Luật Giang Hồ
Chương 3
Người tài xế của viên Phó đại sứ lái xe ra khỏi ga ra riêng của Liên Hiệp Quốc và trực chỉ phía Tây qua đoạn đường hầm Lincoln bên dưới sông Hudson về hướng New Jersey. Al Obaydi cũng như anh ta đều không nói gì trong lúc viên tài xế liên tục kiểm tra kính chiếu hậu. Khi họ tới cửa thu thuế New Jersey anh ta mới xác nhận không có ai theo dõi họ.
– Tốt.
Đó là tất cả những gì Al Obaydi nói. Lần đầu tiên trong ngày hôm ấy ông ta bắt đầu thư thả tâm trí và khởi sự tưởng tượng mình có thể làm gì nếu đột nhiên có được mười triệu đô la. Mới đây khi ngang qua một chi nhánh của Midlantic National Bank, ông ta tự hỏi hàng nghìn lần tại sao mình không ngừng ngay xe lại và gửi tiền với một cái tên giả. Tới sáng ngày mai thì ông ta đã có thể ở cách nơi này nửa vòng trái đất. Chắc chắn việc đó sẽ làm cho vị đại sứ toát mồ hôi. Và chỉ cần một chút may mắn, Saddam sẽ chết trước khi họ chộp được ông ta. Vả lại lúc bấy giờ thì ai mà quan tâm đến?
Xét cho cùng, Al Obaydi không tin tưởng, dù chỉ trong giây lát, rằng mưu đồ độc đáo của vị đại lãnh tụ có khả năng thực hiện. Ông ta đã từng hy vọng báo cáo trở lại Baghdad sau một thời gian hợp lý rằng không thể tìm ra một người nào đáng tin tưởng và đủ năng lực thực hiện một vụ táo bạo như vậy. Thế rồi có người ở Liban bay đến New York.
Có hai lý do khiến Al Obaydi biết mình không thể đụng tới một đô la của số tiền nhét trong cái túi đựng đồ đánh gôn nằm trên mặt ghế bên cạnh ông ta. Thứ nhất là mẹ và em gái ông ta đang sống đầy đủ tiện nghi ở Baghdad và nếu số tiền đột nhiên biến mất, họ sẽ bị bắt, bị hiếp dâm, bị tra tấn và bị treo cổ – cách giải thích duy nhất là họ đã cộng tác với một kẻ phản quốc. Saddam vốn không cần một lý do nào để giết bất cứ một ai, nhất là một người bị tình nghi đã phản bội ông ta.
Thứ hai là, Al Obaydi – người mỗi ngày vẫn quỳ gối năm lần, quay mặt về phương đông và cầu nguyện rằng cuối cùng Saddam sẽ chết với cái chết của một kẻ phản quốc – không thể nào không nhận thấy ngay cả Gorbachev, Thatcher và Bush cũng khó lòng bám lấy quyền lực vững chắc hơn vị Sayedi vĩ đại.
Al Obaydi đã thừa nhận, từ lúc vị đại sứ giao tận tay nhiệm vụ này, rằng Saddam hiển nhiên sẽ chết một cách bình yên trên giường trong lúc cơ may sống còn của ông ta – Lời vị đại sứ vẫn thích nói – thật là mỏng manh. Và một khi tiền đã được trả xong xuôi mà Antonio Cavalli lại thất bại trong việc thực hiện hợp đồng của y, thì chính Al Obaydi sẽ bị triệu hồi về Baghdad theo một viện cớ ngoại giao nào đó để rồi bị bắt, được xét xử một cách qua loa và bị kết tội. Thế là tất cả những lời hoa mỹ mà vị giáo sư khoa luật của ông ta ở trường đại học London đã từng thốt ra sẽ biến thành cát bụi trong sa mạc.
Người tài xế lái xe chạy qua cửa thu thuế và hướng về trung tâm của Newark trong lúc tư tưởng của Al Obaydi lại quay về với cách sử dụng số tiền. Ý kiến có tất cả những biểu hiện đặc trưng của vị tổng thống. Nó thật là mới lạ, đòi hỏi táo bạ, can đảm, nghị lực và một mức độ may mắn khá cao. Al Obaydi còn cho rằng kế hoạch này có hơn một phần trăm cơ may chỉ tới được vạch xuất phát chứ đừng nói tới băng về đích. Nhưng rồi, một người nào đó trong bộ ngoại giao Mỹ đã cho Saddam Hussein một phần trăm cơ may thoát khỏi chiến dịch Bão sa mạc. Và nếu vị Sayedi vĩ đại có thể thoát được thì nước Mỹ sẽ trở thành một kho truyện cười và Saddam có thể đảm bảo cho mình một vị trí trong hếch sử bên cạnh Saladin 1 .
Mặc dù Al Obaydi đã kiểm tra vị trí chính xác của toà nhà, ông ta vẫn chỉ thị cho viên tài xế ngừng xe cách hai dãy phố ở phía tây của nơi đến cuối cùng. Một người Iraq bước ra khỏi một chiếc xe hơi sang trọng lớn màu đen ngay phía trước ngân hàng là đủ lý do cho Cavalli bỏ túi số tiền và huỷ hợp đồng. Khi xe ngừng hẳn, Al Obaydi trèo qua cái túi đồ đánh gôn và bước xuống vệ đường phía khúc quanh.
Mặc dầu ông ta chỉ cần đi qua vài trăm mét là tới ngân hàng, đây lại chính là phần duy nhất của cuộc hành trình mà ông ta xem là một sự mạo hiểm đã được tính toán. Ông ta kiểm tra cả hai ngả đường. Cảm thấy hài lòng ông ta kéo cái túi đồ đánh gôn ra trên lề đường và xốc nó lên vai.
Viên Phó đại sứ cảm thấy mình hẳn là có cái vẻ không thích hợp chút nào trong lúc ông ta bước dọc theo dường Martin Luther Kinh với một bộ com lê của cửa hàng Sales ở đại lộ 5 và một cái túi đồ đánh gôn lủng lẳng trên vai.
Mặc dầu chỉ mất chưa đầy hai phút để đi qua đoạn đường tới ngân hàng, Al Obaydi đổ mồ hôi đầm đìa lúc ông ta tới cửa trước. Ông ta trèo lên cái bậc thềm mòn lẳn và bước qua cánh cửa xoay. Ông ta được chào đón bởi hai người đàn ông vũ trang trông giống đô vật sumô hơn là thư ký ngân hàng. Viên Phó đại sứ nhanh chóng được dẫn vào một thang máy đang chờ sẵn và đóng cửa lại ngay lúc ông ta bước vào bên trong. Cánh cửa trượt mở ra khi ông ta tới tầng hầm. Lúc Al Obaydi bước ra ông ta đụng đầu với một người đàn ông khác, cao lớn hơn cả hai người vừa chào đón ông ta lúc đầu. Gã khổng lồ gật đầu và dẫn ông ta về phía cuối hành lang lót thảm. Trong lúc ông ta tới gần, cánh cửa chợt mở ra và Al Obaydi bước vào một căn phòng có mười hai người đàn ông đang chờ đợi một cách háo hức quanh một chiếc bàn tròn lớn. Mặc dầu ăn vận một cánh vừa phải và cùng im lặng, nhưng một ai trong bọn họ có vẻ giống như những thâu ngân viên. Cánh cửa đóng lại phía sau ông ta và ông ta nghe tiếng quay ổ khoá. Người đàn ông ở đầu bàn đứng lên và cất tiếng chào ông ta.
– Xin chào ông Al Obaydi. Tôi tin ông có ý định gửi một cái gì đó cho một khách hàng của chúng tôi.
Viên Phó đại sứ gật đầu và đưa cái túi đồ đánh gôn ra mà không nói một lời nào. Người đàn ông không tỏ vẻ ngạc nhiên gì cả. Ông ta đã từng trông thấy nhiều món nữ trang được vận chuyển trong mọi thứ từ một con cá sấu đến một cái bao cao su ngừa thai.
Tuy nhiên, ông ta ngạc nhiên vì trọng lượng của cái túi trong lúc ông ta xốc nó lên trên mặt bàn, trút tất cả ra và chia đều cho người một người kia. Đám thâu ngân bất đầu đếm lia lịa, xếp ngay ngắn từng chồng mười nghìn. Không một ai mời Al Obaydi ngồi, vì vậy ông ta vẫn đứng trong suốt bốn mươi phút sau đó, không có việc gì để làm ngoại trừ quan sát họ làm việc.
Khi việc đếm tiền hoàn tất, viên trưởng thu ngân kiểm tra hai lần số chồng. Đúng một nghìn. Ông ta mỉm cười, một nụ cười không hướng về phía Al Obaydi mà về phía đang tiền, rồi mới ngược lên nhìn về phía viên phó đại sứ A rập và gật đầu với ông ta một cách cộc lốc, thừa nhận người Baghdad đã trả xong phần tiến ứng trước.
Rồi cái túi đánh gôn được đưa trở lại cho Viên phó đại sứ như thể nó không phải là một phần của dịch vụ. Al Obaydi cảm thấy mình hơi ngốc nghếch trong lúc ông ta lắc lư nó trên vai. Viên trưởng thâu ngân bấm một cái nút bên dưới mặt bàn và cánh cửa phía sau ông ta đã được mở khoá.
Một trong hai người đã gặp Al Obaydi lần đầu tiên khi ông ta đi vào ngân hàng đang đứng chờ hộ tống ông ta trở lên tầng trệt. Lúc vị Phó đại sứ bước ra đường, gã dẫn đường đã biến mất.
Với một tiếng thở dài lớn nhẹ nhõm, Al Obaydi bắt đầu thả bộ trở qua hai dãy phố về chiếc xe hơi đang chờ đợi ông ta. Ông ta tự cho phép mình khẽ mở một nụ cười mãn nguyện với cách thức điệu nghệ mà ông ta đã hoàn thành toàn bộ công việc. Ông ta cảm thấy chắc chắn vị đại sứ sẽ hài lòng khi được biết không có trục trặc gì xảy ra. Nhất định ông ta sẽ được đánh giá cao khi thông điệp được chuyển tiếp về Baghdad rằng “Chiến dịch yên tĩnh sa mạc” đã bắt đầu.
Al Obaydi ngã quỵ xuống bên vệ đường trước khi ông ta nhận thức được vật gì đã đụng phai mình: cái túi đánh gôn bị giật mạnh khỏi vai trước khi ông ta có thể phản ứng. Ông ta ngước lên để trông thấy hai gã thanh niên đang chạy nhanh xuôi theo đường phố, một trong hai tên nắm chặt chiến lợi phẩm của chúng.
Vị Phó đại sứ đang băn khoăn mình phải vứt bỏ nó bằng cách nào.
° ° °
Tony gặp ông bố của y trong bữa điểm tâm vào lúc bấy giờ quá mấy phút trong buổi sáng ngày kế tiếp. Y đã trở về sống trong ngôi nhà của gia đình trên đường 75 ngay sau khi li dị với vợ. Kế thừa lúc về hưu, ông bố của Tony dùng phần lớn thời gian vào việc tiếp tục sở thích trọn đời của ông ta là sưu tầm những cuốn sách hiếm, những bản thảo viết tay và những tài liệu lịch sử. Ông cũng đã bỏ ra nhiều tiếng đồng hồ truyền đạt cho con trai mọi điều ông ta đã học hỏi được với tư cách là một luật sư, tập trung vào phương cách tránh lãng phí quá nhiều năm trong một trại giam của bang.
Cà phê và bánh mì lát nướng đã được viên quản gia dọn ra khi hai người bàn luận công việc.
– Chín triệu đô la đã được gửi vào bốn mươi bảy ngân hàng khắp nước – Tony nói với ông bố – Một triệu đã được gửi vào một tài khoản trong ngân hàng Franchard tại Geneve, dưới tên Hamid Al Obaydi, – y vừa nói tiếp vừa phết bơ lên một lát bánh mì nướng.
Ông bố mỉm cười khi nghĩ con trai mình dùng một mánh khóe mà ông ta đã chỉ dạy cho con nhiều năm trước.
– Nhưng con sẽ nói gì với Al Obaydi khi ông ta hỏi mười triệu của ông ta đã được tiêu như thế nào? – vị chủ tịch không chính thức của công ty kỹ năng hỏi.
Trong thời gian một giờ sau đó, Tony kể cho ông bố nghe từng chi tiết của Chiến dịch yên tĩnh sa mạc, chỉ thỉnh thoảng mới bị ngắt lời bởi một câu hỏi hoặc góp ý của ông già.
– Anh chàng diễn viên có thể tin cậy được chứ? – ông ta hỏi trước khi uống một ngụm cà phê nữa.
– Lloyd Adams vẫn còn nợ chúng ta hơn ba chục nghìn đô la một chút, – Tony đáp. – Anh ta đã không được giao nhiều kịch bản trong thời gian gần đây – chỉ một vài màn quảng cáo…
– Tốt – ông bố của Cavalli nói – Nhưng còn Rex Butterworth thì sao?
– Đang ngồi trong Nhà Trắng chờ chỉ thị.
Ông bố của y gật đầu rồi lại hỏi:
– Nhưng tại sao chọn Columbus, Ohio?
– Phương tiện phẫu thuật ở đó đúng như chúng ta cần, và chủ nhiệm của trường y khoa là một con người có năng lực tuyệt vời. Văn phòng cũng như nhà riêng của ông ta đã được đặt máy nghe lén ở khắp mọi nơi.
– Còn cô con gái của ông ta – Chúng ta đã cho người theo dõi hai mươi bốn giờ.
Vị chủ tịch liếm môi.
– Thế thì bao giờ con bấm nút?
– Thứ ba tuần sau, khi viên chủ nhiệm sắp sửa đọc một bài diễn văn then chốt ở trường học của con gái ông ta.
Viên quản gia đi vào trong phòng và bắt đầu dọn dẹp bàn.
– Còn Dollar Bill thì sao? – ông bố của Cavalli hỏi tiếp.
– Angelo đang trên dường đi San Francisco để kiểm tra và thuyết phục anh ta. Nếu chúng ta muốn thành công chắc chắn trong vụ này chúng ta phải cần tới Dollar Bill. Anh ta giỏi hơn ai hết, quả thật không một ai khác theo kịp, – Cavalli nói thêm. – Chừng nào anh ta không say rượu.
Đó là tất cả những gì vị chủ tịch nói.
— —— —— —— ——-
1 Saladin (1137-1193): quốc vương Aicập và Siry (1174-1193).
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!