Ruồi Trâu - Chương 20
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
143


Ruồi Trâu


Chương 20


Hôm nay là phiên chợ ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Nông dân các xóm làng lân cận nườm nượp đổ về khu chợ. Người thì mang lợn gà, người thì mang bơ, sữa, có người dong cả những đàn gia súc vùng núi ngang tàng. Từng đoàn lũ lượt đi lại trên sân chợ, cười đùa, mặc cả, mua những quả khô, bánh nước rẻ tiền và hạt quỳ. Những trẻ em da cháy nắng, chân không guốc dép, nằm sấp bụng giữa đường cái, dưới ánh nắng gay gắt, còn các bà mẹ của chúng thì ngồi cạnh những giỏ trứng và bơ dưới gốc cây.

Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li ra chợ để hỏi thăm giáo dân. Đám trẻ con ồn ào liền xúm lại. Chúng tranh nhau dâng cho Hồng y giáo chủ những bó hoa chim én, hoa anh túc thắm đỏ và thủy tiên trắng thơm ngát hái trên sườn núi. Ai cũng thông cảm tính yêu hoa dại của Hồng y giáo chủ, coi đó là một nhược điểm của sự ham chuộng mà người thông minh tài trí nào cũng thường mắc phải. Nếu một kẻ khác làm như Mông-ta-ne-li, chất cỏ hoa cây cối đầy nhà, thì chắc hẳn người ta đã chê cười. Nhưng “vị Hồng y giáo chủ tốt phúc” này thì được hưởng quyền có một vài sở thích lạ đời vô hại như thế.

– À, Ma-ru-tri-a!

Mông-ta-ne-li dừng bước cạnh một cô bé, xoa đầu nó.

– Mới từ dạo ấy đến nay mà con đã chóng lớn quá nhỉ! Thế bà con còn bị tê thấp nữa không?

– Trình đức cha, bà con đỡ rồi ạ. Nhưng mẹ con lại bị ốm.

– Khổ chưa! Bảo mẹ con hôm nào đến nhà ông y sĩ Goóc-đa-ni để ông ấy khám cho. Còn ta thì sẽ tìm cho mẹ con một chỗ ở đâu đây. May ra mà khỏi được. Lui-gi! Mắt con thế nào, đỡ rồi chứ?

Mông-ta-ne-li đảo khắp sân chợ, hỏi chuyện những người dân miền núi. Ông ta nhớ đến tên tuổi con cái họ, nhớ mọi điều không may và mọi nỗi đau khổ của họ, ân cần hỏi thăm cả con bồ mới ốm hôm lễ Nô-en, cả con búp bê bằng vải bị nghiến nát dưới bánh xe phiên chợ trước. Khi ông trở về lâu đài của mình thì phiên chợ đang giữa lúc náo nhiệt nhất. Một người chân khập khiễng, mình mặc áo sơ mi xanh, má có một vết sẹo, tóc đen nhánh xõa xuống mắt, bước tới một quầy hàng. Anh ta hỏi mua nước chanh bằng một thứ tiếng Ý lơ lớ.

Bà hàng nước vừa rót nước vừa liếc nhìn anh:

– Hình như ông không phải người ở đay?

– Không phải người ở đây. Tôi ở đảo Coóc-xơ (1) đến.

– Ông đi tìm công ăn việc làm à?

– Vâng, sắp đến mùa cắt cỏ rồi. Có một ông chủ ấp ở gần Ra-ve-na (2) mới đến Ba-sti-a (3) nói với tôi rằng ở đó có nhiều việc làm lắm.

– Tôi cũng cầu trời phù hộ cho ông. Ở đây đang thời buổi khó khăn lắm.

– Mẹ ơi, ở Coóc-xơ còn khó khăn gấp máy nữa ấy chứ. Chẳng biết dân nghèo chúng ta rồi sẽ ra sao…

– Ông đến đây có một mình thôi à?

– Không, còn một anh bạn nữa. Kìa, cái anh mặc áo sơ mi đỏ kia kìa… Hola, Paolo! (4)

Nghe gọi, Mi-ke-lê thọc hai tay vào túi, lê bước tới quầy hàng. Mặc dầu có bộ tóc giả hung hung phủ trên đầu, anh vẫn giống một người Coóc-xơ chính cồng. Còn Ruồi Trâu thì lại giống như đúc.

Hai người từ từ bước trên sân chợ. Mi-ke-lê khẽ huýt sáo miệng. Ruồi Trâu thì mang khăn gói nặng trên vai, đi lom khom và cố lê bước chân để giấu dáng khập khiễng. Hò nóng lòng chờ đợi một đồng chí đến để nhận những chỉ thị quan trọng mà họ sẽ truyền đạt. Bỗng Mi-ke-lê thì thầm:

– Kìa, Mác-cô-nê đi ngựa đến góc chợ kia kìa.

Ruồi Trâu vác khăn gói lê về phía đó.

Anh đưa tay lên chiếc mũ rách, rồi sờ vào cương ngựa, hỏi:

– Thưa ông, ông có mướn người cắt cỏ không ạ?

Đó là mật hiệu. Người cưỡi ngựa trông ra vẻ chủ ấp nhảy xuống đất, vắt cương lên cổ ngựa.

– Anh biết làm nghề gì?

Ruồi Trâu vò chiếc mũ trong tay.

– Thưa ông, cắt cỏ, xén bờ rào…

Và anh nói tiếp, không đổi giọng:

– Một giờ đêm nay ở cửa hang tròn. Cần hai con ngựa tốt và một chiếc xe. Tôi đợi ngay trong hang. Thưa ông, ngoài ra tôi còn biết đào đất… và…

– Thôi, được rồi. Tôi cần một người cắt cỏ. Anh đã từng đi làm ở tỉnh ngoài bao giờ chưa?

– Thưa ông, có đi một lần rồi ạ!… Phải trang bị cẩn thận nhé. Có thể gặp kỵ binh cơ động đấy. Đừng đi đường rừng, đi đường kia an toàn hơn. Nếu gặp mật thám thì bắn ngay, không cần nhiều lời… Thưa ông, đội ơn ông nhận cho vào làm việc, tôi mừng lắm,…

– Thôi, thế là được! Nhưng tôi cần người cắt cỏ cho tốt đấy… Hôm nay tôi không có tiền lẻ, ông lão ạ.

Một người ăn mặc rách rưới tiến gần lại họ, kéo dài giọng đều đều, thiểu não:

– Kính lạy đức Bà rất thánh, xin các ông các bà thương cho kẻ mù lòa… các đồng chí đi ngay thôi, kỵ binh đến đấy… Kính lạy nữ vương trên trời rất thành, kính lạy đức nữ đồng trinh… Ri-va-rét, chúng lùng bắt anh đấy, Ri-va-rét… hai phút nữa chúng sẽ ập đến đây… Xin các thánh phù hộ các ông các bà… Các đồng chí phải phá vòng vây mà ra, mật thám như rươi ấy, không lẻn ra được đâu.

Mác-cô-nê dúi cương ngựa vào tay Ruồi Trâu:

– Mau lên! Phóng ra phía cầu, vứt ngựa ở đấy rồi núp xuống vực. Chúng tôi có vũ khí cả, sẽ cản chúng lại trong mươi phút.

– Không, tôi không thể nào bỏ các đồng chí. Tập hợp ngay lại, bắn theo tôi. tiến về phía cửa lâu đài, ngựa đã buộc sẵn ở đấy. Và rút dao sẵn sàng ra. Ta vừa đánh vừa lui. Khi tôi vứt mũ xuống đất thì các đồng chí cắt dây thừng, nhảy lên yên ngay. Có lẽ tất cả chúng ta đều kịp chạy thoát tới rừng bằng cách đó.

Họ nói thầm với nhau rất bình tĩnh, bình tĩnh đến nỗi ngay những người đứng sát bên cạnh cũng không thể ngờ rằng họ đang bàn tán một chuyện khác quan trọng hơn chuyện cắt cỏ.

Mác-cô-nê cầm cương, dắt ngựa về phía cửa lâu đài, nơi buộc các con ngựa khác. Ruồi Trâu thất thểu đi bên cạnh, còn người ăn mày thì vẫn chìa tay, không ngớt mồm van lơn thiểu não và bước theo. Mi-ke-lê vừa huýt sáo miệng vừa đi theo kịp cả bọn. Lúc ấy người ăn mày vừa kịp rỉ tai với Mi-ke-lê và anh liền đi báo tin cho ba người nông dân đang ngồi ăn hành tây sống dưới gốc cây. Ba người này lập tức đứng dậy đi theo.

Thế là cả bảy người đã ra đứng ở bậc cửa lâu đài, không bị một ai ngờ vực. Người nào người nấy đều thủ sẵn súng ngắn trong ngực. Ngựa buộc ở cạnh cửa, chỉ cách họ có vài bước.

Ruồi Trâu nói khẽ khàng nhưng rành rọt từng lời:

– Tôi chưa ra hiệu thì chứ nên để lộ mặt. Rất có thể chúng không biết chúng ta. Hễ tôi bắn thì các đồng chí nổ súng ngay. Nhưng đừng bắn vào người, cứ nhằm vào ngựa mà bắn, thì chúng mới không thể nào đuổi được chúng ta. Ba người bắn còn ba người khác thì nạp đạn. Hễ tên nào đứng chắn ta và ngựa thì hạ thủ ngay lập tức. Tôi sẽ cưỡi con ngựa đốm kia. Thấy tôi vứt mũ xuống đất thì các đồng chí cứ việc rút lui theo kế hoạch, không cần chờ đợi gì cả.

Bỗng Mi-ke-lê nói:

– Chúng đến kia rồi

Phiên chợ bỗng dưng nhốn nháo. Ruồi Trâu quay lại, ngơ ngác. Mười lăm tên kỵ binh vũ trang từ một ngõ hẻm xông thẳng vào chợ. Chúng lách bừa giữa đám đông, và nếu không có lười mật thám bao vây thì bảy chiến sĩ cách mạng bí mật đã có thể rút lui dễ dàng, nhất là trong lúc đám đông còn mải nhìn đội kỵ binh.

Mi-ke-lê nhích lại gần Ruồi Trâu:

– Ta chạy thôi chứ?

– Không thể được, khó thoát lắm, chúng ta đã bị mật thám bủa vây. Một tên chó săn vừa nhận ra tôi. Kìa, hắn đã cho người đến báo viên đội trưởng rồi. Giờ chỉ còn một cách nổ súng bắn vào ngựa.

– Thằng chó săn ấy đâu hở anh?

– Tôi sẽ bắn nó trước nhất. Sẵn sàng cả chưa? Chúng đã tiến về phía chúng ta và sắp tấn công đấy.

Tên đội trưởng kỵ binh hét:

– Giãn ra! Nhân danh đức Thánh, ta ra lệnh giải tán.

Đám đông hoảng hốt giạt ra và đội lính xô vào nhóm người đứng trước cửa lâu đài. Ruồi Trâu rút súng ra khỏi áo, không bắn vào đội kỵ binh đang tiến đến mà bắn luôn vào tên mật thám đang mon men tới chỗ buộc ngựa. Xương quai xanh gẫy vụn, tên mật thám ngã lăn ra. Cùng lúc đó sáu phát súng thi nhau nổ, các chiến sĩ cách mạng tiến dần tới chỗ buộc ngựa.

Một con ngựa trong đội kỵ binh nhảy chồm lên và giạt sang một bên. Một con khác ngã lăn ra kêu rống lên. Những tiếng ầm ĩ trong đám đông rồi loạn ấy vẫn không át được tiếng tên sĩ quan đang oang oang ra lệnh. Hắn ta đứng lên bàn đạp rồi vung gươm:

– Lại đây! Theo ta!

Bỗng hắn loạng choạng trên yên ngựa rồi ngã gục xuống. Ruồi Trâu lại nổ súng và bắn không sai một phát. Một dòng máu nhỏ đã tuôn ra trên binh phục của tên đội trưởng, nhưng hắn ráng hết sức điên cuồng, tay bám chặt bờm ngựa, rướn người, gân cổ hét:

– Không bắt sống được thằng quỷ thọt kia thì giết nó đi! Chính nó là Ri-va-rét đấy!

Ruồi Trâu lên tiếng gọi các đồng chí của mình:

– Đưa súng đây, mau lên! Và lên ngựa!

Rồi anh ném mũ xuống đất. Rất đúng lúc. Những lưỡi gươm điên cuồng của kẻ địch đã loang loáng trên đầu anh.

– Mọi người bỏ cả vũ khí xuống!

Bóng Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li bỗng hiện ra giữa hai bên đang chiến đấu. Một tên lính hoảng hốt kêu lên:

– Đức Hồng y! Trời ơi, họ giết chết Người mất!

Nhưng Mông-ta-ne-li đã tiến lên bước nữa và đứng trước mũi súng của Ruồi Trâu.

Trong số bảy người, năm người đã lên ngựa và phóng ngược lên đường phố dốc. Mác-cô-nê vừa kịp nhảy lên yên. Nhưng trước khi thúc ngựa anh còn ngoảnh lại xem cần giúp đỡ gì thủ lãnh của mình không. Con ngựa đốm đứng ngay gần đó. Chỉ nháy mắt nữa là cả bảy người sẽ trốn thoát. Nhưng khi bóng người mặc áo choàng đỏ tiến lên thì Ruồi Trâu bỗng do dự, khẩu súng trong tay từ từ hạ xuống. Khoảnh khắc ấy quyết định hết thảy. Kỵ binh lập tức vây kín lấy anh, xô anh ngã xuống. Một tên lính lấy gươm chém bật khẩu súng khỏi tay Ruồi Trâu. Mác-cô-nê thúc ngựa. Tiếng vó ngựa dồn dập đuổi theo cách anh có vài bước. Ở lại không ích lợi gì nữa. Ngồi trên yên anh còn xoay người lại, bắn một phát cuối cùng vào giữa mặt tên lính đuổi sát sau anh. Giữa lúc đó, anh trông thấy Ruồi Trâu. Bộ mặt Ruồi Trâu đẫm máu. Ngựa, lính và mật thám nhảy xổ vào giày xéo người anh, Mác-cô-nê nghe rõ tiếng chửi rủa căm hờn xen lẫn tiếng reo đắc thắng. Mông-ta-ne-li không nhìn thấy sự việc vừa xảy ra trước mắt. Ông mải lo phủ dụ đám người đang nhốn nháo lên vì hoảng sợ, rồi cúi xuống nhìn tên mật thám bị thương. Nhưng đám người bỗng xôn xao làm cho ông ta phải ngẩng đầu lên.

Đội lính diễu qua chợ, kéo theo sau một người bị trói tay. Mặc dù mặt xám ngoét và thở hồng hộc gấp gáp vì đau đớn và mệt lả, người ấy vẫn ngoái lại phía Mông-ta-ne-li, đôi môi nhợt nhạt mỉm cười chua chát, người ấy khẽ nói:

– Thưa đức Hồng y, tôi… tôi chúc mừng ngài…!

Năm ngày sau Mác-ti-ni tới Phoóc-li. Giê-ma gửi cho anh một tập hình quảng cáo theo đường bưu điện. Mật hiệu ấy có nghĩa là tình hình đòi hỏi anh phải có mặt ngay tại chỗ. Mác-ti-ni sực nhớ tới buổi chuyện trò trên sân gác hôm nọ và đã đoán ngay được sự thật. Suốt dọc đường anh luôn nhủ mình không có lý do gì để lo lắng rằng Ruồi Trâu đã gặp nạn. Những ý nghĩ ngông cuồng, ngây ngô của con người nhiều tưởng tượng ấy thì chú ý làm gì? Nhưng càng tự an ủi mình bao nhiều thì anh lại càng nghĩ chính Ruồi Trâu đã gặp điều không may bấy nhiêu.

Bước vào phòng Giê-ma, anh hỏi:

– Tôi đoán biết là việc gì đã xảy ra, Ri-va-rét bị bắt rồi có phải không chị?

– Bị bắt hôm thứ năm vừa rồi ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Trước khi bị bắt anh ấy chống cự đến phút cuối cùng, bắn bị thương tên đội trưởng kỵ binh và một thằng chó săn.

– Chống chọi bằng súng. Hỏng chuyện rồi!

– Điều đó không quan trọng. Anh ấy bị chúng theo dõi từ lâu. Dù có bắn thêm phát súng cũng chẳng can hệ gì.

– Chị có biết chúng định làm gì anh ta không?

Gương mặt Giê-ma càng tái xanh tái mét:

– Theo ý tôi, chúng ta không nên chờ xem chúng sẽ làm gì anh ấy.

– Chị cho rằng chúng ta có thể cứu thoát anh ấy phải không?

– Nhất định phải cứu thoát.

Mác-ti-ni quay đi, chắp tay sau lưng và huýt sáo miệng. Giê-ma để mặc cho anh nghĩ ngợi. Chị ngồi ngả đầu vào tựa ghế, mắt thờ thẫn, mơ hồ nhìn về phía trước. Vẻ mặt chị gợi cho người ta nhớ tới bức tranh “Bi thảm” của Đuy-rơ (1).

Mác-ti-ni dừng bước trước mặt chị, hỏi:

– Chị đã kịp nói chuyện với anh ấy chưa?

– Chưa, anh ấy định gặp tôi ở đây sáng hôm sau.

– Vâng, tôi cũng còn nhớ. Bây giờ anh ấy bị giam ở đâu?

– Trong pháo đài. Bị lính tráng canh phòng nghiêm ngặt và nghe nói chân tay bị cùm

Mác-ti-ni nhún vai:

– Điều đó không sao. Cùm nào cũng có thể dùng giũa mà phá. Miễn là Ruồi Trâu không bị thương…

– Hình như có bị thương nhẹ, nhưng bị như thế nào thì cũng chưa rõ… Bảo Mi-ke-lê kể lại thì rõ hơn vì hôm Ruồi Trâu bị bắt anh ấy cũng ở đấy.

– Mi-ke-lê làm sao chạy thoát được? Anh ta bỏ mặc Ri-va-rét hay sao?

– Không phải lỗi tại anh ấy. Anh ấy cũng nổ súng với cả đoàn và chấp hành đúng mọi mệnh lệnh. Không ai làm sai cả, chỉ trừ có Ri-va-rét. Hình như Ri-va-rét quên đi hoặc là phút cuối cùng đã sơ hở. Điều đó không thể hiểu được… Anh chờ một chút tôi đi gọi Mi-ke-lê.

Giê-ma bước ra khỏi ohòng. Một lát sau chị trở vào với Mi-ke-lê và một dân miền núi vai rộng.

Chị giới thiệu:

– Đây là Mác-cô-nê, một trong những người chuyên chở hàng lậu cho chúng ta. Chắc anh cũng đã từng nghe tên. Anh ấy vừa mới tới mà có thể bổ sung thêm câu chuyện của Mi-ke-lê… Mi-ke-lê, đây là Xê-da Mác-ti-ni mà tôi đã nói chuyện với anh. Anh thấy những gì thì kể cho anh ấy nghe.

Mi-ke-lê kể lại vắn tắt cuộc chiến đấu giữa các chiến sĩ cách mạng và đội kỵ binh.

Cuối cùng, anh nói:

– Đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hiểu sự việc đã xảy ra thế nào. Nếu chúng tôi biết Ri-va-rét có thể bị bắt thì không đời nào chúng tôi chạy cả. Các mệnh lệnh của anh đều rất chính xác, và chúng tôi không thể ngờ rằng sau khi vứt mũ xuống đất thì Ri-va-rét ở lại để cho lính bao vây mình. Anh ấy đã đứng ngay bên cạnh ngựa, chính mắt tôi thấy anh ấy đã cắt dây thừng và chính tay tôi đã đưa cho anh ấy khẩu súng nạp đạn sẵn rồi tôi mới nhảy lên yên ngựa. Điều duy nhất mà tôi có thể dự đoán là có lẽ tại chân anh khập khiễng nên anh đã hụt chân không nhảy lên ngựa được. Nhưng nếu thế thì tại sao lúc ấy anh ấy lại không bắn…

Mác-cô-nê ngắt lời:

– Không, không phải thế. Anh ấy cũng không tìm cách nhảy lên ngựa đâu. Con ngựa tôi sợ súng giạt sang một bên nên tôi chạy sau cùng. Nhưng tôi cũng còn kịp nhìn xem Ruồi Trâu có chạy thoát được không. Nếu lúc đó không có cái ông Hồng y giáo chủ thì anh ấy chạy thừa sức đi chứ.

Giê-ma buột mồm kêu khẽ:

– Thế à!

Còn Mác-ti-ni thì ngạc nhiên nhắc lại:

– Hồng y giáo chủ?

– Phải, cái lão chết tiệt ấy lại nhảy xổ ra đứng ngay trước mũi súng của Ri-va-rét. Chắc vì anh do dự nên tay phải hạ xuống, tay trái giơ lên… Như thế này này – Mác-cô-nê đưa tay trái lên ngang tầm mắt- Thế là bọn chúng đổ xô vào.

Mi-ke-lê nói:

– Tôi chẳng hiểu ra sao cả. Thật chẳng giống Ri-va-rét ngày thường chút nào. Đến phút hiểm nghèo thì lại mất bình tĩnh.

Mác-ti-ni nhận xét:

– Có lẽ Ruồi Trâu hạ súng vì ngại hạ sát một kẻ tay không chứ gì?

Mi-ke-lê nhún vai:

– Kẻ tay không đâm đầu vào giữa chỗ đánh nhau làm gì? Chiến tranh là chiến tranh. Nếu Ri-va-rét cứ mời giáo chủ xơi một phát đạn, đừng để cho mình bị tóm như một con thỏ con, thì có phải thế giới này thêm được một người chính trực và bớt được một lão cố đạo không.

Anh quay đi, mồm cắn ria mép. Chỉ một tí nữa là anh khóc lên vì tức giận.

Mác-ti-ni nói:

– Dù sao thì chuyện đã rồi. Thảo luận mãi mất thời giờ vô ích. Trước mắt cần làm sao tổ chức cho Ri-va-rét trốn thoát. Tôi chắc mọi người đều dám làm việc ấy chứ?

Mi-ke-lê thấy câu hỏi ấy là thừa không cần phải trả lời, anh ta cười ngạo nghễ nói:

– Em ruột tôi mà không đồng ý cứu Ri-va-rét thì tôi cũng giết phăng.

– Thế thì được rồi! Bây giờ ta bàn đi thôi. Trước hết, các anh có bản đồ trong pháo đài không?

Giê-ma mở khóa ô kéo lấy ra mấy tờ giấy:

– Tôi có đủ các bản đồ đây. Đây là bản đồ tầng dưới cùng của pháo đài, đây là các tầng gác dưới và các tầng gác trên cùng của tháp canh. Đây là bản đồ các tường thành. Đây là đường chạy vào thung lũng. Còn đây là những đường hẻm, hầm bí mật trong núi và đường hầm.

– Chị có biết anh ấy bị giam ở tháp nào không?

– Tháp phía đông, trong một xà lim tròn có cửa chấn song sắt. Tôi đã đánh dấu trên bản đồ.

– Những tài liệu này chị lấy ở đâu ra?

– Ở một ngườilính canh trong pháo đài biệt hiệu là Dế mèn. Anh ta là em họ của Gi-nô, một người đồng chí của chúng ta.

– Chị chuẩn bị nhanh gớm nhỉ!

– Vâng, không thể để chậm thời gian. Gi-nô đã đi ngay Bơ-ri-xi-ghê-la và trước đây chúng tôi cũng đã dự kiến một vài kế hoạch. Ri-va-rét đã tự tay thống kê các hầm bí mật trong núi. Các anh nhìn xem, chính chữ anh ấy viết đây.

– Thế còn lính canh thì thế nào?

– Chưa điều tra được. Dế mèn mới đến nên chưa biết rõ lắm.

– Cần hỏi lại Gi-nô xem anh Dế mèn này là người thế nào. Chúng đã quyết định xem xử Ri-va-rét ở đâu chưa? Ở Bơ-ri-xi-ghê-la hay ở Ra-ve-na?

– Chưa biết. Ra-ve-na là tỉnh lỵ của một tỉnh thuộc quyền Giáo hoàng. Theo pháp luật thì những việc quan trọng chỉ có thể xét xử ở đấy, ở tòa án cao cấp. Nhưng trong địa phận Giáo hoàng người ta nào có đếm xỉa gì tới pháp luật. Thay đổi pháp luật như thế nào là tùy sở thích riêng của nhà đương cục.

Mi-ke-lê xen lời:

– Họ chẳng đưa Ri-va-rét tới Ra-ve-na đâu.

– ;Tại sao anh nghĩ thế?

– Tôi tin chắc như vậy. Giám binh Bơ-ri-xi-ghê-la là viên đại tá Phe-ra-ri. Con thú dữ ấy là chú tên đội trưởng đã bị Ri-va-rét bắn bị thương. Hắn ta sẽ không bỏ lỡ dịp báo thù.

– Anh cho rằng hắn sẽ cố giữ Ri-va-rét ở lại Bơ-ri-xi-ghê-la?

– Tôi chắc hắn ta sẽ tìm cách treo cổ Ri-va-rét bằng được.

Mác-ti-ni liếc nhìn gương mặt tái ngắt của Giê-ma. Mặc cho Mi-ke-lê nói, gương mặt đó vẫn không hề biến sắc. Có lẽ ý nghĩ ấy của Mi-ke-lê đối với Giê-ma đã không phải là mới.

Giê-ma bình tĩnh nói:

– Nhưng dù sao hắn cũng phải giữ những thủ tục tối thiểu. Chắc là hắn sẽ lập tòa án binh tại chỗ, rồi mới tìm cách thanh minh, lấy cớ là để giữ gìn an ninh trong thành phố.

– Thế còn Hồng y giáo chủ chứ? Liệu ông ta có làm ngơ trước hành động trái phép như thế không?

– Việc quân sự ông ta can thiệp sao được!

– Nhưng ông ta có thế lực lớn. Nếu ông ta không đồng ý thì giám binh chắc không dám làm.

Mác-cô-nê ngắt lời:

– Đời nào giám binh hỏi ý kiến Mông-ta-ne-li, vì ông này bao giờ cũng phản đối việc lập tòa án binh. Chừng nào Ri-va-rét còn ở Bơ-ri-xi-ghê-la thì tình hình không đến nỗi nguy hiểm lắm vì Mông-ta-ne-li thường bênh vực những kẻ bị bắt. Tôi sợ nhất là Ri-va-rét phải đi Ra-ve-na vì đến đó thì coi như tính mệnh đã đi đứt.

Mi-ke-lê nói chắc nịch:

– Nhất định không để chúng áp giải tới Ra-ve-na. Ta có thể tổ chức đánh tháo giữa đường. Còn như đánh tháo ngay trong nhà tù thì đấy mới thật là khó.

Giê-ma nói:

– Theo tôi thì không nên hoài công đợi đến lúc Ri-va-rét bị giải đi Ra-ve-na. Chúng ta phải tranh thủ cứu Ri-va-rét ngay tại Bơ-ri-xi-ghê-la. Xê-da, bây giờ ta nên nghiên cứu bản đồ trong pháo đài và nghĩ cách bố trí cho Ri-va-rét trốn thoát đi thôi. Tôi đã có một ý định nhưng còn một điểm chưa giải quyết được.

Mi-ke-lê đứng dậy, nói:

– Mác-cô-nê, ta đi đi, để cho hai người họ nghĩ. Chiều nay tôi phải đi Phô-nha-nô (1), và tôi muốn anh cùng đi. Lẽ ra Vin-tren-xô phải gửi đạn cho chúng ta từ hôm qua mà sao chưa thấy gửi tới nhỉ?

Khi hai người đi rồi, Mác-ti-ni bước lại gần Giê-ma và lặng lẽ chìa tay cho chị. Chị đặt tay mình giây lát trong tay Mác-ti-ni.

Sau cùng, chị nói:

– Xê-da, bao giờ đối với tôi anh cũng là người bạn tốt. Anh luôn luôn giúp tôi trong những giờ phút khó khăn. Nào, bây giờ ta bàn các kế hoạch đi.

… …… ……

(1) Coóc-xơ – một hòn đảo ở phía Tây nước Ý

(2) Ra-ve-na – thủ phủ của một trong bốn lãnh địa của khâm sứ đặc phái của Giáo hoàng.

(3) Ba-sti-a – Một hải cảng trên bờ biển Đông Bắc đảo Coóc-xơ

(4) Hola, Paolo! (tiếng Ý) – Này, Paolo!

(1) Phô-nha-nô: một địa điểm thuộc lãnh địa Giáo hoàng

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN