Nỗi Buồn Chiến Tranh - Chương 23
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
91


Nỗi Buồn Chiến Tranh


Chương 23


KHI NHÀ VĂN CỦA PHƯỜNG CHÚNG TÔI từ bỏ khu phố này, anh chẳng hề
 cho ai hay, mà rồi thực ra cũng chẳng ai người ta để ý. Anh vẫn thường 
biến mất, khi một tuần, khi hàng tháng. Lần này có thể là hàng năm 
chăng, thậm chí mãi mãi. Chuyện đó chẳng có gì lạ, cũng chẳng khó gì, 
bởi nếu biết làm cho mình tự do thì con người ta vẫn nhiều vận hội và 
vẫn có muôn ngả để sống, như gió trời. Hôm anh ta đi, phòng để ngỏ. Vào 
lúc rạng mai gió bấc tràn về bung màn cửa sổ. Bụi xám mưa phùn thổi vào 
buồng, phủ lên chút ít đồ đạc sơ sài, những tàn tích của một lối sống đã
 quá thời. Tro than từ lò sưởi tỏa phù ra, và giấy má từ mặt bàn, giá 
sách, từ đống bản thảo chất trong góc tung xỏa, vương khắp trên sàn. 
Người đàn bà hôm ấy đã ở lại qua đêm trong phòng, tỉnh dậy, còn lại một 
mình. âm thầm chị thu dọn căn buồng bừa bộn xơ xác. Tất cả giấy tờ tan 
tác chị nhặt hết lại, dồn vào với chồng bản thảo, thành cả một tòa núi 
non. Sau đó người ta thấy chị lễ mễ khuân toàn bộ núi giấy ấy lên tầng 
áp mái, nơi chị ở. Tất cả đều khó hiểu đối với chị. Vì sao anh bỏ đi và 
đi đâu, chị không biết. Nhưng chị không thể nói, không thể hỏi gì ở ai 
về anh. Chỉ biết bộc bạch tâm sự bằng sự buồn xỉu làm tăng lên sức nặng 
của sự câm lặng u ám. Và kệ rằng năm tháng trôi qua, và quên rằng, trước
 khi ra đi anh đã định cho tuốt vào lò, chị vẫn cẩn thận giữ gìn nguyên 
vẹn cái khối lượng ngốt người những trang bản thảo rối bời đầy bụi ấy. 
Người ta đùa rằng chị đã phải bùa ngải nên đã trở thành thần giữ của. 
Riêng tôi thì tôi lại cảm thấy trong sự chờ đợi kín như bưng của người 
đàn bà câm đối với tay nhà văn của phường có cái gì như lòng thủy chung 
của một độc giả giành cho tác phẩm gối đầu giường. Và nếu đúng như vậy 
thì giá trị của tác phẩm không bao giờ ra đời ấy, tôi nghĩ, chí ít cũng 
đã được khẳng định, hay nói cách khác, được bảo đảm bởi tấm lòng người 
độc giả độc nhất của nó.

Về sau, khi bằng một cách nào đó, có được
 trong tay toàn bộ bản thảo trữ trên tầng áp mái trong phòng người đàn 
bà bị câm, không hiểu sao tôi thấy khá yên tâm với sự đảm bảo thầm lặng 
của chị để có thể kiên nhẫn lần đọc kỹ càng thậm chí từng trang. Tất 
nhiên, tôi cố gắng như thế còn do sự cám dỗ bởi sự tò mò muốn tìm hiểu 
đôi chút về một nhân vật mà bàn dân thiên hạ trong phố coi là hiện tượng
 dị biệt, khó cắt nghĩa. Một kẻ bị ma ám, người ta bảo thế, một di chứng
 của thời đại trước. Một con ma men, uống để sám hối, để chôn vùi những 
uẩn khúc, những tội lỗi hẳn là vô khối trong đời. Một kẻ được đàn bà ưa 
thích và cưu mang song lại là một tay ái nam ái nữ về phần hồn. Một tay 
tiểu tư sản thực thụ cuối cùng của khu phố, phản loạn và cực đoan song 
cực kỳ bạc nhược và cực kỳ do dự. Đại để là như thế, nói chung là chẳng 
rõ ràng gì. Tuy nhiên, trong thời buổi mà hầu hết chúng ta đều chung một
 tuyến cảm xúc, tôi thường bị hấp dẫn bởi những nhân cách lạc điệu và vì
 vậy đã gắng đọc của anh ta, dù rằng thật là cực nhọc.

Thoạt tiên,
 tôi cũng gắng sắp xếp để tìm lại một trình tự mong có thể đọc được như 
tôi vẫn thường đọc. Song hoài công. Có vẻ như chẳng một trình tự nào 
hết. Trang nào cũng hầu như là trang đầu, trang nào cũng có vẻ là trang 
cuối. Tôi nghĩ, ngay dù có đánh số trang, ngay dù không có trường đoạn 
bị đốt, bị mối xông, không có những trang mà tác giả đã loại nhưng vẫn 
lẫn bản thảo thì đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của 
sự rối bời. Tôi không muốn nói là điên rồ.

Từng trang, từng trường
 đoạn một thì có thể theo dõi được, đôi khi khá cuốn hút. Những địa danh
 không còn ai nhớ tới của một mặt trận thân thuộc khiến tôi xúc động. 
Những cận cảnh chiến đấu, những tiểu tiết của cuộc sống binh sĩ, những 
gương mặt đồng đội hiện lên ngắn ngủi, thoáng lướt nhưng đậm nét trên 
từng trang. Tuy nhiên mạch chuyện không ngừng đứt gãy. Tác phẩm từ đầu 
đến cuối không hề có nổi một tuyến chung, một bề mặt đại khái nào mà 
hoàn toàn là những khối thù hình. Tất cả đang diễn ra đột nhiên đứt gãy 
và bị quét sạch khỏi giữa chừng trang giấy như thể rơi vào một kẽ nứt 
nào đó của thời gian tác phẩm. Ta vẫn gọi đó là sự mất bố cục, sự thiếu 
mạch lạc, thiếu bao quát nhiều khi chứng tỏ sự hụt hẫng của tư duy người
 viết Chứng tỏ cái vẻ lực bất tòng tâm của y. Cũng là một trung đội 
trinh sát đó thôi nhưng bạn thử tưởng tượng xem, ở trang này họ là người
 lính thiện chiến nhất, gây chết chóc đáng sợ nhất cho đối phương, ở 
trang sau hỡi ôi, không thể tin được, họ lại biến thành những nhân vật 
rã rời u ám, ngợp ngọng nhất, yếu đuối và lờ phờ nhất, thậm chí tác giả 
còn biến họ thành những hồn ma, những âm binh ảo não trôi dạt trong bụi 
bờ, trong các góc tối cầu thang, đến với nhau trong những cơn ác mộng. 
Tất cả bọn họ đã bị giết, mỗi người mỗi cách, vậy mà rồi lại thấy họ kéo
 lê bước chân trên hè phố, nhếch nhác sống cuộc đời mạt vận của những gã
 tiểu thị dân thời hậu chiến. Và rốt cuộc, đến chính họ cùng với tác giả
 cũng phải ngỡ ngàng, bởi không đâu họ lại trở về với cõi cực lạc của 
những ngày tháng xa xưa, với tuổi thơ, với cô bạn gái nhỏ, với niềm tin 
ngây thơ trong trắng thuở trước chiến tranh? Buồn thay, họ là những 
người tình tuyệt vời lại là những con người cô độc vĩnh viễn, chẳng 
những đã mất lứa đôi mà còn mất đi khả năng yêu đương, và bởi những ám 
ảnh mà trở nên suy đồi theo cái cách của họ. Còn bản thân tác giả, mặc 
dù xưng “tôi” nhưng đích thực y là ai trong những lính trinh sát ấy, 
những hồn ma, những bộ hài cốt moi từ đáy rừng lên ấy, những cậu bé con 
nhà bị đẩy lạc ra khỏi nguồn văn hóa, những đứa con của tự do nhưng 
trong đầu lại đầy những định kiến ấy? Tôi không biết. Tôi không hiểu gì 
cả. Tôi chỉ hiểu nguyên do vì sao mà tác giả đã không tìm cách xuất bản,
 sáng tác của mình, vì sao y viết để mà viết, suy nghĩ để mà suy nghĩ 
rồi lại giao phó tất cả cho một người câm tuyệt đối kín đáo để gửi gắm 
và chôn vùi những ý tưởng rối loạn của mình.

Dần dà chính tôi đã 
đi đến chỗ cho phép mình đọc theo một phương thức rất tùy nghi. Tôi đọc 
cả núi giấy ấy theo một cách giản đơn là tờ trước rồi đến tờ sau bất kể 
trình tự đó là ngẫu nhiên, bất kể đó là một trang bản thảo hay là một lá
 thư, một trang ghi chép rời ra từ sổ tay, một trang nhật ký, một bản 
nháp của bài báo. Tôi đọc gộp cả lại, giở lần lượt từng tờ ra mà đọc. 
Tôi thấy lẫn trong đó những bức ảnh, những bài thơ, những bản nhạc chép 
tay, những tờ khai lý lịch, giấy chứng nhận huân chương, chứng nhận 
thương tật, và cả những quân bài quăn nát, lem nhem từ con 2 đến con 
át…

Cái lối tùy tiện ấy có hiệu quả đối với nhận thức của tôi. 
Trước mắt tôi lúc này tác phẩm bị dẹp bỏ của nhà văn phường chúng tôi 
hiện lên trong một cấu trúc khác, trong sự hòa đồng với cuộc đời thực 
không hề hư cấu của anh. Tôi đã chép lại hầu như toàn bộ theo đúng cái 
trình tự tình cờ tôi có được ấy, chỉ lược đi những trang không thể đọc 
nổi vì mực bị phai, vì viết quá tháu, những trang rõ ràng là trùng lặp, 
những mẩu thư từ nói những chuyện người thứ ba không thể hiểu nổi hoặc 
những mẩu ghi chép linh tinh tối nghĩa. Không hề có một chữ nào là của 
tôi trong bản thảo mới, tôi chỉ xoay xoay vặn vặn như một người chơi 
Ru-bic vậy thôi. Nhưng sau khi chép xong, đọc lại, tôi ngỡ ngàng nhận 
thấy những ý tưởng của mình, những cảm giác của mình, thậm chí cả những 
cảnh ngộ của mình nữa. Dường như do sự tình cờ của câu chữ và của bố 
cục, tôi và tác giả đã ngẫu nhiên trở nên hòa đồng tư tưởng, trở nên rất
 gần nhau. Thậm chí tôi ngờ rằng có quen anh trong chiến tranh.

Phải,
 anh đã thay đổi ghê gớm, nhưng tôi đã nhận ra. Anh ta cao lớn mảnh dẻ, 
vẻ mặt không đẹp, lầm lì, có ánh nhìn man rợ. Da dẻ anh khô và sạm, 
thủng lỗ chỗ, đét lại như thuộc, lốm đốm vệt thuốc súng, môi mím chặt. 
Bên má một vết đạn bắn thẳng cầy một rãnh sát sạt vào xương. Chúng tôi 
đã gặp nhau trên đường chiến tranh, vào một ngày nào đó. Cùng lê bước 
trong bụi đỏ và trong bùn lầy, vai đeo tiểu liên, lưng đeo gùi. Chân đi 
đất. Và tôi cũng như anh, cũng như mọi người lính thường khác của cuộc 
chiến tranh Việt – Mỹ, đã cùng chung một số phận, chia nhau đủ mọi cảnh 
ngộ thăng trầm, thắng bại, hạnh phúc đau khổ, mất và còn.

Nhưng 
mỗi người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, 
mỗi người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của 
riêng mình nhiều khi hoàn toàn khác với cuộc chiến đấu chung, những nhìn
 nhận mà sâu trong lòng cực kỳ khác nhau về con người, về thời đại chiến
 trận, và đương nhiên mỗi người một số phận hậu chiến. Có thể nói chúng 
tôi giống nhau ở chỗ là hoàn toàn khác nhau trong cái vẻ hoàn toàn giống
 nhau trong quá trình nặng nề đeo đuổi cuộc chiến. Nhưng chúng tôi 
còn có chung một nỗi buồn, nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao 
cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ. Chính nhờ nỗi buồn mà chúng 
tôi đã thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị chôn vùi trong cảnh chém 
giết triền miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, 
những ám ảnh bạo lực và bạo hành, để bước trở lại con đường riêng của 
mỗi cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng vẫn là
 cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể hy vọng, bởi vì đấy là đời 
sống hòa bình. Đấy chắc chắn là điều mà tác giả thực sự của tác phẩm này
 muốn nói. Tuy nhiên riêng anh thì nỗi buồn chiến tranh do nhiều lý
 do nặng nề hơn nhiều so với tôi. Nỗi buồn ngăn không cho anh cảm thấy 
một chút nhẹ lòng trong đời sống hiện tại. Ngày tháng của đời anh cứ lùi
 lại mãi. Có lẽ ấy là một cảnh ngộ trái khoáy, một sự bi quan bế tắc như
 ta thường nói, một đời sống tinh thần vô vọng. Nhưng mặc dù thế, tôi 
tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. 
Không bị sự quên lãng xói mòn, tâm hồn anh mãi mãi được sống trong mùa 
xuân của những tình cảm mà ngày nay đã mai một hoặc đã già cỗi và biến 
tướng. Anh sẽ được trở lại với tình yêu, tình bạn tình đồng chí những 
tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua muôn ngàn đau khổ của chiến tranh. 
Tôi cảm thấy ghen ty với niềm cảm hứng, niềm lạc quan quay ngược về quá 
khứ của anh. Bởi vì nhờ thế mà anh vĩnh viễn được sống trong những ngày 
tháng đau thương nhưng huy hoàng những ngày bất hạnh nhưng chan chứa 
tình người, những ngày mà chúng ta biết rõ vì sao chúng ta cần phải bước
 vào chiến tranh, chúng ta cần phải chịu đựng tất cả và hy sinh tất cả. 
Ngày mà tất cả đều còn rất son trẻ, trong trắng và chân thành.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN