Nữ Thần Báo Tử (Tập 1: Đoạt Hồn)
Chương 06 phần 1
CHƯƠNG 6
EMMA ĐÃ NÓI ĐÚNG
đâu đâu cũng thấy toàn người là người. Các cánh của phòng học bật mở và học sinh túa ra ngoài bất chấp sự phản đối của thầy cô. Và vì vẫn còn độ mười phút trước khi giờ nghỉ trưa thứ hai kết thúc, nên những ai có mặt trong căng-tin khi nãy giờ cũng đã tập trung hết ngoài bãi cỏ.
Tôi nhìn thấy ít nhất có khoảng hai mươi học sinh đang gọi điện thoại và qua những tiếng được tiếng không tôi đoán là họ đang gọi điện cho tổng đài 911, mặc dù đa phần đều chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra và người bị nạn là ai. Họ chỉ biết rằng có ai đó đang bị thương và không hề có tiếng súng nổ.
HLV Tucker xông vào kéo từng người ra khỏi đám đông mặc áo đồng phục xanh-trắng đang túm tụm lại ở giữa sân, miệng liên tục gào ầm lên vào cái loa cầm tay để dẹp đường. Phải mất một lúc sau đám đông đó mới chịu dẹp sang một bên cho cô Tucker len vào, để lộ ra thân thể một cô gái đang nằm bất động trên sân, tay buông thõng sang một bên. Tôi không thể nhìn rõ khuôn mặt của cô ấy, bởi một bạn nam trong đội bóng – mặc áo số 14 – đang làm động tác hô hấp nhân tạo.
Nhưng tôi biết đó là Meredith Cole. Va tôi biết anh chàng mặc áo số 14 kia chỉ đang tốn công vô ích, chẳng ai còn có thể giúp được gì cho Meredith.
HLV Tucker đẩy anh ấy ra và quỳ xuống bên cạnh xác Meredith, ra lệnh ọi ngươi lùi lại và quay trở về lớp học. Sau đó cô cúi sát mặt xuống mặt Meredith để kiểm tra xem cậu ấy có còn thở không và tiếp tục công việc hô hấp nhân tạo mà anh chàng kia mặc áo số 14 kia đang làm dở.
Vài giây sau, người bảo trợ cho đội khiêu vũ – cô Foley, một trong mấy giáo viên Đại số – vội vàng chạy ra sân xem có chuyện gì đang xảy ra và khựng người trước quang cảnh hỗn loạn trước mắt mình. Sau vài câu trao đổi với mấy học sinh đứng cạnh đó, cô gọi các thành viên của đội khiêu vũ lại và họ nức nở dựa vào nhau trong một cái ôm đầy nước mắt, bên cạnh đó là Meredith và cô HLV môn bóng mềm. Các học sinh khác lặng lẽ đứng quan sát từ xa, một vài người trong số đó đã khóc.
Lại có thêm ba người lớn nữa hối hả chạy xuống bậc thang của căng-tin: Cô hiệu trưởng, nghiêm nghị trong chiếc váy ngắn và đôi giày cao gót cao ngất ngưởng; trợ lý hiệu trưởng – một người đàn ông nhỏ bé, trán hói, tay ôm khư khư kẹp hồ sơ trước ngực và thầy Rundell, HLV trưởng của đội bóng bầu dục.
Cô hiệu trưởng kiễng chân thì thầm vào tai HLV Rundell và đáp lại, thầy ấy chỉ gật đầu lạnh lùng. Trên tay thầy là cái còi và loa phóng thanh.
Với một người có giọng nói như sấm rền như thầy Rundell đáng ra cũng chẳng cần tới hai thứ đó, vậy mà thầy ấy đã sử dụng cả hai.
Tiếng còi rít lên khiến hai màng tai tôi đau nhói và mọi người trên sân lập tức dừng hết các hoạt động đang làm. Thầy Rundell bắc loa lên miệng và bắt đầu đưa ra yêu cầu với học sinh trong trường một cách mạch lạc và rõ ràng. “Chúng ta đang trong tình trạng giới nghiêm, không ai được phép rời khỏi khuôn viên trường học nửa bước! Ai không có giờ ăn trưa thứ hai thì quay trở lại lớp học. Còn ai đang trong giờ ăn trưa thứ hai thì đi vào căng-tin.”
Theo chỉ đạo của cô hiệu trưởng, viên trợ lý lập tức chạy đi chuẩn bị các thông báo và công tác cần thiết cho tình trạng giới nghiêm. Giáo viên từng lớp lần lượt lùa học sinh của mình về lớp và đóng cửa lại, trả lại sự yên tĩnh cho cái sân trong. Cô Foley, mặt vẫn chưa hết bàng hoàng, ngậm ngùi dắt đội khiêu vũ đi qua cánh cửa bên hông, mắt ai nấy đều đỏ hoe. Cuối cùng, cô hiệu trưởng phẩy tay ra hiệu cho đám đông đang ăn trưa quay vào căng-tin, với sự trợ giúp của viên trợ lý vừa lập cập quay lại sau khi đã lo xong mọi chuyện.
Anh Nash, Emma và tôi hòa vào cùng đoàn người phía sau của đội bóng bầu dục nam, và khi chúng tôi đi qua cái bàn ăn cuối cùng trong sân, tôi nhìn qua bên phải và thấy HLV Rundell đang thay cô Tucker hô hấp nhân tạo cho Meredith. Mặc dù toàn thân tôi vẫn đang chết lặng đi vì sốc và mặc cảm tội lỗi, nhưng tôi cần phải nhìn tận mắt. Để chứng minh cho lý trí của mình cái điều mà trái tim tôi đã biết từ lâu.
Và Meredith đang nằm đó, mái tóc nâu dài xõa trên cỏ, khuôn mặt của bạn ấy lấp ló qua từng động tác hô hấp nhân tạo của thầy Rundell.
Nước mắt tôi lại ứa ra và anh Nash đã vòng qua bên phải để che tầm nhìn của tôi lúc bọn tôi bước lên cầu thang đi vào trong tòa nhà. Bên trong, toàn bộ bóng đèn đã được tắt, bởi tình trạng giới nghiêm. Nhưng cửa sổ căng-tin có thể coi là những bức tường bằng kính – không hề có rèm cửa và cũng quá to để che lại, vì thế cả căn phòng ngập tràn ánh sáng Mặt Trời.
Ở phía cuối phòng, các thành viên đội bóng bầu dục ngồi tụm lại một góc với nhau, người chống cằm, người gục mặt xuống gối, người lại giơ tay ôm đầu. Anh chàng mặc áo số 14 – người đã ra sức cứu chữa cho Meredith – đang trầm ngâm ôm cô bạn gái trong lòng, cằm dựa vào vai cô ấy. Mặt cô ấy nhòe nhoẹt nước mắt và mascara.
Các học sinh khác ngồi tản mát ra thành những nhóm nhỏ. Một vài người tiếp tục xì xào bàn tán xem chuyện gì đã xảy ra, một số khác lại đang sụt sùi khóc thương cho Meredith và nỗi bàng hoàng vẫn còn đọng nguyên trong ánh mắt của từng người. Không cảnh báo, không cưỡng bức và không có nguyên nhân gì cụ thể. Tình trạng giới nghiêm này không hề giống với những tập luyện mà chúng tôi phải thực hành mỗi học kỳ hai lần, và mọi người đều biết điều đó.
Các dãy bàn trong căng-tin chật kín người và một vài nhóm nhỏ thậm chí phải ngồi bệt xuống sàn, dựa lưng vào tường, tay ôm ba lô, túi xách và sách giáo khoa trên đùi. Ba người chúng tôi quyết định đi về phía góc phòng chưa có người ngồi, mặt Emma lúc này tái dại, toàn thân run rẩy. Còn tôi cũng chẳng khá hơn là mấy, hai chân lảo đảo như kẻ mộng du, choáng váng vì hai lần tiên đoán chính xác chỉ trong vòng có ba ngày. Có mình anh Nash xem ra vẫn còn khá vững vàng, mặc dù qua cái siết chặt tay của anh, tôi hiểu rằng có lẽ anh cũng không hề bình tĩnh như vẻ bề ngoài đang tỏ ra.
Chúng tôi ngồi dàn hàng ngang trên sàn, Emma bên trái còn anh Nash vẫn nắm chặt bàn tay phải của tôi từ nãy không rời. Cả ba vẫn còn quá choáng để có thể mở miệng nói chuyện. Đầu tôi bây giờ là một mớ hỗn tạp của mặc cảm tội lỗi, sự choáng váng và nỗi hoài nghi, hoàn toàn tương phản với bầu không khí ảm đạm và bi thương trong phòng. Và tôi không thể khiến nó ngừng lại.
Tôi chỉ có thể ngồi đó, nhìn chăm chăm vào khoảng không một cách vô định và chờ đợi.
Vài phút sau, tôi nghe thấy tiếng còi rú inh ỏi của xe cứu thương. Mặc dù không trực tiếp nhìn thấy xe cứu thương qua cửa sổ căng-tin nhưng chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy phản chiếu của bóng đèn đỏ nhấp nháy trên tường, như báo hiệu đang có trường hợp cần cấp cứu. Vấn đề là họ đã đến quá trễ.
Meredith Cole đã chết và cho dù họ có nỗ lực cấp cứu thế nào đi chăng nữa thì bạn ấy cũng sẽ không thể tỉnh lại. Sự thật bẽ bàng ấy khiến tôi đau đớn, như bị ai đó cắt từng khúc ruột. Tôi biết, cả cuộc đời còn lại của mình, tôi sẽ phải sống với nỗi ám ảnh và sự ân hận khôn nguôi này.
Trong khi các nhân viên y tế đang làm công tác cấp cứu ở bên ngoài, các thầy cô chạy ra chạy vào căng-tin, thỉnh thoảng dừng lại trả lời câu hỏi của mấy bạn học sinh. Cố vấn của trường kéo ghế ngồi xuống bàn của đội bóng nam và nhẹ nhàng hỏi chuyện những người đã đứng gần Meredith và chứng kiến lúc bạn ý ngã xuống.
Cuối cùng, qua cái loa chung của toàn trường, thầy hiệu phó thông báo kết thúc buổi học ngày hôm nay của chúng tôi, và rằng chúng tôi sẽ được phép ra về sau khi họ liên lạc được với người giám hộ của từng người. Khi cái đèn đỏ của xe cấp cứu không còn loé lên nữa, và mặc dù vẫn chưa có lời tuyên bố chính thức nào được đưa ra, nhưng chúng tôi đều hiểu cái điều không ai mong muốn đã trở thành hiện thực.
Sau đó, nhóm học sinh đầu tiên được gọi lên văn phòng và Emma dựa đầu vào tôi, còn tôi dựa vào anh Nash, hy vọng rằng mùi thơm và hơi ấm của anh có thể giúp xoa dịu tâm hồn tôi. Vài phút sau, HLV Tucker bước vào trong căng-tin, đảo mắt một vòng tìm kiếm, cho tới khi ánh mắt cô ấy gặp tôi. Tôi ngồi thẳng dậy khi thấy cô đi qua các dãy bàn, tiến về phía tôi và đứng dậy khi cô chìa tay kéo tôi lên. Anh Nash và Emma thấy vậy cũng vội bật dậy theo. “Chắc em cũng hiểu các bạn trong đội khiêu vũ đang đau buồn đến thế nào. Nhà trường quyết định gọi điện liên lạc với phụ huynh của các bạn ấy trước. Tâm trạng của em Sophie nhà em không được tốt lắm. Cô đã gọi ẹ em. Em có thể đưa em gái mình về nhà được rồi.”
Tôi thở dài, lòng thầm biết ơn khi anh Nash lại đưa tay nắm lấy tay tôi. “Sophie là chị họ của em ạ.”
Cô Tucker nhíu mày nhìn tôi, như thể điều đó chẳng có gì quan trọng trong hoàn cảnh như hiện nay. Và cô ấy hoàn toàn đúng, nhưng tôi không biết phải mở miệng xin lỗi như thế nào cho phải nên đành thôi.
“Không phải lo tới mấy quyển sách của em” – ánh mắt cô ấy nhìn tôi giờ đã thay đổi 180 độ, lạnh lùng và hờ hững – “Cứ đưa chị về nhà đi.”
Tôi gật đầu và đứng dậy đi theo cô Tucker. “Gặp lại hai người sau nhé” – tôi lí nhí nói với Emma và bóp chặt tay anh Nash. Emma gượng cười yếu ớt, còn anh Nash chỉ gật đầu, thọc tay vào túi lấy điện thoại.
Tôi vừa mới chỉ ra đến sảnh thì thấy điện thoại rung. Là tin nhắn của anh Nash.
Đừng nói với ai hết. Anh sẽ giải thích sau.
Một giây sau, tin nhắn thứ hai lại tới. Lần này chỉ vẻn vẹn ba chữ: Xin em đấy.
Tôi không nhắn lại, bởi vì không biết phải nhắn cái gì. Sẽ chẳng có ai tin lời tôi, nếu tôi cố tìm cách lý giải về những điều đã xảy ra. Có điều linh cảm của tôi là thật và đều chính xác. Im lặng không còn là một lựa chọn đúng đắn nữa, nhất là khi vẫn có khả năng tôi có thể ngăn không cho chúng trở thành hiện thực.
Nếu tôi có thể cảnh báo cho nạn nhân tiếp theo – và mang đến cho người đó một cơ hội để chiến đấu lại – xét trên phương diện đạo đức chẳng phải chí ít tôi cũng nên làm điều đó sao?
Hơn nữa, chính anh Nash cũng từng khuyên tôi nên kể chuyện này với hai bác mình còn gì?
“Kaitlin ơi! Ở đằng này!” – tôi ngẩng mặt lên và thấy cô Foley vẫy tay gọi. Bên ngoài văn phòng, Sophie cùng đám bạn trong đội khiêu vũ của mình đang ngồi bệt xuống sàn, mắt ai cũng đỏ hoe và nhòe nhoẹt vì mascara.
“Tên em là Kaylee ạ” – tôi lầm bầm chữa lại.
“À, ừ, tất nhiên rồi” – trông cô ấy chẳng có vẻ gì là quan tâm tới tên họ của tôi – “Cô đã nói chuyện với mẹ em…” – lần này tôi cũng chẳng buồn chỉnh lại lời cô ấy nữa – “…và mẹ em muốn em đưa Sophie về thẳng nhà. Mẹ sẽ gặp hai đứa ở nhà.”
Tôi gật đầu và lờ đi coi như không nhìn thấy cái vỗ vai an ủi của cô ấy với mình. “Đi về nhé?” Tôi hỏi vu vơ về phía chị Sophie và mấy người bạn. Chị ấy đã làm tôi hơi bất ngờ khi lặng lẽ gật đầu đứng dậy đi theo tôi, không phản kháng hay cự nự một lời nào.
Hẳn là chị ấy đang phải sốc lắm.
Ra tới bãi đỗ xe, tôi mở cửa cho chị Sophie, sau đó mới vòng sang bên ghế lái. Chị Sophie đóng cửa xe lại và quay sang nhìn tôi. Vẻ mặt cao ngạo thường ngày của chị ấy giờ đang nhường chỗ ột nỗi đau buồn vô hạn.
“Em có thấy không?” – chị Sophie hỏi, môi dưới run bần bật, lần đầu tiên trong đời tôi thấy môi chị vắng màu son bóng. Chắc khi nãy chị ấy đã quệt sạch cùng với nước mắt và phần lớn lớp trang điểm trên mặt. Trông chị ấy khá… bình thường. Và tự dưng tôi thấy hơi thương thương chị ấy, mặc dù chị ấy thường xuyên đối xử với tôi chẳng ra gì. Nhưng hôm nay chị ấy đang sợ hãi, bối rối và tổn thương, cần có một người lắng nghe chia sẻ.
Tôi cũng vậy.
Điều đáng buồn là tôi vẫn không thể hạ hết mọi cảnh giác với chị ấy được, bởi quá hiểu một khi nỗi buồn này qua đi, chị Sophie sẽ quay ngoắt lại thành cô nàng lắm chiêu và sử dụng những cái đó để chống lại tôi à xem. “Thấy cái gì?” – tôi thở dài, giơ tay chỉnh lại cái gương phía sau để có thể gián tiếp quan sát chị ấy.
Chị Sophie đảo tròn hai mắt và trong một thoáng, sự thiếu kiên nhẫn thường ngày của chị ấy lại trỗi dậy, xuyên thủng cả lớp màn đau thương vẫn còn mới nguyên. “Meredith. Em có nhìn thấy chuyện xảy ra không?”
Tôi cắm chìa khoá vào ổ và khởi động xe. “Không”. Tôi cũng chẳng ham hố gì chứng kiến mấy chuyện đó, với tôi riêng cái đoạn mở màn đã đủ lắm rồi.
“Thật là kinh khủng” – mắt chị Sophie mơ màng nhìn ra ngoài cửa kính. Tôi thắt dây an toàn và từ từ cho xe rời khỏi bãi đỗ xe – “Bọn chị đang nhảy múa rất vui vẻ. Bài biểu diễn đã diễn ra cực kỳ trôi chảy, từ những động tác khó nhất đến cả bước nhảy mà Laura vẫn thường nhảy sai nhịp trong khi luyện tập…”
Tôi chẳng hiểu bước nhảy mà chị ấy đang nói đến là cái gì nhưng vẫn im lặng để yên cho chị ấy lảm nhảm vì có vẻ đó là cách giải tỏa tốt nhất.
“…và khi điệu nhảy sắp kết thúc, đột nhiên Meredith… đổ sụp xuống. Nằm thẳng đơ trên đất.”
Hai tay tôi nắm chặt lấy vô-lăng, phải cố gắng lắm tôi mới gạt được cái cần xi-nhan. Tôi rẽ phải ở ngã tư đầu tiên, thở phào nhẹ nhõm khi trường học – nguồn gốc linh cảm mới nhất của tôi – đã khuất khỏi tầm mắt. Chị Sophie vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt, hoàn toàn không để ý gì tới sự căng thẳng trên khuôn mặt tôi.
“Chị cứ nghĩ là chị ấy chỉ bị ngất thôi. Vì bình thường chị ấy ăn ít lắm, như mèo ý. Em cũng biết còn gì.”
Tất nhiên là tôi không biết rồi. Tôi chẳng có hứng thú với mấy cái thói quen ăn uống của đội khiêu vũ, nhưng nếu khẩu vị của Meredith cũng giống như bà chị họ của tôi – hay nói chính xác hơn là của bà bác tôi – thì công nhận tinh thần ăn uống của chị Sophie quả là rất đáng khen.
“Nhưng rồi bọn chị phát hiện ra là cậu ấy không hề cử động. Thậm chí không còn thở nữa.” – chị Sophie ngừng lại một lúc để lấy hơi và vài giây yên lặng ấy đối với tôi còn quý hơn vàng. Tôi không muốn nghe thêm một câu nào nữa về cái chết mà mình không thể ngăn chặn đấy nữa. Tôi đã đủ dằn vặt lương tâm lắm rồi. Nhưng chị Sophie đâu có chịu hiểu cho tôi – “Chị Peyton nghĩ Meredith bị đau tim. Hồi học môn Giáo dục thể chất năm ngoái, cô Rushing từng dạy rằng nếu cơ thể của chúng ta làm việc quá sức và không được bổ sung năng lượng đầy đủ, trái tim sẽ ngừng đập. Như thế này này.” – vừa nói chị ý vừa giơ tay lên búng tay cái tách, móng tay lấp lánh dưới ánh nắng Mặt Trời – “Em có nghĩ thế không?”
Phải mất một giây tôi mới nhận ra là chị Sophie đang đặt câu hỏi với mình thật, chứ không phải đang tự độc thoại một mình. Chị ấy đang hỏi ý kiến của tôi mà không có tí mỉa mai nào trong đó.
“Em không biết” – tôi liếc qua gương và từ từ rẽ vào khu phố nhà chúng tôi. Tôi cũng không ngạc nhiên khi thấy xe của bác Val đang đi ngay phía sau – “Cũng có thể.” Hiển nhiên đó là một câu nói dối. Meredith Cole là cô gái thứ ba đột nhiên lăn đùng ra chết trong vòng ba ngày qua và mặc dù chưa thể nói ra nghi ngờ của mình – ít nhất là lúc này – nhưng tôi dám chắc một điều rằng những cái chết này có liên quan với nhau.
Lý thuyết về sự trùng hợp của anh Nash đã sai hoàn toàn.
Tôi dừng xe lại trong sân còn bác Val lái thẳng xe vào gara. Chị Sophie nhảy ra khỏi xe trước cả khi tôi tắt máy. Và ngay khi vừa nhìn thấy mẹ, chị ấy lập tức òa khóc nức nở.
Bác Val dỗ dành cô con gái suốt từ trong gara vào đến nhà bếp. Tôi lững thững đi đằng sau hai mẹ con họ, trên tay là cái túi xách của chị Sophie và bấm nút đóng cửa gara. Tôi đặt cái túi lên bệ bếp, trong khi bà chị họ vẫn đang thổn thức kể ẹ nghe câu chuyện vừa xảy ra ở trường, mắt mũi chị ấy giờ đã đỏ lựng lên vì liên tục chùi giấy ăn.
Nhưng bác Val không có vẻ gì là hứng thú với các tình tiết của câu chuyện, hẳn là bác ấy đã được nghe tường thuật trước đó. Trong khi tôi lặng lẽ ngồi xuống bàn và lấy một lon Coke ra uống, bác ấy không ngừng chạy qua chạy lại trong bếp, hết pha trà nóng đến lau dọn bệ bếp, và chỉ khi không còn việc gì nữa để làm bác ấy mới chịu ngồi xuống cái ghế bên cạnh chị Sophie. Bác Val bắt chị ấy uống cốc trà nóng thật chậm, cho tới khi tiếng nức nở chậm lại và cơn nấc cục đã ngừng hẳn. Nhưng kể cả khi ấy chị Sophie vẫn không ngừng nói.
Cái chết của Meredith có thể gọi là tấn bi kịch đầu tiên trong thế giới thần tiên toàn màu hồng của bà chị họ tôi, và vì thế chị ấy không biết phải đối mặt với nó như thế nào. Hai mươi phút sau, chị Sophie vẫn không ngừng sụt sịt, nước mắt nước mũi văng tèm lem ra cốc nước trà nay đã nguội ngắt. Bác Val đi vào trong phòng tắm và mang ra một hộp thuốc nhỏ màu nâu. Ngay lập tức tôi nhận ra nó: Những viên thuốc an thần còn sót lại trong lần đi khám gần đây nhất của tôi với bác sỹ Nelson ở bệnh viện tâm thần.
Tôi quay phắt ra nhướn cặp lông mày nhìn bác Val, nhưng bác ấy chỉ cười trừ, phân trần: “Nó sẽ giúp cho chị Sophie của cháu bình tâm lại và ngủ được. Chị ấy cần được nghỉ ngơi.”
Đúng vậy, nhưng là một giấc ngủ tự nhiên, chứ không phải là kiểu ngủ mê man nhờ vào mấy viên thuốc ngủ ngu ngốc kia. Tất nhiên hai mẹ con nhà này sẽ không bao giờ nghe theo lời khuyên của tôi đâu, kể cả khi tôi chỉ ra cho họ thấy các tác dụng phụ của thuốc.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!