Người Dublin
Chương 16: Người chết (2)
Bởi chủ đề đã chuyển sang màu sắc sầu thảm, cả bàn tiệc chìm trong im lặng, nghe rõ tiếng Mrs Malins thì thào với người bên cạnh.
– Họ là những người thật tử tế, những ông thầy tu đó, những người thật sùng đạo.
Nho, hạnh nhân và sung khô, táo và cam, sôcôla và kẹo giờ đây được chuyền quanh bàn và dì Julia mời tất cả các vị khách một ly pooc tô hoặc sherrry. Lúc đầu Mr Bartell D’Arcy từ chối uống cả hai thứ, nhưng người ngồi bên cạnh thúc vào khuỷu tay và thầm thì gì đó với anh ta, đến đây thì anh ta cho hép ly của mình được đổ đầy. Dần dần tất cả các ly đều được đổ đầy rượu hết lượt và cuộc chuyện trò dừng lại. Tất cả chờ đợi, chỉ có tiếng ly rượu đặt khẽ và tiếng ghế xê dịch. Các quý bà nhà Morkan, cả ba người, cúi nhìn khăn trải bàn. Ai đó ho khẽ và mấy quý ông gõ nhẹ lên bàn ra dấu bảo mọi người im lặng . Và rồi Gabriel đẩy ghế đứng lên.
Tiếng gõ bàn lập tức vang lên, lần này to hơn cổ vũ, rồi đồng loạt dừng lại. Gabriel bám nhẹ mấy ngón tay đang run rẩy của anh ta lên tấm khăn trải bàn và bồn chồn mỉm cười với cả bàn tiệc. Bắt gặp một hàng những khuôn mặt đang ngẩng lên chờ đợi, anh ngước nhìn chùm đèn pha lê. Cây đàn piano đang chơi một điệu valse và an hct nghe thấy tiếng váy áo sột soạt chạm vào cánh cửa phòng khiêu vũ. Người ta, có lẽ vậy, đang đứng trong làn tuyết rơi trên cỏ ngoài kia, ngước nhìn những ô cửa sổ đèn nến rực rỡ và lắng nghe tiếng nhạc valse vọng xuống. Không khí ở đó thật trong lành. Phía xa xa là công viên, cây cối đang trĩu nặng tuyết phủ. Tượng Wellington mặc một lớp tuyết lóng lánh lóe sáng về phía tây, bên trên bãi cỏ Fifteen Acres trắng xóa.
Anh bắt đầu:
– Thưa các quý ông quý bà, số mệnh đã chọn tôi buổi tối nay, cũng như trong những năm vừa qua, tôi thực hiê.nó một nhiệm vụ vô cùng thú vị nhưng đó là một nhiệm vụ tôi e rằng với tài ăn nói kém cỏi của mình lại trở nên khó khăn ngoài tầm với.
– Ấy không, không! – Mr Browne nói.
– Nhưng dù có như thế, đêm nay cũng xin quý vị thông cảm cho tình huống lực bất tòng tâm này và xin hãy cho tôi vài phút lắng nghe trong khi tôi cố gắng hết sức tìm từ ngữ diễn đạt cho các vị những cảm xúc của tôi nhân dịp này.
Thưa quý ông quý bà, đây không phải là lần đầu tiên chúng ta cùng nhau hội ạp dưới mái nhà hiếu khách này, quanh chiếcbàn hiếu khách này. Không phải là lần đầu tiên chúng ta là những người được hưởng – hoặc tôi có thể nói là, những nạn nhân – của sự hiếu khách của những quý bà tốt bụng.
Anh dang hai tay về phía trước và ngừng lại. Ai cũng quay sang cười với dì Kate và dì Julia và Mary Jane và cả ba đều đỏ bừng mặt vẻ hài lòng. Gabriel mạnh dạn nói tiếp:
– Mỗi năm qua đi, tôi lại càng cảm thấy chắc chắn hơn một điều rằng đất nước chúng ta không có một truyền thống nào mang đến cho nó nhiều vinh dự và là một truyền thống mà nó nên giữ gìn cẩn trọng nhất, như truyền thống hiếu khách. Đó là một truyền thống độc đáo không đất nước hiện đại nào có được theo kinh nghiệm của tôi đến nay (và tôi đã được đi thăm không ít những vùng đất ngoại quốc). Có thể một số người sẽ cho rằng, đối với chúng ta, thực ra đó là một thất bại, hơn là một điều gì đó để khoe khoang. Nhưng thậm chí dù có như thế, đối với tôi, đó là một thất bại cao quý và tôi tin rằng truyền thống đó sẽ còn tiếp tục được chúng ta trân trọng gìn giữ. Và có, ít nhất, một điều tôi chắc chắn. Chừng nào mái nhà này còn che chở những quý bà tốt bụng tôi vừa nhắc đến, và tôi nguyện cầu từ trái tim mình, cầu cho nó sẽ tiếp tục làm thế trong nhiều, rất nhiều năm tới – thì truyền thống hiếu khách Ireland lịch lãm chân thành, truyền thống mà cha ông chúng ta đã truyền lại cho chúng ta và chúng ta phải truyền lại cho con cháu chúng ta sẽ vẫn còn sống mãi.
Một làn sóng sôi nổi tán thành lan ra khắp bàn tiệc. Gabriel chợt nhớ Miss Ivors không còn ở đây nữa, cô ta đã bất lịch sự bỏ đi, và thế là anh nói tiếp tràn đầy tự tin:
– Thưa các quý ông quý bà, một thế hệ mới đang lớn lên giữa chúng ta, một thế hệ được thúc đẩy bởi những ý tưởng và những nguyên tắc mới. Thế hệ đó rất nghiêm túc và hào hứng với những ý tưởng này và sự hào hứng của nó, thậm chí ngay cả khi bị lạc lối là, tôi nghĩ, hoàn toàn chân thạnh nhưng thời đại chúng ta đang sống là một thời đại đầy nghi ngờ và, nếu như tôi được phép dùng từ này, một thời đại bị tra tấn bởi những ý nghĩ, và đôi khi tôi sợ rằng thế hệ mới này, dù có học thức hoặc cực kỳ có học thức, sẽ thiếu những phẩm chất nhân ái, hiếu khách, khiếu hài hước của thời trước. Được lắng nghe trong đêm nay những cái tên của những giọng ca vĩ đại trong quá khứ, tôi thấy dường như, tôi phải thú nhận, rằng chúng ta đang sống trong một thời đại ít thênh thang bằng. Chúng ta có thể gọi thời xưa đó, một cách không hề cường điệu, là những ngày thênh thang, và nếu như chúng đã qua không thể trở lại, thì hãy để chúng ta hy vọng rằng, ít nhất, bằng những cuộc tụ hội như thế này chúng ta sẽ vẫn nói về chúng với niềm tự hào và tình cảm trìu mến, vẫn nâng niu trong tim hồi ức về những người đã qua đời, đã khuất, những con người vĩ đại mà tên tuổi của họ thế giới này sẽ không bao giờ quên.
– Hoan hô, hoan hô! – Mr Browne kêu ầm ĩ.
– Tuy nhiên – Gabriel tiếp tục, giọng anh trầm xuống suy tưởng – trong những cuộc hội tụ như thế này đôi khi chúng ta không tránh khỏi có những suy nghĩ buồn bã trong tâm trí, những suy nghĩ về quá khứ, về tuổi trẻ, về những thay đổi, về những người không thể có mặt cùng chúng ta ở đây đêm nay. Con đường cuộc đời của chúng ta được gắn với bao hồi ức buồn đau như thế, và nếu chúng ta cứ mãi ôm ấp chúng, chúng ta sẽ không đủ can đảm để tiếp tục công việc của chúng ta với những người đang sống. Chúng ta ai cũng có những trách nhiệm, tình yêu đối với cuộc sống, đó là những điều luôn đòi hỏi, và đòi hỏi một cách chính đáng, nỗ lực lớn lao ở mỗi chúng ta.
Do vậy tôi sẽ không lấn cấn nhiều về quá khứ. Tôi sẽ không để lại những lời giảng đạo đức u ám xen vào giữa chúng ta đêm nay. Quá ecùng nhau hội tụ ở đây trong những giây phút ngắn ngủi tách xa khỏi những bề bộn vội vã của đời thường. Chúng ta gặp mặt ở đây như những người bạn, trong tinhthần bạn hữu thân thiết, như những đồng nghiệp, theo khía cạnh nào đó, trong tình bạn thật sự, và như những người khách mời của – tôi nên gọi họ như thế nào đây? – Ba Nữ Nhã thần của thế giới âm nhạc Dublin.
Cả bàn tiệc òa lên tiếng vỗ tay và tiếng cười khi nghe thấy câu ví von này. Dì Julia tuyệt vọng quay sang hỏi lần lượt hai người ngồi bên cạnh xem Gabriel vừa mới nói gì.
– Anh ấy gọi chúng ta là Ba Nữ Nhã thần, dì Julia ạ – Mary Jane nói.
Dì Julia không hoàn toàn, nhưng bà ngẩng lên, mỉm cười với Gabriel, anh tiếp tục:
– Thưa các quý ông quý bà, tôi sẽ không liều thử nhiệm vụ mà chàng Paris đã làm năm xưa. Tôi sẽ không liều lựa chọn một người trong số họ. Nhiệm vụ đó thật là một lời xúc phạm bất công và vượt quá khả năng hèn mọn của tôi. Bởi khi tôi nhìn lần lượt mỗi người, dù đó là nữ chủ nhân chính của gia đình, với trái tim vô cùng đẹp đẽ, đã trở thành một tấm gương cho tất cả những ai biết bà, hay người chị gái của bà, người dường như được trời phú cho một sự thanh xuân bất diệt và giọng hát chắc hẳn đã vừa là một khám phá đầy ngạc nhiên đối với rất nhiều người chúng ta đêm nay, và, cuối cùng, khi tôi nghĩ về vị nữ thần chủ nhà trẻ tuổi nhất, tài năng, tươi vui, chăm chỉ và là một cô cháu gái tuyệt vời nhất, tôi phải thú nhận, thưa các quý ông, quý bà, rằng tôi thực sự không biết ai trong số họ tôi nên trao tặng giải thưởng.
Gabriel liếc về phía các bà dì, và khi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt dì Julia và những giọt nước mắt đang dâng lên trong mắt dì Kate, anh bèn vội vàng chuyển sang phần kết. Anh lịch thiệp nâng ly rượu pooc-tô của mình lên, trong khi tất cả những người khác cầm ly của mình, những ngón tay rung động chờ đợi, và nói to:
– Chúng ta hãy cùng nâng ly cho cả ba người. Chúng ta hãy uống vì sức khỏe, của cải, tuổi thọ, hạnh phúc, vì sự sung túc của họ và chúc họ sẽ giữ mãi vị trí đầy tự hào họ đã giành được , vị trí của lòng kính trọng và sự yêu quý họ có trong tim chúng ta.
Tất cả khách mời đứng dậy, ly trong tay, và hướng về ba quý ông, quý bà đang ngồi, đồng ca, với Mr Browne lĩnh xướng:
Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng
Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng
Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng
Có ai phủ nhận được điều này
Dì Kate nâng khăn mùi soa lên chấm nước mắt không hề giấu giếm, ngay cả dì Julia dường như cũng thật xúc động. Freddy Malins đánh nhịp bằng cái dĩa ăn pút đinh của anh ta và những người hát quay sang hướng về nhau, như thể họ đang nói chuyện bằng giai điệu, trong khi họ câ’thẳng cao giọng hát:
Trừ khi anh ta nói dối
Trừ khi anh ta nói dối
Rồi, một lần nữa lại quay về phía những nữ chủ nhà, họ hát
Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng
Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng
Bởi họ thật vui vẻ tốt bụng
Có ai phủ nhận được điều này
Tiếng hoan hô khen ngợi sau đó còn kéo dài sang tận phòng bên kia bởi rất nhiều các vị khách khác và rồi lại được nhắc đi nhắc lại, dưới sự điều khiển của Freddy Malins với chiếc dĩa của anh ta vung vẩy trêncao.
Không khí lạnh cóng của buổi sáng len vào sảnh nơi họ đang đứng, dì Kate nói:
– Ai đó làm ơn hãy đóng cửa lại đi. Khéo không Mrs Malins cảm lạnh đấy.
– Browne đang ở ngoài đó, dì Kate – Mary Jane nói.
– Browne ở khắp nơi – dì Kate hạ giọng.
Mary Jane cười phá lên trước giọng điệu của bà.
– Thật vậy – cô tinh nghịch – Ông ấy vô cùng ân cần chu đáo.
– Ông ta gắn lì ở đây, như đường gas ấy [21], suốt cả Giáng Sinh rồi còn gì – dì Kate nói, không đổi giọng.
Lần này bà cười đầy thích thú và nói nhanh:
– Nhưng bảo ông ấy vào trong đi, Mary Jane, và đóng cửa lại. Lạy Chúa đừng để ông ta nghe thấy những gì dì vừa nói.
Đúng lúc đó cánh cửa sảnh mở ra và Mr Bronwe từ bậc cửa đi vào, vẫn còn đang cười ngất. Ông ta mặc một chiếc áo choàng dài màu xanh lá cây có ống tay và cổ áo giả bằng vải astakhan và đội trên đầu một chiếc mũ lông hình oval.luôn luôn ông ta chỉ xuống bờ ke tuyết phủ trắng xóa, từ đó vọng lên tiếng huýt gió chối tai.
– Teddy sẽ triệu toàn bộ xe ngựa ở Dublin đến đây – ông ta nói.
Gabriel tiến ra từ phòng xép để áo phía sau phòng làm việc, khó nhọc xỏ vào chiếc áo choàng của mình và, nhìn quanh sảnh, nói:
– Gretta vẫn chưa xuống nhỉ?
– Cô ấy đang sửa soạn đồ, Gabriel – dì Kate nói.
– Ai đang chơi đàn trên đó vậy? – Gabriel hỏi.
– Không có ai đâu, họ đều đi cả rồi.
– Dạ không, dì Kate – Mary Jane nói – Bartell D’Arcy và Miss O’Callagan vẫn chưa về đâu.
– Dù gì thì chắc chắn cũng có ai đó đang nghịch cây piano – Gabriel nói.
Mary Jane nhìn Gabriel và Mr Browne nói, giọng run lập cập:
– Nhìn hai quý ông mặc kín mít thế này tôi thấy lạnh quá. Tôi thì tôi sẽ không thích thú gì phải đối mặt với chặng đường về như của các vị vào giờ này đâu.
– Tôi thì tôi lại thích nhất như thế này đấy – Mr Browne nói, vẻ anh hùng – còn gì sướng hơn là được thả sức dạo bước chốn đồng quê, hoặc tung cánh đánh xe lao đi với một con ngựa chạy nước đại phia trước.
– Trước kia nhà chúng tôi cũng từng có một cỗ xe và một con ngựa rất hay – dì Julia nói, buồn bã.
– Ôi Johnny lừng lẫy – Mary Jane nói, cười to.
Dì Kate và Gabriel cũng cười.
– Sao, có chuyện gì hay ho với Johnny vậy? – Mr Browne hỏi.
– Chuyện là về Patrick Morkan, người ông quá cố đầy thương tiếc của chúng tôi – Gabriel giải thích – thường được biết tới trong những năm cuối đời dưới cái tên lão quý ông, là một thợ nấu keo.
– Ôi không, Gabriel – dì Kate nói, cười khúc khích – ông có cả một xưởng hồ mà.
– Vâng, thì xưởng hồ – Gabriel nói – Lão quý ông có một con ngựa đặt tên là Johnny. Và Johnny thường làm việc trong xưởng của quý ông lớn tuổi, cứ đi vòng quanh để kéo cối xay. Tất cả đều tốt đẹp, cho tới ngày đến hồi bi kịch của Johnny. Một ngày đẹp trời quý ông lớn tuổi nghĩ mình phải đánh xe thế nào cho ra dáng để đến cuộc duyệt binh trong công viên mới được
– Cầu Chúa ban phước cho linh hồn ông – dì Kate nói đầy thương cảm.
– Amen – Gabriel nói – Thế là lão quý ông, như tôi đã nói, thắng cương Johnny, đội lên đầu chiếc mũ đẹp nhất, mặc chiếc cổ cồn đẹp nhất và rất hoành tráng đánh xe ra từ tòa nhà tổ tiên để lại, hình như ở gần Back Lane, tôi nghĩ vậy.
Tất cả mọi người, kể cả Mrs Malins, cười ồ lên trước điệu bộ của Gabriel, và dì Kate nói:
– Ấy không, Gabriel, ông không sống ở Back Lane đâu, thật đấy. Chỉ có cái xưởng là ở đó thôi.
– Ra khỏi tòa nhà tổ tiên để lại – Gabriel kể tiếp – ông tiếp tục tiến lên với cỗ xe Johnny kéo. Và mọi chuyện diễn ra vô cùng hoành tráng cho đến lúc Johnny nhìn thấy bức tượng của Vua Billy, và không biết có phải vì nó phải lòng con ngựa Vua Billy đang cưỡi hay nó nghĩ mình đang quay lại xưởng xay, mà nó bèn bắt đầu đi vòng vòng quanh bức tượng.
Gabriel giậm đôi ủng cao su của anh, bước lòng vòng trong sảnh giữa tiếng cười ầm ĩ của mọi người.
– Nó cứ đi lòng vòng như vậy – Gabriel nói – và quý ông lớn tuổi, một quý ông vô cùng trịnh trọng, thấy rất phẫn nộ. Nào, thưa ngài? Ý ngài là gì vậy, thưa ngài? Johnny! Johnny! Hành động kỳ lạ này chưa từng có! Không thể hoàn toàn được con ngựa này!
Những trà ng cười giòn giã theo sau câu chuyện bị cắt ngang bởi tiếng cửa đập mạnh. Mary Jane chạy ra mở cửa dẫn Freddy Malins vào. Freddy Malins, mũ tuột cả về phía sau và hai vao co ro vì lạnh, phì phò như hụt hơi vì mệt:
– Tôi chỉ gọi được một xe thôi – anh ta nói.
– Không sao, chúng tôi sẽ đi dọc ke tìm cái khác – Gabriel nói.
– Đúng đấy – dì Kate nói – không nên để bà Malins ra gió.
Mrs Malins được con trai và Mr Browne đỡ bước xuống bậc cửa , và sau rất nhiều sự trợ giúp gượng nhẹ mới vào được trong xe. Freddy Malins trèo lên sau bà và mất một lúc lâu mới giúp được mẹ ngồi vào chỗ còn Mr Browne đứng bên ngoài hỗ trợ bằng những câu khuyên thế này thế kia. Cuối cùng bà ta cũng ngồi yên vị và Freddy Malins mời Mr Browne vào xe. Sau đó là một hồi bàn bạc rồi tính, và rồi Mr Browne lên xe. Người đánh xe đặt tấm thảm lên trên đầu gối, nghiêng xuống hỏi địa chỉ phải đi. Hồi bàn bạc trở nên thậm chí cònrối tinh rối mù thêm, Freddy Malins và Mr Browne mỗi người chỉ dẫn người đánh xe một cách khác nhau, mỗi người đều thò đầu ra khỏi cửa xe ngựa. Vấn đề ở đây là nên thả Mr Browne xuống đoạn nào thì tiện nhất, và dì Kate, dì Julia, và Mary Jane đang đứng ở chỗ bậc thềm cũng góp sức bàn luận, thế là có vô vàn những chỉ dẫn ngược nhau, rối tinh, và những tràng cười. Về phần Freddy Malins thì anh ta cười ngất không nói nổi. Chốc chốc anh ta lại thò đầu ra thụt đầu vào nơi cửa xe, suýt nữa làm rơi mũ, và tường thuật cho mẹ cuộc bàn luận diễn biến đến đâu rồi, cho đến khi cuối cùng Mr Browne hét lên với người đánh xe đang hoang mang giữa những tiếng cười nói ầm ĩ của mọi người:
– Anh có biết trường Trinity College không?
– Có, thưa ngài – người đánh xe nói.
– Được, vậy hãy đánh xe ngực về phía cổng trường Trinity College – Mr Browne nói – rồi chúng tôi sẽ chỉ tiếp đường cho anh. Giờ anh đã rõ chưa?
– Vâng, thưa ngài – người đánh xe nói.
– Hãy tung cánh về phía Trinity College.
– Vâng, thưa ngài – người đánh xe hô to.
Con ngựa bị quất và cỗ xe lọc rọc đi khỏi, dọc theo bờ ke giữa những tràng cười và tiếng lao xao tạm biệt.
Gabriel không đi ra cửa cùng với những người khác. Anh đang đứng trong khoảnh tôi của sảnh ngước nhìn lên phía cầu thang. Một người phụ nữ đang đứng phía đỉnh cầu thang, cũng trong bóng tối. Anh không nhìn được khuôn mặt cô nhưng anh có thể nhìn thấy những nếp màu đỏ gạch và hồng cam trên chiếc váy của cô trong bóng tối như biến thành màu đen và trắng. Đó là vợ anh. Cô đang đứng dựa vào thành cầu thang, lắng nghe cái gì đó. Gabriel thấy ngạc nhiên trước dáng bất động của cô và cũng căng tai lên lắng nghe. Nhưng anh chỉ thấy giữa những âm thanh lao xao cười nói tranh cãi vọng lại từ phía bậc thềm là tiếng mấy nốt nhạc piano và bập bõm giọng hát của một người đàn ông.
Anh vẫn đứng trong bóng tối mờ của gian sảnh, căng tai lắng nghe khúc hát và đăm đăm hướng nhìn lên phía vợ anh. Có một vẻ yêu kiều và huyền bí trong dáng vẻ của cô như thể cô là biểu tượng cho một điều gì đó. Anh tự hỏi hình ảnh một người phụ nữ đứng trên cầuthang trong ánh sáng mờ, lắng nghe tiếng nhạc từ xa vọng lại, có thể là biểu tượng của cái gì. Giá như là họa sĩ nhất định anh sẽ vẽ cô trong dáng vẻ ấy. Chiếc mũ màu xanh thẳm của cô sẽ làm tôn lên sắc vàng của mái tóc trong bóng tối và những nếp váy thẫm màu của cô sẽ tôn những nếp nhạt màu. Tiếng Nhạc Xa, anh sẽ gọi bức tranh như thế nếu anh là họa sĩ.
Cửa sảnh đóng lại, và dì Kate, dì Julia, và Mary Jane đi vào, vẫn còn cười khúc khích.
– y a, hôm nay Freddy đúng là quâỵ quá nhỉ? – Mary Jane nói – Anh ta quậy quá sức.
Gabriel không nói gì, chỉ lên phía cầu thang nơi vợ anh đang đứng. Giờ khi cửa sảnh đã đóng lại, giọng hát và tiếng đàn piano trở nên rõ hơn. Gabriel giơ tay ra hiệu cho họ im lặng. Bài hát nghe như giai điệu Ireland cổ và dường như người hát không chắc chắn lắm về cả lời bài hát lẫn giọng hát của anh ta. Giọng hát, nghe buồn thảm bởi vọng từ xa xa và bởi chất giọng khàn khàn của người hát, không diễn tả thành công lắm điệu nhạc với những ca từ buồn thảm:
Ôi, mưa rơi trên mái đầu tôi nặng trĩu
Và sương phủ ướt người tôi
Người yêu tôi nằm kia lạnh lẽo….[22]
– Ô – Mary Jane kêu lên – Đó là Bartell D’Arcy đấy, thế mà cả tối nay anh ta từ chối không hát. Cháu phải bắt anh ta hát trước khi về mới được.
– Ấy đúng đấy, Mary Jane – dì Kate nói.
Mary Jane kéo váy đi vượt lên trên những người khác và chạy về phía cầu thang, nhưng trước khi cô bước lên bậc thì tiếng hát dừng lại và cây piano đột ngột đóng sập xuống.
– Ôi tiếc quá! – cô kêu lên – Anh ấy đang xuống đấy à, Gretta?
Gabriel nghe tiếng vợ mi1nh trả lời phải và nhìn thấy cô đang xuống phía họ. Cách cô mấy bậc phía trên là Mr Bartell D’Arcy và Miss O’Callaghan.
– Ô ngài D’Arcy – Mary Jane kêu lên – Ngài đúng là thật cực kỳ quá đáng khi ngừng lại như thế trong khi tất cả chúng tôi đây đang rất muốn nghe ngài hát.
– Tôi cũng đã thuyết phục anh ấy hát cả buổi tối nay đấy – Miss O’Callaghan nói – Cả Mrs Conroy cũng thuyết phục, thế mà anh ấy nói với chúng tôi rằng anh ấy đang bị cảm nặng và không thể hát được.
– Ôi, ngài D’Arcy – dì Kate nói – giờ thì rõ ràng đó là một lời nói dối nhé.
– Các vị không thấy giọng tôi khản đặc như quạ kêu đó sao? – Mr D’Arcy nói một cách thô lỗ.
Anh ta đi nhanh vào phòng để áo và mặc áo choàng. Những người khác, sửng sốt trước câu nói lỗ mãng của anh ta, không tìm được điều gì để nói. Dì Kate nhíu mày lại ra hiệu cho những người khác không đả động gì về chuyện này nữa. Mr D’Arcy đứng quấn khăn kỹ càng vào cổ và cau mày.
– Tại thời tiết ấy mà – Dì Julia nói, sau một khoảng lặng.
– Phải, ai cũng bị cảm lạnh – dì Kate đáp liền – ai cũng bị.
– Họ nói – Mary Jane nói – ba mươi năm nay chúng ta mới có tuyết rơi dày thế này và sáng nay tôi đọc trên báo thấy viết khắp Ireland tuyết đang phủ đầy
– Tôi thi lại thích nhìn tuyết – dì Julia nói buồn bã.
– Tôi cũng vậy – Miss O’Callaghan nói – Tôi nghĩ Giáng sinh mà không có tuyết phủ đầy mặt đất thì còn gì là Giáng sinh nữa.
– Nhưng ngài D’Arcy đáng thương không thích tuyết đâu – dì Kate nói, mỉm cười.
Mr D’Arcy từ phòng để áo đi ra, quấn khăn cài áo kín mít, và với một giọng hối lỗi kể lại cho họ nghe ngọn nguồn cơn cảm lạnh của mình. Ai cũng đưa ra cho anh ta một lời khuyên và nói thật vô cùng đáng tiếc và hối anh ta phải giữ ấm cổ họng khi đi ra ngoài buổi tối. Gabriel nhìn vợ, cô không tham gia vào câu chuyện. Cô đang đứng ngay dưới vòm cửa sổ ám bụi và ánh lửa ga làm sáng lên sắc vàng đậm nơi mái tóc cô, mái tóc cách đây mấy ngày anh vừa thấy cô hong bên lò sưởi. Cô vẫn có dáng vẻ xa xăm lúc nãy và dường như không để ý đến câu chuyện đang diễn ra xung quanh. Cuối cùng cô quay lại phía họ và Gabriel nhìn thấy má cô ửng hồng và mặt cô sáng ngời. Một niềm vui sướng bỗng bừng lên trong tim anh.
– Mr D’Arcy – cô nói – bài hát anh vừa hát tên là gì vậy?
– Đấy là bài Cô gái làng Aughrim – Mr D’Arcy nói – Nhưng tôi không nhớ rõ lời lắm. Sao cơ? Chị biết nó à?
– Cô gái làng Aughrim – cô nhắc lại – Tôi không thể nhớ ra cái tên đó.
– Giai điệu hay lắm – Mary Jane nói – Tôi rất tiếc đêm nay giọng anh không được tốt.
– Nào, Mary Jane – dì Kate nói – đừng có làm phiền ngài D’Arcy nữa , dì không để ngài phải khó chịu đâu.
Khi thấy tất cả đã sẵn sàng đi bà bèn dẫn họ ra cửa, và ở đây họ chào tạm biệt nhau.
– Nào, tạm biệt dì Kate, và cảm ơn dì về buổi tối thật tuyệt vời.
– Tam biệt, Gabriel. Tạm biệt, Gretta!
– Tạm biệt dì Kate, và cảm ơn dì rất nhiều. Tạm biệt, dì Julia.
– Ôi, tạm biệt cháu, Gretta. Dì không nhìn thấy cháu.
– Tạm biệt, Mr D’Arcy, tạm biệt Miss O’Callaghan.
– Tạm biệt, Miss Morkan.
– Tạm biệt.
– Tạm biệt tất cả nhé, đi về cẩn thận.
– Tạm biệt. Tạm biệt.
Ngày vẫn chưa rạng. Một làn ánh sáng vàng mờ nhạt phủ lên những ngôi nhà và dòng sông, và bầu trời dường như đang trĩu xuống. Tuyết đã tan ra ẩm ướt dưới chân, chỉ còn những vệt những mảng bám trên mái nhà, trên bờ ke và trên hàng rào. Những ngọn đèn đường vẫn cháy đỏ le lói trong không khí âm u và, bên kia sông, Điện Tòa Án in bóng đầy đe dọa trên nền trời nặng nề.
Cô đang bước đi phía trước anh cùng Mr Bartell D’Arcy, đôi giày gói trong túi giấy màu nâu kẹp dưới một cánh tay và hai bàn tay cô nâng váy khỏi chạm lớp tuyết tan.cô không còn cái vẻ xa xôi lúc trước, nhưng mắt Gabriel giờ vẫn ngời lên hạnh phúc. Máu rần rật chảy trong huyết quản của anh và những suy nghĩ rối bời trong tâm trí anh, tự hào, vui sướng, dịu dàng, can đảm.
Cô đang bước đi phía trước anh nhẹ nhàng và xinh đẹp đến nỗi anh muốn saodc im lặng chạy theo cô, ôm lấy hai vai cô và thì thầm điều gì đo thật xuẩn ngốc và trìu mến vào tai cô. Anh thấy cô mong manh đến nỗi anh muốn được bảo vệ cô khỏi điều gì đó và rồi được ở một mình bên cô. Những giây phút trong cuộc sống riêng tư của họ bừng sáng lấp lánh trong tâm trí anh. Một phong thư màu hồng tím đang nằm bên cạnh bữa sáng của anh và anh đang lấy tay vuốt ve nó. Ngoài bụi thường xuân chim chóc đang ríu rít và tấm rèm đăng ten đầy ánh nắng đang lấp lánh in trên sàn nhà, anh không thể ăn nổi vì hạnh phúc. Họ đang đứng trên sân ga đông nghẹt người và anh đang ấn một tấm vé vào lòng bàn tay đi găng nóng ấm của cô. Anh đang đứng cùng cô trong giá lạnh, nhìn qua một khung cửa sổ mắt cáo một người đàn ông đang làm chai trên cái lò hừng hực lửa. Trời rất lạnh. Gương mặt cô, thoáng mùi thơm trong làn không khí lạnh, đang ở khá gần mặt anh, và đột nhiên anh gọi to người đàn ông bên lò lửa:
– Lò có nóng không, thưa ngài?
Nhưng người đàn ông không nghe thấy gì1 giữa tiếng ồn khu lò. Cũng chẳng sao. Nếu không có khi ông ta đã đáp lại thô lỗ.
Một niềm vui còn dịu dàng hơn nữa dâng trào tim anh và chạy ấm nóng trong huyết mạch. Như ngọn lửa bừng sáng dịu dàng, những giây phút cuộc sống bên nhau của họ, cuộc sống chưa ai từng biết được và cũng sẽ không bao giờ biết được, òa ra lóe sáng trí nhớ của anh. Anh muốn được gợi cho cô nhớ lại những giây phút đó, để làm cô quên đi những năm tháng tồn tại tẻ ngắt bên nhau và chỉ nhớ những giây phút vui sướng nhất của họ. Bởi anh cảm thấy năm tháng vẫn chưa thể làm nguội lạnh tâm hồn của anh hay của cô. Những đứa con của họ, công việc viết lách của anh, những lo lắng nội trợ của cô vẫn không thể dập tắt được ngọn lửa dịu dàng trong tâm hồn họ.trong một trong những lá thư anh viết cho cô hồi đó anh từng nói “Tại sao những từ ngữ như thế này đối với anh thật tẻ ngắt và lạnh lẽo? có phải bởi vì trên đời không có từ nào đủ dịu dàng để có thể trở thành tên em?”
Như tiếng nhạc văng vẳng những từ ngữ anh đã viết trước kia từ quá khứ lại hiện về trong anh. Anh muốn sao được ở một mình bên cô. Khi những người khác đã đi khỏi, khi anh và cô đã ở trong căn phòng của họ tại khách sạn, lúc đó chỉ có họ ở bên nhau. Anh sẽ gọi cô dịu dàng:
– Gretta!
Có thể lúc đó cô sẽ chưa nghe thấy, cô vẫn còn đang cởi mũ áo. Rồi một cái gì đó trong giọng nói của anh sẽ đánh thức cô. Cô sẽ quay lại và nhìn anh…
Tại góc phố Winelavern họ gặp một chiếc xe ngựa. Anh thấy mừng rỡ vì tiếng lọc cọc của nó cứu anh không phải trò chuyện. Cô đang nhìn ra ngoài cửa xe và trông có vẻ mệt. Những người khác nói vài câu, chỉ trỏ mấy tòa nhà hay đuờng phố bên ngoài. Con ngựa chạy mỏi mệt dưới bầu trời bình minh u ám, kéo lê saqu gót cái khôi hộp ọp ẹp cũ kỹ của nó, và Gabriel một lần nữa nhớ lại cảnh anh ở trong xe ngựa với cô, phi nước đại để bắt kịp tàu phi nước đại đến với tuần trăng mật của họ.
Khi xe đi qua cầu O’Connell, Miss O’Callagan nói:
– Họ nói không bao giờ đi qua cầu O’Connell Bridge mà không nhìn thấy một con ngựa trắng.
– Lần này thì tôi nhìn thấy một người trắng – Gabriel nói.
– Đâu vậy? – Mr Bartell D’Arcy hỏi.
Gabriel chỉ vào bức tượng, trên đó phủ đầy những mảng tuyết. Rồi anh ta gật đầu thân mật với nó và vẫy tay.
– Chúc ngủ ngon, Dan – anh nói, vui vẻ.
Khi chiếc xe ngừng lại trước khách sạn, Gabriel nhảy xuống, và mặc cho Mr Bartell D’Arcy phản đối, trả tiền người đánh xe. Anh tặng thêm cho anh ta một shilling. Người đàn ông ngả mũ chào cảm tạ và nói:
– Chúc ngài một năm mới thịnh vượng, thưa ngài.
– Tôi cũng chúc anh như vậy – Gabriel nói ấm áp.
Cô khẽ dựa vào cánh tay anh khi ra khỏi xe và khi đứng dưới vỉa hè chào tạm biệt những người khác. Cô dựa nhẹ vào cánh tay anh, nhẹ, như khi cô nhảy với anh cách đó vài giờ. Lúc đó anh đã cảm thấy thật tự hào và hạnh phúc, hạnh phúc bởi cô là của anh, tự hào vì sự thanh nhã và phong thái người vợ lịch lãm của cô . Nhưng giờ đây, sau khi bao nhiêu kỷ niệm vừa rực lên trong tâm trí, cái đụng chạm đầu tiên của thân thể cô, đầy giai điệu, lạ lùng, thơm ngát, làm cho người anh nóng bừng lên một niềm khao khát. Trong sự im lặng của cô anh kéo sát cánh tay cô vào người mình, và, khi họ đứng trước cửa khách sạn, anh cảm thấy như họ vừa trốn chạy khỏi cuộc sống và những trách nhiệm của họ, trốn chạy khỏi gia đình và bạn bè, cùng nhau chạy thoát với những trái tim bùng cháy hoang dại tới một cuộc phiêu lưu mới.
Một ông già đang gà gật trong chiếc ghế dựa lớn trong sảnh. Ông ta thắp một cây nến và dẫn họ đi lên cầu thang. Họ đi theo ông ta trong im lặng, bàn chân họ chạm thật êm lên lớp thảm dầy phủ bậc thang. Cô đi lên sau người gác cửa, đầu nghiêng nghiêng, hai bờ vai mỏng mảnh thu lại như thể dưới một gánh nặng, váy cô cuốn sát vào người. Nếu được anh đã dang hai cánh tay ra ôm lấy hông cô và ôm cô thật chặt, bởi hai tay anh đang run lên thèm khát được siết lấy cô và chỉ có cái bấu chặt móng tay vào lòng bàn tay mới khiến anh kìm lại được cơn thôi thúc hoang dại của cơ thể mình. Người gác cửa dừng lại trên cầu thang chỉnh lại ngọn nến ngả nghiêng của ông ta. Họ cũng dừng lại phía sau ông ta mấy bậc thang. Trong im lặng Gabriel có thể nghe thấy tiếng sáp nến tan chảy rơi xuống khay và tiếng thình thịch của trái tim của mình dội trong lồng ngực.
Người gác cửa dẫn họ dọc theo một hành lang và mở một cánh cửa. Rồi ông ta đặt cây nến nghiêng ngả của mình lên chiếc bàn phấn và hỏi họ sáng mai muốn được gọi dậy lúc mấy giờ.
– Tám giờ – Gabriel nói.
Người gác cửa chỉ vào công tắc chiếc đèn điện và lúng búng một lời xin lỗi, nhưng Gabriel đã cắt ngang ông ta.
– Chúng tôi không muốn đèn nến gì đâu. Đèn dưới phố hắt lên là đủ rồi. Và tôi có thể nói rằng – anh nói thêm, chỉ vào cây nến, – ông làm ơn mang cái vật đẹp đẽ này đi hộ được không, ông bạn.
Người gác cửa lại nhấc cây nến lên, nhưng thật chậm chạp, bởi ông ta đang sửng sốt trước một ý kiến kỳ quặc như thế. Rồi ông ta lúng búng lời chúc ngủ ngon và đi ra. Gabriel khóa cửa.
Ánh sáng nhợt nhạt từ ngọn đèn dưới đường chiếu thành một đường dài từ cửa sổ tới cửa ra vào. Gabriel ném áo khoác và mũ lên chiếc sofa và đi sang phía cửa sổ. Anh nhìn xuống đường mong những cảm xúc của mình dịu lại chút ít. Rồi anh quay lại và đứng dựa vào chiếc tủ thấp, lưng quay lại phía ánh sáng. Cô đã cởi bỏ mũ và áo choàng và đang đứng trước một chiếc gương xoay lớn, tháo dây buộc eo váy. Gabriel ngừng lại mấy giây, quan sát cô rồi nói:
– Gretta!
Cô chầm chậm từ gương quay ra và đi dọc theo đường ánh sáng tiến lại phía anh. Gương mặt cô trông nghiêm trang và mỏi mệt đến nỗi Gabriel không thốt nổi những gì muốn nói. Không, lúc này chưa phải lúc.
– Trông em mệt mỏi quá – anh nói.
– Em hơi mệt – cô nói.
– Em không thấy khó ở hay ốm đau gì đấy chứ?
– Không, em chỉ mệt thôi.
Cô đi về phía cửa sổ và đứng đó, nhìn ra ngoài. Gabriel tiếp tục chờ đợi nhưng rồi sợ rằng sự thiếu tự tin chuẩn bị chiếm lấy mình, anh đột ngột nói:
– À mà này, Gretta!
– Gì vậy anh?
– Em biết chuyện anh chàng tội nghiệp Malins không? – anh hỏi nhanh.
– Vâng. Anh ta làm sao cơ?
– Ừ, gã khốn khổ đó, dù sao anh ta cũng là người tử tế – Gabriel nói, nghe giọng mình thật xa lạ – Anh ta đã trả món tiền một bảng anh cho anh ta vay, mà anh thì đúng là không chờ đợi anh ta làm thế, thật đấy. Thật tiếc anh ta không tách nổi khỏi lão Browne, bởi thực ra anh ta đâu có phải là người xấu, thật vậy.
Giờ thì anh run lên vì bực dọc. Sao trông cô có vẻ lơ đãng vậy? anh không biết phải bắt đầu thế nào. Hay là cô cũng đang bực mình với chuyện gì? Giá như cô quay san anh hoặc đến với anh, thực sự là cô! Nếu ép cô bây giờ thì thật ác quá. Không, anh phải nhìn thấy chút lửa trong mắt cô trước đã. Anh chỉ muốn được chế ngự cái tâm trạng lạ kỳ này của cô.
– Anh cho anh ấy vay khi nào? – cô hỏi, sau một lúc im lặng.
Gabriel cố hết sức kìm nén để không bùng lên những lời lẽ ác độc về gã nghiện rượu Malins và món tiền một bảng của hắn . Anh chỉ muốn bùng cháy thổ lộ hết với cô, ghì nát thân thể cô vào thân thể anh, muốn chiếm lĩnh cô. Nhưng anh nói:
– À, hồi Giáng sinh. Khi anh ta mở cái cửa hiệu bán thiệp Giáng sinh đó, trên phố Henry.
Người anh hừng hực giận dữ và thèm khát đến nỗi anh không nghe thấy cô tiến lại từ cửa sổ. Cô đứng bên anh một thoáng, nhìn anh một cách kỳ lạ. Rồi, đột ngột rướn người lên, hai tay đặt nhẹ lên vai anh, cô hôn anh.
– Anh là một người rất rộng lượng, Gabriel – cô nói.
Gabriel, run lên vì nụ hôn bất ngờ của cô và vì vẻ lạ lùng trong câu nói của cô, đặt hai tay lên tóc cô và vuốt nhè nhẹ, ngón tay anh hầu như không chạm vào chúng. Lân gội đầu vừa rồi làm chúng mềm và sáng. Trái tim anh ngập tràn hạnh phúc. Đúng lúc anh đang mong ước thì cô đã đến bên anh, là cô thực sự. Có lẽ những ý nghĩ của cô cũng vừa hòa với những ý nghĩ của anh . Có lẽ cô cảm thấy được niềm khao khát mãnh liệt ở trong anh, và rồi tâm trạng khao khát cũng choán lấy cô. Giờ đây khi cô đã bị anh khuất phục dễ dàng như vậy, anh tự hỏi vì sao vừa rồi mình lại thiếu tự tin quá đỗi thế.
Anh đứng, hai tay ôm nhẹ lấy đầu cô. Rồi, nhẹ nhàng vòng một cánh tay choàng lên thân thể cô, và kéo cô sát lại mình, anh nói dịu dàng:
– Gretta, em yêu, em đang nghĩ gì vậy?
Cô không trả lời mà cũng không thực sự đáp lại cái choàng tay của anh. Anh lại dịu dàng:
– Nói cho anh biết đi, Gretta. Anh nghĩ anh biết có chuyện gì. Anh có biết không?
Cô không trả lời ngay. Rồi cô nói, òa khóc:
– Ôi em đang nghĩ đến cái bài hát ấy. Cô gái làng Aughrim.
Cô vùng khỏi anh và chạy đến giường , quăng hai tay qua thành giường, giấu mặt xuống. Gabriel đứng sững một giây, sửng sốt, rồi bước theo cô. Khi đi qua tấm gương lớn, anh bắt gặp hình ảnh mình, cả người, ngực áo phía trước rộng và vạm vỡ, khuôn mặt có một vẻ luôn làm anh khó hiểu mỗi lần nhìn vào gương, và đôi mắt kính gọng vàng lấp lánh. Anh dừng lại cách cô mấy bước và nói:
– Bài hát đó làm sao? Tại sao nó làm em phải khóc?
Cô ngẩng đầu lên khỏi hai cánh tay và lấy tay quệt lên mắt như một đứa trẻ. Một nét dịu dàng hơn là anh định xen vào trong giọng nói anh:
– Tại sao, Gretta? – anh hỏi.
– Em đang nghĩ đến một người cách đây lâu lắm rồi đã từng hát bài hát ấy.
– Và ai là cái người cách đây lâu lắm rồi ấy? – Gabriel hỏi, mỉm cười.
– Đó là một người em từng biết hồi sống cùng bà ở Galway – cô nói.
Nụ cười tan biến trên khuôn mặt Gabriel. Một cơn giận tối tăm bắt đầu dồn lại dưới đáy tâm trí anh và những ngọn lửa tối tăm thèm khát của anh bắt đầu cháy giận dữ trong huyết quản anh.
– Một người em đã từng yêu? – anh mỉa mai.
– Đó là một chàng trai em từng quen – cô trả lời – tên là Michael Furey. Cậu ấy thường hát bài hát đó. Cô gái làng Aughrim. Cậu ấy rất mong manh.
Gabriel lặng im. Anh không muốn cô nghĩ anh quan tâm thích thú đến cái chàng trai mong manh này.
– Em vẫn có thể mường tượng thật rõ cậu ấy – cô nói sau một lúc im lặng – Cậu ấy có đôi mắt mới kỳ lạ làm sao, một đôi mắt to, đen! Và cảm xúc trong đôi mắt ấy chứ – một cảm xúc đặc biệt!
– Và thế rồi, em yêu cậu ta? – Gabriel nói.
– Em thường đi dạo với cậu ấy, – cô nói – hồi em ở Galway.
Một ý nghĩ thoáng qua tâm trí Gabriel.
– Có lẽ đó là vì sao em lại muốn đi Galway với cái cô Ivors kia, phải không? – anh nói giọng lạnh lẽo.
Cô nhìn anh và ngạc nhiên hỏi:
– Để làm gì kia chứ?
Đôi mắt cô làm Gabriel thấy lúng túng. Anh nhún vai và nói:
– Làm sao anh biết được? để gặp lại cậu ta, có lẽ.
Cô rời mắt khỏi anh, nhìn theo vệt sáng ra phía cửa sổ, im lặng.
– Cậu ấy đã chết – cô ngập ngừng – Cậu ấy chết khi mới mười bảy tuổi. Chết trẻ như thế thật là một điều khủng khiếp, phải không?
– Cậu ta làm gì? – Gabriel hỏi, giọng vẫn mỉa mai.
– Cậu ấy làm trong nhà máy khí đốt – cô nói.
Gabriel cảm thấy nhục nhã bởi ý định mỉa mai của anh đã thất bại và bởi hình ảnh được gợi lên từ cõi chết này, hình ảnh một cậu bé làm trong nhà máy khí đốt. Trong lúc anh đang ngập tràn những kỷ niệm thầm kín bên nhau của họ, ngập tràn dịu dàng vui sướng khao khát, thì cô lại đang thầm so sánh anh với một người khác. Một nỗi hổ thẹn choán lấy anh. Anh thấy mình như một gã lố bịch, đóng vai một thằng hầu sai vặt cho các bà dì mình, một người đa cảm đầy thiện ý, đầy lo lắng, diễn thuyết cho những kẻ trưởng giả thô lậu và lý tưởng hóa những ham muốn nực cười của chính mình, một gã đần độn đáng thương anh vừa thoáng nhìn thấy trong gương. Theo bản năng anh quay lưng che ánh sáng sợ cô có thể nhìn thấy nỗi hổ thẹn đang nóng bừng trên trán anh.
Anh cố giữ cho giọng mình nghe như một câu hỏi lạnh lùng nhưng khi cất lên nó lại thật hèn mọn và tầm thường.
– Anh cho là em đã yêu cái cậu Michael Furey đó, Gretta ạ – anh nói.
– Hồi đó em đã rất thân với cậu ấy – cô nói.
Giọng cô lạc đi, buồn bã. Gabriel, cảm thấy sẽ thật vô ích nếu cứ cố dẫn dắt cô đi theo những gì anh định, bèn vuốt ve bàn tay cô và nói, cũng thật buồn bã:
– Và cậu ta bị làm sao mà chết trẻ thế, Gretta? Bệnh lao phổi chăng?
– Em nghĩ cậu ấy đã chết vì em – cô trả lời.
Một nỗi sợ hãi mơ hồ choán lấy Gabriel khi nghe thấy lời đáp ấy, như thể , đúng giờ khắc đó khi anh từng hy vọng sẽ chiến thắng, một thực thể vô hình và đầy hận thù lại đang tiến đến chống lại anh, tập trung hết sức lực chống lại anh trong cái thế giới mơ hồ của nó. Nhưng anh rùng mình rũ bỏ nó với một sự cố gắng lý trí và tiếp tục vuốt ve bàn tay cô. Anh không hỏi cô nữa, bởi anh cảm thấy cô sẽ vỡ òa ra mất. Bàn tay cô nóng và ấm, nó không đáp lại cái động chạm của anh, nhưng anh tiếp tục vuốt ve nó giống như anh đã từng vuốt ve lá thư đầu tiên cô gửi cho anh sáng mùa xuân đó.
– Hồi đó đang là mùa đông – cô nói – khoảng đầu đông và em đang chuẩn bị rời khỏi nhà bà lên học trường dòng trên này. Và lúc đó cậu ấy đang ốm ở Galway và không được đi ra ngoài, và người nhà cậu ấy ở Oughterard đã được viết thư thông báo tình hình. Cậu ấy bị suy nhược, họ nói thế, hoặc cái gì đó tương tự. Em đã không bao giờ biết được chính xác.
Cô ngừng lại một lát rồi thở dài.
– Anh chàng khốn khổ đó – cô nói – Cậu ấy thích em lắm và cậu ta là một chàng trai hiền lành. Bọn em thường đi chơi với nhau, đi dạo, anh biết đấy, Gabriel, như cách họ vẫn thường làm ở thôn quê ấy. Đáng lẽ ra cậu ấy đã chuẩn bị đi học hát, nếu không vì chuyện sức khỏe. Cậu ấy có một giọng hát rất hay. Michael Furey đáng thương.
– Và rồi sau đó? – Gabriel hỏi.
– Và rồi đến lúc em phải rời Galway lên đây theo học, lúc ấy sức khỏe cậu ấy càng ngày càng tồi tệ và em không được phép gặp cậu ấy nữa, thế là em viết cho cậu ấy một bức thư nói rằng em sắp lên Dublin và sẽ quay trở lại vào mùa hè, và chúc cậu ấy sớm khỏe lại.
Cô dừng lại một giây cố gắng giữ giọng bình thường, nói tiếp:
– Rồi vào cái đêm trước hôm em đi, em đang ở trong ngôi nhà của bà ở Nuns Island, xếp va đời, thì nghe thấy tiếng sỏi ném vào cửa sổ. Cửa sổ phủ đầy nước mưa đến nỗi em không nhìn thấy gì hết, thế là em chạy xuống gác và lẻn ra sau vườn và thấy anh chàng khốn khổ đứng ở cuối vườn, run lẩy bẩy.
– Thế em không bảo cậu ta quay về ư? – Gabriel hỏi.
– Em van xin cậu ấy hãy quay về nhà ngay lập tức và bảo cậu ấy rằng dầm mưa thế này thì cậu ấy sẽ chết mất. Nhưng cậu ấy nói cậu ấy không muốn sống nữa. Giờ em vẫn có thể nhìn thấy đôi mắt cậu ấy lúc đó! Cậu ấy đang đứng phía cuối tường chỗ có cái cây.
– Và cậu ta có về nhà không? – Gabriel hỏi.
– Có, cậu ấy quay về nhà. Và khi em mới nhập trường được một tuần thì cậu ấy chết và được chôn cất tại Oughterard, quê cậu ấy. Ôi, cái ngày em nghe tin, nghe tin cậu ấy đã chết!
Cô dừng lại, thổn thức và quá xúc động, cô nằm vật xuống áp mặt xuống giường, nức nở vùi đầu vào tấm chăn. Gabriel nắm tay cô thêm một lúc nữa, do dự, và rồi, thấy xấu hổ vì xen vào nỗi đau buồn của cô, buông nhẹ nó rồi lặng lẽ đến bên cửa sổ.
Cô nhanh chóng thiếp đi.
Gabriel đứng dựa lưng vào cửa sổ, ngắm nhìn mấy giây không còn bực bội nữa mái tóc rối bời và khuôn miệng hé mở của cô, lắng nghe hơi thở sâu của cô. Vậy là cô đã có câu chuyện lãng mạn đó trong cuộc đời mình: một người đàn ông chết vì cô. Giờ anh không còn thấy đau đớn nữa, khi nghĩ về cái vai trò khốn khổ, mà anh, người chồng của cô, đã có trong cuộc đời của cô. Anh ngắm cô trong lúc cô đang ngủ, như thể anh và cô chưa bao giờ từng sống với nhau như vợ chồng. Đôi mắt tò mò của anh dừng lại lâu trên gương mặt cô và trên tóc cô, và, khi anh nghĩ hồi đó cô phải trông thế nào, thời điểm sắc đẹp thì con gái chớm nở của cô, một niềm tiếc nuối kỳ lạ, thân thương len vào tâm hồn anh. Anh không muốn nói, dù là với chính mình, rằng khuôn mặt cô không còn vẻ xinh đẹp nữa, nhưng anh biết rằng nó đã không còn là gương mặt mà Michael Furey đã dám chết.
Có thể cô đã không kể hết cho anh nghe toàn bộ câu chuyện. Mắt anh nhìn sang cái ghế cô đã ném áo xống của mình lên. Một cái dây thắt eo váy lòng thòng xuống sàn. Một chiếc bốt đứng, phần ống trên gập xuống, cái kia đổ nghiêng sang một bên. Anh nghĩ về cơn bão cảm xúc chỉ mới một giờ trước đó của mình. Nó từ đâu đến vậy? từ bữa tối của các dì anh, từ bài diễn thuyết ngu xuẩn của anh, từ rượu khiêu vũ, từ màn chào tạm biệt vui vẻ ầm ĩ trong sảnh, từ cảm giác khoan khoái được đi bộ trên tuyết dọc theo con sông. Dì Julia khốn khổ! Dì ấy chg mấy chốc cũng sẽ trở thành một bóng hình cùng với bóng hình Patrick Morkan và con ngựa của ông. Anh đã thoáng bắt gặp vẻ mỏi mệt trên gương mặt dì khi dì hát Điểm trang vì cô dâu. Có lẽ, chẳng mấy chốc, anh sẽ lại ngồi trong chính phòng khách đó, mặc toàn màu đen, chiếc mũ lụa để trên gối. Rèm cửa sổ sẽ được kéo xuống và dì Kate sẽ ngồi bên cạnh anh, khóc lóc và hỉ mũi và kể lể cho anh nghe Julia đã qua đời ra sao. Anh sẽ nghĩ vội trong đầu vài lời lẽ có thể an ủi bà, và sẽ chỉ tìm thấy những lời què cụt và vô dụng. Phải, phải chuyện đó chẳng mấy chốc sẽ xảy ra.
Hơi lạnh trong căn phòng làm vai anh so lại. Anh cẩn thận luồn vào bên trong chăn và nằm xuống bên vợ. Người này tiếp nối người kia, họ rồi cũng sẽ trở thành những bóng hình. Thà can đảm sang thế giới bên kia trong hào quang sáng chói của một niềm đam mê nào đó, hơn là cứ mờ dần và lụi tàn một cách ảm đạm cùng tuổi tác. Anh nghĩ về chuyện cô, người đang nằm bên anh, đã giấu kín trong tim mình trong từng ấy năm trời hình ảnh đôi mắt của người yêu khi anh ta nói với cô rằng anh ta không muốn sống nữa.
Nước mắt dâng đầy trong mắt Gabriel. Chính bản thân anh cũng chưa bao giờ cảm thấy như thế đối với bất kỳ một phụ nữ nào, nhưng anh biết một tình cảm như vậy chắc chắn phải là tình yêu. Nước mắt tràn mi anh và trong bóng tối chập choạng anh tưởng tượng anh đang nhìn thấy hình dáng một chàng trai đứng dưới cái cây lướt thướt nước mưa. Gần đó là những hình bóng khác. Hồn anh đã đến gần cõi ấy, nơi ở của cơ man người chết. Anh ý thức được, nhưng không thể hiểu được, sự tồn tại chập chờn và lập lòe của họ. Chính bản thân anh cũng đang tan mờ dần vào một thế giới xám mịn, chính cái thế giới hiện hữu, nơi những người chết đó có một thời từng sống, giờ cũng đang tan ra và mòn đi.
Ánh sáng le lói chạm vào kính cửa sổ làm anh quay ra. Tuyết lại vừa rơi. Anh ngái ngủ nhìn những bông tuyết, lấp lánh và sẫm lại, rơi xiên xiên dưới ánh đèn đường. Đã đến lúc anh phải bắt đầu chuyến đi miền Tây của mình. Phải, báo nói đúng, tuyết đang rơi nhiều trên khắp Ireland. Tuyết đang rơi ở mọi nơi trên đồng bằng miền trung tối tăm, trên những ngọn đồi không cây cối, rơi nhè nhẹ trên đầm lầy Allen và, xa hơn phía miền Tây, nhẹ rơi trên những con sóng sông Shannon thẫm đen nổi loạn. Tuyết cũng đang rơi, trên từng vuông đất của cái nghĩa địa cô quạnh trên ngọn đồi nơi Michael Furey yên nghỉ. Tuyết bám dày trên những cây thánh giá và bia mộ, trên những chóp nhọn hình lưỡi giáo nơi cánh cổng, trên những bụ gai cằn cỗi. Hồn anh lắng dần khi anh lắng nghe tiếng tuyết rơi dịu nhẹ trên toàn vũ trụ, rơi dịu nhẹ, như sự rơi xuống cho kết thúc cuối cùng của họ, lên tất cả những người sống và người chết.
— —— —— —— ——-
1. Lily nói với giọng của người ít học, cô phát âm tên Conroy thành Con-er-roy
2. Những giai điệu Ireland – tên tập thơ của Thomas Moore
3. Tên đoàn hát rất nổi tiếng của Mỹ nửa đầu thế kỷ XIX của Edwin Pearce Chirsty (1815-1862), đưa ra các buổi diễn trong đó diễn viên da trắng bôi mặt hóa trang thành người da đen. Vào đầu thế kỷ XX bất cứ một buổi diễn nào có sự xuất hiện của diễn viên hóa trang mặt đen đều được gọi là một buổi Christy Minstrels (Gifford. Brown)
4. Bia màu vàng, vị ngọt
5. Mrs Cassidy và Mary Grimes: Gifford cho rằng có thể đây là hai nhân vật hư cấu trong các truyện cười của Ireland
6. Nguyên văn “I have a crow to pluck with you: – tôi có con quạ muốn nhỏ lông anh đây.
7. Tờ báo ra tại Dublin trong những năm 1851-1921, ủng hộ phe Bảo thủ Anh và chống lại tư tưởng giành độc lập của Ireland (Gifford)
8. Từ khinh miệt những người theo phái Dân chủ Irerland thời đó gọi những người Anh sống tại Ireland, người ireland gốc Anh, hoặc những người ủng hộ chính sách Hợp nhất Ireland với Anh
9. Gifford cho rằng thực ra Gabriel và Miss Ivors không học cùng nhau tại University College, bởi lúc đó trường chưa nhận sinh viên nữ. Miss Ivors chắc hẳn đã học tại một trường nhỏ có hợp tác với Royal University nên sinh viên được quyền thi lấy bằng của đại học Royal. Cuộc tranh cãi về University là vấn đề nổi cộm của xã hội Ireland cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XỬ về chuyện làm sao đáp ứng nhu cầu học đại học của người dân đa số là Công giáo, trong khi trường đại học chính của Ireland Trinity College (tức trường University College) lại theo tư tưởng Anh và những trường nhỏ khác là do chính phủ Anh lập nên
10. Gà tây, hoặc ngỗng, quay cả con là món ăn truyền thống dịp Giáng sinh và năm mới.
11. Theo thần thoại Hy Lạp, ba con gái của thần Zeus và Eurynome là Aglaia (Sáng chói), Euphrosyne (Vui tươi), và Thalia (Thanh xuân) là các nữ thần mang đến sự duyên dáng, trí tuệ, tình yêu, tài quảng giao…
12. Theo thần thoại Hy Lạp, chàng Paris là con trai vua xứ Troy, được yêu cầu phải tặng quả táo vàng của nữ thần Eris (thần Bất hòa) cho nữ thần đẹp nhất đỉnh Olympus, và chàng đã chọn Aphrodite (nữ thần Tình Yêu) mà không chọn nữ thần Hera (vợ thần Zeus) hay Athena (thần Trí tuệ). Sau đó chàng được tặng nàng Helen, người vợ đẹp nhất thế gian, nguyên do gây ra chiến tranh thành Troy
13. Giáo hoàng Pius TỚ (1835- 1914) với mục đích củng cố việc tế lễ, năm 1903 đã ra quy định về nhạc dùng trong các nghi lễ nhà thờ, trong đó cấm sự có mặt của phụ nữ trong dàn thánh ca
14. Mr Borwne theo đạo Tin Lành (Gifford)
15. Tạm biệt (tiếng Ireland)
16. Không xác định được nhân vật này, nhưng có lẽ đây là một trong những học sinh của Mary Jane bị điên, bởi nhân vật Mignon cũng bị điên một thời gian (Brown)
17. Nhân vật nữ chính
18. Enrico Caruso (1873-1921) người Ý, một trong những ca sĩ giọng nam cao vĩ đại nhất trong lịch sử opera
19. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là một cái tên hư cấu
20. Từ dùng trong Thần học để chỉ cái chết và sự phán xét
21. Hệ thống khí đốt được gắn sẵn theo nhà
22. Một đoạn trong bài hát dân gian Cô gái làng Aughrim. Aughrim là1 tên ngôi làng ở hạt Galway, cũng là nơi diễn ra trận Aughrim năm 1691, trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử Ireland. Cô gái làng Aughrim làbài tình ca buồn, kể lại kỷ niệm với một cô gái nay đã chết
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!