Nỗi Buồn Chiến Tranh
Chương 11
Bà con dân phố dần dần rồi cũng quen với cái lối chong đèn của Kiên. Vừa điên điên vừa dị hợm vừa buồn thảm như là đèn đuốc của tà ma. Những tay chuyên nghiệp ăn sương và những “tiên cô” đầu đường xó chợ ở ven hồ Thuyền Quang thân ái đặt cho cái ô cửa sổ kỳ quặc, tứ mùa sáng thâu canh của Kiên một biệt danh rất hay là: Ngọn hải đăng Ha le? Còn anh thì dĩ nhiên là “thằng cha gác đèn”.
– Ê! ông anh gác đèn khỏe chứ! Đêm rồi lách được nhiều chữ không? – Họ chào anh thế và anh cười tủm chào đáp. Những hôm làm việc trọn đêm, lúc mở cửa sổ ra đón ngọn gió lành buổi tinh mơ anh thấy vui vui trong lòng khi từ đâu đó dưới đường một ‘!mỹ nhân” vỉa hè ỡm ờ huýt vọng lên một tiếng sáo để chào hỏi và để chòng anh.
Trong bóng đêm khi vạn vật xung quanh chỉ còn là những cái bóng, Kiên thấy mình gần gũi hơn với cuộc đời. Dường như bóng tối của giời đất khẳng định bóng tối trong tâm hồn anh. Bây giờ thức trắng là sự thường còn nói chung trừ phi say mèm chẳng hôm nào Kiên vào giường trước hai giờ sáng. Đêm tối càng ngày càng quý giá và càng ngày càng cần kíp hơn đối với anh. Ban ngày giấc ngủ trái tự nhiên khô khốc, khó chịu như thể chứa đầy sạn. Còn ban đêm khi mệt lả mà thiếp đi thì thời gian hóa thành ngọn lửa âm ỉ đau nhói ruột anh, đuổi anh ra khỏi giấc ngủ. Đôi khi anh nghĩ chỉ có cái chết mới tạo được cảm giác yên nghỉ thực sự. Hồi bé nghe có câu hát thế này: đời người chỉ có gang tay, đứa nào hay ngủ chỉ còn nửa gang. . . Kiên biết rằng thời gian của cuộc đời anh đang ruổi nước mã hồi. Anh chẳng sợ gì cái chết. Cái chết không đáng sợ, chỉ buồn thôi và nó trĩu nặng những dang dở cùng những nuối tiếc.
Cách đây không lâu, vào lúc rạng đông của một đêm gần như thức trắng, cảm giác minh mẫn và sinh động nhất về sự chết đã đến với Kiên. ấn tượng của lúc thoắt lìa đời ấy rõ rệt và đậm nét đến nỗi không hiểu rồi đây khi chính thức chầu giời anh có còn có lại ấn tượng đó nữa hay không. Có thể nói rằng thực ra thì anh đã chết rồi dù chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng mà đã chết! Kiên vẫn nhớ như in. Đúng vào cái thời điểm một phần ngàn tích tắc ấy, có một cái gì đó tự trong anh, không rõ là cái gì, bình sinh vốn hư ảo, phi vật chất, không thể nhận thức được đã thình lình ngưng sững lại, kết rắn trở nên sắc nhọn và lạnh ngắt. Dường như đấy chính là lý trí, một lý trí đã hóa đá. Nó chọc rất nhanh vào anh một nhát vô hình. Sau một thoáng lưỡng lự, toàn bộ sự sống chạy dồn cả về đó để thoát ra khỏi anh một cách chầm chậm, im lìm và khôn cưỡng.
Sinh lực sụt xuống như mực nước trong một cái bình bị rò ở đáy êm như nhung. Kiên lịm đi gục mặt xuống bàn viết, cây bút rời khỏi tay lăn trên sàn. Thế nhưng tuyệt nhiên không phải là sự ngất lịm thô rắn, nặng nề như khi trúng đạn bị thương hoặc khi mê man bất tỉnh vì sốt cao. Và có lẽ nó cũng không giống với trạng thái khi người ta xuất thần. Nó vượt lên trên, nó là chưa từng có, là trạng thái của mọi trạng thái, nó là quy luật của mọi quy luật, nó là điểm hội tụ chót cùng của cuộc sống. Nó là cái chết. Kiên biết. Một dòng sông. Chưa từng bao giờ Kiên được thấy – thấy, chứ không chỉ là mường tượng – cuộc đời mình hiện thân thành một triền sông như thế. Còn bản thân mình, thì anh thấy, đang đứng chon von trên mỏm bờ cao dốc đứng lặng ngắm toàn cảnh đời mình đang mất đi, đang trôi xa, đang vĩnh biệt chính mình. Trên dòng ra đi về một hướng ấy của sự sống hiện lên một cách tổng hòa, vừa xa mờ vừa mồn một rõ, sâu sắc và trọn vẹn thế giới đời anh: từng khoảnh khắc, từng con người – những con người mà gương mặt và số phận của họ giờ đây ngoài anh chắc chẳng còn ai nhớ tới – từng sự kiện, từng kỷ niệm, từng giọt nước đã họp thành con sông không tên tuổi của anh.
Kiên nhìn thấy sân trường Bưởi buổi chiều cuối xuân đầu hạ năm nào, những hàng cây râm mát bị đốn hạ, mặt đất bị xẻ dọc ngang, bị đào hoắm xuống, thầy hiệu trưởng chụp trên đầu cái mũ đồng của lính cứu hỏa hào sảng khoa trương nói lớn lên rằng chính là nước Mỹ sẽ bị hủy diệt trong cuộc chiến tranh này chứ không phải chúng ta. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy, thầy hét lên “chính cái em sẽ là những thiên thần trẻ tuổi của cách mạng, các em sẽ cứu nhân loại” – Thầy chỉ mặt ai đó trong đám học trò lớp 10 đang tay gậy tay gộc, súng gỗ, xẻng cuốc, hừng hực vẻ hùng dũng trẻ con. Sống là đây mà chết cũng là đây, mọi người ầm ĩ hát. Sát chát? Ai đó gào tướng lên… Thế nhưng, anh và Phương, lại không có mặt trong cuộc mít tinh ba sẵn sàng ấy. Hai đứa lẩn ra phía sau nhà bát giác ẩn vào lùm cây sát mép Hồ Tây. Đằng xa, đường Cổ Ngư đỏ ánh chiều và rực rỡ màu phượng vĩ. Ve sầu râm ran.
– Kệ! – Phương nói, quỳ xuống sau lùm cây và cởi nhanh áo ngoài. BỘ đồ tắm màu đen kiểu xưa không thấy các cô ngày nay bận nữa nhưng thực sự là đẹp tuyệt và nhất là thật liều lĩnh. Màu vải đen nhánh. Màu da trắng lóa. Kiên sững người, muốn nhắm mắt lại trước thân hình mềm mại của người bạn gái. “Kệ”, Phương nói cười tươi, thích trí vì đã có gan trốn lao động, trốn mít tinh và mặc áo tắm ở ngay trong trường. “Kệ chiến tranh kệ các anh hùng trẻ tuổi và các anh hùng lớn tuổi, ta bơi nhé, bơi thật xa tới thủy cung, tới chết đuối cả hai thì thôi”. Kệ. ôi, cái ngày tháng Tư nóng hổi, nồng nàn. Những lần ôm xiết ngắn ngủi chếnh choáng trong làn nước màu lục nhạt. Những sợi rong lập lờ. Tiếng cá quẫy đuôi. Và khuôn mặt trắng mịn của Phương nhòa trong nước, những chùm bong bóng hơi thở, mái tóc ướt nặng, bờ vai, đôi chân dài, thân thiết, tuyệt mỹ đến đau nhói trong lòng. . . Tiếng đồng ca từ sân trường vang ra hồ. Kệ? – Phương la lên, cười lanh lảnh. ánh tà buông, màu hồng đậm. Hai đứa bơi sóng đôi mỗi lúc một xa bờ… khúc sông đời thanh lặng, êm ả cuối cùng nhanh chóng trôi xa. Bắt đầu dằng dặc chặng sông dài rực lửa. Bao nhiêu năm trời. Một cuộc chiến tranh.
Ngay lập tức hiện lên trước mắt Kiên nhà ga Thanh Hóa ngày ấy sau trận mưa bom, đang cuồn cuộn cháy. Tất cả những gì cháy được và không cháy được đều ngụt cháy. Từ đoàn tàu khách bị vật nghiêng đàn ông, đàn bà, trẻ con ùa lên sân nhào chạy. Quần áo bùng bùng lửa. Những cái bóng cụt đầu vừa chạy vừa vấp. Tiếng máy bay, sầm sầm sập tới, sầm sầm đi qua. Bom rơi chênh chếch trong nắng. Lần đầu tiên Kiên thấy người bị giết, thấy sự dã man, thấy máu trào lênh láng.
Trời ơi, và từ đấy… cả thế hệ anh đã lao vào trận chiến một cách hăng say, một cách hung dữ, đã làm đổ máu mình, đổ máu người. Hàng đọi máu, sông máu. ập tới, trực diện trận giáp lá cà kinh khủng dưới chân Ngọc Bơ Rẫy. Quân lính hai bên xông vào nhau, thọc lưỡi lê, phang báng súng. Những hình người toán loạn chạy dích dắc trên đầu ruồi súng máy rồi nhảy dựng lên. Kiên thấy chính anh cầm súng lục bắn vào đầu ai đó, phát đạn ru lô mạnh như bom nện trúng miệng người ấy, nổ toác ra làm văng đi một phần khuôn mặt, con mắt trái, gò má, quai hàm. A, a, a…! – Trời đất à à tiếng kêu không rõ cười hay khóc. Chao ôi, đau đớn và cuồng say, cái thời của anh, những con người trong thời của anh. Những tháng năm kịch liệt và kinh khủng Mậu Thân, sau Mậu Thân, mùa khô 72, thời sau hiệp định…
Những vùng đất cằn cỗi, chói chang, đau quặn. Mênh mông một Tây Nguyên hung tàn, cuồn cuộn một mùa bụi đỏ lấp trời. Yamơ, Đắc Đam, Sa Thầy, Ngọc Rỉnh Rua, Ngọc Bờ Biêng, Chư eô Tông… Tàn bạo, yêu thương hòa lẫn đau khổ, hạnh phúc đồng nhất. Tình yêu thù hận. Nói nhiều, cười nhiều, hò hét, chửi rủa, uống nhiều, khóc cũng nhiều. Và những ban mai, những chiều tà, những đêm trường, chiến tranh chứa chan đau khổ sống dậy trong lòng anh. Công Hơ Rinh làng xưa, hoang tàn, đổ nát, vương vãi khắp nơi súng ống với xương người. Và Diên Bình ngôi làng giải phóng chơ vơ giữa thảo nguyên – sau một tuần bị pháo kích chỉ còn tro than lẫn với thây người, và những linh hồn còn tươi mới bay lên như sương mù dọc bờ Đắc PƠ Xi khi tiểu đoàn Kiên hành quân qua làng. Lay động màn sương khói của ký ức, Kiên đột nhiên trông thấy lại rõ ràng kỳ lạ cái cảnh mình và Tạo “voi”, hai thằng quỳ bên khẩu Mã lai bắn xả vào dòng thác tàn binh của trung đoàn 45 đang tháo chạy khỏi vùng đất trống Phước An rìa ngoài Buôn Ma Thuộc. Khẩu đại liên hóa điên, điên rồ ngốn vào bụng những băng đạn đồng sáng loáng, khạc lửa tơi bời vào khối người mất trí đang đổ xô tới như hàng ngàn cái bia thịt, rú lên rũ rượi: ggòa, ggòa…? Run bần bật, lồng lộn trên cái giá ba chân, hơi nước ngùn ngụt bốc lên từ hộp tản nhiệt sôi réo. Kiên muốn ngừng bắn nhưng bàn tay thần chết giữ rịt lấy tay anh. Dòng lính áo xám bị xe tăng rượt dồn tới, dồn tới để chết chồng chất vì tay Kiên. Không phải là bắn nữa mà là tàn sát. Chưa bao giờ có nhiều xác người đến thế bày ra trước mắt Kiên.
Thôi? Tạo buông thõng băng đạn nhổm cả người lên, lay vai Kiên, rối rít như van – Thôi, đừng bắn nữa. ối giời ôi ? Thôi đi mà . . .
Khẩu đại liên không được tiếp đạn, nhả loạt đạn cuối cùng rồi im miệng. Cái chết đang điên cuồng ngấu nghiến vụt chuyển sang như thể trò đùa: đám lính ngụy người thì nằm rạp xuống người thì quỳ, hai tay đưa cao lên giời, vừa vặn hai chiếc T54 xộc tới kịp quặt ngang không đè chết ai nữa. Còn Tạo thì lại từ từ gập người xuống, hai bàn tay ôm ngực như muốn đỡ lấy quả tim, mắt dại đi tuồng như tràn đầy ngạc nhiên, ở nửa lưng bên trái nở bùng rất nhanh một bông hoa máu.
Tất cả, tất cả, chẳng sót một chi tiết nào của toàn bộ cuộc đời chiến đấu đã sống dậy lần cuối trước mắt Kiên, vừa lần lượt vừa đồng hiện, vừa thoáng lướt vừa chậm rãi trôi qua, đau đớn như một cuộc diễu hành tang lễ.
Và, bây giờ trên dòng trôi không ngừng uơn lượn và gấp khúc của cuộc đời, Kiên thấy lan tới chỗ mỏm bờ sông anh đang đứng làn nước mang rõ rệt hình bóng của cái thời hiện tại, cái ngày hôm nay. Anh như nghe thấy hồn mình buông một tiếng thở dài. Âu là đã tới lúc rồi anh tự nhủ và nhắm mắt lại, từ từ ngả người để ngã, để thả rơi mình xuống. Thốt nhiên khi cảm giác hụt hẫng cuối cùng sắp sửa hứng trọn lấy anh thì từ phía bờ bên kia chợt cất lên một tiếng kêu dài, gọi tên anh. “- Kiên! -Giọng buồn và du dương, vang vọng: “… Kiên… Kiên…”.
Kiên choàng mở mắt, và trước khi bừng tỉnh anh đã kịp ngước nhìn sang bờ bên kia. Nhưng cũng chỉ kịp thấy: Một đồng cỏ tím vô biên cuồn cuộn sóng lá và sương mù, tịnh không một bóng người. Kiên cố níu mình lại song không thể được nữa bởi anh đã hoàn toàn tỉnh dậy.
Ai gọi nhỉ? – Một giọng dường như vô cùng thân thuộc nhưng lại không hề có trong dòng ký ức của thính giác. Có lẽ nhờ tiếng gọi ấy mà Kiên không chết, đã dứt ra khỏi dòng trôi của sự chết. Song bản thân tiếng gọi ấy và cái bờ bên kia mênh mang mờ ảo như một thiên đường vắng ngắt ấy là hiện thân cho cái gì, có ý nghĩa gì thì có lẽ phải đến lần chết sau Kiên mới hiểu nổi. Phải chăng đó là vang vọng của niềm nuối tiếc cuộc sống, là hiện thân của những gì cuộc sống không thể đạt tới những cái gì còn dang dở trong cuộc đời? Cuộc đời là thế đấy, thật là rộng lớn, thật là dài lâu, phong phú và sôi động đến vậy nhưng mà rồi rốt cuộc vẫn thiếu đi, vẫn cứ hụt đi một cái gì đấy làm cho ai nấy bước vào cõi chết đều thấy trong lòng canh cánh một cái gì, vương vấp một cái gì như thể một món nợ hay là như một nhiệm vụ chưa kịp hoàn thành. Với Kiên, món nợ đó chính là thế giới hàm chứa trong cuộc sống của anh. Cả một thế giới, một thời đại, một lịch sử bị vùi xuống lòng sâu đất ẩm cùng với thân xác anh chẳng phải là oan uổng và đáng nuối tiếc lắm sao?
Giá như có thể không cần phải ngủ, giá như có thể không cần phải sống lấy lệ cuộc sống hàng ngày, giá như toàn bộ lượng thời gian còn lại có thể chỉ để dành cho duy nhất sự nghiệp bút nghiên, một sự nghiệp không có mục đích nào khác ngoài định hình trên giấy những giấc mơ quá khứ, những ám ảnh và những vang âm sắp mai một của thời đã qua, thì tới ngày đã định của số phận trở lại với mỏm bờ sông dốc đứng kia anh sẽ nhẹ lòng hơn và thanh thản hơn biết bao khi xuống với dòng nước đưa anh về cõi chết, nơi vô vàn linh hồn thân thuộc đang đón chờ anh.
Nghĩa là . . . giờ đây ở chặng cuối này đời Kiên hầu như đã thu hết về đêm. Ngọn đèn trên bàn viết chong từ đầu tối tới hừng đông. So với cái bóng của anh trên tường anh cũng bất động và lầm lì như thế, anh cũng chỉ là một cái bóng. Một cái bóng đã mất hết năng lực tồn tại thực tế nhưng chai rắn và ương ngạnh vẫn sống, dựa vào sức lì dữ dội, dai dẳng của năng lượng ký ức. Không phải ai cũng chịu đựng nổi một quá trình tự cầm cố, tự giam mình vào đêm tối nặng nề và dai dẳng như vậy. Ở Kiên, ngoài sự thúc bách của những linh cảm về cái chết đang kề tới, tài thức khuya còn là một thiên hướng. Cái lối văn chương mất ngủ, văn chương như thể tự thiêu của anh có nét bẩm sinh, dường như nó là một thứ di căn, một thể biến tướng của chứng mộng du và bệnh hão huyền di truyền theo đằng nội đã nhập vào anh từ trước lúc lọt lòng. Như là cha của Kiên chẳng hạn thì ông đã suốt đời hão huyền và mộng du.
Không phải là liên miên nhưng cũng chẳng phải họa hoằn những đêm cha của Kiên trở thành không trọng lượng, nhẹ bỗng như thể chỉ còn lại có linh hồn, lẳng lặng rời khỏi giường, hiền lành và êm ả, chậm chậm tịnh tiến, mắt nhắm nghiền, tay thả xuôi, du hành khắp trong buồng, trong nhà, dọc hành lang, lên cầu thang, xuống cầu thang, rồi nếu phải hôm cổng chính chưa kịp đóng thì từ từ ông lướt mình trôi ra phố. Hà Nội thủa đó tử tế và tốt bụng, người ta sẽ sàng nhường lối cho ông già lạc nẻo, không ai xen ngang vào cõi phiêu diêu bát ngát của ông, ngay cả bọn trẻ con cũng không chọc phá ông, chúng chỉ trông chừng để giấc ngủ không dưa ông xuống hồ Thuyền Quang. Nhưng hình như mẹ anh thì không chịu đựng nổi những cơn xuất thần hiền lành và thờ thẫn của cha anh. Hình như bà coi đấy là nỗi nhục, là bằng chứng và về sự suy đồi và về sự thất bại vô phương cứu vãn của cuộc đời cha anh.
“Một dòng họ quẫn trí”, Kiên nhớ mẹ thường than thế, một cách tổng quát như thế. Dĩ nhiên hồi ấy Kiên còn quá bé nên trí nhớ của anh chỉ có giá một phần tư, song vẫn có thể phỏng đoán rằng chính vẻ lững lờ lập dị kiểu ma làm của cha đã góp phần buộc mẹ phải dứt bỏ cha con anh. chuyện đó xảy ra thế nào, vào năm nào Kiên chẳng nhớ. ấn tượng ngày mẹ ra đi mờ nhạt một cách thảm hại. Kiên hoàn toàn hờ hững. Mẹ đi, đơn giản thế thôi, vào một ngày nào đó trong những ngày tháng lung linh tốt lành và buồn thảm của thời thơ ấu. Bóng hình mẹ chỉ còn sơ sài ở vài tấm ảnh. Nhưng những bức hình ấy chẳng giúp anh thấy lại được mẹ. Trong ảnh, từ đáy thời gian mòn mỏi đã úa vàng, người phụ nữ trẻ có khuôn mặt ghi lại nét mặt của mẹ dõi vào anh một cái nhìn chẳng nói lên một điều gì hết, mọi tình cảm như thể bị nuốt đi đâu cả, chỉ làm cho lòng anh thêm mặc cảm về sự què quặt hiển nhiên của tâm hồn mình. Còn hơn là một khuyết tật, trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên chỉ với nhiều nhất là một phần hai nhân cách. Thậm chí ngày mẹ ra đi mình có buồn không, có nhớ không, anh cũng chả nhớ nổi nữa. Còn mẹ thì đã chia tay với mình ra sao, đã an ủi dỗ dành thế nào, anh lại càng không nhớ.
– Tôi là một đảng viên, mình ạ. Và tôi là một người trí thức mới, tôi không đần, không đụt, điều đó mình cần phải nhớ hộ tôi!
Đấy! Riêng cái câu như thể đánh đố ấy mà mẹ đã nói khi trả lời một câu hỏi nào đó của cha anh trước lúc từ giã thì anh lại nhớ. Hay là cái câu này, nghe là lạ ngường ngượng: “Bây giờ con đã là đội viên thiếu niên, ngày mai là vào đoàn, trở thành người đàn ông thực thụ rồi còn gì. Nên phải cứng rắn dần lên con ạ?” – Đó, câu nói như thế thì lại chẳng quên. Trong khi bao nhiêu những điều căn dặn và cử chỉ âu yếm cuối cùng của tình mẹ , trí nhớ của Kiên lại để cho mai một hết. . .
Mãi đến năm mười bảy tuổi, sắp tới ngày nhập ngũ rồi, anh mới nghĩ rằng nên đi tìm để biết thêm về mẹ. Khi ấy mẹ anh qua đời đã hơn năm năm.
Còn cha thì hầu như chưa bao giờ ông kể gì cho anh nghe về mẹ. Hẳn là ông tránh, ông tránh cho ông. Tránh nỗi đau khổ. Trong nhiều năm khả năng cam chịu của ông đã giữ được cho hai cha con một đời sống bình quân. Chỉ có điều hình như ông uống rượu và thả mình nhiều hơn vào những cơn mộng du. Đột nhiên ông suy sụp hẳn. Khi ấy Kiên đã học cấp 3, tương đối lớn và đã hiểu được nhiều. Tuy nhiên thật khó mà hiểu được nỗi lòng của cha. Kiên thấy ông thôi không đến làm việc ở viện bảo tàng nữa. ông không lọc cọc đạp xe đèo giá vẽ đi thực cảnh nơi này nơi kia như mọi năm. ông sử dụng tầng áp mái của chung cư để làm xưởng họa và ông hầu như hoàn toàn giam mình lên trên đó. Ở trên đó ông âm thầm độc thoại và âm thầm vẽ. Trong khí ẩm. Bụi bặm. Những con dơi loạng choạng bay như trong hang núi. Kiên nghe người ta xì xào rằng cha anh bị phê phán và bị đánh đổ, rằng bây giờ ông là nhân vật bất mãn đáng ngờ, một tay khuynh hữu. ông đang trở thành lẩm cẩm và kỳ quặc.
Mỗi lần đặt chân lên xưởng vẽ lòng Kiên lại ứ nghẹn nỗi xót xa, mềm ái ngại đầy buồn bực. Những bức tranh ma quái nhìn anh trong bóng tối lờ mờ. Mùi rượu mạnh. Khói thuốc lá xanh nhờn. Cha ngồi thu mình trên chiếc ghế tựa trước một giá vẽ phủ vải đen che bức tranh đang vẽ dở. – Ai đấy? – Nghe tiếng chân, ông ngẩng lên hỏi, giọng khàn khàn.
– Con, con đưa cơm lên, cha xơi cơm đi.
– Ờ – ông nói, rồi nặng nề ông lại nhìn xuống. Họa hoằn ông mới được đôi lời với Kiên, thường là chẳng đâu vào đâu Kiên đặt mâm cơm lên chõng. Ngày hai bận anh đem cơm lên cho cha. Cơm canh đạm bạc. Đời sống của hai cha con túng bấn. Đồ đạc bán dần, ngay cả một số tư trang của mẹ để lại Kiên cũng phải lần lượt cho đi ở nhà người. Từ lâu rồi không ai mua tranh của cha. Từ lâu ông không tham gia trưng bày, triển lãm gì nữa, giới hội họa đã quên ông.
– Rồi cha sẽ cho ra đời một kiệt tác! – Trong những cơn say mèm ông thường bất lực dậm dọa như thế. Song, do những hạn chế về lập trường quan điểm, do càng ngày càng xa lạ với thẩm mỹ của quần chúng nhân dân lao động, ông đã biến hội họa của ông thành những chân dung ma quỷ… Đại khái là người ta phê phán ông như vậy. Kiên đọc thấy thế trong một tờ tạp chí mỹ thuật thời đó. Phải hạ tính vĩnh cửu xuống mà thêm chất phàm tục vào? – Có lần Kiên bắt gặp cha mình đang giận dữ quát vào mặt bức họa đang vẽ dở trên giá – Phải xác định thành phần giai cấp cho sông núi? Họ dạy thế, vậy bảo phải làm sao bây giờ, hả?
Càng về sau này, dưới ánh mắt cha anh toàn bộ cõi đời như càng chuyển nhanh sang một thế giới khác, ngả sang màu khác. Con người trong tranh của ông rười rượi buồn, thân thể, mặt mày dài thượt, cộng với vẻ câm lặng biến thành những cái bóng. Đã thế, màu sắc của tranh lại dị thường. Trong tất cả những sáng tác cuối đời của ông, dù sơn dầu hay bột mầu hay là tranh lụa, dù là vẽ người, hay vẽ ngựa vẽ bò, vẽ cảnh mưa hay cảnh nắng, ban mai hay ban tối, thành phố, làng quê hay núi rừng, sông suối, và cả bầu trời, cả mặt biển nữa, tất thảy đều được thể hiện, được phủ trong chung quy là những sắc độ khác nhau của độc một màu vàng, chỉ một màu vàng thôi không thêm màu nào khác.
Trong tranh của cha Kiên: đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con nối nhau thành một dòng những hình nhân héo vàng sống vu vơ giữa những miền không có thật của cuộc đời, mỗi ngày một thêm lạc bước rời ra khỏi cõi dương không ngoái nhìn lại, và chính cha của Kiên là người sau cùng nhập vào dòng những hình nhân bi thảm ấy.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!