Những Bí Ẩn Của Sa Mạc - Chương 20
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
103


Những Bí Ẩn Của Sa Mạc


Chương 20



Tin tức về việc những chiếc Tornado của Anh đã trượt mục tiêu thực của mình tại Al Qubai là một cú sốc lớn đối với người đàn ông chỉ được biết đến với cái tên Jericho. Ông ta chỉ có thể cũng tự bắt mình vỗ tay phụ họa để tỏ lòng ngưỡng mộ Rais của mình như tất cả những người khác.

Trong chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm cùng với các vị tướng khác chuyển đến trung tâm Baghdad, ông ta ngồi im lặng ở băng ghế sau, chìm vào những suy nghĩ của riêng mình.

Việc sử dụng thứ vũ khí đang được cất giấu ở đâu đó – tại một chỗ có tên là Qa’ala, Pháo đài, mà ông ta chưa từng nghe đến tên và cũng không biết nằm ở đâu – có thể gây ra nhiều, rất nhiều cái chết, chắc chắn không thể nào là ít được. Chính vị thế của ông ta đã làm ông ta lạc lối. Trong ba năm liền ông ta mạo hiểm tất cả mọi thứ – sự an toàn, sụp đổ, và một cái chết ghê rợn – để phản bội lại chế độ của chính đất nước mình. Vấn dề không chỉ đơn giản là xây dựng một gia tài khổng lồ cho mình ở nước ngoài; ông ta có thể làm được điều đó bằng cách lạm dụng chức quyền của mình, ngay ở Iraq này, dù làm việc đó ở đây cũng không phải là không có nguy cơ gì.

Vấn đề là phải ra được nước ngoài với một lý lịch và hình dạng khác hẳn, do những người nước ngoài trả tiền cho ông ta chu cấp: được bảo đảm an toàn khỏi các đội hành hình chuyên đi ám sát. ông ta đã nhìn thấy số phận của những người chỉ đơn giản là ăn cắp và sau đó chạy trốn; họ thường trực sống trong nỗi sợ hãi cho đến một ngày, những người báo thù Iraq tóm cổ được họ.

Ông ta, Jericho, muốn cả sự giàu có lẫn an toàn, vì lẽ đó ông ta vui mừng khi người đứng sau mình chuyển từ Israel sang Mỹ. Họ có thể lo cho ông ta, do phụ thuộc vào lời cam đoan, và tạo cho ông ta lý lịch mới, cho phép ông ta trở thành một người khác với quốc tịch khác, mua cho ông ta ngôi nhà đẹp đẽ cạnh bờ biển tại Mexico, nơi ông ta sống một cuộc sống nhàn nhã và đầy đủ.

Giờ đây mọi chuyện đã bắt đầu thay đổi. Nếu ông ta im lặng và thứ vũ khí đó được sử dụng, người Mỹ có thể nghĩ ông ta đã nói dối về Al Qubai. ông đã không nói dối, nhưng trong khi giận dữ họ sẽ không bao giờ quên điều đó. Tệ hơn thế nhiều, người Mỹ có thể sẽ phanh phui tài khoản của ông ta, và điều này có thể được làm vì không lẽ gì cả. Bằng cách nào đó ông ta phải báo cho họ rằng đã có sự nhầm lẫn. Nhiều nguy cơ hơn, và có thể mọi chuyện sẽ qua – Iraq thất bại, Rais bị đổ, và ông ta, Jericho, sẽ thoát khỏi nơi đây và cao chạy xa bay.

Trong văn phòng riêng ông ta viết bức thông điệp của mình, vẫn bằng tiếng Arập, trên tờ giấy mỏng không để lộ mấy khoảng trống. Ông ta giải thích về cuộc họp tối đó; rằng khi ông ta gửi đi thông tin trước, vũ khí đã đúng là có ở Al Qubai. Như ông ta đã nói, nhưng trong 48 giờ sau đó khi những chiếc Tornado đã rút đi, nó đã được chuyển chỗ. Đó không phải là lỗi của ông ta.

Ông ta muốn nói tất cả những gì mình biết: rằng có một địa điểm bí mật tên là Pháo đài; rằng vũ khí đang nằm ở đó, và từ Qa’ala nó có thể được phóng ra khi người Mỹ đầu tiên vượt qua biên giới lraq.

Ngay sau nửa đêm, ông ta đi một chiếc xe ôtô không biển số và biến mất vào trong những đường phố tối om của Baghdad. Không ai dám hỏi ông ta đi đâu, không ai dám. Ông ta để bức thông điệp của mình dưới cán cờ trong một cái sân cũ ở đường Abu Nawas, rồi đánh dấu phấn sau nhà thờ Thánh Joseph ở khu của người Thiên chúa giáo. Lần này dấu phấn có hơi khác một chút. Ông ta hy vọng người mà ông ta không biết thường đến nhận tin của mình sẽ không để mất thời gian.

Và quả đúng là như vậy, Mike Martin rời khỏi ngôi biệt thự của người Xôviết rất sớm vào buổi sáng ngày 15 tháng Hai. Người đầu bếp Nga đã đưa cho anh một danh sách dài thức ăn tươi cần mua, một danh sách rất khó để có thể thực hiện đầy đủ Đồ ăn thức uống đang hiếm dần. Không còn những người nông dân ở nông thôn nữa; đã có những vấn đề về vận chuyển. Hầu hết các cây cầu đều đã bị phá. Vùng đồng bằng trung tâm của Iraq là một vùng đất với những con sông cung cấp nước tưới cho cây cối, là nguồn thực phẩm cho Baghdad. Buộc phải trả chi phí tàu phà để đi qua được những con sông đó, những người sản xuất nghĩ tốt hơn hết là ở lại nhà mình.

Thật may mắn, Martin lại bắt đầu từ chợ gia vị ở đường Shurja, rồi đạp xe đến nhà thờ Thánh Joseph để đến con đường đi vòng sau nhà thờ. Khi nhìn thay dấu phấn, anh thiếu điều nhảy dựng lên. Dấu phấn trên bức tường đặc biệt này luôn được thỏa thuận là số 8 viết đúng chiều, với một nét ngắn đi qua giao điểm của hai đường tròn. Nhưng anh đã nói Jericho trong trường hợp thực sự khẩn cấp sẽ thay một nét ngắn bằng hai đường tròn nhỏ, mỗi cái trong một hình tròn tạo nên số 8 đó.

Hôm nay dấu vết quả là như thế. Martin đạp vội đến cái sân đường Abu Nawas, đợi cho đến khi mọi người đi cả, lại dừng xe cúi xuống như thể đang sửa dép, luồn một tay vào kẽ tường, và tìm thấy cái bì thư mềm. Khoảng giữa trưa, anh trở về ngôi biệt thự, giải thích cho ông bếp đang cáu kỉnh rằng anh đã cố lắm nhưng thực phẩm hôm nay chẳng chịu đến thành phố gì cả. Anh có thể quay lại để mua vào buổi chiều.

Khi đọc thông điệp của Jericho, anh cảm thấy lạnh toát như người bị một cơn sợ rất lớn. Martin thảo nhanh một thông điệp của chính mình, giải thích cho Riyadh tại sao anh cần phải tự mình đứng ra giải quyết theo cách riêng của mình. Không còn đủ thời gian cho những cuộc họp ở Riyadh và những lần gửi tin tức qua lại nữa. Điều tồi tệ nhất, đối với anh, là tin Phản gián Iraq đã biết được về một máy phát tin bất hợp pháp gửi đi những tín hiệu mật. Anh có thể không biết họ đã ở gần mình đến đâu, nhưng anh phải đặt giả thuyết không thể tiếp tục gửi tin với Riyadh được nữa. Do đó anh phải tự mình ra quyết định.

Martin đọc thông điệp của Jericho bằng tiếng Arập trước, rồi dịch sang tiếng Anh vào máy thu. Anh đọc luôn vào đó thông điệp của chính mình và chuẩn bị để gửi đi. Anh không thể gửi tin đi cho đến đêm muộn – đêm luôn được chọn vì cả nhà Kulikov đều đi ngủ sớm. Nhưng, cũng giống như Jericho, anh có cách liên lạc trong những trường hợp khẩn cấp

Đó là một lần chuyển tin với một âm thanh dài và sắc, trong trường hợp này, là một tiếng huýt gió cao, trên một tần số khác hẳn, so với dải VHF vẫn thường sử dụng. Anh kiểm tra lại xem người lái xe đã đi cùng Bí thư thứ nhất Kulikov đến đại sứ quán ở trung tâm thành phố chưa và người quản gia Nga cùng vợ mình đã đi ăn trưa. Rồi. dù có nguy cơ bị lộ, anh vẫn dựng đĩa vệ tinh ra gần cứa ra vào mở rộng và gửi đi tiếng còi dài.

Trong căn phòng trực đài, một phòng ngủ trước đây trong ngôi biệt thự của SIS tại Riyadh, một ánh đèn lóe lên. Đã là hai giờ rưỡi chiều. Người trực điện, đang nhận những thông tin thường ngày giữa ngôi biệt thự và London, ngừng việc mình đang làm, kêu to qua cánh cửa, và mở máy Nhận với tần số ngày hôm đó.

Kỹ thuật viên thứ hai thò đầu vào cửa.

– Cái gì thế

– Gọi Steve và Simon nhanh lên. Tin của Râu Đen đấy, khẩn lắm.

Người đó biến đi. Martin cho Riyadh 15 phút, rồi chuyển đi bức thông diệp chính.

Riyadh không phải duy nhất có đài bắt được tín hiệu này. Ngoài thành phố Baghdad, một đĩa vệ tinh khác, đang chầm chậm quét dải bằng VHF, cũng bắt được một phần trong đó. Bức thông điệp dài đến mức, dù đã được làm ngắn đi, vẫn kéo dài tới 4 giây. Những người nghe trộm Iraq bắt được 2 giây cuối và đã định vị dược.

Ngay khi gửi đi, Martin đóng ngay máy lại và giấu nhanh thiết bị của mình xuống dưới những tấm tôn ở sàn nhà. Anh đang làm thì nghe có tiếng bước chân trên sỏi. Đó là người đầu bếp người Nga, vốn tốt bụng, đang đi qua sân để cho anh một điếu thuốc Balkan. Martin nhận nó với trống ngực đập dữ dội và thì thầm “Shukran”.

Người Nga, tự hào vì lòng tốt của mình, quay trở lại ngôi nhà. “Tội nghiệp chưa kìa”. Anh nghĩ. “Đúng là cuộc đời”.

Khi ở lại một mình, kẻ tội nghiệp bắt đầu viết những ký tự Arập thật sít trên một tờ giấy viết thư anh để dưới cái hộp. Trong khi anh đang làm thế, thiên tài về phát thanh tên là thiếu tá Zayeed đang dò trên một bản đồ thành phố có tỉ lệ xích cực kỳ cao, đặc biệt về quận Mansour. Khi kết thúc những tính toán của mình, anh ta kiểm tra lại lần nữa cho chắc ăn rồi gọi cho thiếu tướng Hassan Rahmani ở đại bản doanh đóng tại Mukhabarat, cách ngôi nhà hình viên kim cương ở Mansour 500 yard mà anh đang dò tìm bằng mực xanh. Cuộc gặp gỡ được ấn định vào lúc 4 giờ.

Tại Riyadh, Chip Barber đang đi vòng quanh căn phòng khác chính của ngôi biệt thự với một tờ giấy in trên tay, theo cách thức ông ta chưa từng lặp lại kể từ rời khỏi Hải quân 30 năm trước.

– Anh ta đang làm cái quỷ quái gì vậy? ông hỏi hai sĩ quan tình báo Anh cũng đang ở trong phòng.

– Dễ hiểu thôi mà, Chip. Laing nói. Anh ta đang phải làm cái quỷ quái dài hạn. Anh ta đang gặp nguy hiểm lớn đấy. Bọn xấu đang ở gần anh ta lắm rồi. Mọi đường dây đều cho chúng ta biết chúng ta nên rút anh ta ra khỏi đó – ngay bây giờ.

– Phải, tôi biết chứ, anh ta là tay cừ. Nhưng anh ta không có quyền làm như thế. Chúng ta là người ra lệnh chứ, nhớ không nào?

– Chúng tôi nhớ chứ, Paxman nói, nhưng anh ta là người của chúng tôi, và anh ta đang gặp nguy hiểm. Nếu anh ta chọn ở lại, thì có nghĩa là hết chuyện, cho các anh cũng như cho chúng tôi.

Barber đã bình tĩnh lại.

– Ba triệu đôla. Làm thế quái nào tôi có thể nói với Langley anh ta đã cho Jericho thêm ba triệu đôla lần này cơ chứ? Thằng cha Iraq này đã có quyền đòi hỏi rồi cơ đấy. Với tất cả những gì tôi biết được, thì hắn ta dang chơi trò lường gạt để kiếm tiền thôi.

– Chip, Laing nói. chúng ta đang nói đến chuyện nghiêm túc đấy nhé.

– Có thể, Barber nhăn nhó, có thể chúng ta đang nói. Có thể Saddam có đủ uranium vào lúc này rồi, có thể ông ta lúc này đã lắp đặt xong tất cả. Mọi thứ chúng ta thực sự có là những tính toán của một số nhà khoa học và lời tuyên bố của Saddam – nếu thực tế lão ta từng nói thế. Mẹ kiếp, Jericho là thằng chỉ giỏi moi tiền. hắn ta có thể nói dối lắm chứ. Các nhà khoa học có thể sai lầm, Saddam có thể nói dối, hắn vẫn thế mà. Thế thì tại sao lại có thể chi một khoản tiền như thế

– Ông muốn nhận mạo hiểm về phần mình à? Laing hỏi.

Barber đung đưa người trên một cái ghế.

– Không, ông ta chậm rãi nói, không đâu. Tốt thôi, tôi sẽ giải quyết vấn đề đó với Washington. Rồi chúng tôi sẽ nói với các vị tướng. Họ phải được biết điều này. Nhưng tôi nói với các anh một điều nhé: một ngày nào đó tôi sẽ gặp thằng cha Jericho này, và nếu hắn chơi chúng ta, tôi sẽ đấm vỡ mặt hắn và dần hắn đến chết thì thôi.

Bốn giờ chiều hôm đó, thiếu tá Zayeed mang theo các bản đồ và các tính toán của mình đến văn phòng của Hassan Rahmani. Anh ta cẩn thận trình bày rằng hôm đó anh ta đã đảm bảo chính xác các tính toán của mình và đã thu hẹp được địa chỉ ở Mansour. Rahmani nhìn anh ta nghi ngờ.

– Chỉ còn 100 yard vuông nữa thôi, anh ta nói. Tôi nghĩ công nghệ hiện đại có thể tìm ra nguồn của lần chuyển tin này với độ chính xác một yard vuông.

– Nếu tôi bắt được một lần chuyển tin dài, phải, tôi có thể, viên thiếu tá trẻ kiên nhẫn giải thích. Tôi có thể tìm ra chỗ của máy nhận không lớn hơn một yard vuông đâu. Cộng cái đó với mẩu tin bắt được từ một vị trí khác, thế là ta sẽ có được một yard vuông cần thiết. Nhưng chúng ngắn khủng khiếp. Chúng chỉ xuất hiện trong không trung có hai giây là đã tắt. Cái tốt nhất tôi thu nhận được là một dải sóng hình nón rất hẹp, điểm của máy nhận, ở ngoài nước và đi rộng lắm. Có thể một góc của một giây của một độ trên com pa. Nhưng chỉ cách có hai dặm, và chúng ta có được 100 yard vuông. Thì nó vẫn là một diện tích nhỏ thôi mà.

Rahmani nhìn vào bản đồ. Địa điểm được đánh dấu gồm có 4 ngôi nhà.

– Thế thì đến thử đó xem sao, anh ta gợi ý.

Hai người theo bản đồ khu Mansour cho đến khi tới được địa điểm.đã nêu. Đó là một khu sang trọng và rất giàu có. Bốn toà nhà đều kín cổng cao tường, và là đất riêng. Trời đã tối khi họ đến được nơi.

– Sáng mai hãy khám xét họ, Rahmani nói. Tôi sẽ cho quân đội đến phong toả khu vực, nhưng kín đáo thôi. Anh biết anh đang tìm gì rồi mà. Anh sẽ vào cùng với các chuyên gia của mình và kiểm tra cả bốn chỗ, nhưng một cách riêng biệt. Nếu anh tìm ra, thì có nghĩa chúng ta sẽ bắt được tên gián điệp.

– Một vấn đề là, viên thiếu tá nói, có nhìn thấy cái bảng đồng đằng kia không? Nhà của đại sứ quán Liên Xô đấy.

Rahmani suy nghĩ. Anh không hề muốn làm phát sinh một vụ ầm ĩ mang tầm quốc tế.

– Thế thì kiểm tra ba toà nhà kia trước đi, anh ra lệnh Nếu không tìm thấy gì, tôi sẽ xử lý nhà của người Liên Xô với sự giúp đỡ của Bộ Ngoại giao.

Trong khi họ nói chuyện, một nhân viên của toà nhà Liên Xô đó đang ở cách xa ba dặm. Người làm vườn Mahmoud Al- Khouri đang ở nghĩa trang cũ của người Anh, đặt một phong bì thư mỏng vào một chiếc bình bằng đá dưới một tấm bia mộ. Sau đó: anh đành một dấu phấn lên bức tường của toà nhà Hội Nhà báo. Trong khi đi về quận Mansour khi đã khuya lắm, anh nhận ra ngay trước nửa đêm rằng vệt phấn đã biến mất.

Tối đó có một cuộc họp ở Riyadh. một cuộc họp rất kín tại một văn phòng kín đáo dưới toà nhà Bộ quốc phòng Arập Xêut hai tầng ngầm. Bốn vị tướng có mặt, một trong số đó ngồi ở đầu bàn, cộng thêm hai người mặc đồ dân sự, Laing và Barber. Khi những người dân sự ngừng nói, bốn vị tướng ngồi trong sự im lặng bão tố.

– Việc đó là nghiêm túc đấy chứ? Một trong số những người Mỹ hỏi.

– Một trăm phần trăm. Barber nói, thì chúng tôi không chắc. Nhưng chúng tôi nghĩ rất nhiều khả năng thông tin đó là đúng.

– Cái gì làm anh chắc chắn đến thế hả? viên tướng của USAF hỏi.

– Như các ông chắc cũng đã từng đoán. từ cách đây vài tháng chúng tôi đã có một cá chìm làm việc cho chúng tôi ở chức vụ cao ở Baghdad.

Nhiều nụ cười mỉa mai hiện ra.

– Xin đừng nói rằng thông tin về mục tiêu đến từ quả bóng chiêm tinh của Langley nữa nhé, vị tướng của Không quân nói, vẫn còn thù CIA vì đã làm ông mất đi các phi công.

– Vấn đề là, Laing nói, cho đến giờ, chúng tôi vẫn chưa hề thấy một thông tin nào của anh ta là không chính xác cả. Nếu anh ta nói dối chúng ta vào lúc này, thì thật kỳ quặc. Thứ hai, chúng ta liệu có sẵn sàng chấp nhận nguy cơ này không?

Một sự yên lặng kéo dài trong nhiều phút.

– Có một việc người của các anh đã lầm. Người chỉ huy USAF nói. Vận chuyển.

– Vận chuyên ư? Barber hỏi.

– Đúng đấy. có một vũ khí là một chuyện: chuyên chở nó đi ngay trước mũi kẻ thù thì lại là chuyện khác. Xem nào, không ai có thể tin Saddam lại có tài thu nhỏ mọi vật. Cái đó đòi hỏi công nghệ cực kỳ cao. Tóm lại ông ta không thể bắn cái thứ đó đâu, nếu quả thật ông ta có nó, từ một nòng súng xe tăng. Hay là một thứ pháo bình thường. Hoặc một khẩu đội theo kiểu Cachiusa. Hoặc một hoả tiễn.

– Thế tại sao không phải là bằng rocket được: thưa Tướng quân?

– Vì tải trọng của nó. viên phi công nói vẻ châm chọc. Cái thứ tải trọng quỷ quái. Nếu đó là một thứ vũ khí dữ dội. thì chúng ta phải tìm được đến nửa tấn. Tức là chừng 1000 pound. Nếu giờ đây chúng ta đã biết được những quả tên lửa Al-Abeid và Al-Tammuz vẫn chỉ đang được phát triển khi chúng ta nghiền nát dụng cụ ở Saad-l6. Al.Abbas và Al-Badr, cũng giống thế. Không thể được đâu – dù là nghiền ra hay tải trọng cực nhỏ.

– Thế còn Scud thì sao? Laing hỏi.

– Cũng thế thôi, vị tướng nói. Tầm xa được gọi là Al- Husayn sẽ làm vỡ nòng khi bắn và có một tải trọng lên tới 160 kg. Ngay cả với tên lửa Scud do Liên Xô tài trợ cũng chỉ có tải trọng tối đa lên tới 600 kg. Quá nhỏ.

– Thế thì vẫn còn một quả bom ném từ trên máy bay, Barber gợi ý.

Viên tướng Không quân nhăn mặt: ” Thưa các quý ngài, tôi dám đưa ra đảm bảo của riêng mình, bây giờ và ở đây: kể từ lúc này. không một máy bay chiến đấu nào của Iraq ra được tới biên giới nữa.

Thậm chí không thể rời được đường bay. Những cái đi về phía nam sẽ bị bắn hạ cách biên giới nửa dặm. Tôi đã có đủ AWACS, đủ máy bay chiến đấu – tôi có thể đảm bảo điều đó.

– Thế còn Pháo đài thì sao? Laing hỏi. Cái máy phóng, Một hangar tuyệt đối bí mật.có thê là ngầm dưới đất. một thứ chỉ rất ít người biết: có một chiếc Mirage, một chiếc MIG, một Sukhoi – đã được lắp đặt và sẵn sàng đi. Nhưng chúng ta sẽ tóm được nó trước khi nó đến biên giới.

Quyết định đã được đưa ra bởi vị tướng Mỹ ngồi đầu bàn chủ trì.

– Các anh có đi tìm kiếm nơi đó không. cái pháo đài ấy? Ông trầm tĩnh hỏi.

– Có thưa ngài. Barber nói. Chúng tôi bây giờ đã thử rồi.

– Chúng tôi cho rằng sẽ mất không nhiều ngày nữa đâu.

– Hãy tìm ra nó đi, và chúng tôi sẽ tiêu diệt nó.

– Thế còn thời hạn đổ quân sắp tớỉ. thưa ngài? Laing hỏi.

– Tôi sẽ cho các anh biết sau nhé.

Tối đó, đã được thông báo rằng cuộc tấn công trên bộ vào Kuwait và Iraq đã được hoãn lại và được lên lại kế hoạch vào ngày 24 tháng Hai.

Sau này. các sử gia đã đưa ra hai nguyên nhân cho sự trì hoãn này. Một: Hải quân Mỹ muốn chuyên trục tấn công chính sang xa hơn vài dặm về phiía tây và như thế cần rất nhiều vận chuyển, về đồ đạc, và các chuẩn bị khác nữa. Điều này cũng là đúng.

Lý do thứ hai đi trước trên báo chí cho rằng hai tên tin tặc người Anh đã đột nhập hệ thống máy tính của Bộ Quốc phòng và phá mất các thông tin về dự báo thời tiết cho khu vực sẽ tấn công, gây ra sự hoang mang đối với lựa chọn ngày tốt nhất cho cuộc tấn công từ quan điểm khí hậu.

Trên thực tế, thời tiết vẫn đẹp và trong giừa ngày 12 và ngày 24, và nó chỉ xấu đi khi đội quân tiên phong bắt đầu tiến lên.

Tướng Norman Schwarzkopf là một người đàn ông to lớn và mạnh khoẻ, về thể chất cũng như tinh thần. Nhưng tâm trạng của ông có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những ngày vừa qua không bắt đầu nói với ông.

Ông đã làm việc mỗi ngày 20 tiếng đồng hồ trong suốt 6 tháng mà không nghỉ. Ông không chỉ được coi là nhà quân sự lớn nhất và nhanh nhất trong lịch sử, một kỷ lục có thể hạ gục một người kém cỏi hơn, nhưng ông cũng phải đối mặt với những điều phức tạp về quan hệ với những điều nhạy cảm trong xã hội Arập Xêut, phải giữ cho được hoà bình hàng chục lần có nguy cơ làm tan rã Liên quân, và phải nghe theo những can thiệp rất nhiều nhưng chẳng mấy cần thiết của đồi Capitol.

Và đó còn chưa phải là mọi thứ quấy nhiễu giấc ngủ cực kỳ cần thiết của ông trong những ngày vừa qua. Chính trách nhiệm về những sinh mệnh trai trẻ đã khiến ông có những cơn ác mộng.

Trong cơn ác mộng, có một tam giác. Luôn như thế. Đó là một tam giác đất đều đặn, nằm trên bờ của nó. Cái có thể là đáy của tam giác là được từ Khafji trải xuống đi qua Jubail cho đến ba thành phố nối liền với nhau là Dammam, Al Khoba và Dhahran.

Đường chéo của tam giác là đường biên giới chạy sang phía tây từ bờ biển, đầu tiên là giữa Arập Xêut và Kuwait, rồi đi vào trong sa mạc để trở thành biên giới của Iraq. Đường trung trực là đường nối điểm ngoài cùng phía tây trong sa mạc với bờ biển ở Dhahran.

Trong tam giác đó gần nửa triệu đàn ông và đàn bà đang ngồi đợi lệnh của ông. 80 phần trăm trong số họ là người Mỹ.

Phía đông là người Xêut, những đội quân Arập khác, và Hải quân. Tại trung tâm là các đơn vị bộ binh Mỹ đồ sộ trang bị tối tân. và giữa họ là Sư đoàn Thứ nhất của Anh. Ớ sườn bên kia là người Pháp.

Lại thêm một lần nữa, cơn ác mộng lại là hàng chục nghìn chàng trai trẻ đổ vào để tấn công, để rồi phải hứng lấy một trận mưa khí độc và chết giữa những bức tường cát và hàng rào dây thép. Giờ đây mọi chuyện lại còn tồi tệ hơn.

Chỉ mới một tuần trước thôi, quan sát tam giác trên một bản đồ quân sự, một sĩ quan tình báo Quân đội đã thực tế gợi ý, có thể Saddam định sẽ đặt quân ở đây”. Người đó từng nghĩ là mình đang nói đùa.

Đêm đó, vị tướng tổng chỉ huy lại cố ngủ và lại thất bại. Luôn là cái Tam giác. Rất nhiều người, và không gian thì quá nhỏ hẹp.

Tại biệt thự của SIS, Laing, Paxman, và hai kỹ thuật viên phát thanh đang chia nhau một cái gì đó được bí mật mang từ Đại sứ quán Anh đến. Họ cũng đang nghiên cứu bản đồ; họ cũng nhìn thấy cái Tam giác. Họ cũng cảm thấy kinh sợ.

– Quả bom khốn khiếp, một quả bom nhỏ, tàn bạo chết mẹ, lần đầu tiên sau quả bom Hiroshima ở đây sẽ có một quả khác, không khí tung lên hay mặt đất sẽ tung lên… Laing nói.

Họ không cần đến các nhà khoa học để biết được rằng vụ nổ đầu tiên có thể giết chết 100.000 người lính trẻ trung. Trong nhiều giờ, cơn mưa phóng xạ, sẽ nhiễm vào hàng tỷ tấn cát trong sa mạc, có thể bắt đầu tác hại, làm mọi thứ trên đường đi của nó phải chết.

Những chiếc tàu đậu ngoài biển có thể còn đủ thời gian để chạy thoát, nhưng những đội quân đang đóng trên mặt đất ở các thành phố Arập Xêut này thì không thể. Về phía đông nó có thể lan rộng về phía Bahrain và các sân bay của Liên quân, làm nước biển nhiễm xạ, đi qua cho đến bờ biển của Iran, tại đó sẽ loại trừ những người mà Saddam Hussein từng tuyên bố là không xứng đáng được sống – ” Bọn Ba Tư, bọn Do Thái,. và ruồi”

– Hắn ta nhất định không thể phóng nó đi được. Paxman nói Hắn không thể có một quả hoả tiễn hay một máy bay có thể làm được việc đó.

Rất xa về phía bắc, giấu mình trong Jebal ở Hamreen, rất sâu trong nòng một khẩu súng với nòng dài 180 mét và tầm bắn hàng nghìn km. Cú đấm của Thượng đế đang nằm im lìm nhưng đã sắp được gọi để bay lên.

Ngôi nhà ở Qadisiyah chỉ mới lơ mơ tỉnh dậy và còn chưa chuẩn bị cho các vị khách đến vào lúc bình minh. Khi người chủ nhà xây nó vào nhiều năm trước. nó đã được đặt vào giữa một vườn hoa lan lớn. Nó nằm đó cách bốn biệt thự ở Mansour mà thiếu tá Zayeeh của Cục phản gián đã chuẩn bị để giám sát đúng ba dặm. Sự lan rộng của vùng ngoại ô tây nam của Baghdad đã bao bọc lấy ngôi nhà, và đường cao tốc Qadisiyah lao lên qua cái đã từng là những đồng ruộng trồng lê và mơ.

Nó vẫn là một ngôi nhà đẹp thuộc sở hữu của một người giàu có từ lâu đã về hưu, kín cổng cao tường và vẫn giữ được một số cây ăn quả ở cuối vườn.

Có hai chiếc xe tải lớn đầy lính AMAM dưới sự chỉ huy của một thiếu tá, và họ không tham dự vào vở kịch. Khóa của cửa chính đã bị phá, cánh cổng bị đá tung, và bọn lính ùa vào, phá tung cánh cửa trước và đánh người hầu đang cố ngăn chúng lại.

Họ chạy qua ngôi nhà, lật tung các chạn bát và đồ đạc. trong khi người đàn ông chủ ngôi nhà kinh hoàng cố phòng thủ và bảo vệ vợ mình.

Bọn lính xông vào khu đất trống và không tìm thấy gì. Khi người đàn ông cầu xin chúng nói cho ông ta biết họ muốn tìm gì, viên thiếu tá chỉ nói ông ta biết quá rõ còn gì. và sự kiểm tra lại tiếp tục.

Sau ngôi nhà, bọn lính khám đến khu vườn. T’ại góc vườn gần bức tường chúng tìm thấy đất mới được đào lên. Hai trong số chúng giữ lấy người đàn ông trong khi bọn còn lại đào. Ông kêu lên là mình không biết thế quái quỷ nào mà đất lại được đào lên, rằng ông ta không giấu cái gì hết. Nhưng chúng đã tìm thấy.

Đó là một cái túi rộng và có thể nhìn thấy. Khi chúng đổ nó ra, một bộ điện đàm. Người đàn ông chẳng hề biết gì về đài phát thanh, cũng không thể biết rằng chiếc máy phát tín hiệu Morse ở trong cái túi chẳng liên quan gì tới máy phát siêu hiện đại qua vệ tinh mà Mỉke Martin sử dụng và vẫn nằm dưới sàn nhà ở vườn nhà Bí thư thứ nhất Kulikov. Đối với viên thiếu tá AMAM. cứ điện thoại là đồng nghĩa với gián điệp, và chỉ cần như thế là đã đủ.

Ông già bắt đầu than vãn rằng ông chưa từng nhìn thấy nó trước đây, rằng ai đó hẳn là đã vượt tường vào ban đêm để chôn nó ớ đó, nhưng bọn lính AMAM đánh ông ngã bằng báng súng, và vợ ông cũng bị chúng đánh khi bà kêu lên.

Viên thiếu tá kiểm tra chiến lợi phẩm, và thậm chí hắn có thể nhìn thấy một số ký tự trên cái túi dường như là chử Hebrew.

Họ không hề muốn bắt người hầu của ngôi nhà hay bà vợ – mà chỉ người đàn ông, ông đã vào khoảng 70 tuổi, nhưng chúng lôi ông đi xềnh xệch, mắt cá và cổ tay bị bọn lính túm lấy, và ông ta bị đẩy lên thùng xe tải giống như một cái túi đựng cá.

Viên thiếu tá rất hoan hỉ. Hành động theo một lời tố cáo nặc danh, hắn ta đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình. thượng cấp của hắn hẳn sẽ mừng lắm. Đó không phải là một trường hợp cho nhà tù Abu Ghraib. Hắn chở người tù của mình đến đại bản doanh AMAM và Nhà tập. Hắn lý luận, đó là chỗ duy nhất cho bọn gián điệp Israel.

Cùng ngày hôm đó l6 tháng Hai. Gidi Barzilai đang ở Paris, cho Michel Levy xem bức tranh. Ông già chuyên gia đồ cổ cũng là một sayan rất vui mừng vì có thể giúp được cho Gidi. Trước đây ông ta mới được nhờ làm việc có một lần, việc chuyển một số đồ đạc cho một katsa để cố xâm nhập một tòa nhà nào đó, vào vai một tay trung gian đồ cổ.

Với Michel Levy thật là mừng và thật phấn khích, một cái gì đó làm sống động trở lại cuộc sống của một người đã luống tuổi khi được Mossad hỏi và có thể giúp đỡ theo một cách nào đó

– Boulle. ông ta nói.

– Xin ông tha lỗi nhé, Barzilai nói, nghĩ mình đã quá đường đột.

– Boulle. ông già nhắc lại. Được đánh vần là B-u-h-l. Nghệ nhân làm bàn nổi tiếng người Pháp. Phong cách của ông ta, anh thấy không, thật rõ nét. Anh có thấy không. Không phải ông ta làm đâu. Thời đó thì quá xa đối với ông ta.

– Thế thì ai làm?

Mexừ Levy khoảng hơn 80 tuổi, với mái tóc trắng mảnh trên một cái sọ méo mó, nhưng đôi má hồng hào và đôi mắt sáng vẫn long lanh niềm vui sống. ông đã nói cho kaddish cho nhiều người trong thế hệ của ông ta.

– Tốt, Boulle khi chết đã nhường lại cửa hàng của mình cho người mà ông ta bảo trợ, German Oeben. Rồi theo truyền thống ông này lại để lại cho một German khác là Riesener. Tôi nghĩ đây có thể vào thời Riesener. Chắc chắn là do bàn tay một người thợ khéo, có thể chính là người chủ. Anh định sẽ mua nó

Ông ta nheo mắt, dĩ nhiên rồi. ông biết Mossad không bao giờ mua đồ để sưu tầm nghệ thuật cả. Đôi mắt ông ta nhảy múa những ánh nhìn tinh quái.

– Chỉ cần biết là tôi đang quan tâm đến nó. Barzilai nói.

Levy rất vui vẻ. Họ lại giở những ngón nghề cũ ra rồi đây. Ông sẽ không bao giờ biết được, nhưng như thế này cũng đã vui chán rồi.

– Làm những bàn đó…

– Bàn làm việc chứ, Levy nói.

– Thôi được rồi, làm những cái bàn đó có ngăn bí mật nào ở bên trong không?

– Càng lúc càng tốt hơn rồi đây – vui thật! Ôi, thật phấn khích làm sao!

– A, ý anh muốn nói đến một cachette phải không. Dĩ nhiên rồi. Anh biết đấy, anh bạn trẻ, nhiều năm trước, khi một người có thể bị gọi ra và bị giết trong một cuộc dấu súng về một vấn đề danh dự, một quý bà có việc gì đó thật là bí mật. Không có điện thoại, không fax. không vi deo vào thời đó. Mọi thứ tư tưởng kỳ dị nhất của người tình bà ta sẽ được viết ra giấy. Thế thì bà ta phải giấu chồng mình như thế nào? Không phải trong một tủ sắt trong tường – họ không hề có đâu. Cũng không phải trong một cái hộp sắt – chồng bà ta có thể sẽ đòi đưa chìa khóa.

Thế thì những người trong xã hội thời đó cần phải có những loại đồ gỗ có cachette. Không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng có lúc Cần phải làm thật khéo, nếu không sẽ lộ mất.

– Thế làm cách nào người ta có thể biết nếu một thứ đồ như thế… nghĩ đến chuyện mua một cái cachette như thế.

Ôi thế này thì tuyệt quá rồi. Người đàn ông từ Mossad sẽ không đi mua bureau của Riesner, anh ta đang cần phá một cái như thế.

– Anh có muốn nhìn một cái không? Levy hỏi.

Ông ta gọi nhiều cú điện thoại, và một lúc sau họ cùng ra khỏi cửa hàng của ông ta và lên một chiếc xe bus. Đó là một người môi giới khác. Levy trò chuyện một lúc ngắn, người đàn ông gật đầu và để họ lại một mình. Levy đã nói nếu ông ta có thể đảm bảo một vụ mua bán, thì sẽ chỉ mất một khoản phí không đáng kể, và chỉ có thế. Người môi giới tỏ ra hài lòng: vẫn thường là như thế trong thế giới đồ cổ.

Chiếc bàn mà họ xem xét rất giống cái ở Vienna.

– Bây giờ, Levy nói, cái cachette sẽ không rộng lắm đâu,. Nó có thể ở bên ngoài cũng như gắn ở bên trong. Nó sẽ rất mỏng. thẳng đứng hoặc nằm ngang. Có khả năng không rộng hơn hai cm đâu, giấu trong một cái ngăn có vẻ như rất cứng, rộng tới ba cm, nhưng trên thực tế có hai ngăn bằng gỗ với cái cachette nằm ở giữa. Đầu mối là cái nút bấm.

Ông kéo một trong hai ngăn trên cùng ra.

– Đây này. ông ta nói.

Barzilai sờ bằng đầu ngón tay cho đến đáy.

– Vòng quanh xem nào.

– Chẳng có gì cả. viên katsa nói.

– Thế là bởi vì chẳng có gì thật, Levy nói. Không phải ở trong cái ngăn này. Nhưng có thể có một cái nút hoặc lẫy gì đó.

Một cái nút rất mềm. Anh ấn vào đó đi: một cần gạt, anh quay nó đi; nếu là một thanh ngang. Anh hãy dịch chuyển sang hai bên, và xem điều gì xảy ra.

– Cái gì sẽ xảy ra?

Một tiếng động nhẹ, và một mẩu hoa văn bằng ngà thò ra, nhảy lên. Bên dưới đó là cái cachette.

Ngay cả sự tài hoa của người thợ đồ gỗ thế kỷ XVIII cũng có chỗ hạn chế. Trong suốt một giờ đồng hồ, mexừ Levy dạy cho viên katsa về mười chỗ cơ bản cần xem xét cái lẫy bí mật có thể làm mở được cái ngăn đó.

– Đừng bao giờ cố đẩy mạnh quá để tìm. Levy nhấn mạnh vì nó đề lại dấu vết trên gỗ đấy.

Ông ta liếc nhìn Barzilai và mỉm cười. Barzilai thết ông già một bữa trưa thịnh soạn ớ nhà hàng Coupole, rồi đi taxi ra sân bay để quay về Vienna.

Sáng sớm hôm đó, ngày 16 tháng Hai, thiếu tá Zayeed và đội của mình cũng có mặt ở ngôi biệt thự đầu tiên trong số ba biệt thự sẽ bị khám xét. Hai cái khác đã bị niêm phong, với những người án ngữ ở tất cả các lối vào và những người canh gác cẩn mật ở bên trong.

Viên thiếu tá vô cùng lịch sự, nhưng lệnh của anh ta là không thể chống lại. Không giống người của AMAM cách đó một dặm rưỡi tại Qadisiyah, người của Zayeeh là các chuyên gia, rất ít gây ra các thiệt hại trong khi khám nhà, và rất hiệu quả trong việc tìm kiếm của mình.

Bắt đầu từ tầng trệt, tìm kiếm lối vào của một địa điểm bí mật dưới các mái tôn. rồi đi khắp nhà, từng phòng một, từng tủ một, từng hầm một. Khu vườn cũng bị tìm kiếm, nhưng không dấu vết nào được tìm thấy Trước buổi trưa, viên thiếu tá cuối cùng cũng thỏa mãn: xin lỗi những người sống trong đó và rời đi. Anh ta bắt tay vào khám xét ngôi nhà kế bên.

Tại căn phòng dưởi đại bản doanh của AMAM tại Saadun, ông già đang bị treo ngược. cổ tay cổ chân buộc chặt vào một cái bàn gỗ và xung quanh là bốn chuyên gia đang khai thác lời khai. Ngoài những người đó ra, còn có một bác sĩ, và tướng Omar Khatib bàn bạc với trung sĩ Ali ở góc phòng.

Chính người chỉ huy của AMAM đã quyết định danh mục các đòn tra tấn sẽ được thực hiện. Trung sĩ Ali nhướng lông mày; anh ta có thể, anh ta nhận ra, chắc chắn cần đến mọi biện pháp trong ngày hôm nay. Omar Khatib gật đầu đồng tình và đi ra. ông ta có giấy hẹn gặp ở tầng trên.

Ông già tiếp tục van xin nói rằng mình chẳng biết gì về máy phát, và đã không vào vườn từ nhiều ngày nay do thời tiết xấu Những tay hỏi cung chăng mảy may quan tâm. Chúng treo cả hai mắt cá chân lên một cái cán chổi đang chạy đi chạy lại. Hai trong số bốn tên giơ chân ông ta lên đến vị trí vừa đủ với đế giày hướng vào trong phòng, trong khi Ali và tên đồng nghiệp còn lại của mình dốc xuống từ trên tường những luồng điện mạnh.

Khi trận đòn vào lòng bàn chân bắt đầu, ông già thét lên, và khi tất cả đã làm xong, cho đến khi mất giọng, rồi tái nhợt. Một gáo nước lạnh ngắt từ trong phòng phun ra, nơi một loạt ca nước đã được xếp sẵn, làm ông ta tỉnh lại.

Đôi khi, trong buổi sáng, những người còn đang ở lại, để thả lỏng cơ bắp cho đôi tay, đã trở nên mệt mỏi với những đòn đánh. Khi chúng dừng lại, những chiếc cốc uống xong bị vứt thẳng vào chân người tù. Rồi, khi đã lại sức, chúng tỉếp tục đánh. Giừa những lần tỉnh đi tỉnh lại, ông già tiếp tục phản đối rằng mình còn chẳng biết bật đài radio và do đó chắc là có nhầm lẫn gì đó.

Vào khoảng giữa buổi sáng, da thịt cả hai bàn chân đã rách rưới hết cả và những vụn xương trắng rơi ra qua dòng máu. Viên trung sĩ Ali gật đầu và ra hiệu rằng đã có thể ngừng được rồi. Hắn ta châm một điếu thuốc và nhâm nhi làn khói trong khi trợ tá của hắn dùng một thanh sắt ngắn để bẻ xương chân từ mắt cá lên đầu gối.

Ông già van vỉ viên bác sĩ, với tư cách là người điều trị bệnh nhân hãy giúp ông, nhưng viên bác sĩ của AMAM nhìn chằm chằm lên trần nhà. Hắn ta đã có lệnh, là phải giữ cho tù binh sống và còn suy nghĩ được.

Bên kia thành phố, thiếu tá Zayeed đã kết thúc việc lục soát đối với ngôi biệt thự thứ hai vào lúc 4 giờ chiều, ngay trước khi Barzilai và Michel Levy đứng dậy khỏi bàn ăn ở Paris. Lại lần nữa anh ta không tìm thấy gì hết cả. Nhã nhặn xin lỗi cặp vợ chồng kinh hoàng thấy căn nhà mình bị gỡ ra từng mảnh một cách có hệ thống, anh ta rời đi với đội của mình đi về ngôi biệt thự thứ ba và là cuối cùng.

Ở Saadun, ông già ngất đi mỗi lúc một nhanh hơn, và viên bác sĩ bảo các nhân viên tra tấn rằng ông ta cần có thời gian dể hồi phục. Một mũi tiêm đã được chuẩn bị sẵn và được phóng vào động mạch chủ của người tù. Nó có hiệu quả tức thì, đưa ông ta từ trạng thái lâm sàng về tỉnh táo và kích thích thần kinh ông ta khả năng suy nghĩ.

Sáu giờ ông già lại rơi vào trạng thái mê man, và lần này viên bác sĩ quá chậm trễ. Hắn ta làm cuống cuồng, mồ hôi sợ hãi chảy đầy trên mặt, nhưng mọi thứ thuốc kích thích, được tiêm trực tiếp vào tim ông già, đều không có hiệu quả. Ali rời khỏi phòng và quay trở lại sau 5 phút cùng Omar Khatib. Viên tướng nhìn vào cái xác, và hàng bao nhiêu năm kinh nghiệm cho ông ta biết đến lúc này không thể cầu viện vào bất kỳ thứ thuốc nào nữa. Ông ta quay lại, và lòng bàn tay mở rộng của ông ta nắm lấy viên bác sĩ đang run cầm cập đập thẳng vào mặt anh ta.

Sức mạnh của cái tát cũng như uy danh của ông ta khiến viên bác sĩ nằm bẹp trên sàn nhà giữa những dụng cụ y tế của mình.

– Thằng chó. Khalib rít lên. Ra khỏi đây ngay.

Viên bác sĩ thu dọn vội đồ đạc cho vào túi và bò ra khỏi phòng. Đồ tể nhìn vào công cụ của Ali. Có mùi mồ hôi trong không khí mà cả hai đều đã rất quen thuộc, và một thứ trộn lẫn giữa mồ hôi, sự kinh hoàng, nước tiểu, máu, đồ nôn, và mùi thuốc gây mê của một thứ thức ăn quá lửa.

– Cho đến lúc cuối lão ta vẫn khăng khăng, Ali nói. Tôi xin thề, nếu lão ta biết gì, chúng ta sẽ có được ngay.

– Cho lão ta vào trong một cái bao, Omar Khatib lạnh lùng, và chuyển về cho vợ lão ta để chôn cất.

Đó là một chiếc túi to màu trắng dài sáu fít và rộng hai fit. và được để ở bậc cầu thang của ngôi nhà ở Qadisiyah vào lúc 10 giờ tối. Rất chậm và rất khó khăn, vì cả hai người đều đã già cả. người vợ góa và người hầu phòng lôi cái túi vào, kiểm tra ở bên trong, và để nó lại trên bàn ăn. Người đàn bà ngồi phịch xuống cuối bàn và bắt đầu lên tiếng than vãn.

Người hầu tên Talat đi ra chỗ điện thoại nhưng nó đã bị gỡ ra khỏi tường và không còn hoạt động. Cầm lấy sổ điện thoại của bà chủ, mà anh ta không thể đọc được. anh ta đi xuống phố đến nhà người dược sĩ và nhờ người hàng xóm thử liên lạc với cậu chủ – ai trong số các cậu chủ cũng dược.

Cùng vào giờ đó, trong khi người dược sĩ cố gọi điện trong Iraq qua hệ thống điện thoại trong nước, và Gidi Barzilai, trở về Vienna, đang chuyển một bức điện khẩn về cho Kobi Dror, thiếu tá Zayeed đang báo cáo về ngày làm việc không kết quả của mình cho Hassan Rahmani.

– Thế thì có nghĩa nó không nằm ở đó, anh ta nói với chỉ huy Cục Phản gián. Nếu có, chúng tôi đã tìm ra rồi. Thế thì chỉ còn lại ngôi biệt thự thứ tư, của tay ngoại giao đó thôi.

– Anh tin là mình không nhầm chứ? Rahmani hỏi. Cũng có thể là ngôi nhà khác thì sao?

– Không. thưa ngài. Ngôi nhà gần bốn biệt thự nhất nằm bên ngoài khu vực mà chúng tôi định vị được. Nguồn gốc của những lần chuyển tin nhanh đó là nằm ở trong hình viên kim cương này trên bản đồ.

Tôi xin thề đấy. .

Rahmani lưỡng lự. Các nhà ngoại giao thật là quỷ quái để mà có thể kiểm tra, luôn luôn sân sàng gửi lời phàn nàn lên bộ Ngoại giao. Để vào được trong nhà của đồng chí Kulikov, anh có thể phải lên cấp cao

– cao đến mức anh có thể tới được.

Khi viên thiếu tá đã đi, Rahmani gọi điện cho Bộ Ngoại giao. Anh may mắn: Bộ trưởng Ngoại giao, người đã đi liên tục trong mấy tháng nay. đang ở Baghdad. Hơn thế nữa, ông ta đang ngồi ở phòng làm việc của mình. Rahmani có được lời hẹn gặp vào lúc 10 giờ sáng hôm sau.

Viên dược sĩ là một người đáng mến, đã cố gọi điện suốt trong đêm. Ông không liên lạc được với người con trai, nhưng, sử dụng một đầu mối liên lạc trong Quân đội, ông đã chuyển được tin cho đứa con út của người quá cố. Ông không thể trực tiếp nói chuyện với anh ta, nhưng bên Quân đội sẽ chuyển tin đó hộ ông.

Thông tin đến được với người con trai út tại căn cứ của anh rất xa Baghdad vào bình minh. Ngay khi nghe tin, viên sĩ quan đã lên ôtô lái xe trở về. Thường thì anh chỉ mất không đầy hai giờ lái xe. Nhưng lần này, ngày 17 tháng Hai, anh mất tới sáu tiếng. Có đầy các đội tuần tra và chốt giao thông. Với cấp bậc của mình, anh ta được phép lái xe lên đầu hàng, không phải xếp hàng, và được vẩy tay cho qua.

Điều này không thể làm được với các cây cầu gẫy. Tại tất cả cầu anh phải dừng xe đợi phà. Mãi đến giữa trưa anh ta mới về được đến căn nhà của bố mẹ anh ở Qadisiyah. Mẹ anh chạy ra ôm chầm lấy anh và kêu gào trên vai anh. Anh cố hiểu được các chi tiết chính xác những việc đã xảy ra, nhưng bà không còn trẻ nữa và đã bị lên cơn động kinh. Cuối cùng, anh phải bế bà lên và đưa bà về phòng. Trong sự hỗn loạn những dấu vết nhà binh để lại mọi nơi trên sàn nhà tắm, anh ta tìm thấy một cái chai thuốc ngủ bố anh đã sử dụng khi mùa đông lạnh đưa mua ở hiệu thuốc. Anh đưa cho mẹ hai viên, và bà nhanh chóng thiếp đi.

Trong bếp anh ra lệnh cho ông già Talat pha cà phê cho cả hai người, và họ ngồi vào bàn trong khi người hầu miêu tả điều đã xảy ra kể từ bình minh ngày hôm trước. Khi ông ta dừng lại, ông chỉ cho cậu chủ cái hố trong vườn nơi bọn lính đã tìm thấy cái gói với bộ đồ điện đàm. Chàng thanh niên khám xét bờ tường và phát hiện những dấu vết mà kẻ đột nhập đã để lại trong đêm để lẻn vào chôn nó. Rồi anh ta trở lại ngôi nhà.

Hassan Rahmani phải ngồi đợi, điều mà anh không thích, nhưng anh có cuộc hẹn gặp với Bộ trưởng Ngoại giao, Tariq Aziz, ngay trước 11 giờ.

– Tôi không nghĩ hiểu rõ điều anh nói lắm. vị bộ trưởng tóc màu ghi nói, nhìn một cách thông minh qua cặp kính. Các đại sứ quán được phép liên lạc với thủ đô của họ qua radio, và những lần phát sóng của họ luôn được mã hóa.

– Phải, thưa Bộ trưởng, và chúng đến từ tòa nhà đại sứ quán. Đó là một phần trong công tác ngoại giao. Nhưng đây thì khác. Chúng ta đang nói về một máy phát bí ẩn, được các gián điệp sử dụng, gửi đi các thông tin cực ngắn cho một máy phát mà chúng tôi tin là không phải ở Matxcơva mà ở gần hơn nhiều.

– Những lần phát cực ngắn? Aziz hỏi.

Rahmani giải thích đó là cái gì.

– Tôi vẫn không thể theo kịp anh dược. Thế tại sao một nhân viên KGB nào đó – và hẳn đây là một chiến dịch của KGB – lại gửi đi những thông điệp cực ngắn từ nhà của Bí thư thứ nhất trong khi họ có quyền tuyệt đối được gửi chúng từ những máy phát mạnh hơn nhiều từ đại sứ quán?

– Điều này thì tôi không biết.

– Thế thì anh phải cho tôi những lời giải thích tốt hơn mới được, thưa tướng quân. Thế anh có ý tưởng nào về những việc đang xảy ra ở bên ngoài văn phòng của anh không? Chẳng nhẽ anh không biết rằng hôm qua mãi muộn tôi mới từ Matxcơva về sau những lần thảo luận căng thẳng với ngài Gorbachev và đại diện Yevgeny Primacov của ông ta, người đã ở đây vào tuần trước? Anh không biết rằng tôi đã mang theo mình một đề nghị hòa bình mà, nếu Rais chấp nhận – và tôi sẽ trình lên ông trong hai giờ nữa – có thể khiến Liên Xô phản đối trong Hội đồng Bảo an và chặn Mỹ tấn công chúng ta sao? Và trước tất cả những việc đó, vào chính lúc này, anh lại bảo tôi làm nhục Liên Xô bằng cách cho lục soát biệt thự của Bí thư thứ nhất của họ? Thẳng thắn mà nói, thưa tướng quân, anh có lẽ bị điên rồi đó.

Cuộc nói chuyện đã kết thúc như vậy. Hassan Rahmani rời Bộ cảm thấy đã tuyệt vọng. Dù sao, cũng có một điều mà Tariq Aziz không cấm. Trong những bức tường của ngôi nhà, Kulikov có thể là bất khả xâm phạm. Trong xe anh ta có thể là không thể chạm tới. Nhưng đường phố thì không thuộc về Kulikov.

– Tôi muốn nó phải đầu hàng, Rahmani nói với đội theo dõi giỏi nhất của mình khi quay trở về văn phòng. Hãy yên lặng, kín đáo, chậm rãi thôi. Nhưng tôi muốn phải theo dõi sát sao tòa nhà đó. Mọi người khách đến và đi – và sẽ phải có khách khứa đấy – tôi muốn các anh phải theo đuôi họ.

Vào buổi trưa. các đội theo dõi đã vào vị trí. Họ ngồi trong những chiếc ôtô đậu dưới những tán cây phủ lên bốn bức tường của ngôi nhà của Kulikov và theo dõi cả hai đầu của con đường duy nhất dẫn đến đó. Những người khác, đứng xa hơn nhưng có liên lạc bằng điện đàm, có thể báo cáo về mọi sự đến gần và có thể đi theo bất kỳ ai ra khỏi nhà.

Người con út ngồi trong phòng ăn của ngôi nhà bố mẹ mình và nhìn vào cái bao tải lớn có chứa bố mình. Những dòng lệ chảy dài trên mặt và rơi xuống bộ quân phục anh ta đang mang. Anh nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ngày xưa. Bố anh là một bác sĩ giàu có vào thời đó, với một phòng khám lớn, thậm chí còn khám bệnh cho một số gia đình người Anh sau khi được giới thiệu đến cho họ bởi người bạn Nigel Martin.

Anh ta nghĩ về khoảng thời gian cùng anh trai mình chơi đùa trong sân nhà Martin với Mike và Terry, và anh ta tự hỏi không biết điều gì đã xảy đến với họ vào lúc này.

Sau một giờ anh ta nhận thấy mùi từ cái túi đã nặng lên. Anh ta đứng lên và đi ra cửa.

– Talat.

– Thưa cậu chủ?

– Mang kéo và một cái dao lại đây.

Còn lại một mình trong phòng, đại tá Osman Badri mở phanh cái túi ra, từ trên miệng dọc sang bên và dọc đến đáy. Rồi anh kéo đầu cái túi ra và quay nó vào. Xác của bố anh gần như trần truồng.

Theo truyền thống, đó là công việc của phụ nữ, nhưng mẹ anh không thể làm gì được vào lúc này. Anh bảo mang đến nước và bông băng, tắm rửa lau chùi cho cái xác tơi tả, lắp lại cái chân gẫy, duỗi thẳng nó ra và phủ hoa lên. Trong khi làm việc, anh khóc, và trong khi khóc, anh thay đổi.

Vào hoàng hôn anh gọi cho Imam ở nghĩa trang Alwazia ở Risafa và thỏa thuận cho một đám tang vào sáng ngày hôm sau.

Mike Martin trên thực tế đã đi vào trong thành phố trên chiếc xe đạp của mình vào buổi sáng chủ nhật, ngày 17 tháng Hai đó, nhưng anh đã quay về sau khi mua xong rau quả và kiểm tra ba bức tường xem có dấu phấn nào không, trở về đến ngôi biệt thự đúng trước buổi trưa. Trong buổi chiều anh rất bận rộn chăm sóc khu vườn. Ông Kulikov, trong khi không người Công giáo cũng như đạo Hồi nào kỷ niệm dù là ngày lễ thánh Hồi giáo vào thứ Sáu hay ngày lễ Sabbath của người Công giáo vào Chủ nhật, vẫn ở nhà với vẻ lạnh lùng, phàn nàn về tình trạng những bông hoa hồng của mình.

Trong khi Martin làm việc với những khóm hoa hồng, các đội theo dõi của Mukhabarat đã kín đáo nhìn vào trong qua bức tường. Anh lập luận rằng Jericho sẽ không có tin tức gì mới trong ít nhất hai ngày nữa; Martin sẽ có thể đi kiểm tra những dấu phấn lại vào tối ngày hôm sau.

Đám tang của tiến sĩ Badri diễn ra ở Alwazia rất ngắn sau 9 giờ. Các nghĩa trang của Baghdad rất bận rộn trong thời gian đó, và Imam phải có nhiều việc phải làm. Chỉ vài ngày trước, Mỹ đã ném bom một hầm trú ẩn công cộng, làm hơn 300 người chết. Nỗi buồn thương dâng cao. Nhiều người khóc lóc ở đám tang bên cạnh đều tưởng viên đại tá có người thân chết vì những quả bom của quân Mỹ. Anh trả lời ngắn gọn bố mình chết vì những lý do tự nhiên.

Theo phong tục đạo Hồi, tang lễ thường diễn ra nhanh chóng, không mất thời gian chờ đợi giữa khi chết và khi chôn xuống đất. Và cũng không có quan tài gỗ như ở người Công giáo; xác chết được quấn trong vải. Viên dược sĩ tới, giúp đỡ bà Badri, và họ đi về thành nhóm khi nghĩa trang nhỏ bé đã đông người.

Đại tá Badri chỉ cách vài yard từ cửa Alwazia khi anh nghe gọi tên mình. Đứng cách anh vài bước chân là một chiếc limousin với cửa sổ màu đen. Một cửa sổ ở băng ghế sau đang mở. Lại có tiếng gọi tên anh. Đại tá Badri bảo viên dược sĩ đưa mẹ mình về nhà ở Qadisiyah; anh sẽ quay về gặp họ sau. Khi họ đã đi, anh bước tới chiếc ôtô.

Giọng nói vang lên: “Lên đây nào, đại tá. Chúng ta cần nói chuyện”.

Anh mở cửa xe và bước vào trong. Người duy nhất trong xe dịch vào dành chỗ cho anh. Badri nghĩ mình biết khuôn mặt này, nhưng thật mù mờ. Anh đã nhìn thấy ở đâu đó. Anh bước vào và đóng cửa.

Người đàn ông trong bộ com lê màu ghi đậm nhấn một cái nút, và cửa sổ đóng trở lại, ngăn tiếng động trong xe không vang ra ngoài.

– Anh vừa mới chôn cất cha mình xong.

– Phải. Người đàn ông đó là ai? Tại sao ông ta không lộ mặt ra?

– Thật điên rồ, cái điều đã xảy ra với ông. Nếu tôi được biết đúng lúc, tôi có thể chặn nó lại. Tôi biết muộn quá.

Osman Badri cảm thấy điều gì đó như một cú đấm vào bao tử. Anh đã nhận ra mình đang nói chuyện với ai – một người đã nói chuyện với anh ở một cuộc tiếp tân của giới quân sự hai năm trước đây.

– Tôi đang định nói cho anh đây, đại tá, rằng, nếu anh báo cáo lại chuyện này, tôi có thể phải chết thảm còn hơn cha anh nhiều.

Thì cũng chỉ vẫn chuyện đó thôi, Badri nghĩ. Phản phúc.

– Một lần nữa, người đàn ông trầm giọng nói, tôi nhắc lại là tôi yêu Rais.

– Thì tôi cũng thế, Badri nói.

– Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Ông ấy đang trong cơn điên. Trong cơn điên giận ông ta hành động kinh khủng lắm.

– Ông ta phải bị chặn lại. Anh chắc là cũng biết Qa’ala rồi chứ.

Badri lại ngạc nhiên, lần này bởi sự thay đổi chủ đế đột ngột.

– Dĩ nhiên, tôi đã xây dựng nó rồi mà.

– Chính xác là như thế. Anh có biết nó nằm ở đâu không?

– Không.

Viên sĩ quan cấp trên nói với anh.

– Ông ta hẳn là không nghiêm túc rồi, Badri nói.

– Ông ta hoàn toàn nghiêm túc. ông ta có ý định sử dụng nó để chống lại người Mỹ. Điều đó có thể không phải là điều chúng ta phải bận tâm. Nhưng anh có biết người Mỹ sẽ trả đũa như thế nào không?

Sẽ rất kinh khủng. Không một viên gạch nào ở đây lành lặn nổi đâu, không một viên đá nào hết. Chỉ Rais là còn sống sót thôi. Anh có muốn là nạn nhân trong đó không?

Đại tá Badri nghĩ về những xác chết nằm trong nghĩa trang, trên đó những sexton ngang bằng với nhau khi đó sẽ tung khỏi mặt đất.

– Thế ông muốn gì? anh hỏi.

– Nói cho tôi biết về Qa’ala.

– Tại sao?

– Người Mỹ sẽ phá huỷ nó đi.

– Ông có thể chuyển thông tin cho họ à?

– Tin tôi đi, có cách mà. Qa’ala…

Thế là đại tá Osman Badri, người kỹ sư trẻ đã từng muốn xây những công trình lớn cho hàng thế kỷ, cũng như tổ tiên anh từng làm, nói với người có tên là Jericho.

– Địa điểm đây.

Badri đưa cho ông ta cái đó.

– Đi về chỗ của anh đi, đại tá. Anh sẽ được an toàn.

Đại tá Badri rời khỏi chiếc xe và đi, lòng anh nặng trĩu. Đi dược 100 yard anh bắt đầu tự hỏi mình, hỏi đi hỏi lại: mình vừa làm gì vậy? Đột nhiên, anh hiểu là anh phải nói cho anh trai mình, người anh trai luôn có một cái đầu lạnh lùng. là một người cố vấn khôn ngoan hơn nhiều.

Người mà đội Mossad gọi là kẻ chi điểm quay lại Vienna vào thứ Hai đó, do Tel Aviv triệu tập. Lại một lần nữa anh ta vào vai luật gia có uy tín từ New York đến, với mọi thứ giấy tờ cần thiết để chứng minh.

Ngay cả dù cho người luật gia thực sự không còn đang đi nghỉ, các cơ may để Gemuetlich, người ghét điện thoại và fax, gọi điện đến New York để kiểm tra được coi là rất nhỏ. Đó là nguy cơ mà Mossad đã chuẩn bị để ứng phó.

Lại một lần nữa người kẻ chỉ điểm lại ngồi ở Sheraton viết một bức thư riêng đến Herr Gemuetlich. Anh ta lại xin lỗi về đã đường đột đến thủ đô nước Áo nhưng giải thích mình có mang theo kế toán của hãng, và hai người muốn gửi tiền nhân danh khách hàng của mình.

Bức thư được gửi bằng tay vào buổi chiểu muộn, và sáng hôm sau trả lời của Gemuetlich đã đến khách sạn, hẹn gặp vào 10 giờ sáng hôm đó.

Kẻ chỉ điểm quả thực có người đi theo. Người đi cùng anh ta chỉ được biết là người phá khoá, chuyên môn của anh ta. Nếu Mossad có được ở đại bản doanh Tel Aviv của mình một bộ sưu tập không thể sánh được các loại công ty giả, hộ chiếu mạo, hòm thư, và mọi thứ linh tinh khác để đánh lừa, thì niềm tự hào của nó phải tính đến những tay chuyên bẻ khoá két sắt và hòm thư. Khả năng của Mossad đột nhập vào những nơi được khoá kỹ là sở trường trong thế giới ngầm. Về khoa học đột nhập, Lừ lâu Mossad đã được coi là giỏi nhất. Đã từng có đội neviot trong vụ Watergate, không ai có thể biết được. Tiếng tăm của những tay phá khoá Israel cao đến nỗi khi các nhà sản xuất Anh gửi một sản phẩm đến SIS theo lời đề nghị của họ, Nhà Thế kỷ đã chuyển ngay nó sang cho Tel Aviv. Mossad nghiên cứu nó, phá được nó, rồi chuyển về London với nhận xét chắc chắn”. SIS bèn bỏ nó.

Lần tới một công ty khoá của Anh đã làm ra được một loại khoá mới rất ưu việt, Nhà Thế kỷ đã đề nghị họ mang về, giữ lấy nó, nhưng cung cấp một cái khác dễ dàng hơn cho các nhà phân tích. Cái dễ hơn đó được chuyển sang Tel Aviv. Tại đó nó được nghiên cứu và cuối cùng bị phá, rồi được chuyển về London với nhận xét “không thể phá được”. SIS bèn khuyên nhà sản xuất tung khoá ra thị trường.

Điều này dẫn đến một vụ khá rắc rối một năm sau đó, khi một người phá khoá của Mossad mất nhiều giờ toát mồ hôi và tức điên lên khi làm việc với một cái khoá như thế trong hành lang một toà nhà văn phòng tại một thủ đô châu Âu trước khi phải rời đi trong cơn tức giận. Kể từ đó, người Anh tự kiểm tra lấy khoá của mình và buộc Mossad phải tự mầy mò.

Chuyên gia phá khoá mang theo từ Tel Aviv không phải là người giỏi nhất ở Israel mà là người giỏi thứ hai. Nguyên nhân cho việc này: anh ta có một số phẩm chất mà người giỏi nhất không có.

Trong đêm chàng thanh niên đã nghiên cứu một báo cáo dài sáu giờ từ Gidi Barzilai về chủ đề sản phẩm thế kỷ XVIII của nhà sản xuất đồ gỗ Đức-Pháp, Riesener, và một miêu tả đầy đủ của kẻ chỉ điểm về cấu tạo của toà nhà Winkler. Đội theo dõi yarid hoàn tất việc truyền đạt thông tin với việc thông báo các chuyển động của người gác đêm, được quan sát nhiều lần và nhiều địa điểm về ánh sáng ở bên trong cũng như bên ngoài ngân hàng trong đêm.

Cũng trong ngày thứ Hai đó. Mike Martin đợi cho đến năm giờ chiều trước khi đạp chiếc xe cà khổ của mình qua cái sân lát gạch đến cửa sau của khu vườn Kulikov, mở cửa, và đi ra.

Anh lên xe và bắt đầu xuôi phố theo hướng lối sang sông gần nhất, tại nơi nơi cầu Jumhuriya từng đứng trước khi những chiếc Tornado chú ý đến nó. Anh quay sang góc, ngoài tầm nhìn của biệt thự, và nhìn thấy chiếc ôtô đầu tiên. Rồi chiếc thứ hai, đỗ xa hơn. Khi hai người đi ra từ chiếc xe thứ hai và ra đứng giữa đường, dạ dày anh bắt đầu thắt lại. Anh cả gan ném một cái liếc nhìn về phía sau, hai người đàn ông từ chiếc xe kia đã phong toả mọi lối ra.

Biết mọi chuyện đã lộ, anh đạp xe đi. Không còn việc gì khác để làm nữa rồi. Một trong những người đàn ông đứng trước mặt anh chỉ sang vệ đường.

– Này anh kia, hắn ta kêu lên. Lại đây.

Anh dừng lại dưới các tán cây ven đường. Ba người đàn ông khác hiện ra, toàn là lính. Súng của họ chĩa thẳng vào anh. Anh chầm chậm giơ hai tay lên.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN