Tarzan 1: Con Của Rừng Xanh
Chương 21: Rừng xanh hiu quạnh
Trung úy Acnốt nằm sốt li bì trên đệm cỏ. Anh buồn bã nghĩ rằng: vì bị mất máu quá nhiều nên chỉ vài ngày sau anh sẽ chết. Giữa những cơn sốt mê man, anh tính tới chuyện nhờ Tácdăng chuyển lời trăn trối của anh tới thuyền trưởng tuần dương hạm. Tácdăng trả lời anh bằng mấy chữ rất vô nghĩa: “Con khỉ to đi chỗ này. Người da trắng giết.” Rõ ràng là Tácdăng chẳng hiểu gì cả. Acnốt thất vọng, xoay mình, nhắm mắt lại. Anh không muốn tự tử. Và dù có muốn, anh cũng không biết tự tử bằng cách nào, làm gì để cho cái chết đến nhanh hơn. Phải chấp nhận cái chết thế này: chết từ từ, chết chậm chạp. Nhưng cần phải có mấy chữ để lại… Nhiệt độ trong người mỗi lúc một cao.
Ba ngày tiếp theo, trung úy Acnốt vẫn mê man trong những cơn sốt. Anh bắt đầu mê sảng. Tácdăng lúc nào cũng ở bên cạnh anh. Tácdăng chườm nước lã và rửa các vết thương cho anh. Tới ngày thứ tư thì… thật kì lạ, cơn sốt đột ngột dừng lại. Nhưng Acnốt chỉ còn như một cái bóng. Anh gầy dơ xương, nằm bẹp dí. Tácdăng phải nâng anh dậy, ghé đổ vào miệng anh từng hớp nước.
Thật ra, nguyên nhân của những cơn sốt của anh chỉ là phản ứng của bệnh ngã nước – một thứ bệnh mà người da trắng rất dễ mắc phải khi sống ở vùng nhiệt đới.
Hai ngày sau nữa, Acnốt bắt đầu hồi phục. Sức khỏe của anh khá trông thấy, tới mức có thể đứng dậy, lê chân tới những bãi rừng trống. Tất nhiên anh phải có Tácdăng đỡ vai. Hai người chỉ đi vài bước rồi lại ngồi nghỉ dưới một bóng cây nào đó. Tácdăng lại lấy mấy mảnh vỏ cây và cây bút ra dùng, để hai người có thể hiểu nhau. Acnốt viết trước:
– “Tôi là Pôn dơ Acnốt, trung úy hải quân Pháp. Tôi rất mang ơn anh vì những gì anh đã làm cho tôi. Anh đã cứu sống tôi. Tôi muốn đền ơn anh. Vì sao anh viết chữ Anh mà không nói tiếng Anh?”
Thoạt đầu Tácdăng hoàn toàn không hiểu gì. Chỉ tới khi Acnốt lột bỏ thật nhiều từ, đơn giản hóa từ ngữ bằng cử chỉ, lúc đó Tácdăng mới trả lời. Những dòng chữ của Tácdăng làm Acnốt kinh ngạc:
– “Tôi nói giống bộ lạc của tôi. Bộ lạc khỉ to. Ketchac đứng thứ một. Tôi nói như Tantơ – voi, Numa – sư tử. Không nói như con người. Chỉ có cô gái trẻ. Tôi nói bằng những con kiến này.”
Acnốt bắt đầu vỡ lẽ: người này sống với đàn vượn. Nhưng Acnốt không thể nào tin được một người sống trên thế giới này, một thanh niên trưởng thành mà chưa khi nào nói chuyện với con người. Nhưng cũng không thể nào tin được người đó lại biết viết và biết đọc. Acnốt nhìn dòng chữ của Tácdăng một lần nữa. Chàng ta viết về cô gái. Anh đoán đó là cô gái đã bị đười ươi bắt cóc. Acnốt cầm lấy bút và viết:
– “Cô gái Gian Potorova ở đâu?”
– “Ở chỗ người của cô. Nhà gỗ bờ biển”
– Không chết ư? Potorova đang ở đâu, có chuyện gì?”
– “Tơcốt bắt. Tôi giết Tơcốt. Tôi là tráng sĩ vĩ đại”.
Acnốt nghĩ rằng anh cần phải viết lại lần nữa. Anh viết:
– “Tôi rất biết ơn anh vì những việc anh đã làm!”
Câu này Tácdăng hoàn toàn không hiểu gì. Nhưng sau đó chàng nhìn mặt Acnốt và cảm nhận được ý muốn của Acnốt. Bởi vì sau đó Tácdăng viết:
– “Hãy dạy tôi nói lưỡi người.”
Thế là hai người bắt đầu vào công việc. Acnốt chỉ từng thứ một và gọi tên nó ra bằng tiếng Pháp. Anh nghĩ rằng anh chỉ có thể dạy cho người đàn ông của rừng già này dễ nhất là bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của anh.
Tácdăng thực là một học trò kiên nhẫn và chăm chỉ đến mức phi thường. Sau một vài ngày, Tácdăng đã có thể chỉ vào từng thứ mà nói rất trơn tru: “Đây là cây. Đây là áo. Tôi đói. Cái này là cỏ v.v..”. Dần dần, Acnốt cũng hiều cái tiếng kêu “Tácdăng” chính là tên của chàng người rừng. Acnốt kiểm tra lại vài lần và anh bắt đầu gọi chàng trai bằng cái tên đó. Tácdăng tỏ ra rất thích khi được gọi đúng tên mình.
Nhưng mọi việc không hề đơn giản. Một tuần sau, Acnốt thử lập một câu dài và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Đó là chuyện anh quyết định dạy cho Tácdăng tiếng Pháp. Trong khi đó Tácdăng đã quen với việc đọc và viết tiếng Anh. Nhưng trở lại từ đầu thì hơi muộn. Hơn nữa, Tácdăng chưa đủ khả năng để hiểu rằng loài người có nhiều thứ tiếng rất khác nhau. Acnốt lại tiếp tục công việc. Acnốt cũng không tưởng tượng được rằng trong đời mình, có lúc anh lại trở thành giáo viên dạy ngôn ngữ học, và lại là một giáo viên tận tụy, “yêu nghề” đến thế.
Sau một thời gian, Acnốt được Tácdăng đưa cho mấy dòng chữ. Nghiên cứu một lúc, anh hiểu nội dung dòng chữ là: Liệu anh đã cảm thấy đủ sức để Tácdăng đưa anh về bờ biển hay chưa? Hiểu được điều đó Acnốt rất mừng. Từ lâu anh đã khao khát trở về với những người đồng hương của mình. Nhưng anh lại viết:
– “Anh không thể đưa tôi đi qua rừng rậm xa thế”
Tácdăng nhìn dòng chữ một lát rồi phì cười:
– Có thể chứ! – Tácdăng nói ngay bằng tiếng Pháp khiến Acnốt phải bật cười, sung sướng. Học trò của anh đã dùng một từ tiếng Pháp chính xác, rất ngon lành. Thế là anh đã được hưởng thành quả giáo dục của mình.
Vài ngày sau, hai người lên đường. Suốt dọc đường đi, Acnốt không hết kinh ngạc vì sức lực và tài leo trèo của chàng trai núi rừng. Khoảng năm giờ chiều, hai người đã tới khoảng trống ven biển. Tácdăng tụt xuống khỏi cành cây. Sau một thời gian dài, bây giờ chàng sẽ được gặp lại cô gái có tên Gian Potorova. Nhưng phía trước ngôi nhà gỗ không hề có một bóng người. Trung úy Acnốt cũng phát hiện ra rằng trong vịnh không thấy bóng dáng con tàu tuần dương cùng chiếc thuyền buồm Ơrâu đâu cả. Khi tới gần ngôi nhà gỗ, cả Acnốt lẫn Tácdăng đều thấy lòng mình se lại. Hai người chẳng nói với nhau một lời, lặng lẽ tiến lại gần. Tácdăng mở then chốt cửa, bước vào trong. Căn nhà trống rỗng. Và chàng cũng thấy lòng mình trống rỗng.
Hai người đàn ông nhìn nhau. Acnốt hiểu rằng bạn bè, đồng đội của anh nghĩ rằng anh đã chết. Tácdăng thì nghĩ tới cô gái. Cô gái đã bỏ đi, mặc dù chàng đã cứu cô cùng những người thân thích của cô. Một cảm giác chua xót và thất vọng dâng lên trong lòng chàng. Chàng tự nhiên muốn bỏ chạy thẳng về bộ lạc vượn của mình. Chẳng bao giờ chàng trở lại ngôi nhà gỗ này nữa. Chẳng thà chàng chỉ là một con thú dữ của núi rừng, còn hơn làm một con người.
Nhưng còn Acnốt thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra với anh ấy khi mình bỏ đi? Thì cứ để anh ta tự lo lấy một mình! Chàng cũng không muốn nhìn mặt anh ta nữa. Chàng muốn chạy trốn tất cả. Bởi vì mọi thứ quanh chàng đều gợi nhớ Potorova…
Trong khi Tácdăng đang thẫn thờ suy nghĩ thì trung úy Acnốt bước vào. Mới nhìn thoáng qua, Acnốt cũng nhận ra rằng trong nhà có rất nhiều thứ để lại cho mình. Đó là vải bạt, xoong nồi, bột mỳ, đồ hộp, chăn đệm, sách báo, một khẩu súng và khá nhiều đạn. Khi bước tới chiếc bàn viết ngày xưa mà Giôn Clayton đã đóng, Acnốt thấy trên mặt bàn có hai bức thư. Một bức thư gửi cho Người Bắn Cung. Bức thư đó để ngỏ, được viết bằng nét chữ đàn ông cứng cỏi. Một bức thư nữa được dán kín, chữ đề trên phong bì là nét chữ con gái.
– Tácdăng! Ở đây anh có hai lá thư.
Acnốt gọi và quay ra cửa. Nhưng anh chẳng trông thấy Tácdăng đâu nữa.
Anh chạy vội ra ngoài, nhìn quanh. Chẳng có một ai. Anh lên tiếng gọi mãi cũng không có tiếng đáp lại.
“Lạy Chúa tôi!” – Trung úy Acnốt thầm thì. – “Anh ta bỏ mình lại đây. Mình đã cảm thấy điều đó dễ xảy ra. Thế mà thành sự thật. Anh ta lại vào rừng sâu, mặc cho mình cô đơn giữa vùng rừng hoang sơ, độc địa này…”. Đúng là Acnốt đã cảm thấy chuyện này từ trước. Anh đã trông thấy Tácdăng đau khổ ra sao khi trông thấy ngôi nhà gỗ không người. Tácdăng khi đó đã nhìn anh với cái nhìn oán trách. Cái nhìn đó giống như cái nhìn của con thú bị thương nhìn kẻ đi săn vừa nổ súng. Những người trong ngôi nhà này đã phụ lòng Tácdăng. Acnốt hiểu điều đó. Nhưng vì sao lại thế? Điều này anh không thể cắt nghĩa nổi.
Acnốt nhìn quanh. Nỗi cô đơn làm anh nghẹt thở. Anh đang ở trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm. Anh vẫn chưa lành vết thương, cơ thể còn quá yếu ớt. Chỉ còn lại một mình anh giữa chốn rừng thiêng nước độc.
Trong khi đó Tácdăng vẫn nhằm hướng tây, xuyên rừng, chạy về với đàn vượn cũ của mình. Tácdăng đang chạy trốn trước chính bản thân mình. Nhưng mọi cố gắng của chàng đều vô ích. Tácdăng càng chạy nhanh bao nhiêu thì hình ảnh cô gái càng bám riết theo chàng bấy nhiêu. Chàng trốn sao khỏi nỗi nhớ! Chàng thoát sao khỏi cái mà mãi sau này chàng mới biết tên gọi của nó: Tình yêu!
Chạy được một lúc, Tácdăng trông thấy một con sư tử. Nó đi ngược hướng với chàng, thong thả tiến về phía bờ biển, nơi có ngôi nhà gỗ. Acnốt có thể chống cự với nó được không? Nếu như Acnốt bị sư tử Numa, nhất là con sư tử hung hãn Secta tấn công thì ra sao nhỉ? Tácdăng băn khoăn rồi dừng lại.
“Mày là ai, Tácdăng ơi!” – Tácdăng tự hỏi.
“Mày là một con khỉ hay một con người? Là khỉ hay là người? Nếu mày là một con khỉ, hãy làm cái điều mà loài khỉ vẫn làm: cứ để cho nó chết. Nhưng nếu mày là một con người, mày phải quay lại ngay mà cứu người đồng loại!”
° ° °
Trung úy Acnốt đóng chặt cửa. Anh không phải là người nhút nhát. Nhưng những người dũng cảm nhất cũng vẫn sợ nỗi cô đơn. Anh nạp đạn vào súng và để súng ở vị trí thuận lợi nhất. Sau đó anh bước lại bàn, cầm bức thư gửi cho Người Bắn Cung.
Thực ra Người Bắn Cung chính là Tácdăng. Tácdăng đã kí dưới mẩu giấy găm trên cửa bằng cách vẽ hình người bắn cung. Những vị khách không mời của căn nhà gỗ không hề biết rằng: chàng trai lạ mặt của rừng già đã bao lần cứu họ không biết nói, nhưng lại biết viết. Vì vậy họ nghĩ rằng ngoài chàng trai cứu họ ra, trong rừng này còn có một nhân vật bí hiểm, chủ nhân của ngôi nhà này nữa. Đó là Người Bắn Cung.
Không có thư gửi cho mình! – Trung úy Acnốt suy nghĩ – Nhưng bức thư này có thể có những thông tin nhất định về con tàu rời bờ và ngày nó quay trở lại.” Nghĩ như vậy, trung úy Acnốt quyết định mở phong bì, lôi bức thư ra đọc.
“Thưa ông!
Chúng tôi không được gặp ông nhưng rất biết ơn ông vì ông đã cho phép chúng tôi được ở trong nhà. Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì sẽ không bao giờ gặp ông để lần lượt từng người cám ơn ông. Như ông thấy đấy, chúng tôi đã không làm hỏng một thứ gì trong nhà. Hơn nữa, chúng tôi để lại cho ông vài thứ vì nghĩ rằng có thể ông cần đến nó.
Nếu như ông có quen biết người đàn ông da trắng sống trong rừng đã mấy lần cứu sống chúng tôi, thì cho chúng tôi gửi lời cảm ơn (Tất nhiên trong trường hợp ông biết cách nói chuyện với anh ta)
Chúng tôi sẽ ra đi và sẽ không bao giờ quay lại đây nữa. Chúng tôi chúc ông và chàng trai sống trong rừng, cả hai mạnh khỏe! Chúng tôi rất mong có một dịp nào đó được đền ơn hai ông!
Một người chân thành biết ơn ông
W.Xêrin Clayton”
“Và sẽ không bao giờ quay lại đây nữa”. Trung úy Acnốt thầm thì nhắc lại lời trong thư. Đầu anh gục xuống bàn một cách nặng nề.
Trung úy Acnốt cứ gục mặt trên bàn như thế suốt một giờ liền. Rồi đột nhiên anh ngẩng phắt đầu dậy, lắng nghe. Có tiếng động nghe như tiếng cánh cửa mở. Anh chộp lấy cây súng. Phía ngoài trời đã tối. Trong nhà lại càng tối hơn. Tuy vậy anh vẫn trông thấy then cửa phía ngoài đang từ từ trượt nhẹ sang bên. Tóc sau gáy anh cũng từ từ dựng lên.
Cánh cửa mở ra môt cách lặng lẽ. Qua kẽ cửa, có thể trông thấy một bóng đen lờ mờ đang đứng sau cánh cửa. Acnốt giương súng lên, nhằm thẳng vào khe cửa. Anh chờ đợi. Cánh cửa vừa mở toang thì ngón tay anh cũng xiết mạnh cò súng.
° ° °
Cánh cửa bung ra cùng tiếng súng nổ. Một thân hình xam xám ngã quay ra đất. Acnốt giương súng trở lại định bắn lượt nữa. Dưới ánh sáng của khung cửa mở rộng, anh chợt nhận ra cơ thể của người đàn ông da trắng trong rừng. Anh chợt hiểu rằng anh đã bắn nhầm phải người cứu mình, bạn anh, đồng thời là người da trắng duy nhất còn lại với anh trên bờ biển này. Anh đã bắn phải Tácdăng.
Acnốt kêu lên đau đớn, vứt súng, nhảy bổ ra cửa. Anh nâng đầu chàng dậy và gọi. Không thể kiên nhẫn chờ đợi tiếng trả lời, anh cố lắc đầu chàng trai. Anh không tìm thấy một vết thương nào trên người chàng trai. Anh áp tai vào ngực chàng trai lắng nghe và vui mừng nhận ra rằng tim vẫn còn đập.
Acnốt thận trọng ôm Tácdăng lên giường. Anh chốt cửa lại cẩn thận, thắp đèn lên cho thật sáng để tìm kĩ vết thương.
Viên đạn không trúng vào đầu mà chỉ lướt qua vành tai, làm thành một vết rách. Tóc Tácdăng quá rậm và dài nên Acnốt không phát hiện ra ngay. Acnốt thở dài nhẹ nhõm và lấy cồn lau rửa vết thương. Một lát sau Tácdăng bắt đầu thở. Chàng trai chỉ bị choáng. Khi đã tỉnh hẳn, chàng trai đăm đăm nhìn vào mặt người đang chăm sóc mình. Tin rằng Tácdăng đã tỉnh táo hoàn toàn, Acnốt bước tới bàn viết một vài dòng chữ. Anh muốn giải thích cho Tácdăng rõ sự nhầm lẫn của mình. Nhìn mảnh giấy một lát, Tácdăng hiểu. Chàng cười và nói bằng tiếng Pháp:
– Chẳng sao cả!
Tácdăng còn muốn nói thêm điều gì đó nữa. Nhưng vốn từ tiếng Pháp của chàng còn quá ít. Vì vậy chàng cầm bút viết: “Đười ươi Bônga xé rách tôi nhiều lần. Kétchác, Tơcốt xé nhiều hơn. Tôi đã giết chết rồi.”
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!