Mật Mã Da Vinci
Chương 32
André Vernet, chủ tịch của chi nhánh Ngân hàng Ký thác Zurich đặt tại Paris – sống trong một căn hộ xa hoa phía trên ngân hàng. Mặc dù có đầy đủ tiện nghi sang trọng, ông vẫn mơ được sớ hữu một căn hộ bên sông trên đảo Saint-Louis, nơi ông có thể chen vai thích cánh với những người sành điệu đích thực chứ chẳng như ở đây chỉ toàn gặp bọn trọc phú.
Vernet tự nhủ, khi nào về hưu, mình sẽ chất đầy hầm rượu toàn vang Bordeaux quý hiếm, trang trí salon bằng một bức Fragonard và có lẽ một bức Boucher (1), và suốt ngày mình sẽ săn lùng đồ cổ và sách quý hiếm ở Quartier Latin.
Đêm nay, Vernet mới chỉ thức giấc được có sáu phút rưỡi. Mặc dù vậy, khi ông hối hả đi qua hành lang ngầm của ngân hàng, trông ông như vừa được người thợ may và húi tóc riêng điểm tô cho một mẽ ngoài bóng bẩy. Chỉnh tề trong bộ com-lê lụa, Vernet xịt một ít nước thơm vào miệng, thắt chặt ca vát lại rồi mới bước ra ngoài. Không hề lạ lẫm với việc bị đánh thức giữa đêm khuya để phục vụ những khách hàng quốc tế đến từ những vùng có múi giờ khác nhau, Vernet đã tạo cho mình thói quen ngủ theo cách những chiến binh Maasai – một bộ lạc châu Phi nổi tiếng với khả năng chỉ trong vòng vài ba giây đã có thể từ giấc ngủ say sưa nhất chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Sẵn sàng chiến đấu, Vernet nghĩ thầm, sợ rằng sự ví von ấy có thể ứng vào đêm nay một cách bạo liệt lạ thường. Sự hiện diện của một khách hàng có chiếc chìa khoá vàng bao giờ cũng đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn thường nhật, nhưng người khách hàng mang chiếc chìa khoá vàng này lại đang bị Cảnh sát tư pháp truy nã thì càng là vấn đề cực kì tế nhị.
Ngân hàng này đã có đủ những cuộc chiến chống lại việc thực thi luật pháp để bảo vệ quyền bí mật riêng tư của khách hàng mà không có bằng chứ ng rằng một số trong bọn họ là những tên tội phạm.
Năm phút thôi. Mình cần hai kẻ đó ra khỏi ngân hàng trước khi cảnh sát đến.
Nếu ông hành động nhanh chóng, thì có thể khéo léo tránh được thảm hoạ sắp xảy ra. Vernet có thể nói với cảnh sát rằng quả thật những tên đào tẩu ấy có vào ngân hàng như đã báo cáo nhưng vì chúng không phải là khách hàng của họ và không có số tài khoản nên đã bị khước từ. Giá như gã bảo vệ chết tiệt kia đừng gọi cho Interpol, thì đỡ biết mấy. Rõ ràng kín đáo không nằm trong vốn từ của người bảo vệ được trả lương mười lăm Euro/giờ này.
Dừng lại ở ngưỡng cửa, ông hít một hơi thật sâu và thả lỏng cơ bắp. Sau đó cố nhoẻn một nụ cưởi dịu dàng, ông mở khóa và đẩy cửa bước vào phòng như một làn gió ấm.
“Xin chào”, ông nói, mắt đảo tìm những người khách hàng của mình. “Tôi là André Vernet. Tôi có thể phục…”, phần còn lại của câu nói bị tắc ở đâu đó dưới yết hầu. Người phụ nữ trước mặt ông không phải là một người khách bất ngờ như ông nghĩ.
“Xin lỗi, có phải chúng ta đã quen nhau không?”, Sophie hỏi. Cô không nhận ra ông chủ ngân hàng, nhưng ông thì trong khoảnh khắc nom như vừa thấy ma hiện hình.
“Không…”, ông chủ tịch ngân hàng lúng búng, “tôi không nghĩ vậy. Dịch vụ của chúng tôi là nặc danh”. Ông ta thở hắt ra và cố nặn ra một nụ cười bình tĩnh. “Người trợ lí của tôi nói rằng quý cô có một chiếc chìa khoá vàng nhưng lại không có số tài khoản, đúng không? Tôi có thể mạn phép hỏi, làm sao quý cô lại có được chiếc chìa khoá ấy?”.
“Ông tôi đã đưa nó cho tôi”, Sophie trả lời và nhìn kĩ hơn Ông chủ tịch. Sự lúng túng của ông ta lúc này càng rõ rệt.
“Thực vậy sao? Cụ nhà đã đưa cho quý cô chiếc chìa khoá này mà lại quên không cho số tài khoản sao?”.
“Tôi không nghĩ là ông tôi còn đủ thời gian để làm việc ấy”, Sophie nói, “Ông tôi vừa bị giết hại đêm nay”.
Lời nói của Sophie khiến ông la loạng choạng lùi lại:
“Jacques Saunière chết rồi ư?”. Ông hỏi lại, mắt đầy vẻ kinh hãi. “Nhưng… như thế nào?!”.
Lúc này đến lượt Sophie lui lại: “Ngài biết ông tôi?”.
Ông chủ ngân hàng André Vernet có vẻ cũng kinh ngạc, dựa vào thành bàn để đứng cho vững: “Jacques và tôi là bạn thân. Chuyện xảy ra khi nào?”.
“Đầu buổi tối nay. Bên trong bảo tàng Louvre”.
Vernet bước đến một chiếc ghế da và gieo mình xuống đó:
“Tôi cần hỏi cả hai người một câu vô cùng quan trọng” . Ông ngước nhìn Langdon rồi lại quay sang Sophie: “Ai trong số hai người có dính líu tới cái chết của ông ấy?”.
“Không ai cả!”. Sophie tuyên bố. “Hoàn toàn không”.
Mặt Vernet lầm lầm, ông dừng lại ngẫm nghĩ. “Interpol cho truyền ảnh hai người khắp mọi nơi. Nhờ vậy mà tôi nhận ra cô.
Các người đang bị truy nã vì tội sát nhân”.
Sophie ngồi phịch xuống. Fache đã kịp cho phát thông báo của Interpol rồi sao? Dường như tay đại uý ấy có động cơ mạnh mẽ hơn Sophie dự kiến. Cô kể nhanh cho Vernet biết Langdon là ai và chuyện gì đã xảy ra trong bảo tàng Louvre tối nay.
Vernet có vẻ kinh ngạc: “Lúc hấp hối, ông ấy đã để lại một tin nhắn yêu cầu cô tìm ông Langdon?”.
“Vâng. Và chiếc chìa khoá này nữa”. Sophie đặt chiếc chìa khoá vàng lên mặt bàn cà phê trước mặt Vernet, úp mặt có hình con dấu của Tu viện Sion xuống.
Vernet liếc nhìn chiếc chìa khoá, nhưng không làm cử chỉ nào để chạm vào nó: “Ông ấy chỉ để lại cho cô chiếc chìa khoá này thôi ư? Không còn gì khác nữa? Một mẩu giấy chẳng hạn?”.
Sophie biết cô rất vội khi ở trong bảo tàng Louvre, nhưng cô dám chắc không hề nhìn thấy một cái gì khác ẩn giấu đằng sau tác phẩm Madonna of the Rocks. “Không có gì khác đâu. Chỉ có mỗi chiếc chìa khoá này thôi”.
Vernet thở dài ngao ngán: “Tôi e rằng mỗi chiếc chìa khoá đều đi kèm với một tài khoản mười chữ số, có chức năng như một mật khẩu. Nếu như không có số tài khoản ấy, chiếc chìa khoá của cô cũng chẳng có giá trị gì”.
Mười chữ số. Sophie miễn cưỡng tính toán các khả năng giải mã. Mười tỷ phương án cả thể. Ngay cả mang vào những chiếc máy tính có cài đặt chương trình tính toán hoàn hảo nhất của DCPJ thì cô cũng cần nhiều tuần mới mong giải được mật mã ấy. “Xét hoàn cảnh đặc biệt, chắc chắn ngài có thể giúp dỡ chúng tôi”.
“Ôi xin lỗi. Thực sự tôi không thể làm gì được. Các khách hàng đều tự lựa chọn lấy số tài khoán thông qua mạng máy tính rất an toàn, điều đó có nghĩa là chỉ có khách hàng và máy tính mới biết được số tài khoản mà thôi. Đây là cách duy nhất để chúng tôi có thể duy trì hình thức nặc danh và cả sự an toàn cho nhân viên trong ngân hàng”.
Sophie hiểu. Các kho giữ đồ cũng làm điều tương tự. NHÂN VIÊN TRONG NGÂN HÀNG KHÔNG ĐƯỢC CÓ CHÌA KHOÁ KÉT. Rõ ràng, ngân hàng này không dám liều để cho một kẻ gian nào đó ăn trộm một chiếc chìa khoá rồi sau đó giữ nhân viên của họ làm con tin để có được số tài khoản.
Sophie ngồi xuống bên cạnh Langdon, nhìn xuống chiếc chìa khoá rồi lại ngước nhìn Vernet: “Ngài có biết gì về cái mà ông tôi đang cất giữ trong ngân hàng này không?”.
“Hoàn toàn không. Đó chính là định nghĩa của một ngân hàng Geldschralk”.
“Thưa ngài Vernet”, Sophie thúc hối, “đêm nay, thời gian của chúng tôi rất hạn hẹp. Tôi sẽ nói thắng toẹt không vòng vo”.
Cô với tay cầm lấy chiếc chìa khoá vàng và lật mặt kia lên, quan sát ánh mắt của Vernet trong khi phô ra con dấu của Tu Viện Sion. “Dấu hiệu này trên chiếc chìa khoá có ý nghĩa gì đối với ngài không?”.
Vernet liếc nhìn con dấu có hình bông hoa loa kèn mà không hề có phản ứng gì: “Không, nhưng nhiều khách hàng của chúng tôi cũng cho khắc nổi logo hãng của mình hoặc những chữ cái đầu tiên lên chìa khoá của mình”.
Sophie thở dài, mắt vẫn quan sát ông chủ tịch rất kỹ: “Con dấu này là biểu tượng của một hội kín được gọi là Tu viện Sion”.
Vernet vẫn không có phản ứng gì: “Tôi không hề hay biết về điều này. Ông cô là bạn tôi, nhưng chúng tôi chủ yếu bàn về chuyện làm ăn”. Ông chỉnh lại cái ca vát, trông ông lúc này có vẻ bồn chồn.
“Thưa ngài Vernet”, Sophie lại thúc hối, giọng cương quyết, “tối nay, ông tôi gọi điện cho tôi, nói rằng cả hai ông cháu đang ở trong tình thế nguy hiểm. Ông nói cần phải trao cho tôi vật gì đó. Vật đó chính là chiếc chìa khoá này. Giờ thì ông đã mất. Bất kì điều gì ngài có thể cho chúng tôi biết đều rất có ích”.
Vernet toát mồ hôi: “Chúng ta cần phải thoát ra khỏi toà nhà này. Tôi sợ là cảnh sát sẽ đến trong chốc lát. Người bảo vệ của chúng tôi cảm thấy buộc phải gọi cho Interpol”.
Sophie đã sợ là sẽ như vậy. Cô dấn một chiêu cuối: “Ông tôi nói cần phải kể cho tôi biết sự thật về gia đình tôi. Điều này có ý nghĩa gì đối với ngài hay không?”.
“Cô ạ gia đình cô đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn ô tô khi cô còn nhỏ. Tôi rất tiếc. Tôi biết ông cô yêu cô lắm. Mấy lần ông thổ lộ với tôi là ông xiết bao đau khổ về chuyện hai ông cháu cắt đứt liên lạc với nhau”.
Sophie không biết nên trả lời ra sao.
Langdon chợt hỏi: “Liệu tài khoản ấy có liên quan gì đến Sangreal hay không?”.
Vernet nhìn Langdon ngỡ ngàng: “Tôi không biết đó là cái gì”. Đúng lúc đó điện thoại di động của Vernet reo, ông giật nó ra khỏi thắt lưng. “Oui?”, ông nghe một lúc, mặt lộ vẻ ngạc nhiên và càng lúc càng lo lắng: “La police? Si rapidement” (2), ông chửi thề, chỉ dẫn ngắn gọn vài lời bằng tiếng Pháp, và nói ông sẽ có mặt ở sảnh sau một phút nữa.
Cúp điện thoại, ông quay về phía Sophie. “Cảnh sát phản ứng mau lẹ hơn thường lệ nhiều. Trong lúc chúng ta nói chuyện, họ đã sắp tới rồi”.
Sophie không hề có ý định rời khỏi ngân hàng với đôi bàn tay trắng: “Xin hãy nói với họ rằng chúng tôi đã đến và đã đi khỏi ngân hàng rồi. Nếu họ muốn lục soát nhà băng, hãy yêu cầu họ xuất trình lệnh lục soát điều đó sẽ làm họ tốn thời gian đấy!”.
“Nghe này!”, Vernet nói “Jacques là bạn tôi và ngân hàng chúng tôi chẳng cần loại tin trên báo chí kiểu này, vì hai lí do đó tôi không có ý định để cho cuộc bắt giữ này diễn ra trên địa phận của tôi. Hãy cho tôi một phút và tôi sẽ lo liệu xem có thể làm gì để giúp các bạn rời khỏi đây mà không bị phát hiện.
Ngoài ra, tôi không thề bị liên can”. Ông đứng dậy và vội vã bước ra phía cửa. “Cứ ở đây. Tôi sẽ dàn xếp ổn thoả rồi quay lại ngay thôi!”.
“Còn hộp ký thác an toàn kia thì sao?”. Sophie nói. “Chúng tôi không thể bỏ đi như thế này được”.
“Tôi chẳng thể làm được gì”. Vernet nói vậy rồi vội vàng bước ra khỏi cứa. “Tôi rất tiếc”.
Sophie nhìn theo ông một lúc rồi tự hỏi liệu số tài khoản ấy có thể bị vùi giữa một trong vô số thư từ, bưu kiện ông cô đã gửi cho cô trong bao năm mà cô đã không hề mở ra?
Langdon đột ngột đứng dậy, và Sophie cảm thấy một ánh mãn nguyện bất ngờ long lanh trong mắt ông.
“Robert, anh đang mỉm cười?”.
“Ông cô đúng là một thiên tài!”.
“Anh nói gì vậy?”.
“Mười con số, phải không?”.
Sophie chẳng biết Langdon đang nói gì.
“Số tài khoản”, ông nói, một nụ cười quen thuộc hơi lệch về một bên hiện trên gương mặt ông. “Rốt cuộc tôi dám chắc ông ấy có để lại nó cho chúng ta”.
“Ở chỗ nào?”.
Langdon chìa một bản sao in tấm ảnh hiện trường vụ án rồi rải nó lên chìếc bàn uống cà phê. Chỉ cần đọc dòng đầu tiên, Sophie biết Langdon đã đúng.
13-3-2-21-1-1-8-5
Ôi, quỷ hà khắc!
Ôi thánh yếu đuối!
Tái bút. Hãy tìm Robert Langdon
Chú thích:
(1) Francois Boucher (1703-1770) và Jean Honoré Fragonard (1732-1806) là hai họa sĩ Pháp vẽ theo phong cách rococo.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cánh sát ư? Nhanh đến thế ư?
“Mười chữ số” Sophie nói, quan năng mật mã học ran ran trong cô khi nhìn chăm chú vào bản in ấy.
13-3-2-21-1-1-8-5
Ông mình đã viết số tài khoản lên sàn bảo tàng Louvre!
Lần đầu tiên khi Sophie nhìn thấy dãy số Fibonacci ghi lộn xộn trên sàn gỗ, cô đã đoán chừng mục đích duy nhất của nó là gợi ý cho DCPJ gọi các nhân viên giải mã và khiến Sophie tham gia vào. Nhưng sau đó cô đã nhận ra rằng những con số đó cũng là đầu mối để giải mã những dòng chứ khác – một dãy số hỗn độn, một anagram bằng số. Giờ đây Sophie ngạc nhiên tột độ nhận ra rằng những con số đó còn mang một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Cần như chắc chắn chúng chính là chìa khoá cuối cùng để mở hộp ký thác an toàn đầy bí ẩn của ông cô.
“Ông là bậc thầy về trò đặt câu mang nghĩa nước đôi”, nói rồi Sophie quay về phía Langdon. “Ông thích bất kì thứ gì nhiều tầng nghĩa. Mật mã trong mật mã”.
Langdon đã tiến về phía chiếc bục điện tử gần băng chuyền.
Sophie vớ lấy bản in từ máy tính và đi theo.
Bục điện tử có một bàn phím cỡ nhỏ giống như bàn phím của máy rút tiền tự động ATM. Màn hình hiển thị logo chữ thập của ngân hàng. Bên cạnh bàn phím là một lỗ hình tam giác.
Sophie lập tức tra chìa vào ổ khoá.
Màn hình khởi động tức thì:
SỐ TÀI KHOẢN: con trỏ chuột nhấp nháy, báo đợi.
Mười chữ số. Sophie đọc số từ bản in cho Langdon đánh vào màn hình:
SỐ TÀI KHOẢN:
13-3-2-21-1-1-8-5
Khi ông đánh xong chứ số cuối cùng, màn hình khởi động lại. Một tin ngắn viết bằng nhiều thứ tiếng xuất hiện. Tiếng Anh ở trên cùng.
CHÚ Ý:
Trước khi đánh phím “ENTER, xin kiểm tra xem số tài khoản đã chính xác chưa.
Vì sự an toàn của quý khách.
Nếu máy tính không công nhận số tài khoản này, hệ thống sẽ tự động đóng.
“Fontion Terminer?” Sophie cau mày. “Có vẻ như chúng ta chỉ có thể thử một lần thôi”. Những máy chi trả tự động ATM tiêu chuẩn cho phép người sử dụng thử ba lần số nhận dạng trước khi thu hồi thẻ ngân hàng của họ . Rõ ràng, đây không phải là máy chi trả tự động thông thường.
“Số này có vẻ đúng đấy”. Langdon xác nhận rồi cẩn thận kiểm tra những chữ số họ đã dánh so với bản in. Ông chỉ vào phím ENTER: “Ấn đi”.
Sophie đưa ngón trỏ về phía bàn phím, nhưng rồi lại ngần ngừ, một ý nghĩ kì lạ chợt đến với cô.
“Bấm đi”, Langdon giục, “Vernet quay trở lại bây giờ!”.
“Không được!” Cô rụt tay lại. “Đây không phải là số tài khoản chính xác đâu”.
“Tất nhiên là đúng nó! Mười chứ số đấy thôi. Làm sao có thể khác được?”.
“Con số này quá ngẫu nhiên”.
Quá ngẫu nhiên? Langdon tuyệt dối không đồng ý. Mọi ngân hàng đều khuyên khách hàng lựa chọn số nhận dạng một cách ngẫu nhiên để không ai có thể đoán được chúng. Chắc chắn khách hàng ở đây cũng được khuyên nên chọn lựa số tài khoản một cách ngẫu nhiên.
Sophie xoá sạch những gì họ vừa đánh vào và ngước nhìn Langdon, cái nhìn đầy tự tin: “Nếu cái số tài khoản được yêu cầu là ngẫu nhiên này có thể sắp xếp lại thành dãy số Fibonacci thì thật quá ư là trùng hợp”.
Langdon nhận ra rằng cô có lý. Vừa nãy Sophie đã sắp xếp tài khoản này thành dãy số Fibonaccỉ. Khả năng tốt, xấu là thế nào để khiến cô có thể làm điều đó?
Sophie lại ấn tay vào bàn phím, nhập một con số khác như thể từ trí nhớ: “Hơn nữa, ông tôi vốn thích các biểu tượng và mật mã, do đó có lẽ ông đã lựa chọn một số tài khoản mang một ý nghĩa đối với ông, một con số có thể nhớ dễ dàng”. Cô đã đánh xong số nhập, và mỉm cười ranh mãnh: “Một cái gì có vẻ ngẫu nhiên…nhưng lại không ngẫu nhiên”.
Langdon nhìn vào màn hình.
SỐ TÀI KHOẢN:
123581321
Phải mất một lúc Langdon mới nhận ra nhưng khi định vị được thì ông biết là cô đúng.
Cấp số Fibonacci 123581321
Khi cấp số Fibonacci quyện lại thành một số duy nhất gồm mười chữ số, thì hầu như không thể nhận ra được. Dễ nhớ, và có vẻ như là ngẫu nhiên. Một mật mã tài tình gồm mười chữ số mà Saunìere không thể quên được. Hơn nữa, nó gỉải thích một cách hoàn hảo lí do tại sao những con số lộn xộn trên sàn của bảo tàng Louvre lại có thể sắp xếp lại thành cấp số trứ danh ấy.
Sophie với tay và ấn vào phím ENTER trên bàn phím.
Chẳng có gì xẩy ra.
Chí ít chẳng có gì họ có thể thấy được.
Cùng lúc đó, ở bên dưới họ, trong hầm ngầm sâu thăm thẳm của ngân hàng, một chiếc càng máy bỗng nhiên khởi động.
Trượt trên hệ thống vận chuyển có trục kép gắn với trần hầm, chiếc càng lao đi tìm toạ độ chính xác. Trên sàn ximăng phía dưới, hàng trăm hòm plastic giống hệt nhau nằm thành hàng trên một tấm lưới sắt khổng lồ… tựa những dãy quan tài nằm trong một khu hầm mộ dưới lòng đất.
Dừng lại trong tiếng ro ro đúng bên trên chỗ cần tìm trên sàn hầm, chiếc càng hạ xuống, một con mắt điện tử xác nhận mã vạch trên chiếc hòm. Rồi, với sự chính xác của máy tính, chiếc càng quắp lấy quai xách và nhấc bổng chiếc hòm lên theo chiều thẳng đứng. Bộ bánh răng mới vào khấc, và chiếc càng chuyển chiếc hòm sang đầu kia hầm, dừng lại trên một băng chuyền đang đứng im.
Lúc này, cánh tay càng nhẹ nhàng đặt chiếc hòm xuống và rút về.
Chiếc càng vừa rút khỏi, băng chuyền liền khởi động…
Ở tầng trên, Sophie và Langdon thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy chiếc băng chuyền khởi động. Đứng bên băng chuyền, họ cảm thấy mình giống như những lữ khách mệt mỏi ở chỗ lấy đồ đang chờ một hành lý bí ẩn mà họ hoàn toàn không biết có gì ở bên trong.
Băng chuyền trôi vào phòng từ phía bên tay phải họ qua một khe hẹp bên dưới một cánh cửa đẩy ra kéo vào được. Cánh cửa kim loại kéo lên rồi một chiếc hòm plastic lớn xuất hiện, từ dưới sâu nhô lên trên mặt phắng nghiêng của băng chuyền. Chiếc hòm màu đen, khuôn plastic dày, lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của Sophie. Trông nó như một chiếc hòm chở thú vật kiểng trên máy bay chỉ khác cái là không có lỗ thông khí.
Chiếc hòm dừng ngay trước mặt họ.
Langdon và Sophie đứng đó, im lặng và nhìn chằm chằm vào chiếc hòm bí ẩn ấy.
Giống như mọi thứ khác trong ngân hàng này, chiếc hòm này cũng mang đậm tính công nghiệp – móc cài bằng kim loại, một mã vạch dán trên nắp và một quai xách rất dày. Sophie nghĩ nó giống như một hòm đồ nghề khống lồ.
Không để tốn thời gian, Sophie tháo hai chiếc móc cài trước mặt cô. Rồi cô đưa mắt ra hiệu cho Langdon. Họ cùng nhấc nắp hòm, lật ra phía sau.
Bước lên phía trước, họ ngó vào trong.
Thoạt nhìn, Sophie tưởng hòm rỗng không. Rồi, cô nhìn thấy cái gì đó. Dưới đáy hòm. Độc một thứ.
Đó là một chiếc hộp gỗ đánh bóng, to bằng hộp đựng giầy với những bản lề hoa mĩ. Loại gỗ này có màu tím sẫm óng ánh dưới đường vân thô. Gỗ hồng mộc. Sophie nhận ra. Loại gỗ ông cô ưa thích. Nắp đậy có khảm hình một bông hoa hồng. Cô và Langdon bỗng nhiên nhìn nhau bối rối. Sophie cúi xuống cầm chiếc hộp, nhấc ra khỏi hòm.
Lạy Chúa, nặng thế!
Cô thận trọng bê chiếc hộp đến đặt lên chiếc bàn rộng.
Langdon đứng bên cạnh cô, cả hai người nhìn chằm chằm vào cái kho báu nhỏ bé mà rõ ràng là ông Saunière đã phái họ đến đây để thu hồi lại.
Langdon ngỡ ngàng nhìn hình khắc bằng tay khảm trên nắp hộp – một bông hoa hồng có năm cánh. Ông đã từng nhìn thấy loại hoa hồng này nhiều lần. “Một bông hồng năm cánh”, ông thì thầm, “là thứ mà Tu viện Sion dùng làm biểu tượng cho Chén Thánh”.
Sophie quay lại nhìn Langdon. Langdon biết cô đang nghĩ gì, và ông cũng nghĩ giống như cô. Kích thước của chiếc hộp, trọng lượng hiển nhiên của vật chứa trong đó, và một biểu tượng của Tu viện Sion hàm chỉ Chén Thánh, tất cả dường như bao hàm một kết luận khó hiểu khôn dò nổi. Chén của Chúa Kirixitô ở trong chiếc hộp này. Chuyện này là bất khả, Langdon lại tự nhủ thầm.
“Chiếc hộp này có kích thước hoàn hảo”, Sophie thì thầm, “để đựng… một chiếc ly”.
Đây không thế là chiếc ly được.
Sophie kéo chiếc hộp về phía mình, chuẩn bị mở ra. Tuy nhiên, khi cô di chuyển chiếc hộp, một điều bất ngờ đã xảy ra.
Chiếc hộp phát ra một âm thanh ùng ục kì lạ. Langdon ậm ừ. Hình như có chất lỏng ở bên trong?
Sophie cũng có vẻ bối rối: “Anh có nghe thấy không…?”.
Langdon gật đầu, hoang mang: “Chất lỏng”.
Vươn tay ra, Sophie từ từ tháo móc cài và nhấc nắp lên.
Vật ở bên trong hộp không hề giống với bất kì thứ gì Langdon đã từng nhìn thấy trước đó. Tuy nhiên, với cả hai người, một điều đã sáng tỏ ngay tức khắc: Rõ ràng đây không phải là Chén Thánh.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chức năng kết thúc.
(2) ATM: máy chi trả tự động. Loại máy này được đặt ngay ở các đường phố, rất tiện dụng cho người có thẻ tín dụng khi cần tiền mặt đột xuất, khỏi phải đến ngân hàng. Khách hàng tra thẻ vào máy, nhập đúng số PIN (personal Identification Number: số nhận dạng cá nhân) mới được rút tiền. Nếu 3 lần nhập vẫn không đúng số pIN, máy sẽ tự động thu hồi thẻ. Đây là biện pháp đề phòng trường hợp người sở hữu đánh mất thẻ và có kẻ bắt được mạo dụng.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!