phụ người tri kỷ!

Cả đám tự nhiên cúi đầu, lúng túng, nhưng Tây Sắc đã bước lại chỗ bà Tây Kiều đứng, run giọng:

– Hơn hai mươi năm nay, Ma Vương đã làm khổ bà, bà tuy ghê sợ, vẫn giữ
một lòng minh chính, tấm lòng ấy cảm động đến quỷ thần! Giờ bà có quyền
nghĩ đến đời bà! Trần Hùng là bực trượng phu có thể giúp bà quên những
năm dài khổ sở vì tôi.

Bà Tây Kiều khóc òa nhào tới ôm chầm Ma Vương:

– Đèo Văn Lang! Ông loạn trí rồi sao? Sao có thể nói những lời đau đớn
thế? Không không! Ông đừng đi đâu cả! Mẹ con tôi sẽ săn sóc ông… quên
hết chuyện oan nghiệt thảm thê đã làm chúng ta đau khổ!

Giọng đầy thành khẩn, Tây Sắc bảo:

– Tây Kiều! Bà đã khổ đời thanh xuân vì Tây Sắc! Nếu có thương tôi, để
tôi yên dạ ra đi, hãy nghe lời tôi nói! Bà cũng chưa già!


Không không! Ông đừng nói lời đau đớn đó, tôi tuy tình đầu tan vỡ, nhưng từ lúc lấy chồng, chuyện xưa đã theo nước chảy! Trần Hùng đoi với tôi
như hai người bạn thương nhau, nay ông mắc họa, ông đi đâu, tôi đi đấy!
Chị Phi Phụng chẳng may đã mất, A Phòng giải tán, trên đời này, ông chỉ
còn tôi! Tôi không để ông đi đâu!

Tây Sắc Ma Vương không nói gì nữa. Bỗng Ma Vương ngửa mặt nhìn trời than:

– A! Trăng tà xế bóng trời cao lồng lộng cuộc sống chan hòa, ai cũng sợ
đi, xưa ta cũng sợ ra đi vào tĩnh mịch nhưng giờ không sợ miền tịch
mịch.

Tự nhiên Tây Sắc nhanh nhẹn khác thường, bất thần nhảy xổ
tới vồ luôn lấy di hài Cầm Phi Phụng. Có mấy người khác thấy la lên,
giật mình xẹt lại, giang tay định cản Ma Vương. Nhưng Ma Vương đã chụp
được gói di hài lật xuống, lùi xế dưới nách Minh Thần tay kia vồ nghiến
lấy ngọn tiểu kiếm Đông Quân cắm sau vai Thần. Và bắn vọt mình ra ngoài.

Sau lưng Ma Vương là vực thẳm, xế bên ngọn “Thác Linh” đổ ào ào xuống vụng sâu hút, dòng Hắc Giang biên cuồn cuộn dưới trăng vơi. Nhiều tiếng ré gọi, bóng người đổ xô ra. Ma Vương xoay sau cây đại vụt ngửa
mặt cười hét:

– Trời cao lồng lộng trăng xế biên thùy, Cầm Phi
Phụng đã về đón ta, ta còn thiết gì cõi thế? Ha ha! Một kiếp nhân sinh
núi xương sông mau, dọc ngang trời đất, cuối cùng vẫn kiếp phù du!

Ánh thép nhoáng lên, tiếp theo một tiếng “chát” tóe lửa, cả nửa ngọn kiếm
Đông Quân đã cắm phập sâu vào bụng Ma Vương, xuyên qua mấy lần giáp sắt, da sơn cẩu! “Tay” Ma Vương run dữ dội, tiếp theo tiếng “chát” kéo dài,
lửa xanh tóe lập loè dọc từ trên xuống, Ma Vương hét lên một tiếng ném
vụt lưỡi kiếm sang bên cắm “phập” một thân cây cạnh Võ Minh Thần, hai
bàn tay móc sâu vào bụng giat một cái mạnh. Ánh trăng chiếu khuếch, máu
phọt tung tóe, ai nấy dòm ra đã thấy bụng Ma Vương mở vành ra, giáp sắt
lốt thú cong veo, ruột gan Ma Vương sổ ra một đống.

Nhiều tiếng
người kêu rú kinh hoàng, Ma Vương vẫn đứng thẳng hai bàn tay máu me đỏ
lòm giật “soạt” gói di hài, mở tung. Vải da bọc sáp rớt xuống “Phạch…
rục!” di hài Cầm Phi Phụng sổ bung, lơ lửng trước mặt Ma Vương, mình
buông thõng tay chân thõng, “cái túi da người” lủng lẳng đu đưa, tóc
chảy dài chấm gót.

Ma Vương ấn mạnh đầu thây ma vào bụng nhồi
mình mẩy tay chân, nháy mắt chỉ còn mớ tóc đen. Khi mớ tóc nhồi nốt vào
bụng, tay Ma Vương đã run rẩy vì máu ra lênh láng. Rồi toàn thân cũng
run bắn, Ma Vương trợn ngược mắt nhìn vào. Ai nấy dòm ra, hai con mắt Ma Vương đã đầy lệ rỏ. Bất ngờ thấy Ma Vương lao thốc đầu xuống chân thác
đến “ùm” một tiếng, chìm nghỉm, mất tăm!

Bọn Minh Thần sổ ra, bà Tây Kiều kêu thất thanh rồi chẳng hiểu vô tình hay cố ý, cả tấm thân
tuyệt sắc của bà công chúa Thái đen bỗng lảo đảo một cái, đâm cổ xuống
chân thác đến “tõm” mất tăm theo.

Bốn bề im lặng, chỉ còn tiếng kèn Nam Khấp nổi chìm ồ ề thê thảm, nấc nghẹn tang thương….

Một buổi chiều nhạt nắng. Trời lại nổi gió vàng hiu hắt, lá biên thùy xào
xạc thu phong. Có một bóng người chít khăn xô cỡi con ngựa đen đi theo
bờ nước lên vùng Thác Linh, đứng bên ghềnh nhìn xuống vụng Hắc Giang.
Bỗng từ đâu có một cô gái cỡi con beo đen đi tới, lặng lẽ như cái bóng.
Hai người nhìn nhau cùng lấy ba cái vòng vụt xuống vụng xoáy. Rồi hai
người chia tay hai ngả.

Chàng trai ngược đường lên biên thùy bỗng nghe tiếng động, chàng ngẩng lên: Chúa Núi Vân Nam và Thoong, Woong đứng đó!

– Võ Minh Thần! Hiền đệ đi đâu? Ta biết một nơi có thể giúp em khuây khỏa nỗi sầu! Đó là xứ Phù Dung! Thiết kỵ quay đầu đi về hướng A Pu Chải
miền ba biên giới.

Mấy tháng sau lại có một chàng trai mặc áo
đại trắng ngồi trên lưng ngựa ngửa cổ uống rượu đến say mèm. Bỗng có một bọn bốn người, một trai ba gái đều chít khăn tang ào tới. Chàng trai
nắm tay “nhà bác học”, giọng mang mang:

– Đời người nhiều oan trái! Sống thanh thản với tấm lòng nhân ái! Đó là ý nguyện của đệ!

Đèo Thương Kiều, Đèo Nguyệt Kiều! Hiền muội Phù Dung! nếu chúng ta cùng
sang chơi bên Thập Vạn Đại Sơn, thế nào chúng ta cũng sẽ thấy được cái
lạnh mùa đông bên Vân Nam, đẹp biết chừng nào! Bên đó có những vườn đào
bát ngát hoa thắm trái thơm, uống rượu đào đi trong rừng đào từng cành
lá rơi lả tả, như lạc vào Thiên Thai…

Lát sau một đoàn bảy bóng nam nữ cỡi ngựa, vượt biên thùy, đi về hướng Bắc mờ sương…

HẾT

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN