Những Bí Ẩn Của Sa Mạc - Chương 10
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
96


Những Bí Ẩn Của Sa Mạc


Chương 10



Cả CIA và SIS đều rất khẩn trương. Dù không lộ liễu, cuối tháng Mười đã xuất hiện rất nhiều nhân viên CIA tại Riyadh. Trước đó, sự có mặt của CIA đã gây bất hoà với cơ quan chỉ huy quân sự cách đó một dặm, trong những căn phòng hoạch định kế hoạch bên dưới Bộ Quốc phòng Xêut. Tâm trạng, ít nhất của các vị tướng không quân, là bằng mọi cách, thông qua việc sử dụng thành thạo ma trận lằng nhằng những trò kỹ thuật ở trong tầm kiểm soát của mình, tìm hiểu về phòng thủ và chuẩn bị của Iraq.

Và đó là một ma trận đáng ngạc nhiên. Ngoài những vệ tinh trên không cung cấp liên tục nguồn ảnh về mảnh đất của Saddam Hussein; ngoài Rạng Đông và U-2 làm cùng việc đó nhưng với khoảng cách gần hơn, còn có những bộ máy khác còn có mức độ phức tạp lớn hơn nhiều dành cho việc cung cấp những thông tin quan trọng.

Một mạng vệ tinh khác, ở tầng bình lưu, đi vòng quanh Trung Đông, có nhiệm vụ nghe ngóng người Iraq nói gì, và những vệ tinh đó bắt được từng lời một nói trong một đường dây mở. Nó có thể không bắt được những cuộc họp bàn kế hoạch được thực hiện trên độ cao 45.000 dặm của những cái dây siêu dẫn.

Với các máy bay, chỉ huy là Hệ thống Cảnh báo bay và Hệ thống Kiểm soát, được biết dưới cái tên AWACS. Đó là những chiếc Boeing 707, mang theo một chiếc rada vòm khổng lồ trên lưng. Quay những vòng chậm rãi trên bờ bắc của Vịnh, luôn chuyển động hai tư giờ mỗi ngày, AWACS có thể thông báo cho Riyadh trong vài giây mọi chuyển động không trung phía trên Iraq. Hiếm khi một máy bay Iraq có thể di chuyển hay đi làm nhiệm vụ bay lên mà Riyadh lại không biết được số hiệu, hình dáng, tốc độ, và độ cao của nó.

Chỗ dựa của AWACS là một Boeing 707 khác, E8-A, được biết dưới cái tên J-STAR, theo dõi các chuyển động trên mặt đất trong khi AWACS kiểm soát những chuyển động trên không trung. Với cái rađa Norden lớn của mình nó quét phía dưới và các bên, để có thể bao trùm khắp Iraq mà không cần xâm nhập không phận lraq, chiếc J-STAR có thể nghe thấy tiếng mọi mẩu kim loại bắt đầu chuyển động.

Sự phối hợp của những máy móc đó và nhiều điều kỳ diệu kỹ thuật khác mà Washington đã tiêu hàng tỷ và hàng tỷ đôla đã thuyết phục các vị tướng lĩnh rằng nếu có gì được nói ra, họ có thể nghe thấy, nếu có gì chuyển động, họ có thể nhìn thấy nó, và nếu họ biết rõ như vậy rồi, họ có thể tiêu diệt nó khi cần thiết.

Hơn nữa, họ có thể thấy được mọi thứ dù trời mưa hay sương mù, dù là đêm hay ngày. Không bao giờ kẻ thù có thể trốn dưới một cái hầm hay trong rừng rậm mà thoát được khỏi sự dò xét.

Những con mắt trên trời cao có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ đó. Các sĩ quan tình báo từ Langley rất đa nghi, và điều đó thấy rất rõ. Cánh dân sự hay nghi ngờ. Đối mặt với cái đó cánh quân sự trở nên điên tiết. Nó có một công việc khó nhọc để làm, nó tiếp tục làm, cần gì đến những cái khác.

Bên phía người Anh tình hình lại khác hẳn. Chiến dịch SIS trên sân khấu vùng Vịnh không hề giống với CIA, nhưng nó còn là một chiến dịch lớn hơn nhiều theo các tiêu chuẩn của Nhà Thế kỷ. và theo cung cách của Nhà Thế kỷ thì nó là khía cạnh thấp kém hơn và bí mật hơn.

Hơn thế nữa, người Anh đã được chỉ định chỉ huy tất cả các lực lượng Anh ở vùng Vịnh, và là người đứng bên cạnh tướng Schwarzkopf, một người lính không bình thường của hoàn cảnh bất thường.

Norman Schwarzkopf là một người đàn ông to lớn, quả quyết với năng lực quân sự to lớn và là một người lính rất có chất lính. Được biết đến dưới cái tên Norman Bão táp hay “Con Gấu”, tâm trạng ông có thể chuyển từ rất tốt bụng đến bùng nổ tức giận, luôn luôn thất thường, đức tính mà các nhân viên của ông có thể nhận ra khi vị tướng sắp đi thực địa. Đối tác người Anh của ông không thể nào khác hơn được thế.Thiếu tướng Sir Peterr de le Billière, người đã tới vào đầu tháng Mười để chỉ huy người Anh ở đây là một người gầy gò xương xẩu, cương nghị với thái độ thờ ơ với cách nói năng ngắc ngứ. Người Mỹ to lớn hướng ngoại và người Anh mảnh khảnh hướng nội làm thành một cặp thật cọc cạch, những người chỉ nhường bước bởi vì người này đã hiểu người kia quá rõ để nhận ra là chẳng việc gì phải đối đầu với nhau hết cả.

Ngài Peter, được các đội quân biết đến như là P.B, là người lính có nhiều huân chương nhất trong Quân đội Anh, một vấn đề mà ông không bao giờ nói đến dù trong bất kỳ trường hợp nào. Chỉ những ai đã theo ông trong nhiều chiến dịch mới đôi khi dám thì thầm sau những vại bia về sự lạnh lùng dưới làn đạn, đức tính đã làm “mọc lên” trên áo ông nhiều huân chương lấp lánh đến thế. Ông cũng từng là sĩ quan chỉ huy của SAS, một lính bộ binh, điều khiến ông có những hiểu biết hữu dụng nhất về vùng Vịnh, về tiếng Arập, và các chiến dịch giả trang.

Bởi vì vị chỉ huy người Anh đã làm việc trước đó với SIS, đội của Nhà Thế kỷ tìm thấy ở ông một cái tai quen thuộc hơn để nghe những lời của họ hơn là với nhóm CIA. SAS đã có một sự có mặt tốt ở sân khấu vùng Vịnh, nhất là trong trại kín của họ ở góc của một căn cứ quân sự lớn hơn nằm bên ngoài Riyadh. Với tư cách là chỉ huy cũ của những người đó, tướng P.B cho rằng những tài năng đáng chú ý của họ không thể nào để bị bỏ phí trong những công việc ngày ngày buồn chán mà bộ binh hoặc lính đánh dù phải làm. Những người đó là các chuyên gia trong việc xâm nhập sâu và bắt con tin.

Ngồi trong ngôi biệt thự ngoài Riyadh trong tuần cuối tháng Mười, đội CIA và SIS đang bàn luận về một chiến dịch rất có trong phạm vi hoạt động của SAS. Chiến dịch là tung chỉ huy địa phương của SAS, và ông ta đi làm việc hoạch định.

Cả buổi chiều của ngày thứ nhất của Mike Martin ở ngôi biệt thự được dành để giải thích về sự phát hiện của Liên quân Anh-Mỹ về điệp viên Jericho tại Baghdad. Họ nói với anh rằng anh vẫn có quyền từ chối và trở lại trung đoàn của mình. Anh suy nghĩ trong suốt buổi tối. Rồi anh nới với các sĩ quan thường trực của CIA-SIS:

– Tôi sẽ vào đó. Nhưng tôi có những điều kiện, và tôi muốn chúng được thực hiện.

Vấn đề chủ yếu, như tất cả đều biết là câu chuyện giả danh của anh. Đó không phải là một nhiệm vụ nhanh chóng vào rồi ra ngay, phụ thuộc vào tốc độ và sự tinh quái của mạng lưới phản gián. Cũng không phải anh tính đến chuyện hỗ trợ bên ngoài và bảo vệ như đã từng có ở Kuwait. Cũng không phải anh lang thang trong sa mạc bên ngoài Baghdad như một thổ dân bộ lạc Bedouin lang thang. Thời gian này Iraq đã trở thành một trại lính khổng lồ. Thậm chí các vùng đất có trên bản đồ dường như đã đổi khác và trở nên trống trơn, nơi các đội tuần tra đi suốt ngày. Tại Baghdad, quân đội và những đội AMAM có mặt ở khắp mọi nơi, Cảnh sát Quân sự tìm kiếm những kẻ đơn độc và AMAM thì tìm mọi người khả nghi.

Nỗi sợ hãi mà AMAM gây ra được mọi người trong ngôi biệt thự chia sẻ. Các báo cáo từ các doanh nhân và nhà báo, và từ các nhà ngoại giao Anh và Mỹ trước khi họ bị rút đi, mở rộng phân tích sự có mặt khắp nơi của cảnh sát mật, những người luôn khiến công dân Iraq sợ hãi và run rẩy.

Nếu Martin vào trong đó, anh có thể sẽ phải ở lại. Điều khiển một điệp viên như Jericho hẳn sẽ không hề dễ dàng với anh. Thứ nhất, người đàn ông phải sẵn sàng tìm dấu những hộp thư chết và được thông báo ông ta đã quay trở lại nhiệm vụ.

Các hộp thư có thể đã bị theo dõi. Jericho có thể đã bị bắt và bị buộc phải khai hết ra.

Hơn thế nữa, Martin cũng phải thiết lập một chỗ để sống, một căn cứ nơi anh có thể gửi và nhận các thông tin. Anh sẽ phải đi vòng vòng khắp thành phố, theo dõi các hòm thư nếu nguồn tin bên trong của Jericho được thu hẹp lại, mặc dù giờ đây nó có thể được dành cho những vấn đề khác nữa.

Cuối cùng, và tệ nhất trong mọi chuyện, có thể không có vỏ bọc ngoại giao nào hết, không hề có lá chắn bảo vệ để giúp anh thoát khỏi những cơn khủng khiếp rằng có thể bị bắt và bị xử lý Với một con người như thế, các phòng thẩm vấn của Abu Khatib có thể đã sẵn sàng.

– Anh – e hèm – đang nghĩ gì vậy? Paxman hỏi khi Martin đưa ra đề nghị của mình.

– Nếu tôi không thể trở thành một nhà ngoại giao, tôi muốn là một tuỳ viên cho một nhà ngoại giao.

– Không dễ dâu, anh bạn ạ. Các Đại sứ quán đều bị theo dõi.

– Tôi không nói là Đại sứ quán. Tôi nói nhà của nhà ngoại giao.

– Một dạng như tài xế? Barber hỏi.

– Không. Quá lộ liễu. Người lái xe phải luôn ngồi sau tay lái Anh ta lái xe chở nhà ngoại giao đi khắp nơi và trông giống như nhà ngoại giao.

– Thế gì?

– Trừ phi mọi việc thay đổi hoàn toàn, rất nhiều nhà ngoại giao cao cấp sống bên ngoài toà nhà Đại sứ quán, và nếu chức đủ cao, thì họ vẫn còn có một biệt thự có vườn với tường bao. Ngày xưa những ngôi nhà đó có một người làm vườn.

– Một người làm vườn? Berber hỏi lại. Nhưng đó là một công việc tay chân. Anh sẽ bị tóm cổ và bị đưa vào quân đội.

– Không đâu. Người làm vườn làm mọi việc ở ngay trong nhà. Anh ta chăm sóc vườn tược, đi mua bán trên xe đạp, mua cá ở chợ cá, hoa quả và rau. bánh và dầu rán. Anh ta sống trong một căn lều ở cuối vườn.

– Thế điểm mấu chốt là ở đâu, Mike? Paxman hỏi.

– Mấu chốt là ở chỗ, anh ta vô hình. Anh ta tầm thường đến vậy, không ai để ý đến anh ta cả. Nếu anh ta bị bắt, tấm thẻ căn cước của anh ta sẽ hợp lệ và anh ta sẽ cầm một lá thư đại sứ quán, bằng tiếng Arập, giải thích rằng anh ta làm việc cho nhà ngoại giao và được miễn quân dịch, và có quyền xin cho anh ta đi làm việc. Trừ khi anh ta làm việc gì sai trái, không thì chẳng người cảnh sát nào gây rắc rối với anh ta và lại còn không muốn làm chống lại đại sứ quán nữa chứ.

Hai nhân viên tình báo nghĩ ngợi.

– Có thể được đấy, Barber đồng ý. Tầm thường, vô hình. Anh nghĩ thế nào, Simon?

– Tốt. Paxman nói. nhà ngoại giao có thể làm được điều này.

– Chỉ là một phần thôi, Martin nói. ông ta có thể cần phải được nhận một lệnh đơn giản từ chính phủ của mình để nhận một người lạ vào làm việc. Anh ta nghi ngờ là chuyện riêng của anh ta. Anh ta sẽ giữ chặt mồm miệng nếu anh ta muốn giữ được công việc của mình và nghề ngỗng. Nghĩa là lời đề nghị phải đến từ cấp khá cao.

– Đại sứ quán Anh bị thôi rồi, Paxman nói. Người Iraq có thể làm mọi cách để làm hại người chúng ta.

– Chúng tôi cũng thế thôi. Barber nói. Anh có nghĩ đến ai không, Mike?

Khi Martin nói với họ: họ nhìn anh chằm chằm như không tin.

– Anh không nghiêm túc rồi. người Mỹ nói.

– Tôi nghiêm túc, Martin bình thản nói.

– Thế quái nào đấy, Martin, một lời yêu cầu như thế có thể toi mất, trời đất, ngài thủ tướng.

– Và tổng thống nữa. Harber nói.

– Nào, chúng ta giờ đây đã là cánh bạn bè rồi, tại sao không chứ? Ý tôi là, nếu sản phẩm của Jericho có thể cứu được tính mạng của Liên quân. thì một cú điện thoại chẳng lẽ lại là quá đáng ư?

Chíp Barber liếc nhìn đồng hồ. Giờ Washington sớm hơn bảy giờ so với ở vùng Vịnh. Langley có thể đang kết thúc bữa trưa của mình. London chỉ sớm hơn có hai giờ, nhưng các sĩ quan cấp cao có thể đã ngồi vào bàn làm việc rồi.

Barber chạy thẳng về Đại sứ quán Mỹ và gửi một bức tin khẩn bằng mật mã về phó giám đốc, Bill Stewart, người, khi đọc điều đó mang đến cho giám đốc, William Webster. Đến lượt ông này gọi điện sang Nhà Trắng và xin một cuộc gặp với tổng thống.

Simon Paxman gặp may. Cú phôn mã hoá của anh ta đã tóm được Steve Laing đang ngồi ở bàn ở Nhà Thế ký, và sau khi nghe, người chỉ huy các Chiến dịch Trung Đông gọi Chỉ huy ở nhà riêng.

Ngài Colin suy nghĩ và gọi một cú điện thoại đến thư ký Chính phủ, ngài Robin Butler.

Chỉ huy Cơ quan Tình báo mật, trong những trường hợp khẩn cấp, có thể yêu cầu và được chấp nhận một cuộc gặp cá nhân với thủ tướng, và Margaret Thatcher luôn dễ tính đối với những người điều hành các công vụ tình báo và các Lực lượng Đặc biệt. Bà đồng ý gặp Chỉ huy tại văn phòng riêng của mình tại số 10 phố Downing vào tám giờ sáng ngày hôm sau.

Bà, như vẫn luôn vậy, làm việc từ trước bình minh và đã dọn bàn trước khi Chỉ huy có mặt. Bà nghe lời đề nghị kỳ khôi với một cái nhăn trán khó hiểu, đòi giải thích nhiều lần, nghĩ ngợi, và sau đó, theo cách thông thường của bà, bà ghi nhớ ngay không chậm trễ.

– Tôi sẽ thoả thuận với tổng thống Bush ngay khi ông ấy muốn, và chúng ta sẽ xem có thể làm gì được. Thế cái, ùm, người đó – sẽ thực sự làm việc đó à?

– Đó là chủ đích của anh ta, thưa thủ tướng.

– Một trong số người của ông à, ngài Colin?

– Không, anh ta là thiếu tá của SAS.

Mắt bà sáng bừng.

– Một người đáng chú ý đấy.

– Tôi cũng tin vậy, thưa bà.

– Khi mọi chuyện xong, tôi cũng muốn gặp anh ta.

– Tôi chắc sẽ thu xếp được, thưa thủ tướng.

Khi Chỉ huy đã đi, nhân viên phố Downing thiết lập một cú điện thoại cho Nhà Trắng, ngay vào giữa đêm ở đó, và tạo một kết nối nóng vào tám giờ sáng ở Washington và một giờ chiều ở London. Bữa trưa của thủ tướng được lùi lại mười ba phút.

Tổng thống Bush, cũng giống người tiền nhiệm Ronald Reagan, luôn luôn thấy khó khăn trong việc từ chối thủ tướng Anh điều gì đó khi bà đã tấn công từ khắp mọi hướng.

– Tốt thôi, Margaret, tổng thống nói sau năm phút, tôi sẽ gọi điện.

– Anh ta có thể từ chối, bà Thatcher nhấn mạnh, và anh ta đã không làm thế. Dù sao đi nữa, chúng ta phải làm mọi chuyện để giúp anh ta.

– Đúng vậy, sẽ làm, tổng thống nói.

Hai vị lãnh đạo Chính phủ gọi điện trong một giờ cả hai, và câu trả lời từ người đàn ông bối rối ở đầu dây bên kia là đồng ý ông ta có thể gặp các đại diện của họ, gặp riêng, ngay khi họ tới

Tối đó Bill Stewart đi khỏi Washington, và Steve Laing bắt chuyến bay cuối cùng của ngày từ Heathrow.

Nếu Mike Martin có ý tưởng nào đó về sự nhanh chóng của hoạt động của yêu cầu của anh dã được bắt đầu, thì anh cũng không để lộ chút nào hết cả. Anh trải qua ngày 26 và 27 tháng Mười nghỉ ngơi, ăn uống, và ngủ. Nhưng anh ngừng cạo râu, để mặc chòm râu đen tiếp tục dài ra. Những công việc theo yêu cầu của anh đang được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau.

Chỉ huy Trạm SIS ở Tel Aviv đã đến thăm tướng Kobi Dror với một lời yêu cầu cuối cùng. Chỉ huy Mossad nhìn chằm chằm tò mò người đàn ông người Anh.

– Anh thực sự sẽ làm cái đó chứ? ông ta hỏi.

– Tôi chỉ biết là tôi được lệnh là nhờ ông, Kobi ạ.

– Quỷ thật. Các ông biết anh ta sẽ bị bắt, có biết không hả?

– Ông có thể làm không hả. Kobi?

– Tất nhiên chúng tôi có thể làm được điều đó.

– Hai mươi tư giờ nhé?

Kobi Dror lại vào vai Fidder in the Roof.

– Với anh, anh chàng dở hơi, tay phải của tôi đây này. Nhưng xem này, lạ lùng chưa, anh đề xuất cái gì thế này?

Ông đứng dậy và đi ra sau bàn của mình, vòng một tay quanh vai người đàn ông người Anh.

– Anh cũng biết đấy, chúng tôi đã phá bỏ mất phân nửa quy tắc của chúng tôi rồi đấy, và chúng tôi gặp may. Thường thì, chúng tôi không bao giờ có người của mình đến thăm một hòm thư chết. Nó có thể là một cái bẫy. Với chúng tôi, hòm thư luôn là một chiều: từ katsa đến điệp viên. Với Jericho, chúng tôi bỏ quy tắc đó đi. Moncada lấy sản phẩm theo cách đó bởi vì không còn có cách nào khác nữa cả. Và anh ta đã gặp may – gặp may trong hai năm liền. Nhưng anh ta có vỏ bọc ngoại giao. Giờ thì các anh lại muốn… điều đó.

Ông cầm lên một bức ảnh nhỏ của một người đàn ông khuôn mặt trông như người A-rập với tóc đem sậm và xoăn, bức ảnh người Anh mới nhận được từ Riyadh, mang nó đến (từ nơi đó không có đường dây thương mại nào giữa hai thủ đô) bởi chiếc máy bay phản lực HS-125 riêng của tướng de la Billière. Chiếc 125 đang đỗ ở sân bay quân sự Sde Dov, nơi những dấu hiệu sống động của nó dã được chụp ảnh lại rất nhiều.

Dror nhún vai.

– Thôi được. Sáng mai nhé. Hứa đấy.

Mossad có một số dịch vụ kỹ thuật tốt nhất trên thế giới Ngoài một máy điện toán trung tâm với dữ liệu khoảng hai triệu tên và số liệu, ngoài những dịch vụ tốt vào loại nhất trên thế giới, còn có tại căn cứ và dưới đất của đại bản doanh Mossad một loại những phòng nơi nhiệt độ được kiểm soát hết sức kỹ càng. Những phòng đó để chứa giấy tờ. Không phải chỉ là giấy tờ cũ – những giấy tờ rất đặc biệt. Những bản gốc của gần như mọi loại hộ chiếu trên thế giới nằm ở đây, cùng với vô vàn những giấy tờ căn cước khác, giấy phép lái xe, thẻ bảo hiểm xã hội, và đủ thứ linh tinh.

Rồi còn có những thẻ căn cước trống, để khống trên đó người viết có thể điền vào, sử dụng các bản gốc như là một hướng dẫn để tạo ra đồ giả với chất lượng tuyệt hảo. Các thẻ căn cước không chỉ có tính đặc biệt. Những giấy ngân hàng khó bắt chước có thể và được làm ra với số lượng lớn. dù là để giúp làm lụn bại đồng tiền một nước láng giềng thù địch, hay để cấp tiền cho các chiến dịch bí mật của Mossad. những cái mà cả thủ tướng lẫn Knesset đều không biết mà cũng không muốn biết.

CIA và SIS phải nhờ đến Mossad, đơn giản vì họ không thể làm nổi một tấm thẻ căn cước của một người lao động chân tay người Iraq 45 tuổi với một sự chắc chắn có thể qua được mọi kiểm soát trong nước Iraq.

Thật may mắn, Sayeret Matkal, một nhóm trinh sát qua biên giới bí mật đến nỗi tên nó không thể được in lên thậm chí ở Israel, đã làm một chuyến đi vào Iraq hai năm trước để cấy một oter Arập có quan hệ ở mức độ này ở đó. Trong khi đi lại ở Iraq, các điệp viên đã bắt chợt hai người đang làm việc trên đồng ruộng, xử lý họ, và lấy thẻ căn cước của họ.

Như đã hứa. những người của Dror làm việc thâu đêm và đến bình minh thì đã làm được một tấm thẻ căn cước Iraq, bẩn thỉu đến mức chấp nhận được và trông nhầu nát như đã dùng từ lâu lắm, với cái tên Mahmoud Al-Khouri. 45 tuổi, từ một ngôi làng ở trên những quả đồi phía bắc Baghdad. làm việc ở thủ đô với nghề tay chân.

Những người làm giả không biết Martin đã lấy tên của Al- Khouri, người từng kiểm tra tiếng Arập của anh trong một quán ăn Chelsea hồi đầu tháng Tám; họ cũng không thể biết rằng anh đã chọn ngôi làng từ đó người cha làm vườn của ông ta đã đến, ông già, trước đó rất lâu gần một cái cây ở Baghdad, đã nói cho đứa con người Anh của mình về nơi nó ra đời, về ngôi nhà thờ Hồi giáo và quán cà phê và những ruộng đồng trồng alfalfa và dưa hấu bao quanh. Và đó lại thêm một điểm nữa mà những người làm giả không hề hay biết.

Trong buổi sáng Kobi Dror đưa tấm thẻ căn cước cho người của SIS đóng ở Tel Aviv.

– Nó sẽ không làm hại anh ta đâu. Nhưng tôi nói nó, ông đập vào bức ảnh với một ngón tay béo trục, nó, cái tay Arập bất kham đó, sẽ phản bội các anh ngay lập tức hoặc sẽ bị bắt trong vòng một tuần.

Người của SIS chỉ có thể nhún vai. Thậm chí anh ta cũng không biết người đàn ông có trong bức ảnh giả hoàn toàn không phải là người Arập. Anh ta phải cần biết, thế là anh ta không được nói. Anh ta chỉ làm điều được ra lệnh – đưa chiếc thẻ lên máy bay HS-125, trên đó nó sẽ được chở quay về Riyadh.

Quần áo cũng đã chuẩn bị xong, chiếc dish-dash đơn giản của một người lao động Iraq, một cái keffiyeh cũ màu nâu, và đôi giày cổ lỗ to xù Một chiếc mũ lưỡi trai có vành, không thể biết anh làm gì, đã tạo ra một kiểu ăn mặc kỳ quái. Anh ta là một người Xêut đáng thương.

Bên ngoài thành phố Riyadh, một căn cứ quân sự bí mật, nơi tập hợp các loại xe cộ đặc biệt đang được chuẩn bị. Chúng được mang đến trên một chiếc Hercules của RAF từ căn cứ chính của SAS xa hơn về phía bán đảo Arập ở Oman và được thả xuống và trang bị lại cho một chuyến đi dài và gian khổ.

Điều cốt yếu của cuộc thoả thuận về hai chiếc Land-Rover loại lớn là không cần trang bị vũ khí nhưng tốc độ cao và đi được xa. Mỗi xe có thể chở được những vật dụng thông thường cho bốn nhân viên SAS, và một cái có thể mang một khách. Chiếc còn lại có thể mang một chiếc xe máy to đùng cũ rích, cũng có bình xăng đi được rất lâu. Quân đội Mỹ cũng đã cho mượn sức mạnh của mình theo yêu cầu, lần này dưới dạng hai chiếc trực thăng Chinook to phản lực. Chúng chỉ được biết là luôn phải túc trực.

Mikhail Sergeivitch Gorbachev đang ngồi như thường lệ ở cái bàn của văn phòng làm việc cá nhân của mình ở tầng thứ bảy và là cao nhất của toà nhà Trung ương Đảng ở Novaya Ploshad, cùng hai người thư ký, khi máy điện thoại nội bộ reo để báo sự đến của hai sứ giả từ London và Washington. Trong hai mươi tư giờ ông đã rối tinh lên bởi những yêu cầu của cả tổng thống Mỹ và thủ tướng Anh mà ông nhận được một đặc phái viên cá nhân từ mỗi phía. Không phải là một chính trị gia, không phải một nhà ngoại giao – chỉ là một người đưa tin. Trong cái ngày này và ở tuổi tác đó, ông tự hỏi, thông điệp như thế nào mà lại không thể nói qua các kênh ngoại giao thông thường Họ có thể sử dụng một đường dây nóng có độ an toàn tuyệt đối không thể xâm nhập được, mặc dù cần đến các phiên dịch và kỹ thuật viên.

Ông bối rối và tò mò, và vì tò mò là một trong những đặc tính nổi bật nhất của ông, ông nóng lòng được gỡ mối tơ rối. Mười phút sau, hai người khách đã vào đến trong văn phòng riêng của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đỏ và Chủ tịch nước Liên Xô. Đó là một căn phòng dài, hẹp với một dãy cửa sổ dọc theo hai bên, nhìn sang Quáng trường Đỏ. Không có cửa sổ sau lưng chủ tịch, người ngồi quay lưng vào tường ở cuối một cái bàn họp dài.

Ngược hẳn với phong cách u buồn, nặng nề được những người tiền nhiệm mình ưa thích, Andropov và Chernenko, Gorbachev trẻ tuổi thích cách bài trí sáng sủa, thoáng mát. Cái bàn riêng và bàn làm việc được làm từ gỗ sáng, dọc theo là những cái ghế êm ái. Các cửa sổ được bảo vệ bằng những bức rèm thanh nhã.

Khi hai người đi vào, ông vẫy tay bảo các thư ký đi ra. Ông nhổm lên khỏi bàn và đi ra đón.

– Xin chào, các quý ngài, ông nói bằng tiếng Nga. Trong số các ông có ai nói được bằng thứ tiếng của tôi không?

Một người, mà ông cho là người Anh, trả lời bằng tiếng Nga ngập ngừng. “Có lẽ phải cần phiên dịch, thưa ngài chủ tịch”.

– Vitali, Gorbachev gọi với vào một trong những thư ký đã đi ra, bảo Yevgeny đến ngay đây.

Trong khi còn chưa nói năng gì được, ông mỉm cười và hoa chân múa tay cho các vị khách bảo ngồi xuống. Phiên dịch riêng của ông đi vào trong vài giây và ngồi về cùng phía ,ở cái bàn của chủ tịch.

– Thưa ngài, tên tôi là William Stewart. Tôi là phó giám đốc của Cơ quan Tình báo Trung ương ở Washington, người Mỹ nói.

Miệng Gorbachev mím lại và lông mày co lại.

– Và, thưa ngài, tôi là Stephen Laing. giám đốc Chiến dịch, phân ban Trung Đông, của Tình báo Anh.

Sự bối rối của Gorbachev càng tăng lên. Gián điệp, chekisti – cái quỷ quái gì thế này?

– Mỗi cơ quan của chúng tôi. Stewart nói, đều yêu cầu với Chính phủ của mình để yêu cầu ông đón tiếp chúng tôi. Vấn đề là: thưa ngài, Trung Đông đang tiến đến một cuộc chiến tranh. Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Để có thể tránh được nó. chúng tôi cần biết được nội tình của chế độ Iraq. Những cái họ nói cho dân chúng và những cái họ bàn thảo trong bí mật, chúng tôi tin là khác nhau hoàn toàn.

– Thì có gì là mới mẻ cái chuyện đó đâu.

– Không hề mới, thưa ngài. Nhưng đó là một chế độ có tính bất ổn rất cao. Nếu chúng ta chỉ có thể biết được trong văn phòng của tổng thống Saddam Hussein thực sự nghĩ gì ngày hôm nay, chúng ta sẽ có thể có được kế hoạch tốt hơn để lập chiến lược để ngăn chặn cuộc chiến sắp xảy ra. Laing nói

– Dĩ nhiên là có các vị ngoại giao lo chuyện đó rồi, Gorbachev chỉ ra.

– Thường là như thế, đúng, thưa ngài chủ tịch. Nhưng có những giai đoạn mà ngoại giao quá mở, quá công cộng cho một kênh những suy nghĩ bên trong có thể mà mở ra được. Ông còn nhớ trường hợp Richard Sorge không?

Gorbachev gật đầu. Mọi người Nga đều biết đến Sorge. Chân dung ông xuất hiện trên những con tem bưu điện. ông là một người anh hùng sau khi chết cho Liên Xô.

– Thời gian đó, Laing tiếp tục. thông tin của Sorge về Nhật Bản có thể không tấn công Xibêri là cốt tử với đất nước của ngài. Nhưng nó không thể về với các ngài thông qua con đường đại sứ quán được.

– Vấn đề là, ngài chủ tịch, chúng tôi có lý do để tin tưởng trong Baghdad có tồn tại một nguồn tin, ở vị trí khá là cao, người đã được chuẩn bị để làm lộ cho chúng tôi những bàn luận tuyệt mật bên trong Saddam Hussein. Thông tin như thế có thể làm ra sự khác biệt giữa chiến tranh và một sự rút lui tự nguyện của người lraq khỏi Kuwait.

Mikhail Gorbachev gật đầu. Ông không phải là bạn của Saddam Hussein. Đã từng là một bạn hàng ngoan ngoãn của Liên Xô, Iraq đã dần ngày càng trở nên độc lập hơn, nhưng còn xơi vị lãnh đạo của nó mới chịu chống lại Liên Xô.

Hơn thế nữa. vị lãnh đạo Xô viết đã rất ý thức tốt rằng nếu ông muốn tiếp tục được các cải cách của mình, ông sẽ có thể phải cần tới những trợ giúp về tài chính và công nghiệp bên ngoài. Điều đó có nghĩa là sự hảo tâm của phương Tây. Chiến tranh lạnh đã kết thúc – đó là một thực tế. Đó là tại sao ông nhân danh Liên Xô cất lời lên án sự tấn công Kuwait của Iraq tại Hội đồng Bảo an.

– Thế thì, thưa các quý ngài, hãy liên lạc với nguồn tin đó đi: Gorbachev trả lời. Hãy cho chúng tôi thông tin rằng những thế lực đó có thể sử dụng để làm lợi cho tình thế đó, và chúng tôi sẽ rất lấy làm biết ơn. Liên Xô không hề muốn thấy một cuộc chiến tranh ở Trung Đông chút nào đâu.

– Chúng tôi cũng muốn thiết lập liên lạc chứ, thưa ngài, Stewart nói. Nhưng chúng tôi không thể. Nguồn tin từ chối tự bộc lộ mình, và chẳng ai biết được tại sao cả. Với ông ta, các mối nguy hiểm hẳn là phải rất lớn. Để liên lạc được, chúng tôi sẽ phải tránh con đường ngoại giao. Rõ rằng là chúng tôi phải chơi trò giả danh để kết nối được với anh ta.

– Thế các ông cần gì ở tôi nào?

Hai người phương Tây lấy hơi.

– Chúng tôi muốn tuồn một người vào Baghdad để làm việc như là cầu nối giữa nguồn tin và chúng tôi, Stewart nói.

– Một điệp viên?

– Phải. thưa ngài chủ tịch, một điệp viên. Vào trong Iraq.

Gorbachev nhìn chằm chằm vào ông ta.

– Các ông có một người như thế?

– Có thưa ngài. Nhưng anh ta phải có được khả năng sống ở đâu đó – trầm lặng, kín đáo, vô tội – trong khi anh ta lấy các thông tin và chuyển chúng cho chúng tôi. Chúng tôi yêu cầu rằng anh ta được phép vào đó như một người Iraq trong số các nhân viên của một thành viên của Đại sứ quán Liên Xô.

Gorbachev chống cầm lên các đầu ngón tay. Ông chẳng hề biết gì về những chiến dịch đội lốt thế này; KGB của ông đã làm nhiều rồi. Giờ đây ông đang được yêu cầu giúp những nhân vật cũ chính của KGB thoát tội, và cho mượn Đại sứ quán Liên Xô như một thứ ô dù của ai đó. Thật là lạ kỳ, ông bật cười phá lên.

– Nếu người của các ông bị bắt. thì Đại sứ quán của tôi sẽ bị liên luỵ mất.

– Không. thưa ngài. Đại sứ quán nước ngài sẽ luôn được coi là kẻ thù cũ của phương Tây. Saddam sẽ tin điều đó, Laing nói

Gorbachev nghĩ ngợi. Ông nhớ đến một thoả thuận của một tổng thống và một thủ tướng về vấn đề này. Rõ ràng là nó phải quan trọng lắm, và ông không có lựa chọn nào khác là coi những thiện chí của họ là cũng quan trọng như thế. Rốt cuộc ông gật đầu.

– Tốt thôi. Tôi sẽ báo tướng Vladimir Kryuchkov để hợp tác chặt chẽ với các ông.

Thời kỳ đó, Kryuchkov là chủ tịch KGB. Mười tháng sau, trong lúc Gorbachev đang vắng mặt đi Biển Đen, Kryuchkov, cùng với bộ trưởng Quốc phòng Dmitri Yazov và những người khác, sẽ gây ra một cuộc đảo chính chống lại chính chủ tịch của mình.

Hai người phương Tây nặng nhọc thở hắt ra.

– Với sự kính trọng cao nhất, thưa ngài chủ tịch, Laing hỏi. liệu chúng tôi có thể yêu cầu rằng bộ trưởng Ngoại giao của ngài và chỉ mình ông ấy được biết chuyện này không?

Eduard Shevardnadze đang là bộ trưởng Ngoại giao và là một người bạn tin cậy của Mikhail Gorbachev.

– Chỉ mình Shevardnadze thôi? Chủ tịch hỏi.

– Vâng. thưa ngài, nếu ông cho phép.

– Tốt thôi. Những sắp xếp sẽ được thực hiện chỉ thông qua bộ Ngoại giao.

Khi các sĩ quan tình báo phương Tây đã đi, Mikhail Gorbachev ngồi suy nghĩ hồi lâu. Họ đã muốn chỉ ông và Eduard được biết về chuyện này. Không phải là Kryuchkov. Liệu họ, ông tự hỏi, có biết điều gì đó mà chủ tịch nước Liên Xô không biết không?

Có mười một điệp viên của Mossad ở đó – hai đội năm và người giám sát, người mà Kobi Dror đã đích thân chỉ định, đưa ra khỏi công việc nhàm chán là giảng viên tuyển người ở một trường dạy nghề ở bên ngoài Herzlia.

Một trong số hai đội đến từ nhánh yarid, một bộ phận của Mossad liên quan đến an ninh chiến dịch và giám sát. Đội kia từ neviot, những người có chuyên môn là chui lủi, phá hoại và xâm nhập – nói tóm lại, là mọi thứ gắn liền với những đối tượng máy móc.

Tám trong số mười người là người Đức xịn, và người giám sát cũng nói tiếng Đức trôi chảy. Hai người còn lại là các kỹ thuật viên. Nhóm tiền trạm cho Kế hoạch Joshua xâm nhập vào Vienna hơn ba ngày nay, đến từ nhiều điểm khác nhau của châu Âu, mỗi người với một hộ chiếu và một câu chuyện giả trang hoàn hảo.

Joshua đã được đánh dấu ain efes, nghĩa là một công việc không thể hỏng, công việc mà, được phát lệnh từ chính bản thân ông chủ, có ý nghĩa ưu tiên đặc biệt.

Thường thì mỗi đội yarid và neviot có từ bảy đến chín người, nhưng bởi vì mục tiêu đã giảm xuống mức dân sự, trung tính, nghiệp dư, và để tránh không bị nghi ngờ, số lượng người đã được giảm xuống.

Chỉ huy trạm Riyadh của Mossad ở Vienna đã dành ba trong số những ngôi nhà an toàn của mình và ba bodlim để giữ chúng sạch sẽ, đẹp đẽ và được tiếp tế đủ vào mọi thời điểm. Một bodet, mà số nhiều là bodlim: thường là một người lsrael trẻ, hay là sinh viên. được tham gia vào với tư cách một người tập sự trong sự kiểm soát chặt chẽ của những người độ tuổi phụ huynh và có nền tảng. Công việc của anh ta là điều hành những người lang thang, tạo ra những tiếng vọng, và không hỏi han gì hết. Đổi lại anh ta được phép sống thoải mái trong một ngôi nhà an toàn của Mossad, một mối lợi rất lớn đối với một sinh viên thiếu thốn tiền bạc ở một thủ đô nước ngoài.

Khi những người “bắn súng” đến thăm vào ở, bodel phải đi chỗ khác nhưng có thể được giữ lại để làm việc dọn dẹp, giặt giũ, và mua sắm.

Mặc dù Vienna có thể không phải một thủ đô lớn, với thế giới điệp viên nó lại luôn rất quan trọng. Lý do quay trở lại năm 1945, khi Vienna. với tư cách là thủ đô thứ hai của Đế chế Thứ ba, bị quân Đồng minh chiến thắng chiếm giữ và bị chia thành bốn phần – Pháp. Anh, Mỹ và Nga. Không giống như Berlin, Vienna đã giành lại được quyền tự do của mình – ngay cả khi người Nga không chịu rút đi – nhưng cái giá là phải chấp nhận một sự trung lập hoàn toàn. Vienna cũng như toàn nước Áo. Với chiến tranh lạnh diễn ra ngầm trong thời cấm vận Berlin năm 1948. Vienna sớm trở thành một ổ tình báo. Khá là trung lập, với dường như không có mạng lưới phản gián của riêng mình, lại gần biên giới với Hungari và Czech, mở thẳng ra phương Tây nhưng lại dính với Đông Âu, Vienna là một căn cứ hoàn hảo đối với nhiều cơ quan tình báo thế giới.

Không lâu sau khi thành lập năm 1951. Mossad cũng nhìn thấy những lợi thế của Vienna và đưa vào đó một Chỉ huy Trạm với quyền hành còn to hơn cả vị đại sứ.

Quyết định càng được coi là đúng đắn vì thủ đô thanh lịch và lừng danh thế giới của Vương quốc Áo-Hung trước kia trở thành một trung tâm của hệ thống ngân hàng tuyệt mật, có trụ ở của ba tổ chức độc lập của Liên Hợp Quốc, và là điểm vào châu Âu được ưu tiên đối với những tên khủng bố.

Vì có chế độ trung lập, Áo từ lâu đã có phản gián và cơ chế an ninh trong nước rất đơn giản để mà xâm nhập đến nỗi các điệp viên Mossad đã biến thành những sĩ quan có định hướng tốt như là fertsalach, một từ không hẳn là kinh khủng có nghĩa là một fart.

Người giám sát chiến dịch do Kobi Dror lựa chọn là một katsa nghiêm khắc với nhiều năm kinh nghiệm với châu Âu, Berlin, Paris, và Brussels. Gideon Barzilai cũng đã phục vụ một thời gian trong một trong những đơn vị hành quyết kidon, đã theo dõi những tên khủng bố người Arập có trách nhiệm với vụ thảm sát các vận động viên điền kinh lsrael tại Thế vận hội Munich 1972.

May mà với sự nghiệp của chính mình, ông chưa từng dính vào một trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử Mossad, khi một đơn vị kidon bắn vào một người hầu bàn vô hại người Maroc tại Lillehammer, Na Uy, sau khi định vị nhầm người đàn ông là Al Hassan Salameh, bộ não đứng đằng sau vụ thảm sát.

Gideon “Gidi” Barzilai giờ đây là Ewald Strauss, đại diện cho một nhà sản xuất đồ nhà tắm ở Frankfurt. Không chỉ giấy tờ của ông hoàn toàn hợp lệ, mà lục tìm hồ sơ của ông chỉ có thể thấy những quyển quảng cáo nhỏ, sách đặt hàng, và thư từ của công ty.

Ngay cả một cú điện thoại đến văn phòng trung tâm của ông ở Frankfurt cũng có thế đã khẳng định câu chuyện giả danh của ông ta, đó là số điện thoại của một văn phòng ở Frankfurt do Mossad điều hành.

Giấy tờ của Gidi, cũng như của mười người trong nhóm của ông, là sản phẩm của một đơn vị khác của các dịch vụ hậu thuẫn toàn diện của Mossad. Trong cùng toà nhà hành dinh ở Tel Aviv do phòng làm giả đóng là một loạt những căn phòng được dành để chứa những chi tiết của một số lượng thực sự khổng lồ các công ty, thực cũng như ma. Các giấy tờ kế toán của công ty, mua bán, đăng ký. và trung tâm chính được giữ lưu trong sự đầy đủ đó để mà bất kỳ một katsa nào trong một chiến dịch tại nước ngoài có thể được trang bị với một điểm đặc biệt được hợp tác chặt chẽ không thể để xâm nhập.

Sau khi đã đến ở trong căn hộ của mình, Barzilai đã có một cuộc họp mở rộng với chỉ huy Trạm địa phương và bắt đầu sứ mệnh của mình với một nhiệm vụ khá là đơn giản: tìm ra mọi thứ có thể về một ngân hàng kín đáo và tuyệt đối truyền thống tên là Winkler Bank, ngay ở Franziskanerplatz.

Cùng cuối tuần đó, hai máy bay Chinook của Mỹ bay vào không trung từ một căn cứ quân sự bên ngoài Riyadh và theo hướng bắc để bay đến đường Tapline chạy dọc biên giới Xeut – Iraq.

Trong khoang của mỗi chiếc Chinook là một chiếc Land- Rover chuyên đi đường xa được bó cẩn thận, chỉ có những bộ phận cốt yếu nhất nhưng được trang bị những thùng dầu rất lớn. Có bốn người của SAS đi cùng mỗi xe, cũng ngồi cùng chỗ sau đội bay. Đích đến cuối cùng không phải ở đây, nhưng phía trên Tapline Road đã đợi sẵn hai máy bay tiếp nguyên liệu lớn, đến từ Dammam ở ven bờ vùng Vịnh.

Khi những chiếc Chinook khát nhiên liệu đỗ xuống đường, đội lái chở nhiên liệu đến làm việc cho đến khi những chiếc trực thăng lại tiếp tục bay được với đầy đủ nhiên liệu. Trong khi cất cánh, chúng hướng đến con đường theo hướng Jordan. giữ độ cao để tránh ra đa Iraq đặt dọc theo biên giới. Ngay trên thành phố Badanah của Xêut, trong khi tiếp cận điểm các đường biên giới của Arap Xêut, Iraq và Jordan gặp nhau, hai chiếc Chinook lại hạ cánh lần nữa. Lại có thêm hai chiếc xe tiếp nhiên liệu đợi để tiếp cho chúng, nhưng ở điểm này chúng đã dỡ hàng và các hành khách của mình.

Nếu đội bay Mỹ biết nơi những người Anh trầm tính sẽ đến, họ cũng sẽ không tỏ dấu hiệu gì, và nếu không như thế, họ cũng không hỏi. Những chiếc chở hàng hạ những chiếc xe chuyên chạy trên sa mạc xuống đường, bắt tay, và nói. “hey, chúc các cậu may mắn nhé”. Rồi họ nạp nhiên liệu và bay trở về con đường cũ. Những chiếc tiếp nhiên liệu bay theo họ.

Tám người SAS nhìn họ đi. rồi tiến về hướng khác, xa hơn về con đường hướng Jordan. 50 dặm về phía đông bắc của Badanah họ dừng lại và chờ đợi. Viên đại uý chỉ huy nhiệm vụ hai chiếc xe kiểm tra lại vị trí của họ. Thật không giống với những năm trước khi đại tá David Stirling ở sa mạc tây Libya, định vị theo mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Công nghệ năm 1990 cho phép làm điều đó dễ dàng và chính xác hơn trước nhiều.

Trong tay viên đại uý có một thiết bị kích thước bằng một quyển sách. Nó được gọi là Hệ thống Định vị Toàn cầu. hay SATNAV, hay Magellan. Mặc dù kích thước của nó, máy GPS có thể định vị cho người cầm nó tới một địa điểm không lớn hơn 10 yard ở mọi nơi trên bề mặt trái đất. Chiếc máy GPS cầm tay của viên đại uý được vặn cả theo lệnh-Q lẫn lệnh-P. Lệnh-P chính xác cho vị trí 10-10 yard, nhưng nó cần bốn trong số các vệ tinh Mỹ mang tên NAVSTAR ở trên chân trời ở cùng thời điểm. Lệnh-Q chỉ cần hai chiếc NAVSTAR ở trên nhưng chỉ chính xác với mức độ 100-100 yard.

Ngày hôm đó chỉ có hai chiếc vệ tinh đang bay qua, nhưng thế đã là đủ. Không ai lại không nhìn thấy người khác trong phạm vi 100 yard vuông bên ngoài sự trống trải của cát và cát, hàng dặm cách xa cả Badanah và biên giới Jordan.

Thoả mãn đã đến được điểm hẹn, viên đại úy tắt máy GPS và chui xuống chiếc lều nguỵ trang do người của anh ta dựng lên giữa hai chiếc xe để che cho chúng khỏi mặt trời. Nhiệt kế chỉ 130 độ F.

Một giờ sau đó, chiếc trực thăng Gazelle của Anh bay tới từ phía nam. Thiếu tá Mike Martin đã bay từ Riyadh trong một chiếc Hercules RAF vận chuyển đến thành phố Al Jawf của Xêut, vị trí gần nhất với biên giới. Chiếc Hercules đã mang chiếc Gazelle với máy móc gập lại của nó, phi công của nó: đội dưới đất. và những bình nhiên liệu lớn cần thiết để cung cấp cho chiếc Gazelle từ Al Jawf đến Tapline Road và quay trở về. Để tránh trường hợp có rada theo dõi của lraq tại nơi hoang vắng này, chiếc Gazelle baỵ là là trên sa mạc, nhưng viên phi công nhanh chóng nhìn thấy phát pháo sáng do viên đại uý SAS bắn lên khi anh ta nghe tiếng động cơ lại gần.

Chiếc Gazelle đỗ xuống đường cách 50 yard khỏi hai chiếc Land-Rover, và Martin bước xuống. Anh cầm một chiếc túi to trên vai và một cái gói ở tay trái, trong dó là những cái mà phi công chiếc Gazelle cứ thắc mắc liệu có phải anh ta sẽ đến gia nhập Không lực Hoàng gia – hay một nhánh nào đó của Hiệp hội Nông dân. Chiếc giỏ chứa hai con gà còn sống nguyên. Mặt khác, Martin ăn vận như tám người SAS đang đợi: giày đi sa mạc, những chiếc giày rộng với vành cứng, áo phông, máy, và chiếc áo chiến nguỵ trang trong sa mạc. Quanh cổ anh là một chiếc keffiyeh có thể gấp lên thành tấm lá chắn khuôn mặt anh khỏi cát bay, và trên đầu anh là một chiếc mũ len đan tròn có thêm một đôi dây to tướng.

Viên phi công tự hỏi tại sao người này không chết ngốt trong cái của nợ đó, nhưng đó là khi anh ta chưa được trải qua cái lạnh của sa mạc về đêm.

Những người của SAS mang từ đằng sau chiếc Gazelle những can nhựa đựng xăng với trọng tải tối đa có thể, và đổ đầy các bình nhiên liệu. Khi đã đổ đầy, viên phi công vẫy tay tạm biệt và cất cánh, đi về phía nam về Al Jawf, rồi về Riyadh, và một lần quay lại để làm dấu thánh cho những kẻ điên trên sa mạc.

Chỉ khi anh ta đã đi những người của SAS mới cảm thấy thoải mái. Mặc dù tám người với hai chiếc Land-Rover là người của đội D – những chuyên gia về xe cộ loại nhẹ – và Martin là một lính dù của Đội A, thì anh cũng biết hai người trong đó. Với những lời chào hỏi nhau, họ làm điều mà lính Anh làm khi có thời gian: họ uống một tách trà.

Viên đại uý đã chọn điểm vượt biên giới vào Iraq, một nơi rất hoang vắng. Địa điểm càng khắc nghiệt thì càng dễ xâm nhập, rủi ro rơi vào đúng một đội tuần tra lraq lại càng ít. Công việc của anh ta không phải là hạ gục lính lraq mà là trốn hoàn toàn khỏi sự kiểm soát.

Lý do thứ hai là điều anh phải làm nhiệm vụ càng gần càng tốt con đường cao tốc của lraq đi từ Baghdad về phía Tây ngang qua những bình nguyên bao la của sa mạc để đến biên giới với Jordan đi qua ở Ruweishid. Cái điểm canh đáng thương trong sa mạc này đã trở thành quá quen thuộc với những người xem vô tuyến sau cuộc tấn công đầu tiên vào Kuwait. Bởi vì nó là nơi của những dòng thác người tị nạn không may mắn – Philippin, Bengal, Palestíne. Và những người khác – được đến để đi qua sau khi đã cảm nhận được sự hỗn loạn mà vụ xâm chiếm gây ra.

Tại cái góc xa xôi ở Tây Bắc Arập Xêut đó, khoảng cách từ biên giới đến đường đi Baghdad là ngắn hơn cả. Viên đại úy biết rằng ở phía đông anh ta, từ Baghdad đi xuống biên giới Xêut, mặt đất nghiêng dần xuống sa mạc phẳng lỳ, êm như mặt bàn billard ở gần như mọi chỗ, cho phép có thể chạy nhanh từ biên giới đến con đường gần nhất đi đến Baghdad. Nhưng cũng có thể là nó bị các đội tuần tra của quân đội theo dõi. Ở đây trong những sa mạc của lraq, mặt đất nhấp nhô hơn, bị chia cắt bởi những đường nếp trở thành cơn lũ sau những trận mưa và vẫn còn phải rất thận trọng trong mùa khô nhưng có vẻ như là không có các đội tuần tra Iraq.

Điểm vượt biên giới được lựa chọn cách 50km về phía bắc nơi họ đang đứng, và trên đường biên giới không được đánh dấu một trăm km nữa để đến được dường Baghdad-Ruweishid. Nhưng viên đại uý đã quyết định cần đợi đêm xuống hoàn toàn, để dễ dàng cho nguỵ trang trong cả ngày hôm sau, và đêm tiếp đó, để có thể chuyển hàng của mình đến địa điểm trong khoảng cách đi bộ của con đường.

Họ đợi đến bốn giờ chiều. Mặt trời vẫn còn chiếu sáng, và hơi nóng như là trong lò. Vào sáu giờ bóng tối toả xuống, và nhiệt độ bắt đầu hạ – rất nhanh. Bảy giờ thì trời tối hoàn toàn, và sự lạnh lêo bắt đầu hoành hành. Mồ hôi đông cứng lại trên người họ, và họ rất cảm ơn những áo ấm mà viên phi công chiếc Gazelle đã ngầm chế nhạo.

Trên chiếc xe dẫn đường người chỉ lối ngồi bên cạnh lái xe và liên tục kiểm tra vị trí và lộ trình. Về đến căn cứ, anh ta và viên đại úy đã ngồi nhiều giờ dò theo những bức ảnh phóng to, độ phân giải lớn, được những chiếc U-2 Mỹ thân tín cung cấp tại căn cứ Taif của họ, cái tạo nên một bức tranh hơn là một bản đồ.

Họ lái xe không bật đèn, mà chỉ với một cái đèn pin của người dẫn đường giữ lối cho chuyến đi gian nan của họ, sửa lại mỗi lần có chỗ sai khi họ đi quá nhiều khi về phía đông hoặc phía tây.

Mỗi giờ, họ dừng lại để chắc chắn vị trị bằng chiếc máy Magellan. Người dẫn đường đã phóng to kích thước những bức ảnh của mình theo từng phút và giây kinh độ và vĩ độ, để những con số đo màn hình số của chiếc Magellan cung cấp cho họ biết chính xác họ đang ở đâu trên những bức ảnh.

Tiến trình rất chậm bởi vì ở mỗi chỗ quanh một trong số những người phải chạy lên trước và nhìn ngó cẩn thận để đảm bảo không có sự bất ngờ khó chịu nào ở bên kia đường.

Một giờ trước khi bình minh lên, họ tìm thấy một wadi rộng rãi, lái vào đó, và phủ vải bạt lên trên. Một trong số những người rút đến một điểm cao gần đó để theo dõi xuống doanh trại và chỉnh lại cho đến khi anh ta hài lòng về chỗ dừng có thể không bị nhìn thấy từ bên ngoài wadi.

Trong ngày họ ăn, uống và ngủ, luôn có hai người gác trong trường hợp một bác chăn cừu hay một lữ khách lang thang nào đó xuất hiện. Nhiều lần họ nghe tiếng máy bay Iraq ngay trên đầu, và một lần một đàn dê đã đi ngang rất gần cái đồi Nhưng những con dê, có vẻ như không có người chăn đi cùng, đi lang thang sang hướng khác. Sau khi mặt trời lặn họ lại lên đường.

Có một thị trấn Iraq nhỏ tên là Ar-Rutba nằm cạnh đường quốc lộ, và ngay trước bốn giờ sáng họ đã nhìn thấy ánh đèn của nó từ khoảng cách khá xa. Chiếc Magellan khẳng định họ đã ở nơi họ muốn đến, ngay ở phía nam của thị trấn, cách con đường khoảng 5 dặm.

Bốn người đi dò đường xung quanh cho đến khi tìm được một wadi với một cái nền mềm mại, có cát. Ở đó họ đào hố, im lặng, sử dụng những dụng cụ nhẹ để ở trong hai chiếc Land- Rover. Họ chôn chiếc xe máy đi đường trường với những chiếc lốp dự trữ, và những bình nhiên liệu đủ có thể ra đến biên giới, dùng đến khi cần. Mọi thứ đều được bọc trong những túi polyetylen chắc chắn để bảo vệ chống lại cát và nước, chống lại nước mưa sẽ đến.

Để bảo vệ nơi cất giấu khỏi bị cuốn đi mất, họ dựng một đống đá lên trên để tránh nước xói mòn. Người dẫn đường bò lên đồi phía trên wadi và định vị chính xác từ điểm đến đài điện đàm ở phía trên Ar-Rutba, mà ánh đèn đỏ báo hiệu có thể nhìn thấy từ xa.

Trong khi họ làm việc, Mike Martin cũng mở túi của mình và lấy ra chiếc áo dài, khăn đội đầu, và dép xăng đan của Mahmoud Al-Khouri, người nông dân Iraq và là người làm vườn. Với một cái túi quần áo chứa bánh mỳ, dầu ăn, xúc xích, và dầu ôliu cho bữa sáng, một ví tiền rách tươm với thẻ căn cước và những bức ảnh của cha mẹ già của Mahmoud, và một cái vỏ lon cũ với vài đồng xu, anh đã sẵn sàng để lên đường. Những chiếc Land- Rover cần một giờ để đi khuất khỏi nơi này trước khi trời sáng.

– Chân cứng đá mềm nhé, viên đại uý nói.

– Đi săn may mắn, ông chủ, người dẫn đường nói.

– Chí ít thì cậu cũng sẽ có một quả trứng tươi cho bữa sáng, một người khác nói, và có một tràng cười bụm miệng vang lên. Mike Martin vẫy một tay chào và bắt đầu đi qua sa mạc để đến đường cái. Mấy phút sau, hai chiếc Land-Rover lên đường, và wadi lại trở lại trống trơn.

Trưởng trạm Vienna có trong sổ của mình một sayan làm trong ngành ngân hàng, một giám đốc cao cấp trong một ngân hàng hàng đầu của nước này. Người này được yêu cầu chuẩn bị một bản báo cáo, càng đầy đủ càng tốt về Ngân hàng Winkler.

Người sayan chỉ có thể cho biết một số công ty lsrael đã có quan hệ với Winkler và muốn được đảm bảo về sự vững chắc, về tiền sử, và các nghiệp vụ ngân hàng của nó. Anh ta được cho biết thời gian gần đây ngân hàng này dính vào một số hoạt động buôn lậu cần được điều tra. Người sayan chấp nhận lý do cho lời yêu cầu và anh ta làm với tất cả khả năng của mình, anh ta khám phá ra ngay là Winkler được vận hành theo những cách thức khá là bí ẩn.

Ngân hàng được thành lập gần một trăm năm trước đây bởi cha của người chủ và chủ tịch duy nhất hiện thời. Ngài Winkler năm 1990 đã 91 tuổi và trong giới ngân hàng Vienna được gọi là der Alte. nghĩa là “bố già “. Mặc dù tuổi tác, ông ta vẫn từ chối lui về nghỉ chức chủ tịch hay tự mình quản lý nguồn lợi. Goá vợ và không con cái, không có người thừa kế, cho nên sau đó tất cả đều do ý muốn của ông.

Tuy nhiên, việc điều hành ngân hàng có thêm ba phó chủ tịch. Những cuộc gặp với Bố già Winkler được thực hiện một tháng một lần tại nhà riêng của ông, trong đó vấn đề chủ yếu nhất có vẻ là để thuyết phục những tiêu chuẩn cổ lỗ của ông vẫn còn đang được giữ lại.

Những quyết định cuối cùng đều qua tay các phó chủ tịch, Kessler, Gemuetlich và Blei. Đó không phải là một ngân hàng bù trừ, dĩ nhiên, không có cổ đông giữ tài khoản hiện thời, và không phát hành sổ séc. Công việc của nó là nhận tiền gửi từ quỹ của các khách hàng, và có thể được đem đi đầu tư rất chắc chắn, những đầu tư an toàn, chủ yếu là trên thị trường châu Âu.

Nếu lãi suất từ những đầu tư đó không bao giờ được đưa vào trong số mười hãng thành công nhất, thì cũng chẳng vấn đề gì hết cả. Các khách hàng của Winkler không trông chờ mức độ tăng trưởng hoặc thu nhập tăng chóng mặt. Họ tìm kiếm sự an toàn và sự vô danh tuyệt đối. Ngân hàng Winkler đám bảo cho họ điều đó, và ngân hàng hoạt động được.

Những tiêu chuẩn trên đó Bố Già Winkler đầu tư là nhấn mạnh vào sự kín đáo tuyệt đối như là danh tính của những người chủ sở hữu những tài sản được đánh số của họ, đi kèm với một sự tránh né hoàn toàn cái mà Bố Già đặt tên là “sự vô nghĩa mới mẻ”.

Chính sự thù ghét thiết bị hiện đại một cách mù quáng đã khiến ngân hàng không dùng máy vi tính để chứa những thông tin nhạy cảm hay quản lý tài khoản, không dùng máy fax. Và nơi nào có thể, cả máy điện thoại. Ngân hàng Winkler có thể chấp nhận những lời chỉ dẫn và thông tin qua điện thoại, nhưng nó có vẻ không bao giờ tin tưởng vào đường dây điện thoại. Nơi nào có thể, Ngân hàng Winkler thích sử dụng những lá thư viết tay cổ lỗ sĩ trên đó có in tên công ty, hay những cuộc gặp cá nhân tại chính công ty.

Tại Vienna người đưa tin của ngân hàng có thể chuyển mọi lá thư và lời thông báo trong những phong bì có đóng dấu sáp ong, và chỉ khi phải gửi thư đi tỉnh ngoài hay nước khác ngân hàng mới tin tưởng vào hệ thống bưu điện công cộng. Với các tài khoản có đánh số do các khách hàng ngoại quốc sở hữu – viên sayan được hỏi rất kỹ về điều này – không ai biết chẳng hạn có bao nhiêu cái, nhưng lời đồn đại về hàng trăm triệu đôla. Rõ ràng, nếu quả thực là như thế, và cử cho rằng một phần trăm trong số các khách hàng bí mật bỗng khi nào đó bị chết đột ngột không nói gì về chuyện vận hành tài khoản, thì Ngân hàng Winkler có thể là rất sung sướng, biết ơn người đó.

Gidi Barzilai đọc rất lâu bản báo cáo. Bố Già Winkler có thể chẳng biết gì về những kỹ thuật mới nhất về nghe trộm điện thoại và xâm nhập máy tính, nhưng những bản năng thính nhạy của ông ta thì quả là đáng gờm.

Trong những năm của xây dựng công nghệ vũ khí lraq, mỗi một cuộc mua bán từ Đức đều được thanh toán thông qua một trong ba ngân hàng Thụy Sĩ. Mossad biết rằng CIA đã xâm nhập vào các máy tính của cả ba ngân hàng đó – đặc biệt trong công cuộc tìm kiếm rửa tiền buôn ma tuý – và chính nhờ những thông tin nội bộ đó Washington đã thu thập được tài liệu về những phản kháng trong chính phủ Đức về xuất khẩu. Đó là một lỗi lầm hiếm hoi của CIA khi thủ tướng Đức Helmut Kohl bỗng dưng dở chứng loại bỏ tất cả những ai phản đối; thông tin đã hoàn toàn chính xác.

Nếu Gidi Barzilai nghĩ ông có thể xâm nhập vào máy tính trung tâm của Ngân hàng Winkler. thì ông đã nhầm, làm gì có. Còn lại việc xâm nhập phòng, chặn thư, và nghe trộm điện thoại. Không cách nào trong số đó có thể giải quyết được vấn đề của ông.

Nhiều tài khoản ngân hàng cần có một Losungswort, một mật khẩu được mã hoá, để điều hành chúng, để có thể rút tiền và chuyển khoản. Nhưng những người có tài khoản có thể chỉ sử dụng một mật khẩu để định danh chính mình trong một cuộc gọi điện thoại hay trong một bản fax, cũng như trong một bức thư. Ngân hàng Winkler dường như mã hoá cao độ các khách hàng của mình, một người khách nước ngoài chẳng hạn như Jericho có thể có cả một hệ thống quản lý phức tạp khó xâm nhập; ở đây sử dụng cả vẻ ngoài mang tính hình thức cao với sự cá nhân hoá cao độ, một mẫu chuyển tiền đặc biệt và những mật khẩu mã hoá cùng những thứ biểu tượng phải xuất hiện ở những chỗ đã định. Rõ ràng là, Ngân hàng Winlker có thể chấp nhận sự gửi tiền từ bất kỳ ai, vào bất kỳ lúc nào và ở bất kỳ đâu. Mossad biết vậy bởi vì cơ quan này đã trả đồng tiền xương máu của mình cho Jericho đến Winkler qua một số tài khoản duy nhất.

Thuyết phục Ngân hàng Winkler thực hiện một vụ chuyển khoản ra ngoài có thể là cả một công việc khác. Bằng cách nào đó. Ở bên trong cái áo khoác nơi ông ta trải qua phần lớn cuộc đời mình để nghe nhạc nhà thờ. Bố Già Winker đã loại được công nghệ nghe trộm thông tin bất hợp pháp có thể làm lộ ra những kỹ thuật chuyển thông tin thông thường. Mẹ kiếp thằng già khôn ngoan.

Chỉ một điều khác mà sayan có thể nói chắc là những tài khoản đánh số với giá trị cao đó chắc chắn là được điều hành cá nhân bởi một trong ba phó chủ tịch và chỉ mình ông ta thôi. Bố Già đã chọn các thuộc cấp của mình thật cao tay: Tiếng tăm của cả ba đều cho thấy họ không có óc hài hước, nghiêm nghị, và được trả lương cao. Nói tóm lại, không thể nào xâm nhập được.

lsrael, người sayan thêm vào. chẳng nên để ý đến Ngân hàng Winkler làm gì hết. Anh ta, dĩ nhiên, đã không nắm bắt được vấn đề Gidi Barzilai, vào tuần đầu tiên của tháng Mười một, đã vô cùng chán ngán Ngân hàng Winkler.

Đó là chuyến xe buýt một giờ sau khi bình minh lên, và nó chậm lại để đón một hành khách đang ngồi trên một tảng đá bên đường cách Ar-Rutba ba dặm khi ông ta đứng lên và vẫy tay. Ông ta cầm hai tờ giấy bạc dinar, tìm một chỗ ngồi ở đằng sau, đung đưa cái giỏ trong lòng, và ngủ thiếp di.

Có một đội tuần tra của cảnh sát ở trung tâm thị trấn, nơi chiếc xe buýt dừng lại một chút trong cơn giật đùng đùng của nó và một số hành khách xuống để đi làm hay đi chợ, trong khi những người khác đi lên. Nhưng trong khi cảnh sát kiểm tra thẻ căn cước của những người đi lên, thì họ chỉ liếc mắt nhìn qua những cửa sổ bẩn thỉu vào số những người ít ỏi còn lại và chẳng buồn để mắt đến người nông dân mang theo mấy con gà ở cuối xe. Họ đang tìm kiếm những kẻ xâm nhập, những kẻ khả nghi.

Một giờ sau, chiếc xe buýt quành sang hướng đông, lắc lư và lảo đảo, đôi khi lại rùng lên khi một đội xe lính phía sau vượt lên, dáng vẻ buồn bã ở đằng sau, nhìn chằm chằm vào những đám mây xám đang nổi lên trên bầu trời.

Mắt nhắm nghiền, Mike Martin lắng nghe lời bàn tán xung quanh, bắt lấy một từ khung quen thuộc hay một chút sắc thái âm điệu mà anh có thể đã quên. Tiếng Arập của những người Iraq này khá là khác so với ở Kuwait. Nếu anh đóng vai một fellagha thất học và vô hại ở Baghdad, thì những âm sắc và câu nói nhà quê lên tỉnh này có thể là rất hữu dụng, ít thứ mà một cảnh sát thành phố có thể phát hiện nhanh hơn là một âm sắc quê mùa.

Những con gà trong lồng của anh đang có một chuyến đi thật khó khăn, ngay cả khi anh đã cho chúng ăn ngô trong túi và rót nước từ bình của mình cho nó uống, khi ở trong một chiếc Land-Rover dưới những tấm lưới trong sa mạc phía sau lưng anh.

Có lẽ cần có con mắt tinh tường để quan sát rằng cái đáy của cái lồng là đáy kép, tạo ra khoảng trống cao bốn inch. Trong khoảng không gian đó có một số những thứ mà cảnh sát ở Ai- Rutba có thể sẽ thấy rối trí nhưng rất thú vị. Một là một cái dĩa vệ tinh được gấp lại, giống như một cái ô nhỏ. Một cái khác là một máy nhận, còn mạnh hơn cái Martin từng sử dụng ở Kuwait. Baghdad sẽ không cho phép nhận sóng dễ dàng như khi đi lang thang trong sa mạc. Những cuộc chuyển tin dài có thể không được, nhưng đã có thiết bị ghi, có một pin xạc, nhét trong một cái hốc của khoang. Đó là một máy ghi âm, nhưng là loại khá đặc biệt.

Công nghệ mới thật mênh mông, rối tinh, và khó khăn để mà sử dụng. Khi nó phát triển, hai điều xảy ra. Những chi tiết bên trong ngày càng trở nên phức tạp hơn, nhưng lại nhỏ hơn. và cách vận hành trở nên dễ dàng hơn.

Những máy radio được mang vào Pháp bởi những điệp viên cho Lực lượng Chiến dịch Đặc biệt của Anh trong Thế chiến hai là một cơn ác mộng bởi các tiêu chuẩn hiện đại. Cần đến một cái va li để đựng, nó cần một ăng ten bắt sóng dài hàng yard, những chiếc van cồng kềnh với kích thước của những bóng đèn trên tường, và chỉ có thể chuyển thông tin trên một chiếc máy Morse. Người sử dụng phải gõ rất lâu, trong khi các đội tuần tra của Đức có thể khoanh vùng theo nguồn phát của nó và xiết chặt vòng vây.

Chiếc máy ghi âm của Martin rất đơn giản để sử dụng nhưng cũng có những khía cạnh khá hữu dụng ở bên trong. Một thông tin 10 phút có thể được đọc chậm và rõ ràng từng âm tiết một. Trước khi nó được thu lại, một con chíp bán dẫn mã hoá nó lại, nên dù có nghe trộm được, người Iraq cũng không sao giải mã được. Khi bấm nút, máy sẽ tua trở lại. Một nút khác có thể cho phép ghi lại, nhưng với tốc độ nhanh gấp hai trăm lần, rút thông tin lại thành một đoạn có ba giây có thể không sao dò ra được.

Đó chính là cách máy có thể chuyển tin khi nối với một dĩa vệ tinh, pin, và máy ghi âm. Ở Riyadh thông tin sẽ được bắt lấy, được làm chậm lại, giải mã, và được chạy thật bình thường.

Martin rời chiếc xe buýt ở Ramadi, nơi nó dừng lại, và lên một chiếc khác để đi qua hồ Habbaniyah và căn cứ Không quân cũ, giờ đây đã chuyển thành một trạm máy bay chiến đấu hiện đại của lraq. Chiếc xe buýt dừng lại ở ngoại ô Baghdad, và mọi thẻ căn cước đều được kiểm tra.

Martin đứng khiêm nhường ở dòng người, nắm chặt cái lồng gà, khi các hành khách lại gần cái bàn khi viên trung sĩ cảnh sát đang ngồi. Khi đến lượt mình, anh đặt cái giỏ nặng lên mặt bàn và trình thẻ căn cước của mình. Viên trung sĩ liếc mắt vào đó. Trời nóng và anh ta rất khát. Đó là một ngày thật dài.

Anh ta chỉ tay vào nơi nguyên quán của người cầm thẻ.

– Đây là ở đâu?

– Đấy là một làng nhỏ phía bắc Baji. Rất nổi tiếng vì dưa hấu, bey.

Miệng viên trung sĩ chun lại. Bey là một dạng xưng hô kính trọng có từ thời Vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ, chỉ đôi khi mới được nghe thấy, và chỉ những người thật sự hạ tiện mới dùng.

Anh ta phẩy tay; Martin nhấc lu gà của mình lên và quay trở lại xe buýt.

Ngay sau bảy giờ tối, chiếc xe buýt đến một điểm dừng nữa và thiếu tá Martin bước xuống bến xe buýt chính ở Kadhimiya, Baghdad.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN