Sát Nhân Mạng
Chương 16
Frank Bishop đỗ chiếc Ford màu xanh nước biển không có gì nổi bật trước ngôi nhà nhỏ kiểu thuộc địa trên một khu đất tinh tươm – chỉ rộng khoảng một phần tám hecta, ông ước lượng, tuy vậy nó vẫn đáng giá dễ đến cả triệu đô vì tọa lạc ở trung tâm Thung lũng Silicon.
Bishop để ý thấy một chiếc Lexus mui kín sáng màu mới coóng đang đỗ trên lối đi.
Họ bước đến trước ngôi nhà và gõ cửa. Một người phụ nữ tầm bốn mươi với khuôn mặt cau có, vận quần jean và cái áo cánh thêu hoa đã phai màu ra mở cửa. Mùi hành phi và thịt xộc ra. Giờ là 6 giờ chiều – giờ ăn tối của gia đình Bishop, và viên thám tử bỗng cảm thấy đói cồn cào. Ông nhớ ra là mình chưa ăn gì từ sáng đến giờ.
“Vâng?” Người phụ nữ hỏi.
“Bà Cargill?”
“Đúng vậy. Tôi có thể giúp gì cho các ông?” Bà hỏi đầy vẻ dè chừng.
“Chồng bà có nhà không?” Bishop hỏi, giơ phù hiệu ra.
“Ừm. Tôi…”
“Có chuyện gì thế, Kath?” Một người đàn ông to lớn vận quần kaki và áo sơ mi hồng bước ra cửa. Ông ta đang cầm một ly cocktail.
Khi nhìn thấy những chiếc phù hiệu hai viên cảnh sát đang giơ ra, ông ta đặt ly rượu lên một cái bàn gần lối đi, khuất tầm nhìn của họ
Bishop nói, “Chúng tôi xin phép được nói chuyện với ông một phút, thưa ông?”
“Chuyện này là thế nào vậy?”
“Xảy ra chuyện gì thế, Jim?”
Ông ta giận dữ liếc nhìn vợ, “Tôi không biết. Nếu biết tôi đã chẳng hỏi làm gì, đúng không?”
Tái mặt, bà vợ bước lùi lại.
Bishop nói, “Chỉ mất một phút thôi.” Ông và Shelton dợm bước xuống lối đi trước nhà và dừng lại.
Cargill đi theo hai viên thám tử. Khi họ đã ra khuất tầm nghe của ngôi nhà, Bishop nói, “Anh làm việc cho Công ty Giải pháp Internet Marketing ở Cuperentino, đúng không?”
“Tôi là giám đốc bán hàng khu vực. Chuyện này là gì vậy…”
“Chúng tôi có lý do để cho rằng anh có thể đã nhìn thấy chiếc xe mà chúng tôi đang cố gắng tìm ra, để hỗ trợ cho việc điều tra một vụ án mạng. Hôm qua lúc 7 giờ tối, chiếc xe này đã đậu ở bãi đỗ phía sau quán Vesta’s Grill, bên con phố đối diện công ty anh. Và chúng tôi nghĩ có thể anh đã thấy nó.”
Ông ta lắc đầu, “Giám đốc nhân sự đã hỏi tôi chuyện này. Nhưng tôi đã nói với cô ta là tôi không nhìn thấy gì cả. Cô ta không nói với các anh à?”
“Có,” Bishop bình thản nói. “Nhưng tôi có lý do để tin rằng anh đã không nói thật.”
“Này, khoan đã…”
“Anh đã đỗ xe ở lô phía sau công ty vào khoảng thời gian đó, trong chiếc Lexus và tham gia hành vi tình dục với Sally Jacobs, nhân viên phòng tài chính của công ty.”
Cargill vẫn nói những gì cần phải nói. Dù vẻ mặt kinh ngạc biến sắc vì sợ hãi của Cargill khiến Bishop thừa hiểu rằng ông ta đang nói dối vì tiền. “Thật là vớ vẩn. Bất kỳ ai nói thế đều đã nói dối. Tôi kết hôn được mười bảy năm. Ngoài ra, Sally Jacobs… nếu anh nhìn thấy cô ta, anh sẽ biết suy nghĩ này ngớ ngẩn thế nào. Cô ta là cô ả xấu xí nhất tầng mười sáu.”
Bishop ý thức được thời gian đang trôi. Ông nhớ lại những gì Wyatt Gillette đã mô tả về trò Access – trong một tuần giết được càng nhiều người càng tốt. Phate có thể đã tới rất gần nạn nhân tiếp theo. Viên thám tử nói ngắn gọn, “Thưa ông, tôi không quan tâm đến cuộc sống riêng tư của ông. Tất cả những gì tôi quan tâm là hôm qua ông đã nhìn thấy một chiếc xe đỗ ở lô phía sau quán Vesta. Nó thuộc về một nghi phạm giết người và tôi cần biết chiếc xe đó là loại nào.”
“Tôi không có ở đó,” Cargill cứng đầu nói, vẫn nhìn về phía ngôi nhà. Từ sau tấm rèm, người vợ đang săm soi họ.
Bishop từ tốn nói, “Không, thưa ông, ông đã ở đó. Và tôi biết ông chắc chắn đã xem xét chiếc xe của tên sát nhân.”
“Không, tôi không hề,” người đàn ông làu bàu.
“Ông có đấy. Để tôi giải thích cho ông tại sao nhé.”
Ông ta nở một nụ cười nhạo báng.
Viên thám tử nói, “Một chiếc mui kín đời mới, sáng màu – giống như chiếc Lexus của ông, đã đỗ ở bãi đỗ phía sau công ty Internet Marketing ngày hôm qua trong khoảng thời gian nạn nhân bị bắt cóc từ quán Vesta. Giờ, tôi đã biết chủ tịch công ty ông khuyến khích nhân viên đậu xe ở bãi đỗ phía trước để khách hàng không để ý đến việc nhân sự của công ty đã giảm đi một nửa. Vậy, lý do hợp lý để đỗ xe ở bãi đỗ phía sau là để làm việc gì đó vụng trộm và khuất tầm nhìn từ tòa nhà hoặc con phố đó. Như vậy kết luận là sử dụng chất cấm hoặc/và quan hệ tình ái.”
Nụ cười trên môi Cargill tắt ngấm.
Bishop nói tiếp, “Bởi vì đó là một bãi đỗ có kiểm soát, ra vào chỉ có nhân viên công ty mới được đỗ xe ở đó, không thể là khách. Tôi đã hỏi giám đốc nhân sự nhân viên nào sở hữu một chiếc Sedan sáng màu mà đang gặp vấn đề với chất gây nghiện hoặc ngoại tình. Cô ấy nói ông đang cặp bồ với Sally Jacobs. Mà thực sự chuyện này trong công ty ai cũng biết.”
Hạ giọng hết mức đến nỗi Bishop phải nghiêng người về phía trước đế nghe, Cargill lẩm bẩm, “Mẹ kiếp mấy chuyện đồn đại văn phòng – tất cả chỉ là đồn đại thôi!”
Sau hai mươi hai năm làm thám tử điều tra, Bishop đã trở thành cái máy phát hiện nói dối biết đi. Ông nói tiếp, “Nếu một người đàn ông đỗ xe với bồ…”
“Cô ta không phải bồ của tôi!”
“… trong một bãi đỗ xe, ông ta sẽ phải kiểm tra mọi chiếc xe gần đấy để chắc chắn đó không phải là xe của vợ hay một người hàng xóm. Thế nên, thưa ông, ông đã nhìn thấy chiếc xe của tên nghi phạm. Đó là loại xe gì?”
“Tôi chẳng nhìn thấy gì,” tay doanh nhân gắt lên.
Đến lượt Bob Shelton. “Chúng tôi không có thời gian cho bất kỳ thứ nhảm nhí nào nữa đâu, Cargill.” Ông nói với Bishop, “Chúng ta đi tìm gặp Sally và đưa cô ta đến đây. Có lẽ hai người ở cùng nhau thì có thể nhớ ra thêm điều gì đó.”
Viên thám tử đã nói chuyện với Sally Jacobs – người khác xa với danh hiệu xấu nhất tầng mười sáu, hay bất kỳ tầng nào khác của công ty. Và cô ta đã xác nhận chuyện ngoại tình với Cargill. Nhưng còn độc thân, và vì lý do nào đó yêu say đắm gã này nên cô ta ít bị ám ảnh hơn ông ta và không để tâm kiểm tra những chiếc xe gặp ở đó. Cô ta nhớ có một cái xe ở đó nhưng không thể nhớ nó là loại gì. Bishop tin cô ta.
“Đưa cô ta đến đây?” Cargill nói từng từ. “Sally?”
Bishop ra hiệu cho Shelton và hai người quay đi. Ông nói với qua vai, “Chúng tôi sẽ quay lại ngay.”
“Không, đừng,” Cargill khẩn nài.
Họ dừng lại.
Khuôn mặt Cargill bừng bừng vẻ phẫn nộ. Kẻ phạm tội nặng nhất hay tỏ vẻ mình là nạn nhân nhất, với cương vị là cảnh sát đường phố, Bishop biết rõ điều này. “Đó là một chiếc Jaguar mui trần. Đời mới. Màu bạc hoặc xám. Mái che màu đen.”
“Biển số xe?”
“Biển Califomia. Tôi không nhìn thấy số.”
“Trước đó ông đã bao giờ nhìn thấy chiếc xe đó trong khu vực?”
“Không.”
Bishop cho rằng giờ thì ông ta đang nói thật.
Rồi một nụ cười khó hiểu nở trên khuôn mặt của Cargill và ông ta nhún vai, hất hàm về phía ngôi nhà, “Này anh sỹ quan, chỗ đàn ông với nhau, anh biết rồi đấy… Chúng ta có thể giữ bí mật chuyện này giữa tôi và anh thôi, đúng không?”
Bishop giữ vẻ mặt điển hình của cảnh sát và nói, “Chuyện đó không thành vấn đề, thưa ông.”
“Cảm ơn,” tay doanh nhân thở phào nhẹ nhõm nói.
“Ngoại trừ bản khai cuối cùng,” viên thám tử nói thêm. “Trong đó sẽ đề cập đến mối quan hệ của ông với Sally Jacobs.”
“Bản khai?” Cargill hỏi một cách lo lắng.
“Cái đó Phòng Chứng cứ của chúng tôi sẽ gửi thư cho ông.
“Gửi thư? Đến nhà à?”
“Đó là luật của bang,” Shelton nói. “Chúng tôi phải gửi cho mọi nhân chứng một bản sao lời khai của họ.”
“Các anh không thể làm thế!”
Bản tính vốn không hay cười và vì hoàn cảnh lúc này cũng chẳng thích hợp để cười, Bishop nói, “Thực ra chúng tôi bắt buộc phải làm thế thưa ông. Như đồng sự của tôi đã nói. Đó là luật của bang.”
“Tôi sẽ lái xe đến văn phòng của các anh để lấy nó.”
“Bắt buộc phải gửi thư – từ Sacramento. Ông sẽ nhận được nó trong vòng vài tháng tới.”
“Vài tháng à? Không thể nói cho tôi chính xác là lúc nào à?”
“Chính chúng tôi cũng không biết được, thưa ông. Có thể là tuần tới, cũng có thể là tháng Bảy hoặc tháng Tám. Chúc ông buổi tối vui vẻ. Và cảm ơn ông vì sự hợp tác.”
Họ vội vã quay trở lại chiếc Crown – Victoria màu xanh nước biển, bỏ lại sau lưng tay doanh nhân đang bẽ bàng, mải mê suy nghĩ đủ mọi mưu kế để nhận thư trong hai hay ba tháng nữa mà không để bà vợ nhìn thấy bản báo cáo đó.
“Phòng bằng chứng?” Shelton nhướng một bên lông mày hỏi.
“Tôi thấy nghe hay đấy chứ,” Bishop nhún vai. Cả hai cùng bật cười.
Sau đó Bishop gọi cho trung tâm điều động để yêu cầu một EVL (Emergency Vehicle Locator) – thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp với chiếc xe của Phate. Yêu cầu này tập hợp tất cả dữ liệu của phòng phương tiện gắn máy về những chiếc Jaguar mui trần đời mới màu xám hoặc bạc. Bishop biết rằng nếu Phate sử dụng chiếc xe này khi phạm tội, nó chắc chắn là xe ăn cắp hoặc được đăng ký dưới tên và địa chỉ giả có nghĩa là báo cáo của phòng phương tiện gắn máy sẽ chẳng giúp được gì. Nhưng với một lệnh EVL, mọi bang, hạt và các cảnh sát địa phương ở bắc California sẽ được báo động để ngay lập tức báo cáo nếu nhìn thấy bất kỳ chiếc xe nào khớp với mô tả.
Bishop đồng ý để Shelton, người lái xe ẩu hơn, và nhanh hơn cầm lái.
“Quay lại CCU,” ông nói.
Shelton lẩm bẩm, “Vậy là hắn lái một chiếc Jag. Trời ạ, gã này không phải là một hacker bình thường.”
Nhưng Bishop thấy rằng họ vốn đã biết điều đó rồi.
– _ – _ –
Cuối cùng một tin nhắn cũng hiện lên trên màn hình máy tính của Gillette ở CCU.
Triple-X: Xin lỗi, cậu bạn. Có một gã cứ hỏi tôi mấy cái vớ vẩn về phá mật khẩu màn hình chờ. Thật ngớ ngẩn.
Những phút sau đó, Gillette, trong vai một thiếu niên cô độc ở Texas, kể cho Triple-X nghe chuyện làm thế nào cậu ta thắng được những mật khẩu screen saver và để tay hacker cho hắn lời khuyên về những cách hay hơn để làm việc đó. Gillette đang mải mê tôn sùng người quân sư thì cửa văn phòng CCU bật mở, hắn liếc lên nhìn thấy Frank Bishop và Bob Shelton đã quay trở lại. Patricia Nolan phấn khích nói, “Chúng ta sắp tìm ra chỗ của Triple-X rồi. Hắn đang ở quán cà phê Internet trong một trung tâm mua sắm quanh đây. Hắn nói rằng có biết Phate.”
Gillette nói với Bishop, “Nhưng hắn không nói gì cụ thể về Phate. Hắn biết chuyện, nhưng hắn sợ.”
“Pac Bell và Bay Area Online nói năm phút nữa họ sẽ xác định được vị trí của hắn,” Tony Mott vừa nghe tai nghe vừa nói. “Họ đang thu hẹp dần đường trao đổi tín hiệu. Có vẻ như hắn đang ở Atherton, Menlo Park hoặc Redwood City.”
Bishop nói, “Chà, ở đó có bao nhiêu khu mua sắm nhỉ? Hãy điều vài đội tác chiến đến khu vực đó.”
Bob Shelton gọi một cú điện thoại rồi thông báo, “Họ đang điều quân. Sẽ có mặt ở khu vực đó trong năm phút.”
“Tiếp nào, tiếp nào,” Mott nói với cái màn hình máy tính trong khi tay vẫn vuốt ve phần báng vuông vắn của khẩu súng bạc.
Bishop nhìn màn hình và nói, “Lái hắn trở lại Phate. Thử xem có thể khiến hắn nói điều gì đó cụ thể hơn không.”
Renegade334: Anh này, cái gã Phate, không có cách nào để ngăn hắn được sao. Em muốn cho hắn bầm dập.
Triple-X: Nghe này, cậu bạn. Cậu không làm Phate bầm dập. Mà hắn sẽ cho CẬU biết tay.
Renegade334: Anh nghĩ vậy à?
Triple-X: Phate gieo rắc cái chết, nhóc. Bạn hắn, Shawn, cũng vậy. Đừng có lại gần họ. Nếu Trapdoor của Phate đã ở trong máy cậu, hãy hủy ổ cứng và cài đặt một cái mới. Đổi tên màn hình đi.
Renegade334: Anh có nghĩ là hắn có thể tóm được em không, ngay cả tại Texas? Hắn loanh quanh ở khu nào nhỉ?
“Tốt lắm,” Bishop nói.
Nhưng Triple-X không đáp lại ngay. Một lát sau, có tin nhắn hiên lên màn hình:
Triple-X: Tôi không nghĩ hắn sẽ đến Austin. Nhưng tôi nên nói với cậu điều này, cậu bạn…
Renegade334: Gì thế?
Triple-X: Chỗ mày ngồi không phải là chỗ ít an toàn nhất ở Bắc California, chính là chỗ mày đang ngồi lúc này đấy, thằng khốn giả mạo!!!
Renegade334: Này anh, em đang ở Texas mà.
Triple-X: “Này anh bạn,” không, mày không ở đó đâu. Hãy kiểm tra thời gian phản hồi trên chương trình nặc danh của mày đi. ESAD55! (Viết tắt của Eat Shit and Die, là một câu chửi, kiểu đi chết đi)
Triple-X đăng xuất.
“Khốn thật,” Nolan nói.
“Hắn chuồn rồi,” Gillette nói với Bishop và giận dữ đấm tay xuống bàn.
Viên thám tử liếc nhìn tin nhắn cuối cùng trên màn hình. “Hắn nói thời gian phản hồi là ý gì vậy?”
Gillette không trả lời ngay. Hắn gõ vài lệnh và kiểm tra chương trình nặc danh mà Miller đã làm.
“Mẹ kiếp,” hắn lầm bầm khi phát hiện ra vấn đề. Hắn giải thích: Triple-X đã tìm cách lần theo dấu vết máy tính của CCU bằng cách gửi đi những ping (Viết tắt của Packet Internet Groper: Gửi một gói đến máy nào đó và đợi nó phản hồi về.) điện tử nhỏ tương tự như chương trình mà Gillette đã gửi đi để tìm ra hắn. Với chương trình nặc danh, Triple-X thấy Renegade ở Austin, nhưng, lúc hắn gõ ‘BRB’, tay hacker chắc chắn đã chạy thêm một phép thử nữa. Chương trình này cho thấy độ dài thời gian để các ping đi đến và quay trở lại từ máy tính của Renegade là quá ngắn để các hạt electron hoàn thành một chuyến đi trọn vẹn từ Texas và quay lại.
Đây là một sai lầm nghiêm trọng – việc tạo ra một khoảng dừng ngắn vào chương trình nặc danh để thêm một vài mili giây và khiến cho Renegade có vẻ như đang ở cách xa cả nghìn dặm rất đơn giản. Gillette không thể hiểu nổi tại sao Miller lại không nghĩ ra.
“Mẹ kiếp!” Viên cảnh sát mạng lắc đầu nói khi nhận ra sai lầm của mình. “Là lỗi của tôi. Tôi xin lỗi… tôi không nghĩ ra.”
Không, hẳn là anh chẳng nghĩ ra nổi rồi, Gillette nghĩ
Họ đã tiến đến rất gần rồi.
Bằng một giọng yếu ớt và thất vọng, Bishop nói, “Triệu hồi đội SWAT đi.”
Shelton móc di động ra và gọi.
Bishop hỏi, “Thế chữ còn lại mà Triple-X đánh thì sao. ESAD, nó có nghĩa là gì?”
“Chỉ là một chữ viết tắt rất quen thuộc,” Gillette chua xót nói. “Nó nghĩa là Ăn phân và chết quách đi.”
“Hơi nóng nảy nhỉ,” Bishop bình luận.
Bỗng điện thoại đổ chuông – là chiếc di động của anh ta. Viên thám tử nghe máy, “Vâng?” Rồi anh hỏi cộc lốc, “Ở đâu?” Anh ghi chép lại và nói, “Huy động mọi lực lượng sẵn có đến khu vực đó. Gọi cho cả cảnh sát tàu điện ngầm San Jose nữa. Khẩn trương lên và tôi nhấn mạnh đây là vụ lớn đây.”
Anh gác máy rồi nhìn cả đội. “Chúng ta gặp may rồi. Thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp đã nhận được phản hồi. Nửa tiếng trước, một cảnh sát giao thông ở San Jose đã nhìn thấy chiếc xe Jag đời mới màu xám đang đỗ ở một khu vực cũ kĩ của thành phố nơi những chiếc xe đắt tiền chẳng mấy khi xuất hiện.” Ông bước tới tấm bản đồ và đánh một dấu X lên ngã tư nơi chiếc xe được nhìn thấy.
Shelton nói, “Tôi biết chút ít về nơi này. Có rất nhiều khu căn hộ ở gần đó. Vài cửa hàng rượu vang, một số hàng bán rượu. Một quận nhiều nhà cho thuê giá rẻ.”
Rồi Bishop gõ gõ lên một hình vuông nhỏ trên bản đồ. Nó được chú thích là ‘Học viện Thánh Francis’.
“Nhớ vụ ở đó mấy năm trước chứ?” Viên thám tử hỏi Shelton.
“Đúng rồi.”
“Một tên tâm thần đã đột nhập vào trường và giết một học viên hay giáo viên ở đó. Vì thế hiệu trưởng đã cho lắp đặt tất cả các hình thức an ninh, toàn những thứ công nghệ cao. Các bài báo đều nói về chuyện này.” Ông gật đầu về phía tấm bảng trắng, “Phate thích thử thách, nhớ chứ?”
“Lạy Chúa,” Shelton lẩm bẩm trong cơn tức giận. “Lần này hắn tìm đến bọn trẻ.”
Bishop vồ lấy điện thoại và gọi cho Trung tâm Điều động yêu cầu mã điều động đột kích.
Không ai dám nói ra điều mọi người đều đang nghĩ đến: Báo cáo của EVL đã phát hiện chiếc xe đó từ ba mươi phút trước. Có nghĩa là Phate có thừa thời gian để chơi trò chơi khủng khiếp của hắn.
– _ – _ –
Hệt như cuộc sống vậy, Jamie Turner nghĩ.
Không có pháo sáng, không có tiếng hò hét, không có tiếng ‘ting ting’ hài lòng giống như trên phim ảnh, thậm chí không có cả đến một tiếng click nhẹ, bóng đèn trên cửa báo động vụt tắt.
Trong Thế giới thực thì không có hiệu ứng âm thanh. Bạn làm những điều phải làm và chẳng có gì để tưởng niệm ngoại trừ một chiếc bóng đèn lặng lẽ vụt tắt.
Cậu nhóc đứng lên và cẩn thận nghe ngóng. Từ xa xa phía dãy tòa nhà của Học viện Thánh Francis, cậu nghe thấy tiếng nhạc, tiếng hò hét, cười nói, tiếng tranh luận nho nhỏ vọng ra từ một chương trình trò chuyện trên đài phát thanh – tất cả những điều cậu đã bỏ lại phía sau, cậu sắp được trải nghiệm một buổi tối hoàn hảo cùng anh trai.
Đẩy cánh cửa mở ra.
Im lặng. Không chuông báo dộng, không có liếng quát tháo của Booty.
Mùi không khí lạnh, trộn lẫn hương cỏ thơm ngai ngái choán lấy mũi cậu. Nó khiến cậu nhớ lại hàng giờ cô đơn dài dằng dặc sau bữa tối ở nhà cha mẹ tại Mill Valley suốt mùa hè – anh trai Mark của cậu vẫn ở Sacramento, nơi anh ấy có một công việc để thoát ly khỏi gia đình. Những đêm dài vô lận đó…
Mẹ mang cho Jamie món tráng miệng và đồ ăn nhẹ để nó khỏi quẩn chân họ, bố cậu nói ‘Ra ngoài kia chơi đi’ trong khi họ và bạn bè nói những câu chuyện vô thưởng vô phạt mỗi lúc một lộn xộn, khi tất cả đều đã say khướt vì rượu.
Ra ngoài kia chơi đi…
Như thể nó đang ở trong một vườn trẻ chết tiệt!
Chà, không phải là Jamie được ra ngoài. Cậu chỉ bước vào thế giới ảo và hack như thể không có ngày mai.
Cái không khí mùa xuân mát mẻ này làm cậu nhớ đến quãng thời gian đó. Nhưng lúc này, cậu đã miễn dịch với những ký ức ấy. Cậu phấn khởi vô cùng vì đã thành công và sẽ được ở cùng anh trai tối nay.
Cậu chốt cửa bằng băng dính để có thể vào trong khi quay lại trường lúc đêm muộn. Không có tiếng bước chân, không có Booty, không có những hồn ma.
Cậu bước ra ngoài.
Bước chân đầu tiên đến với tự do! Phải! Cậu đã làm được!
Đúng lúc đó, một con ma bắt được cậu.
Một cánh tay đàn ông bất ngờ kẹp chặt quanh ngực Jamie một cách đau đớn và một bàn tay mạnh mẽ bịt chặt lấy miệng cậu.
Ôi Chúa ơi!.
Jamie ráng hết sức lao ngược trở lại trường nhưng kẻ tấn công, trong bộ đồ kiểu đồng phục – quá khỏe đã quật cậu xuống đất. Rồi gã đàn ông đó kéo cặp kính bảo vệ dày cộp ra khỏi mũi cậu bé.
“Xem chúng ta có gì đây,” hắn thì thầm, thảy cặp kính xuống đất và vuốt ve mí mắt của thằng bé.
“Không, không!” Jamie cố gắng giơ hai cánh tay lên để bảo vệ đôi mắt. “Ông định làm gì thế?”
Gã đàn ông lấy ra thứ gì đó từ trong lớp áo. Trông nó giống như một cái bình xịt. Hắn giữ nó lại gần xịt thẳng vào mắt Jamie. Cái quái gì…?
Một dòng chất lỏng sền sệt từ vòi xịt bắn thẳng vào mắt Jamie. Ngay lập tức, cơn bỏng rát khủng khiếp bùng lên. Thằng bé bắt đầu gào thét và quằn quại trong cơn hoang loạn tột độ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của nó đã thành sự thật.
Jamie Turner lắc đầu dữ đội để xua đi cơn đau và nỗi sợ hãi nhưng càng cảm thấy nhức nhối hơn. Nó gào lên, “không, không, không,” tiếng của Jamie bị bóp nghẹt dưới bàn tay đang kẹp chặt quanh miệng nó.
Gã đàn ông cúi thật gần và bắt đầu thì thầm vào tai nó nhưng Jamie không nghe được gì. Cơn đau đớn và nỗi hoảng sợ nuốt gọn nó như ngọn lừa bùng cháy trên cánh đồng cỏ khô.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!