Tắt đèn kể chuyện ma - Chương 4: Tị Sát Chị Mê [1]
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
141


Tắt đèn kể chuyện ma


Chương 4: Tị Sát Chị Mê [1]


Một trong những phong tục cổ hủ trong tang sự của người Trung Quốc thời cổđại khiến người ta vừa cảm thấy khó hiểu, vừa cảm thấy sợ hãi nhất đóchính là “tị sát”. Lý giải trên mặt chữ có thể thấy “tị sát” chính làtrốn tránh hung thần. Nhưng hai chữ “hung thần” được bàn tới ở đây lạikhác hoàn toàn so với cách nói “hung thần ác quỷ” mà chúng ta vẫn thường nghe thấy trong cuộc sống hàng ngày. Nó là một loại sát quỷ đặc biệtchỉ xuất hiện khi nhà có tang sự. Chữ “sát” trong “tị sát” còn được viết là chữ “sát”[2], thời cổ đại còn gọi là “suy”[3], sau này gọi là“sảnh”[4], hoặc gọi thành “ương”[5]. Nhưng tôi vẫn cho rằng tất cả những chữ đó đều là biến âm của chữ “tang” mà ra. Ví dụ, có một số địa phương thường liên kết từ tạo ra một từ ghép hai tiếng là “sát ương”, mà“sát”, “ương” – hai chữ này hợp lại thì chính là một chữ “tang” mà thôi. Cho nên Chu Tác Nhân thường gọi “hồi sát” thành “hồi tang” là vì thế,và đó cũng có thể là nghĩa nguyên bản được tiếp cận gần đây nhất. Lạicăn cứ vào cách dùng từ của các bậc tiền bối như Chu Tác Nhân, hay tácgiả của Ký kham tứ chí, cuối đời nhà Thanh, trong quyển hai có một đoạnviết “quy sát” thành “chuyển sát”. Hơn nữa, nhất là vào thời nhà Minh,chữ “sát” ngay cả đọc hay viết đều có thể chuyển thành “tang” và ngượclại. Ngay cả khi đọc hai chữ “sảnh” và “suy”, trên thực tế cũng phát âmrất gần với chữ “tang”. Còn có một số địa phương, chữ “thần mã” trong“hung thần”, trên mặt chữ liền thay bằng “phi thương” hoặc “thương”[6].Nếu đây chỉ là một sự phỏng đoán thì “hung thần” ở đây không thể coi là“tang thần” được.

[1] Thu mình lại trốn tránh hung thần trong cõi u mê.

[2] Tức “đánh, giết”.

[3] Tức “yếu, suy yếu”.

[4] Tức “tai nạn”, “sai sót”.

[5] Tức “tai họa, tai ương”.

[6] Tức “thương tích, tổn thương”.

Phong tục “tị sát” của người xưa đến nay đã không còn lại dấu vết, nhưngtrong khoảng hai nghìn năm về trước đã từng rất phổ biến ở cả hai miềnNam, Bắc. Có thể do nó không có trong đám tang, vì những người cầm hốtmà xòe tay áo đỏ, quan viên hoặc những người thuộc tầng lớp thượng lưulại thường vô đạo, điều đó càng khiến người ta cảm thấy xa lạ.

Thực ra, rất nhiều độc giả là những người đã từng chứng kiến và ghi lạinhững điều tương tự, thường thấy nhất là phần Khám kha ký thu trong Phùsinh lục ký có đoạn ghi chép lại một cách sinh động về “tị sát” như sau:

Trong tuần lễ hồi sát, có tục truyền là ban ngày linh hồn thường ẩn theo bóng ma mà trở về ngôi nhà cũ và sắp đặt lại mọi thứ y như khi còn sống, từcái chiếu nằm, cái áo cũ khi còn sống vẫn để ở trên giường đến đôi giàycũ để ở dưới gầm giường. Mỗi lần quay trở về, hồn ma đều nhìn trước ngósau, nghĩ đi nghĩ lại, rồi cố gắng “thu vào tầm mắt” tất cả mọi thứ hiện hữu xung quanh. Dùng mọi cách để kéo dài thời gian, trước với lấy cáigiường sau lại gạt bỏ đi tất cả, gọi là “tiếp sảnh”, ở Dương Châu còn có tục lệ bày sẵn cỗ bàn, tiệc rượu trong nhà người chết, nhất gia tậnxuất, được gọi là “tị sảnh”[7].

[7] Tức là “tránh sai sót”.

Ở đây là nói đến ngày hồi sát, vong linh của người chết cùng bóng ma trởvề thăm lại ngôi nhà cũ vốn vô cùng gắn bó với mình, cũng chính là nói,bóng ma và người chết, hồn không lìa khỏi xác. Nhưng đây chỉ là sự khẳng định mang tính nhất thời, một phía. “Sát” và “vật”, nói thẳng ra làlinh hồn và thể xác của người mới chết, và hơn thế, có cái gì đó là hung thần và ác quỷ. Để nói rõ hơn những khái niệm mơ hồ này, có thể hiểuhung thần được nói tới trên đây chính là một loài chim ác. Hiện nay, ởVân Nam vẫn có khả năng tìm thấy một số hình ảnh về hung thần, đó là thứ có hình dáng giống như chim, mặt mũi có chút hung ác, dữ tợn, nhưngngược lại rất khó để người ta tin tưởng vong hồn lại nhập vào chính loài vật như thế trở về nhà cũ mà nhìn trước ngó sau.

1.

VớiNhan thi gia huấn, quyển hai, Phong thao, có khẳng định Bắc Tề Nhan làmột trong số những người bàn tới vấn đề “tị sát” sớm nhất trong cáctrước tác của mình. Thời ấy, ông gọi đó là “quy sát”, ông lý giải thêm,con người sau khi chết, linh hồn thường tìm cách quay trở về ngôi nhà cũ của mình, lúc trở về, nếu là ban ngày thì “chạy nhảy rong chơi cùng đám trẻ con, khi chắc chắn không có ai mới dám vào nhà”, chính vì thế người nhà thường tìm cách ra ngoài để trốn tránh linh hồn người chết trở về,có khi phải mời thầy cúng đến “họa ngõa thư phù, tác chư yếm thắng”[8],“môn tiền nhiên hỏa, hộ ngoại liệt khôi”[9]… đây đều là những tục lệ của người Trung Quốc xưa trong những gia đình có người mới hết. Khi cả giađình đã trở về rồi cũng cần mời thầy cúng đến để “phất tống giaquỷ”[10], cũng chính là “tống sát”[11]. “Gia quỷ” được nói tới ở đâychính là chỉ vong hồn của người chết. Nhưng những ghi chép về “tị sát”xuất hiện sớm nhất có lẽ là vào thời Tam Quốc, trong Tam Quốc chí – Ngụy chí – Trần Quần truyện có nói đến ấu nữ của Ngụy Minh Đế sau khi ra đời chưa được đầy tháng thì chết yểu. Trần Quần Gián bèn tìm cách ngăn cảnxa giá, nói tới chuyện “tị suy”, ông cho rằng: “Người đã chết dù saocũng không thể quay về được nữa”. Rõ ràng lời khuyên can đó có ý nghingờ linh hồn người chết không thể quay về được. Cách nói này đã tỏ rõthái độ hoài nghi đối với việc “quy sát” trong phong tục của người xưa.Ông lại nói: “Tám tuổi được coi là chết non, không phải để tang, vì thếcũng không cần sắm sửa đồ cúng lễ”. Cách kiến giải của Trần Quần Giáncũng có điểm gần gũi với quan niệm sau này về những đứa trẻ chết yểu, họ cho rằng: “Những đứa bé chết khi còn chưa mọc răng thì không có linhhồn, không thể quay về”[12]. Nhưng bởi vì nó được viết ra một cách vôcùng đơn giản, không như những lời “gia huấn” một cách tỉ mỉ, kỹ càng,cho nên nhiều người đã không chú ý tới.

[8] Ý chỉ vẽ những hình thù gì đó lên mái ngói để đánh dấu cho linh hồn người chết tìm về đúng chỗ.

[9] Ý nói trước nhà nhóm lên ngọn lửa, ngoài cửa bầy ra một chút tro tàn.

[10] Cung tiễn ma quỷ ra khỏi nhà.

[11] Tiễn vong hồn người thân về nơi âm thế.

[12] Theo Duyệt vi thảo đường bút ký – Như thị ngã văn.

Trong thời kỳ Nam – Bắc triều, đây là một tập tục được phổ biến rộng rãi từBắc đến Nam. Ở phương Bắc, với mỗi người dân, tập tục này vô cùng quenthuộc, một số thầy mo có chuyên môn còn có cả những cuốn sách ghi chéplại một vài nội dung liên quan đến tập tục này. Đến thời kỳ đầu nhàĐường, Bách kỵ lịch đã thể hiện khả năng tinh thông thiên văn, nhạc luật và thuật giả kim của người xưa. Đặc biệt, trong đó còn có nội dung bànvề cách thức tránh khỏi tang sát, cách tính thời gian “hồi sát”, phạm vi mà linh hồn người chết trở về thường hay lui tới, còn nói đến nhữngphần như “hùng sát”[13], “thư sát”[14]. Cuốn sách gốc theo thời gian đãbị thất lạc từ lâu, đến nay những nội dung này chỉ có thể tìm thấy mộtphần trong Xuy kiếm tứ lục của Du Văn Báo, người thời Tống, trong đó cóđoạn viết:

Không biết từ bao giờ, con người đã quan tâm đến vấnđề “tị sát”. Theo Đường Thái Thường trong “Bách kỵ lịch”, phần “Tang sát tổn hại pháp”, người con trai chết linh hồn nhập vào con chim đực, được gọi là “hùng sát”, bốn mươi bảy ngày sau bay trở về hồi sát, người congái mới khoảng mười ba, mười bốn tuổi, thư sát, xuất phương Nam đệ tamgia, sát bạch sắc, là nam tử, hoặc hộ Trịnh, Phan, Tôn, Trần, từ ngàyhai mươi đến ngày hai chín sẽ có hai lần trở về tang gia. Mỗi thời tụclệ có thể nhau, nhưng đến những ngày ấy người nhà cần tránh đi nơi khác… Khi nhập niệm, ngay cả những đứa con có cha mẹ chết cũng phải tránh đi, thậm chí phụ nữ cũng không dám đứng lên trên, tất cả đều giao phó cholão gia bộc lo liệu mọi sự.

[13] Tức là “linh hồn người chết trở về nhập vào loài chim đực”.

[14] Tức là “linh hồn người chết trở về nhập vào loài chim cái”.

Sau này, tục “tị sát” đã được ghi chép lại trong những cuốn tiểu thuyết, và số lần xuất hiện của nó cũng ngày một nhiều hơn. Đế Phu Thị trongNguyên hóa ký cho rằng “cần phải phòng tránh hung thần, quỷ thần độtnhập vào nhà làm tổn hại đến người và của”, cho nên toàn thể gia đìnhphải dọn đến ở nhờ nhà những người thân quen để ẩn tránh mỗi lần vonghồn người chết hồi quy. Trong Kỷ văn của Ngữu Túc, chữ “煞” (hung thần)được viết thành “杀” (giết, đánh)[15], gọi “归剎” (quy sát) là “杀出” (diễnra hành động đánh, giết), cũng là “煞出”, nói: “Trong nhà có người chết,liền mời ngay thầy mo đến cúng “tức ngôn kì sát xuất nhật, tất hữuphương hại, tử gia đa xuất tị chi”[16]”. Trong Kê thần lục của Từ Huyễnthời Ngũ Đại Nam Đường cũng ghi lại những điều tương tự.

[15] Trong tiếng Trung

[16] Đại ý là, trong ngày vong hồn hồi quy tất yếu có hại cho gia chủ, vìthế ngày hôm đó, những người trong gia đình có người chết cần lánh đinơi khác.

Đến thời nhà Tống, vấn đề “tị sát” ở phương Nam trở nên khá phổ biến. Trong Di kiến ất chí của Hồng Mại thời Nam Tống, quyểnmười chín, Hàn thị phóng quỷ có bàn tới vấn đề “tị sát”, hơn nữa còn bắt đầu xuất hiện chuyện “dùng tàn tro làm dấu”, rõ ràng có thể xem đó làmột dấu hiệu can thiệp vào sự tái sinh, chuyển thế đã nói ở trên:

Ở Giang Tô và Chiết Giang có tục tin vào những thầy mo cúng ma gọi quỷ.Tương truyền, người chết hồn lìa khỏi xác, lấy ngày đó để tính ngày vong hồn tìm về quy sát, cách phòng tránh tốt nhất là lúc ấy tránh ra bênngoài, hành động ấy được gọi là “tị phóng”. Nhờ một người con trai khỏemạnh hoặc vị tăng ni rắc tro xuống đất làm dấu, đến khi trời sáng sẽnhìn rõ dấu vết ấy.

Trong Di kiên chi ất, quyển một, Đổng thành nhị lang cũng có đoạn nói:

Đến thời điểm vong linh người chết quy sát trở về, để cất giấu mọi thứ,người nhà thường làm theo tục lệ xưa, lấy cái dần hay cái sàng làm nhỏlớp tro bụi trên bếp, phủ lên trên cái siêu sành, hay nồi đất để kiểmtra xem người chết có hồi quy hay không.

Dấu vết để kiểm tra ởđây là xem vết chân trên lớp tro mà phán đoán người chết có thể đầu thai sang kiếp sau là gì, thấy dấu chân gà nghĩa la đầu thai làm gà, thấydấu chân chó có thể đầu thai thành chó… Họ cho rằng vào một ngày kia,người chết sẽ nhận được thông báo sang thế giới bên kia. Sự quay về “hồi sát” được nói tới ở đây chỉ là một cách để họ từ biệt những người thânyêu của mình còn đang sống trên dương thế. Du Văn Báo là người thật thà, chất phác, có tư chất thông minh, hiểu biết, sống vào thời Nam Tống,ông từng biểu thị sự phản đối kịch liệt đối với những hủ tục “tị sát”trong dân gian. Tại thời điểm đó, nhiều người đã dần dần từ bỏ tục lệ“tị sát”, không theo tăng đạo, không tin âm dương, có thể thấy lệ “tịsát” trong dân gian đã thịnh hành như thế nào.

Thầm Bảng, người triều Minh, trong Uyển thụ tạp ký, quyển mười bảy có nói đến “đóa sát”, một phong tục của người Bắc Kinh:

Những nhà âm dương học thường căn cứ vào năm tháng của người chết để tìm rangày mà hung thần sẽ đến hòng đưa cả gia đình đến nơi khác để ẩn tránh.

Thời nhà Minh có một người Triều Tiên thông hiểu tiếng Hán, là tác giả củacuốn sách Bổ thông sự nổi tiếng, đã ghi lại tục lệ “thiếp ươngbảng”[17]. Tục lệ này đã có từ trước đó rất lâu, từ thời Lã Tài đã cótục kiêng kỵ “sát phạm sinh nhân”, vốn chính là tục thông cáo ở làngquê. Trong Bổ thông sự có ghi lại một đọan đối thoại rất độc đáo:

“Trước nay người ta vẫn thường dán bản cáo phó trước cửa mỗi khi nhà có tang,anh đã nhìn thấy bao giờ chưa?” “Tôi chưa từng thấy qua. Người ta viếtnhững gì trong bản cáo phó đó?” “Viết là: Ngày Mười hai, Đinh Mão, tháng Hai, Bính Ngọ, năm Nhâm Thìn, người thanh niên sinh năm Bính Thân, quađời ở tuổi ba mươi bảy. Giờ Đinh, ngày Hai mươi tư tiến hành an táng tại cổng thành. Người có chi Tị, Ngọ, Hợi, Mão, kỵ với tuổi người chết”…

[17] Tức dán cáo phó.

Bản cáo phó, sau này ở một số địa phương còn gọi là “phê thư”, trong đó,ngoài những thứ như ngày sinh tháng đẻ của người chết, cầm tinh củangười thân trong gia đình được viết trên trang cáo phó, còn cần thôngbáo với làng xóm khi nào tiến hành tiểu liệm, khi nào đại liệm, khi nàonghênh thần (thần ở đây chính là để chỉ hung thần), cùng với những điềuxung, kỵ cần tránh… những điều này không chỉ áp dụng trong ngày “tịsát”, mà còn cả trong suốt tuần lễ để tang, đối với một số người thì đây cũng chính là những ngày cần ẩn tránh. Khi nào thì mới được dán bản“phê thư’ đó? Điều này cũng có những quy định của nó. Trước hết là yêucầu cần thiết dán nghiêng giống như khi người ta dán giấy niêm phongtrên tập tài liệu vậy. Nghĩ đến thời thơ ấu thường đến đầu phố dán những biểu ngữ khẩu hiệu hoặc “đả đảo” hoặc “vạn tuế”, mà chẳng cần biết aiđả đảo, ai nổi lên, chỉ biết cũng vẫn là một cách dán nghiêng như thế,tất nhiên lúc ấy đôi khi cũng có những người già đi qua thấy vậy liềnđứng lại nói dán như thế là không được, chỉ nói có vậy rồi đi luôn chẳng giải thích rõ vì sao lại không thể. Bây giờ nghĩ lại, cách dán ấy chắcđã phạm phải một điều kiêng kỵ nào đó trong cách dán cáo phó hoặc giấyniêm phong.

Phong tục “tị sát” đến thời nhà Thanh dường như có xu thế ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Phong tục này có nơi còn gọi là“nghênh sát”, họ quan niệm bảy ngày sau khi trong nhà có người thânchết, cả nhà phải tạm rời đi chỗ khác để tránh tai ương. Theo nguyên tắc chung của người phương Nam, họ gọi đó là “hồi sát”, và theo thời giankéo dài tới hai mươi bảy ngày kể từ sau khi người thân chết. Thời gianquy định ở Phố Đông – Thượng Hải là ngắn nhất, người chết đến ngày thứba được gọi là ngày quy sát, nguyên nhân vì họ cho rằng cần phải cúnglinh hồn trước, vì vậy người ta gọi sự kiện đó với một cụm từ đầy hoa mỹ là “tác tam triều”, không biết người trong cuộc nghe thấy có cho rằnggia đình họ đã sinh ra một anh chàng béo tốt hay không? Người Bắc Kinhgọi đó là “xuất ương”[18], người Sơn Tây gọi đó là “hồi ương”[19].

[18] Theo Diêu Nguyên Chi trong Trúc diệp đinh tạp ký, quyển bảy.

[19] Theo Từ Côn trong Độn trai ngẫu bút, quyển hạ.

Vấn đề “tị sát” được giới thiệu một cách tương đối rõ ràng, tỉ mỉ trong tác phẩm của Vương Gia Trinh là Tại dã nhĩ ngôn, quyển sáu, Hồi sát có đoạn viết:

Trong ngày hồi sát người ta thường phủ lên giường tấm vảikhâm liệm, phía trước bếp đặt một mâm cỗ đầy đủ thịt rượu, ở giữa đóngmột cọc âm, phía trước bếp đặt một chiếc nồi. Trong những ngày ấy, ngaycả gia nhân trong nhà cũng sợ hãi mà trốn tránh căn phòng đặt linh cữu.Sáng ngày hôm sau chuẩn bị đưa linh cữu đi chôn cất, người nhà quay vàokiểm tra thì thấy trong chiếc nồi đặt trước cửa hằn rõ những dấu chânchim, trên mâm cỗ thiếu mất con gà cúng, tìm kiếm hồi lâu mới phát hiệnra giấu trong tâm vải khâm liệm, chiếc cọc âm cũng mất dấu, như có chuột lén vào ăn vụng vậy.

Hứa Thu Đà trong Văn kiến dị từ, quyển hai, có ghi lại một phong tục độc đáo của người Chiết Giang:

Chết chính là câu chuyện “nghênh sát”, kể về hung thần gõ cửa lần lượt theothứ tự luân phiên nhau. Từ ngày Mười tám trở về trước đến ngày mùngChín, từ rất sớm, những loài chim đã được triệu đến, thể xác người chếtnằm ở trên giường nhưng linh hồn thì ở ghế dưới cái sàng được phủ lêntrên lớp tro bếp, một lúc sau hằn lên rõ vết chân chim, trông như nhữngvết chân nhỏ bé, uyển chuyển của loài chim hồng vượt qua bùn tuyết, nókhông phải là những dấu vết lẩn tránh hay làm hại đến ai. Duy chỉ cóhung thần ở Huy Châu hung dữ nhất. Trong làng có người chết, từ rất sớm, người ta đã treo một lá cờ thông báo cho mọi người biết, sau đó tất cảnhững người thân thích, con cái, trai gái, lớn nhỏ đều phải quây quầnxung quanh, không được trốn đi nơi khác.

Trên đây đã dẫn ra haiví dụ cho thấy rõ sự khác nhau trong phong tục “tị sát” ở ba địa phươngthuộc vùng Giang Nam, nhưng cái cách dùng tro bếp để nhận dạng dấu chânnhư trên thì không chỉ có hai cách. Điều này được Nhản Trai Thị ghi lạimột cách tinh tế và sâu sắc trong tác phẩm của mình. Dạ đàm tùy bút,quyển hai, Hồi sát có kể lại câu chuyện “hồi sát” liên quan đến “đóa tị” mà người Bắc Kinh gọi là “đóa ương”:

Người chết có thuyết “hồisát”, đều khiến người ta tin vào những chuyện kỳ lạ, khác thường. Cóngười, thậm chí cả gia đình trong suốt thời gian “hồi sát” phải đi ở nhờ nơi khác để tránh tai ương. Cho dù là những gia đình quyền quý, giàu có thì cũng phải để nhà không mà đến nơi khác để tránh tai họa, như thếgọi là “đóa ương”[20]. Cứ đến đúng ngày, người nhà lại phải thu dọn đồdạc còn lại của người chết ở trong nhà, từ trên giường xuống dưới đất,dùng một tấm vải trải rộng ra rồi rắc lên đó một lớp tro đốt từ cỏ lau.Phàm có tiền đồng thì gói lại trong một lớp giấy trắng, làm cho ma quỷphải sợ hãi. Ở đầu giường bày sẵn một cốc rượu, một con gà luộc, đốt một ngọn đèn, đóng cửa và cài then lại. Ngày hôm sau, dùng một thanh sắt gõ vào cửa rồi mở ra, kiểm tra xem trên lớp tro rải dưới đất có dấu chângà, dấu chân hổ, dấu móng ngựa, hay dấu vết rắn bò… hay không, các dấuvết đó phải hoàn toàn là một loại. Có lẽ người đã chết sẽ thuộc về mộtthế giới u minh nào đó, việc xem xét dấu vết để lại là để tìm hiểu xemnghiệp chướng của người đó nặng nhẹ ra sao, gọi là tìm hiểu xem cái gông đeo nặng nhẹ thế nào để mà tìm cách hóa giải. Ngay cả cỏ cây, gà, chó…khi vô ý gặp phải tai ương cũng trở nên khô héo, hay ngã chết giữađường. Phong tục di nhân, kể cả người đức hạnh cũng không thể tránhkhỏi, điều này đã trở thành một tập tục phổ biến trong nhân dân khôngthể phá bỏ. Bởi lẽ tập tục này đã dần trở thành một đạo lý trong lòngngười dân, không thể làm sai khác được, hoặc người chết có linh thiêngbiết được mà quay về vấn vương thương nhớ hay sao?

[20] Tức là: trốn tránh tai ương.

Hồ Phác An trong Hoa toàn quốc phong tục chí, hạ biên, có một chương nóivề “Chiết Giang”, ghi lại tục “nghênh sát” của người dân vùng Hải Ninh,trong đó đưa ra một số tình tiết nhỏ khá phiền phức: “Trong ngày nghênhthần, trước tiên cần đặt người chết nằm nguyên trên giường, lúc người đó sắp chết lấy một bộ quần áo lót phủ lên giường, bên trên dùng giấy buộc lại thành hình một cái đầu, sau đó lấy bốn cái bánh chưng giấu trongtay áo, ống quần tạo hình tay chân, để một cái bánh bao ở giữa làm thành bụng. Như vậy, tổng thể tạo hình giống như một người đang nằm. Phíadưới giường dùng tro phủ đều trên nền nhà. Ngoài ra còn dùng giấy, tre,và hồ làm thành “hồn đình” – một “quán nghỉ chân của linh hồn”, gọi là“tọa đầu”, chính là nơi khi linh hồn quay trở về cần có cái chõng nghỉchân. Những gia đình giàu có thường làm “chỗ nghỉ chân của linh hồn”thành một lầu gác có đài tạ lễ quy mô hoành tráng. Ngày lễ nghênh thầnthông thường kéo dài tới bảy ngày, ngày nào cũng phải hương hỏa, thờcúng cẩn thận, thậm chí có khi kéo dài tới hơn hai năm, dài nhất làkhông qua đông chí của năm thứ ba. Cho nên câu đối treo trên “hồn đình”được viết là “nguyệt kinh thủy hoa, phù sinh nhất mộng, chỉ song trúcốc, tiểu trú tam niên”. Phong tục vong hồn tìm về dương thế trong mộtthời gian dài như vậy ở các địa phương khác không hề nghe nói tới. Đâylà nét khác biệt có lẽ chỉ thấy riêng ở vùng Hải Ninh, Chiết Giang màthôi.

Dựa vào những tổng hợp trên đây có thể thấy, đến thời nhàThanh, phong tục “tị sát” trong dân gian đã có dấu hiệu đi xuống. Trướctiên mời thầy âm dương đến tính thời gian “hồi sát”, rồi dán bản taiương, đến đúng ngày cả gia đình di cư ra ngoài hòng tránh tai ương, haycòn gọi là “đóa ương”, “xuất ương”, và trên danh mục còn nhắc rõ rànghai chữ “nghênh sát”, gọi là “nghênh”, chính là lấy tấm vải rải tro bếplên trên, và sắp xếp, chuẩn bị đầy đủ những đồ cúng lễ… Ngày hôm sau,khi trời sáng trở về nhà lại có một loạt những nghi thức khác nữa gọi là “tống sát”[21], lúc này hung thần đã rời đi rồi, không cần phiền phứclại đi tiễn một lần nữa. Phong tục này tồn tại được gần một trăm năm thì dần mai một, nhưng vẫn còn sót lại một vài dấu vết trong những vở kịchtrên sân khấu như trong vở diễn Quỳnh lâm minh có màn “đả côn xuấttương”[22], trong đó cũng có cảnh hung thần trên sân khấu, đó là hìnhtượng của ác quỷ mặt xanh nanh vàng. Nhưng từ sau thời kiến quốc, nhữngtình tiết liên quan đến ma quỷ bỗng nhiên bị kiểm duyệt, rồi dần dần đào thải hết. Trong ngôn từ truyền thống thi thoảng có nghe thấy hai chữ“xuất ương” để nói một người nào đó với ý nghĩa giống như muốn xua đuổitai ương đi vậy, không ít người nghe thấy cũng chẳng hiểu hết được ýnghĩa của nó, nhưng cũng biết được rằng đó chẳng phải là lời nói tốt đẹp gì.

[21] Tức là: tiễn hung thần.

[22] Tức là: màn đánh gậy.

2.

Mặc dù “quy sát” là linh hồn người chết trở về, điều này đối với nhữngngười thân trên dương thế chẳng phải có thể xem là một cơ hội rất tốt để nói lời chia tay hay sao? Hơn nữa, rõ ràng ngày hôm đó sẽ là ngày đểngười thân bày tỏ niềm thương tiếc, tưởng niệm, truy điệu linh hồn người đã mất. Những người thân, bạn bè đều tề tựu đông đủ, nâng ly rượu tương giao và nói những lời cuối cùng với vong linh người chết, người thânnghe di huấn cuối cùng của người chết, sau đó nắm chặt bàn tay nhìn nhau trong nước mắt, vái chào lần cuối theo đúng nghi thức, há chẳng phải là thỉnh lễ đầy đủ cả nhân thân một cách ấm áp, sum vầy hay sao? Hơn nữa,ngay cả những điều tốt đẹp cũng không bao giờ là mãi mãi, như một ngườigiàu có, quyền quý cũng có khi chết vì tình trường, sòng bạc, thươngtrường và cả quan trường… trong trường hợp này có thể bổ sung người lậpdi chúc. Có những người không may mắn mất mạng trong tay thích kháchhoặc kẻ cướp hung bạo, khi ấy có thể chỉ rõ hung thủ là ai. Điều khiếnngười ta cảm thấy được an ủi nhất là ngay cả những người đần độn, ngungốc đến mức nghiêm trọng trong một thời gian dài, đến khi “quy sát”,tinh thần cũng trở nên minh mẫn, rạng rỡ, ba năm không cất tiếng mà chỉmột tiếng kêu cũng khiến người khác giật mình kinh ngạc… Những điều nhưthế quả thực thôi thúc người ta mong muốn được thấy vong hồn người chếtquay về. Vậy lẽ vào đến ngày “quy sát” mà bao người mong chờ ấy, ngườinhà lại bỏ trốn hay sao? Nhưng nghĩ kỹ lại, chuyện tốt đẹp này cũng làđiều vừa muốn lại vừa không muốn. Thẩm Tam Bạch đã đi sâu nghiên cứunhững điểm yếu được coi là còn sơ hở của “quy sát”, nếu như ma quỷ bímật hẹn hò với vong thê, sẽ sớm bị ông trời làm rõ, cho nên khi vonglinh quay về cần phải bố trí, sắp đạt một người nào đó áp giải hung thần hoặc ác quỷ. Hay nói một cách khác, thân phận của vong linh lúc đóchính là một tội nhân, cần phải xem xét thần thái của anh ta lúc quayvề, khi anh ta bước vào nhà phải theo dõi xem có biểu hiện nào đáng nghi ngờ được coi là chứng cứ phạm tội như bề ngoài dơ bẩn hoặc thái độ ngơngác tìm kiếm, nhặt bới mọi thứ hay không? Như vậy, những điều cam chịuđó khiến vong thê, vong thiếp tách ra, trở thành tiểu mệnh đa tình (vìhình như không thấy nói đến vợ chồng), đành phải cùng người nhà đi tránh hung thần. Nhưng trên thực tế, từ Lục triều đến đời Minh – Thanh, mặcdù về mặt “lý luận”, “hồi sát” được nói thành “vong linh quay về”, nhưng hiện nay trong các câu chuyện càng ít nói tới vấn đề này. Cũng chính là nói, trong các câu chuyện về “hồi sát” rất ít thấy nói đến tình tiếtbản thân người chết tự mình hoặc bị áp giải trở về.

Ngưu Túc,người nhà Đường, trong Kỷ văn có ghi lại câu chuyện về thiền sư NghiQuang ở chùa Thanh Long, Trường An. Câu chuyện kể về một vong hồn tựmình quay về “hồi sát”. Thời Đường Huyền Tông, có một vị quan triều đình vợ qua đời, bèn mời thiền sư Nghi Quang đến lập đàn cầu phúc cho vonghồn người chết. Nhưng đến ngày hồi sát, mọi người trong nhà lần lượt lén lút lủi đi chỗ khác hòng tránh hung thần, chỉ còn lại một mình vị thiền sư già ở lại trong dinh phủ tụng kinh. Đến nửa đêm, đột nhiên trongphòng thoáng thấy có bóng người lướt qua, tiếp đó là tiếng cửa mở khekhẽ, và từ dưới bếp một người phụ nữ xuất hiện, múc nước thổi lửa, mộtlát sau bưng đến trước mặt thiền sư một bát cháo nóng. Đương nhiên,người phụ nữ này chính là người vợ mới chết của quan phủ, linh hồn vừahiện về nhập vào thi thể nằm trên giường như “sống” lại. Vị “hung thần”này cử chỉ y như người còn sống vậy, cũng không làm bất cứ chuyện gì cóhại đến người khác.

Một câu chuyện khác về Bành Hổ Tử được viếttrong Thái bình quảng ký. Mẹ của Bành Hổ Tử qua đời, đến ngày “hồi sát”, mọi người trong nhà đều lẩn trốn đi hết, chỉ còn lại Hổ Tử vốn khôngtin vào chuyện thần quỷ, nên nhất định không ra khỏi nhà. Thế là nửa đêm liền có chuyện xảy ra:

Có người đẩy cửa, rồi đi vào căn phòngphía tây, tìm người không thấy, vào phòng rồi lại đi ra, sau lẩn vào một căn nhà sơ sài. Hổ Tử bị bất ngờ không biết làm thế nào, cạnh đầugiường có một bình sứ lớn, anh vội vàng chui vào bên trong, lấy tấm vánlàm nắp che đầu. Cảm giác như mẹ ở trên tấm ván, có người hỏi: “Dưới ván không có người sao?” Mẹ trả lời: “Không có.” Sau đó bỏ đi.

Trong câu chuyện xuất hiện vong hồn người mẹ đã chết của Hổ Tử, mặc dù theocùng còn có những ác quỷ khác, những hồn ma ác quỷ này vào nhà để tìmkiếm người sống, và cũng để chứng nhận tạm thời rằng vong linh ngườichết đã quay lại một lần. Tiếc là sau đó không thấy xuất hiện câu chuyện nào giống như thế nữa. Đến thời Nam Tống, Hồng Mại trong Di kiên chichí, quyển tám, có một đoạn nói về “Lý Sơn phủ thê”[23] kể chuyện vonglinh người chết quay về, sống cùng người chồng của mình một thời gian,mặc dù mẹ chồng của nàng cũng rắc tro bếp lấy dấu (chi tiết dùng tro bếp lấy dấu không chỉ được dùng khi hồi sát, mà đến triều đại nhà Thanh vẫn còn phương thức hữu hiệu truyền lại trong dân gian để kiểm tra dấu hiệu của ma quỷ, điều này đã được Lý Khánh Thần bàn tới trong Túy trà chíquái) để kiểm tra xem cô có phải là ma quỷ hay không. Nhưng linh hồn của cô gái không phải trở về trong ngày hồi sát, mà đã vượt quá thời gian.Cho nên, đây chỉ có thể xem là loại chuyện kể về tình yêu nồng thắm củacon người ngay cả khi đã trở thành hồn ma nơi âm thế, trong đó có mộtchi tiết liên quan đến tục “quy sát” trong dân gian. Mãi đến thời nhàThanh, trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển một, Sát thần thụ gia mớithấy xuất hiện câu chuyện hung thần áp giải vong hồn quy gia. Vợ chồngLý Mỗ chung sống bên nhau rất thuận hòa, đầm ấm, không thể tin rằng LýMỗ mới hơn ba mươi tuổi mà bệnh nặng qua đời, thi thể đã nhập liệm,người vợ của Lý Mỗ không kìm được nỗi đau, ôm ghì lấy quan tài, sớm hômthan khóc hết nước mắt. Đến ngày vong hồn người chết trở về, nàng nhấtđịnh không chịu rời đi ẩn trốn, mà một mình ngồi lại bên trong bứctrướng chờ đợi:

Đến canh hai, bỗng nhiên một làn gió lạnh lẽothổi tới, ngọn đèn dầu vốn leo lét chợt cháy lên ngọn lửa xanh biếc. Một bóng ma xuất hiện, đôi mắt tròn xoe, mái tóc hung đỏ, cao khoảng mộttrượng, bàn tay nắm chặt một cây xiên hình dấu gạch chéo bằng sắt, vàmột chiếc dây thứng kéo người chồng từ ngoài cửa sổ đi vào. Thấy trênquan tài có bầy sẵn tiệc rượu, bèn hạ cây xiên xuống đất, giải thẳngngười chồng vào trong, ngồi xuống và ăn. Người chồng vuốt nhẹ lên mặtbàn, đau xót buông tiếng thở dài ai oán, rồi đi đến bên chiếc giường,nhẹ nhàng vén tấm màn lên. Người vợ khóc nấc lên ôm chầm lấy chồng,tiếng gió thổi qua kéo theo một đám mây lạnh lẽo ùa vào, một cái bọc rơi xuống. Hung thần tóc đỏ giật mình đến cướp lấy. Người vợ kêu to, ra sức giằng về, hung thần tóc đỏ bước đi lảo đảo, nghiêng ngả. Người vợ nhanh chóng lấy cái bọc bắt lấy phần hồn để vào trong quan tài, thi thể dầndần có sinh khí, người vợ mừng rỡ bế xác chồng lên giường nằm nghỉ ngơi, mớm từng chút cháo loãng cho chồng, ngày hôm sau, thi thể người chồnghồi lại. Từ đó, hai vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau đến hơn hai mươinăm nữa.

[23] Nghĩa là: người vợ mới cưới của Lý Sơn.

Cũng trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển chín, có đoạn nói về “Giang DậtLâm”. Người vợ của Giang Dật Lâm qua đời, đến ngày “hồi sát”, anh tanhất định không tránh đi nơi khác. Khi vong hồn của người vợ quay lại,Giang hỏi: “Nghe nói người chết có quỷ tay sai áp giải nên bị câu thúc,gò bó, mất tự nhiên, khi vong hồn quay về lại có hung thần theo sát, cớsao nàng trở về lại chỉ có một mình vậy?” Người vợ đáp: “Hung thần chỉquản thúc và lính lệ cũng vậy, có phạm tội thì mới bị dùng dây trói lạimà giải đi. Chốn âm phủ biết thiếp không hề phạm tội, lại vì một lẽđường tiền duyên với phu quân vẫn chưa đoạn, nên cố ý cho thiếp một mình quay trở về.” Đây là một loại chuyện linh hồn mượn dịp hồi sát để phụcsinh, cũng có thể liệt vào loại chuyện viết về vong linh hồi sát. Nhưngngoài những điều kể trên, nguyên nhân khiến tôi dẫn ra một cách có mứcđộ những cuốn sách này làm ví dụ là vì không muốn bạn đọc phải xem lạinhững câu chuyện linh hồn quy sát mà về hình thức đều gần giống nhau.(Thanh Thang Dụng Trung trong Dực quynh bại biên, quyển sáu, có đoạn nói tới việc phân loại thành hai loại truyền về “hồi sát”)

Như vậy,trong loại chuyện kể trên, nói tới câu chuyện về hung thần, hồi sát, đóchẳng phải cũng là một hình tượng khác của vong hồn hay sao? Điều vốn bị coi là tai ương, là hung thần rốt cuộc lại chính là những vong hồn haynói một cách khác chính là dị vật. Mặc dù trong cách nói, chúng ta vẫnthiên về khuynh hướng gọi đó là vong hồn, nhưng trên thực tế tất cả đềukhông thể khẳng định được một cách rõ ràng. Do đó, hình ảnh hung thầncũng chỉ là một cách nói theo quan niệm của số đông mà thôi. Vì không có ai từng tận mắt nhìn thấy hung thần, hoặc giả nếu có một người nào đókhẳng định anh ta đã từng nhìn thấy thần tai ương, thì chắc chắn anh tachỉ nhìn thấy một cái gì đó khiến anh ta có cảm giác đó chính là hungthần mà thôi. Cho nên cái gọi là “sát” hay “ương” ở đây bản chất chỉ làmột hình dáng mơ hồ nào đó, là cái mà trong một cuốn sách gọi là sựvướng víu vô hình, khó diễn đạt. Như trong Dạ đàm tùy lục đưa ra năm vídụ, cách diễn đạt thứ nhất là: “Đột nhiên có một cơn gió lốc ào tới thổi tắt đèn, một bóng đen ẩn hiện trên một tấm lưới đánh cá, ngọn lửa xanhbiếc, long lanh như đá quý, sáng bóng như tiền.” Cách diễn đạt thứ hai:“Đột nhiên thấy một vật màu đen, trông như một đám tóc rối, từ mười tấcđất ngoi lên, xoay tròn không ngớt. Lúc đầu thì to như mặt trời nhô lêncao, dần dần nhỏ như cái bát, rồi như cái chén, cuối cùng lăn lộn rồichui vào trong một cái lỗ dưới gầm giường, một lát sau lại ra ngoài, coro quay tròn không nghỉ, một lúc lâu sau thì mất tăm.” Cách hình dungthứ ba: “Ngọn đèn đột nhiên tắt lịm, một vật giống như cái vòi dài, hayđồ hút rượu mờ mờ ẩn hiện, phát ra tiếng động “gừm, gừm” đầy ghê sợ, rồi bỗng dưng ngã lăn xuống đất, biến thành một con mèo lớn, khuôn mặttrắng bệch như người đánh phấn, bám vào đất quay tròn mấy vòng như đangdiễn trò cho người khác xem.” Cách hình dung thứ tư: “Đột nhiên một bàlão xuất hiện, cứ quanh quẩn bên dưới gầm giường, hai mắt sáng quắc nhưđính ngọc, tay chống gậy, hóa thành một con nhím, kêu lên những tiếngchít chít, rồi càng ngày càng co mình lại, bỗng nhiên hóa thành một lànkhói dày dặc, cuồn cuộn tản ra tứ phía, hoặc chui qua vách tường, hoặcbay lên đỉnh lều, tản ra rồi đi mất.” Cách miêu tả thứ năm: “Một ngườicon gái, cao khoảng gần mười tấc, đập mạnh vào khóa cửa sổ, từ cửa sổhiện ra một làn khói đen mù mịt, đúng lúc có làn gió thổi qua cuốn đimất.” Rõ ràng chi tiết miêu tả về hung thần trên đây đều là những hìnhảnh “tận mắt chứng kiến”. Nhưng những hình ảnh đó rất có thể chỉ là mộtsố cảnh sắc ban đêm, trong điều kiện ánh sáng mờ mịt không thấy rõ, lạiđúng lúc đầu óc cũng đang mơ màng, trạng thái bần thần, sợ hãi, cho nênnhững điều trông thấy trở nên hư hư thực thực, huyễn hoặc mơ hồ. Ngay cả người chứng kiến thần trí cũng không tỉnh táo dẫn đến nói những lời mêsảng, rối loạn… điều này rất đỗi tự nhiên. Nhưng nếu như có những ghichép, thống kê một cách chi tiết, cụ thể về “hung thần”, thì sẽ pháthiện ra một điều rất đặc biệt, thì ra “hung thần” trong các truyềnthuyết lại liên quan mật thiết đến một loài chim.

3.

Điềunày liên quan đến một tập tục khác trong dân gian, hoàn toàn không giống với tục “hồi sát” nói ở trên. Trong tục “xuất sát”, vị thần hung dữkhông phải là sự trở lại của vong hồn người chết, mà xuất hiện chính từtrong linh cữu của người chết. Đường Trương Độc trong Tuyên thất chí cóviết: “Tục truyền rằng, sau khi người chết chết được mấy ngày mà có mộtloài chim từ trong quan tài bay ra thì gọi là “sát”. Lại nói, có ngườikhi đi săn, anh ta giăng lưới bẫy chim, bẫy được một con chim lạ, mìnhdài khoảng năm thước, nhưng đến khi mở lưới để bắt chim thì mới ngỡngàng vì con chim mắc vào lưới đã biến mất từ lúc nào không rõ. Vô cùngkinh ngạc, anh ta đem câu chuyện kỳ lạ vừa rồi kể cho người dân sốngxung quanh đấy nghe, một người nói: “Trong làng có người chết mấy ngàynay rồi, thầy bói xem quẻ nói, hôm nay sẽ có “sát thần” tới. Đến nhàngười đó xem sẽ rõ, có con chim màu xám nhạt từ trong quan tài bay ra.Con chim anh kể có lẽ chính là con chim ấy?”.

Con chim màu xámnhạt trong câu chuyện được gọi là “la sát mị”, rõ ràng cũng thuộc lại ma quỷ đại diện cho cái ác. Trương Trạc trong Triều dã thiêm tái có nhắcđến một câu chuyện về một chàng thanh niên đang đi trên đường thì tìnhcờ gặp một cô gái cũng đang rảo bước một mình. Dung mạo xinh đẹp của côgái đã khiến chàng trai mê mẩn. Chàng bèn mời cô về nhà. Ngày hôm sau,người nhà gõ cửa phòng hồi lâu mà không thấy anh ta ra mở cửa, họ bènđứng bên ngoài nhìn qua cửa sổ thì thấy một cái đầu lâu vừa mới bị ănxong. Người nhà kinh hãi phá cửa xông vào, thấy từ trên xà nhà tối âm uxuất hiện một con chim lớn, vươn cổ nhằm hướng cửa chính bay ra. Ngườita cho rằng đó chính là loài “la sát mị” hung ác vẫn được nhắc tới trong dân gian. Viên Mai, thời nhà Thanh, trong Tử bất ngữ cũng nhắc đến loài chim la sát. Hứa Thu Trà trong Văn kiến dị từ đã dùng tro bếp để nhậndạng dấu vết và xem xét tỉ mỉ, kỹ lưỡng vết chân trên lớp tro bụi ấy làdấu vết của loài chim nào, rồi nói vui rằng: “Nhìn dấu chân này, ngườitrần mắt thịt cũng biết ngay đó là loài chim la sát.” Có thể thấy, những câu chuyện dẫn ra trên đây đều có chung một mục đích khẳng định “la sát mị” chính là một loài ác quỷ, mà ác quỷ thì thường ăn thịt thi thểngười chết.

Trong Thông u ký cũng nói tới một loài dị vật tươngtự xuất hiện sau khi có người chết. Tính chất của loài ác quỷ cũng biểuhiện rất rõ ràng trong câu chuyện độc đáo này:

Chín năm trời giữtrọn tấm lòng kiên trinh, tận trung với nước, người cha của đô dốc xứBạc Châu, Lô Viện lâm bệnh nặng và qua đời. Hai ngày sau, đang giữa banngày, bỗng có một con chim lớn màu xám nhạt, không biết từ đâu bay đếnsân nhà, bay lượn một vòng trên không trung, in bóng xuống mặt đất rộngkhoảng bốn, năm thước. Cả nhà kéo nhau ra xem. Đột nhiên nó sà xuống cái giếng ở góc phía tây nam, rất lâu sau mới bay đi. Mọi người chạy đếnxem, phát hiện thấy nước trong giếng đã cạn hết, bên trong còn có haiquả trứng, to bằng nắm tay. Mọi người vớt lên đập vỡ một quả, máu từtrong chảy ra lênh láng. Đến sáng hôm sau, đột nhiên nghe thấy có tiếngkhóc thảm thương của một người phụ nữ từ trong nhà phía tây. Lại gầnxem, phát hiện ra một người con gái, tuổi chừng mười tám, mười chín,quàng một chiếc khăn mỏ quạ màu đen trên đầu khóc rất thê thảm. Hỏi từđâu đến, người con gái nói trong tiếng khóc: “Tôi từ trong quả trứngdưới giếng chui ra, nào dám hãm hại ai?” Vừa dứt lời liền quay lại phíatây lôi ra một xác chết đã thối rữa, xong vung cánh tay lên rồi đi, rađến cổng thì biến mất.

Đến thời nhà Tống, trong Thanh tôn lục,Liêm Bố cũng nói tới hình ảnh kỳ dị của một con vật lạ: “Một con vậttrông giống như chim hạc, có màu xám đen, đôi mắt long lanh sáng rực như ngọn đuốc, đôi cánh lớn căng phồng đạp gió vù vù.” Ông cũng cho biếtthêm, đã có người nhìn thấy con vật kỳ dị này trong quan tài sau khingười chết được mấy hôm: “Thi thể người chết khí chất sẽ biến đổi thànhla quỷ.” Hồng Mại trong Di kiên đinh chí, quyển mười ba cũng kể lại mộtcâu chuyện về Từ Cát Khanh ở Cù Châu, trong suốt thời gian sáu năm miệtmài hành đạo, ban ngày thường có một con vật lạ đến đậu ở chân tường,thân người, đầu chim, dài khoảng một trượng. Một hôm, bất ngờ người vợlẽ trông thấy liền kinh động mà chết. Người con thứ tư của Từ Cát Khanhđang làm quan ở Tú Châu, ngày hôm sau nghe được tin dữ, cả ngày ám ảnhkhông dứt về loài chim lạ đó.

Đến triều đại nhà Thanh, sát quỷđược nói đến như là một loài chim lạ cũng nảy sinh nhiều vấn đề phứctạp. Đồng Hàm trong Thuần hương chuế bút có đoạn nói về “hung thần” là“một con gà, cao khoảng bốn, năm trượng, cái mào đỏ thẫm, cựa cứng nhưsắt, đứng trên một mô đất, vỗ cánh dài đến xà nhà, ngẩng cao đầu, nhìntừ bên ngoài vào.” Một tác phẩm khác của Vương Đổng Qũy là Nhĩ đàm loạităng, quyển hai tư cũng cho rằng “hung thần” chính là “một con gà trốngto như loài ngỗng, mỏ quặp lại, mắt trợn trừng, bay đến đậu trên quantài”. Tam tá lư bút đàm, quyển mười một có một đoạn miêu tả lại cảnh“gặp gỡ hung thần”, trong đó cũng chỉ rõ hung thần là một con ngỗng lớn, hai mắt long lanh màu xanh biếc. Tiền Vịnh trong tác phẩm Lý viên tùngthoại, quyển mười lăm, Đả sảnh thần cũng khẳng định “hung thần” là mộtcon chim lớn, khuôn mặt, dáng đứng giống hệt con người, nhưng lại cóthêm đôi cánh dũng mãnh, mỗi lần vẫy cánh chẳng khác nào một trận giólớn nổi lên. Trong Tử bất ngữ của Viên Mai, quyển hai, Lạc sát điểu cũng nhắc đến một con chim lớn, màu hung đen, mỏ quặp lại, bàn chân nhưtuyết, đứng giữa nấm mồ bỏ hoang, nơi “mặt trăng chiếu rọi những vệtsáng mờ ảo trên thi thể người chết” mà biến hóa. Độn trai ngẫu bút,quyển hạ có một đoạn nói về chuyện “hồi ương” như sau: “Có một người nọthấy một gia đình bỏ nhà không mà dắt díu nhau chạy trốn hung thần,trong nhà có đặt một chiếc quan tài, trên quan tài có một con vật lạtrông giống như gà nhà, liền nghi ngờ đó chính là thần tai ương hiệnhình.” Tiết Phúc Thành trong tác phẩm Dung am bút ký, quyển sáu có mộtđoạn nói về “Dương Lão Liêm gặp phải hung thần”, và cho rằng hung thầnhiện hình thành con gà trống dũng mãnh, thường tụ tập trong mộ căn phòng lớn, hai mắt phát ra luồng ánh sáng xanh biếc chiếu thẳng vào mặtngười. Cuốn Dực quynh bại biên, quyển năm có nói đến “sát thần” một cách vô cùng xác thực. Ông nhắc tới phong tục ma chay ở Thường Châu, ngườichết khi khâm liêm cần lấy những vại sành xếp trên mặt đất để làm nơitrú ngụ cho hung thần, khi đưa linh cữu đi an táng, mời thầy mo đến đọcbùa chú đập vỡ những vại sành, xua đuổi hung thần đi nơi khác, và hungthần ở đây cũng có hình dáng giống như một con gà. Gia đình Phùng Thị có người mới chết, không cẩn thận để lũ trẻ làm vỡ mất vại sành, nhân cơhội đó hung thần trốn ra ngoài. Nhà hàng xóm có một lầu gác, đóng cửa đã lâu, đúng lúc đó bỗng nghe thấy có tiếng vỗ cánh, mở cửa lầu gác ra xem thì thấy “một con gà mào, cựa rất lớn không biết từ đâu đến, bị nhốttrong một cái lồng lớn, tự dưng lại thấy xuất hiện ở đây”.

Nói đến điều này, tôi chợt nhớ đến một câu nói trong Luận hành – Đính quỷ của Vương Sung thời Đông Hán:

Theo phong tục dân gian, khi người thân một ai đó gặp phải điều bất hạnh, sẽ thấy một luồng sáng chiếu thẳng vào trong nhà, hay trông thấy thứ gì đó có hình dáng giống một con gà bất ngờ xuất hiện trong nhà.

“Người nhà gặp điều bất hạnh” ý muốn nói khi có người thân lâm trọng bệnh đếnđộ nguy kịch, sắp trút hơi thở cuối cùng, lúc đó sẽ thấy xuất hiện những dị vật như trên. Ở đây mặc dù không nói đến “hung thần”, nhưng hình ảnh của ma quỷ lại được nhắc đến với “dáng vẻ của một con gà”. Vì vậy cóthể thấy, trong giai đoạn sau này, mỗi khi nhắc tới sự xuất hiện củahung thần hay ác quỷ, người ta thường so sánh hoặc thay thế nó bằng hình ảnh của một con chim hoặc một con gà kỳ lạ nào đó. Chúng ta có thể suyđoán, từ nhà Đông Hán trước thời Tam Quốc có thể đã nói tới điềm báomang tính dự đoán tai ương sắp ập đến. Nhưng tục trốn chạy hung thần thì đã có từ trước thời điểm dự đoán hơn hai trăm năm. Do xã hội Trung Hoangày càng văn minh, cho nên vấn đề mà các gia đình quan tâm nhất hiệnnay chính là chỗ ở, vì thế, có lẽ tục “tị sát” cuối cùng đã không còntiếp diễn đến ngày nay, mà vì một lý do nào đó trong dân gian đã xuấthiện một tục lệ ma chay đi ngược lại với lễ giáo của người Trung Quốc.Vì sao người dân lại phải trốn tránh hung thần? Và trốn tránh hung thầnrốt cuộc là như thế nào? Vì sao người ta luôn cho rằng hung thần manghình dáng của một loài chim nào đó?

4.

Theo quan điểm củachúng tôi, ý nghĩa của chữ “tị” trong “tị sát” chính là ma quỷ “từ bêntrong mà ra”, và cái gọi là “vong hồn quay trở lại” chỉ là một thủ đoạnnhằm đánh lừa lòng tin của người dân mà thôi. Vậy bản chất của ma quỷ từ bên trong mà ra là như thế nào? Trên thực tế, cổ nhân đã từng tiếp xúcvà có những lý giải về vấn đề này. Đó chính là một số ma quỷ, hung thầntrú ngụ trong quan tài hay nơi mồ mả bỏ hoang, gặp điều kiện thuận lợiliền hiện hình. Điều kiện thuận lợi nói tới ở đây chính là khi “thể xácgặp khí thiêng liền biến hóa”. Trở lại với vấn đề thời gian “hồi sát”thì như trong Độn trai ngẫu bút đã từng đề cập đến: “Theo quan niệm củacác nhà âm dương học, ngày “hồi sát” chính là ngày mà phần khí thừa đãtích tụ trong một thời gian dài tan ra, tiếp xúc phản ứng không hết.”Cho nên gọi là sát quỷ cũng được, có điều sát quỷ ấy chính là “khí sinhra từ thi thể người chết”. Vì thế có thể khẳng định một lần nữa, tị sáttức là chạy trốn khỏi tử khí là có thực, còn chạy trốn khỏi ma quỷ chỉlà lừa phỉnh mà thôi.

Đào Tiềm trong Tục sưu thần ký cũng có đoan ghi chép liên quan đến “sát ương”, mặc dù không trực tiếp nhắc đến vấnđề “tị sát”, nhưng có nói tới cái được gọi là “tà ma”. Quyển sáu cuốnsách này có viết: An phong Hầu Vương Nhang đã từng chứng kiến một chuyện xảy ra trong một đám tang, khi người chủ lễ đang khấn đọc để đưa thithể người chết nhập quan, các quan khách đến dự tang lễ đều đứng đợiđông đủ trong lễ đường, chỉ có Vương Nhang nằm nghỉ ngơi một mình trênxe. Đột nhiên, anh ta nhìn thấy “trên không trung xuất hiện một con vậtkỳ lạ, trông giống như một con chim”, sau đó thoắt biến thành một chiếcxe ngựa màu đỏ nhạt, trong xe có một người, khăn áo màu đỏ nhạt, tay cầm một cái rìu. Con ngựa kéo xe mỗi lúc một nhanh trên mặt đất, người đóđánh xe đi thẳng vào con đường nhỏ, nơi chiếc xe của Vương Nhang đỗ, gọi Vương lại hỏi: “Xin tặng công tử một câu nói: Phàm là những người ruộtthịt thân thiết mới đến khâm liệm, đưa tiễn linh hồn người chết, nhữngngười không thân thiết thì không nên tùy tiện, càng không thể nôn nóngđứng quanh đây.” Tại sao con quỷ đó lại nói những lời này với VươngNhang? Phải chăng nó muốn dự báo trước cho Vương Nhang cái điều “đươngtrí vị tam công” sẽ xảy đến sau này. (Vương Nhang là một trong những“Trúc Lâm thất hiền” trong triều Ngụy Tần, đến khi Tây Tấn suy phân tách thành Tam công.) Hoặc giả ngay trong thời điểm đó nó muốn báo trước một tai họa nào đó sẽ xảy đến chăng? Trong giờ phút thi thể người chết sắpđược nhập quan, tất cả quan khách đều hướng về thi thể nói lời từ biệtcuối cùng, con quỷ đó cũng lẻn vào, hòa lẫn trong đám khách khứa, lấycây rìu ra giáng vào tấm ván bên cạnh quan tài. Những điều này đươngnhiên chỉ có Vương Nhang có thể nhìn thấy. Có người thân đi đến gần quan tài, cúi đầu xuống gần thi thể nói lời vĩnh biệt trong niềm đau xót vôhạn, đúng lúc con quỷ giơ cao cái rìu đánh thẳng vào đầu người đó, người này tức thời ngã lăn xuống đất, mọi người xung quanh vội vã đỡ dậy, đại để chỉ gây ra hiện tượng choáng váng rồi ngã xuống, chưa chắc đã đe dọa đến tính mạng.

Con quỷ quàng khăn đỏ, mặc áo đỏ, tay cầm rìu nói ở trên chính là thần tai ương. Nhưng vị thần tai ương này hoàn toànkhông phải hồn ma người chết, mà chỉ là ác quỷ xuất hiện khi người chếtđược nhập quan. Trong câu chuyện này, mặc dù không nhắc đến tục “tị sát” nhưng có thể thấy bản thân câu chuyện chính là một lời khuyên hữu íchcho những người tham dự buổi lễ nhập quan người chết, rằng tuyệt đốikhông nên đứng quá gần thi thể người chết, với những người không phải là người thân hay có quan hệ đặc biệt nào với người đã mất thì tốt nhấtkhông nên có mặt vào giờ phút nhập quan. Cho nên cái gọi là ác quỷ dùngrìu đánh vào đầu người khác thực chất là bị tử khí từ trong quan tài bốc lên làm choáng váng, ngã xuống mà thôi. Sau này, Lưu Nghị Khanh trong U minh lục cũng nói đến sự xuất hiện của dị vật sau khi có người chết:

Chu Tông thường nhìn thấy hình ảnh một đám đông đưa linh cữu đến nơi maitáng, phía trước quan tài cách khoảng ba thước có một vật màu xanh, hình dáng giống như một cái vỏ sứ có nắp đậy (cái chum to đậy nắp). Đám đông tham dự tang lễ, người thì cúi mặt khóc thương, buồn bã, người lại đếngần ghé sát quan tài nhìn người chết thêm một lần nữa. Từ phần đầu thithể đang bất động có một vật màu xanh bốc lên. Lại nói: Khi người đếntham dự tang lễ, trong tức khắc ma quỷ cũng nhanh chóng đến theo cùng.

Trong câu chuyện trên, đáng chú ý nhất là câu nói sau cùng, “khi người đếntham dự tang lễ, trong tức khắc ma quỷ cũng nhanh chóng đến theo cùng”,đó chính là ý nghĩa của hai chữ “tạm hoàn” (nhanh chóng góp mặt). Mộtcách tự nhiên, điều đó ám chỉ sự hiện hình của vong linh người chết hayvới cách nói “vong hồn quy sát” của người phương Bắc cũng chính là một.Chỉ có điều hình ảnh quy sát hiện về là một “dị vật màu xanh” có hìnhdáng “giống như cái vò sứ có nắp đậy” chứ không phải như hình hài ngườichết. Nhưng vì sao Chu Tông lại nói dị vật đó cách linh cữu người chếtkhoảng ba thước? Rõ ràng đó là một lời khuyên dành cho những người điviếng đám ma nên đứng cách xa phần đầu người chết một khoảng cách nhấtđịnh, tối thiểu là ba thước, cũng chính là cần tránh khỏi vùng ảnh hưởng của tử khí người chết bốc lên, vì tử khí chủ yếu sinh ra từ phần miệngvà mũi của người chết.

Trong vở tạp kịch Tử sinh giao phạm trương kê thử, phần thứ ba có kể lại câu chuyện Phạm Cự Khanh muốn được trôngthấy thi thể của Trương Nguyên Bá trong linh cữu, nói: “Mọi người hãy mở nắp quan tài ra, ta muốn nhìn một lát.” Mẹ của Nguyên Bá nói: “Anhkhông nên làm vậy. Người đã chết khá lâu, sợ rằng tử khí sẽ bốc lên.”Như vậy, qua màn đối thoại này có thể thấy mọi người đã biết rõ thi thểngười chết để lâu ngày sẽ có tử khí bốc lên, gây hại cho con người.

Có thể chứng minh những lời nói trên đây có cơ sở quan trọng, xuất phát từ chính việc “rải tro bếp để nhận dạng dấu chân” phản ánh phong tục machay trong quan niệm dân gian. Ngày “tị sát”, trước khi người trốn rangoài để né tránh hung thần, cần phải “quét dọn sạch sẽ, cẩn thận phòngốc của người chết, từ trên giường xuống dưới đất, sau đó lấy tro đốt từloại cỏ lau rải xuống khắp nền nhà”. Nói là để xem khi vong linh ngườichết hồi sát có để lại dấu chân trên lớp tro bụi hay không, từ vết chânđó có thể nói cho người nhà biết người chết đã đầu thai chuyển kiếpthành loài vật nào. Nhưng rõ ràng lý do này thực sự chỉ khiến vong hồnthêm khó xử. Vì những dấu vết đó, ngoài dấu chân của mèo, chó, gà, vịtcòn có cả dấu chân của kẻ trộm. Do vậy, ý đồ thực sự của việc “rải trobụi làm dấu” này đã xuất hiện từ rất lâu trong dân gian, sớm nhất là từthời Nam – Bắc triều. Theo quan niệm của người dân, trong ngày “tị sát”nhất thiết phải “đốt một đám lửa ở trước cửa, bên ngoài rải một lớp trobụi”. Tro ở đây chính là tro đốt từ cây cỏ, sau này, người ta cũng dùngnó để xua tan khí hôi bốc lên từ nhà vệ sinh, cho nên bô vệ sinh cònđược gọi là “khôi đồng”, đổ bô vệ sinh được gọi là “khái khôi”, ngay cảđến thần trấn giữ nhà xí cũng được gọi bằng một biệt hiệu rất đáng yêu“khôi thất cô nương”. Mục đích thực sự của việc “rải tro bụi” chính làđể nó hút vào những tử khí độc hại bốc ra từ thi thể người chết, chứhoàn toàn không phải để xem người chết đầu thai sang thế giới khác sẽbiến thành loài súc vật nào. Hơn nữa, những người bạn của tôi ở Nam Kinh còn giới thiệu rất kỹ lưỡng về vấn đề này. Họ cho biết, vào những ngàyhè nóng nực, cần chú ý phủ một lớp tro bụi thật dày xuống dưới đáy quantài, sau đó dùng một tấm vải phủ kín bên trên, để người ngoài không nhìn thấy được. Làm như vậy không những có thể xua tan được tử khí bốc ra từ thi thể mà còn có tác dụng hút hết nguồn nước rỉ ra từ xác chết. Nhữngkinh nghiệm nêu trên không chỉ thấy duy nhất ở Giang Nam, mà nó còn làphát minh quan trọng được vận dụng trong suốt gần một thế kỷ qua. Chonên có thể thấy, việc nhận thức được tính năng thẩm thấu của lớp tro từcây cỏ là chuyện có từ rất sớm trong lịch sử. Còn đối với việc đốt mộtđám lửa ở trước cửa nhằm mục đích làm khí nóng bốc lên, dẫn đến áp suấtkhông khí tập trung ở trước cửa thấp, hình thành một vòng tuần hoàn luân chuyển, khi ấy tử khí có hại từ trong nhà nhanh chóng được thoát rangoài. Ngày “tị sát”, cả nhà đều tránh ra ngoài, cửa ngõ đều mở hết,cũng là để cho tử khí được dễ dàng thoát ra. Thầy mo tính toán đúng ngày tị sát là nhờ căn cứ vào khoảng thời gian tử khí bốc lên nhiều nhất vàgây nhiều độc hại nhất. Tro đốt từ cây cỏ hút hết tử khí sẽ khiến chonguồn khí này tập trung gần mặt đất trong một khoảng thời gian ngắn vàkhông thể ngay lập tức thoát hết ra ngoài, chính điều này sẽ khiến cănphòng được rải tro tích tụ một lượng lớn tử khí gây ảnh hưởng không tốtcho con người. Vì thế, ngay sau khi rải lớp tro thảo mộc lên nền nhà,người nhà cần tránh đi nơi khác, có lẽ đó chính là nguyên nhân thực tếcủa tục lệ “tị sát” lưu truyền trong dân gian. Mọi người trong nhà đềutránh đến nơi khác trong khoảng thời gian “hồi sát”, cửa ngõ đều mởrộng, những con gà, chó… sống nơi hoang dã ngửi thấy mùi thơm bay ra từthức ăn bày biện trên mâm cỗ cúng l

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN