Thánh Tuyền Tầm Tung - Chương 16: Thành cổ Cuzco
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
186


Thánh Tuyền Tầm Tung


Chương 16: Thành cổ Cuzco


Dịch giả: gaygioxuong

Hình chiếu tấm bản đồ trên tường được đánh dấu tọa độ bằng giấy nhựa plastic, hơn nữa còn có địa hình tương đối chính xác. Vương Phổ Nguyên cùng với những học giả dưới trướng của mình đã nghiên cứu hơn bốn mươi năm, cuối cùng cũng xác định được vị trí của ấn Bá Vương chính xác nằm ở chỗ một đền thờ thần Mặt trời của người Inca được xây dựng vào cuối thế kỷ 16. Ngôi đền thờ này đã bị con người quên lãng trong rừng nhiệt đới bạt ngàn đã vài thế kỷ nay. Mặc dù lão đã từng nhiều lần cử đội quân thám hiểm, ngay cả bản thân cũng đã từng có ý đồ tham gia kiếm tìm, nhưng chỉ vì thiếu kinh vĩ độ và bản chỉ đường chính xác, cho nên chẳng những nhiều lần ra về tay không, mà còn phải mất không một lượng kinh phí tương đối khổng lồ.

Vương Phổ Nguyên chỉ vào một chỗ được đánh dấu bằng hình ảnh thần Mặt trời trên tấm bản đồ, nói với tôi: “Hồ Bát Nhất, nếu như ông chủ sau lưng những kẻ mặc đồ đen đó đúng thật là kẻ phản bội Tư Mã Hiền, vậy thì đến giờ, nhóm người này đã bước lên hành trình tìm kiếm ấn Bá Vương rồi. Cô người yêu Dương tiến sĩ của cậu, nếu như chưa chết, tất yếu sẽ truy đuổi theo chân bọn chúng không rời. Vương Phổ Nguyên ta tuyệt đối sẽ không trơ mắt nhìn bảo vật của sư môn dễ dàng rơi vào tay người khác. Về phần cậu có định gia nhập không, điều đó hoàn toàn dựa vào ý muốn của cá nhân, lão đây tuyệt đối sẽ không cưỡng ép. Riêng về phần cái nhẫn của Tang sư đệ, ta vẫn hi vọng cậu có thể tặng cho ta một món ân tình, ngoan ngoãn giao ra đây, đừng làm lỡ thời cơ.”

Vương Phổ Nguyên đã ngả bài với chúng tôi, bản thân tôi chẳng nên giả ngây giả ngô làm gì nữa, lập tức nói đại ý rằng, chiếc nhẫn bằng ngọc phỉ thúy là tín vật của tổng quản lý “Nhất Nguyên Trai” của chúng tôi, tuyệt đối không thể cho người khác mượn được. Huống chi, tâm nguyện của ông cụ Tang chưa hoàn thành, đứng trên lập trường tìm kiếm ấn Bá Vương, có thể nói chúng ta là “kẻ địch” đứng trên cùng một chiến tuyến. Nếu như muốn đi, vậy thì cùng nhau đi, còn cuối cùng hươu chết về tay ai, vậy thì phải dựa vận may của riêng mình.

Vương Phổ Nguyên khẽ gật đầu, nói: “Bản lãnh của các cậu, ta đã từng nghe nói tường tận. Nếu cậu chịu gia nhập không còn gì tốt hơn. Ta lập tức phái người đi chuẩn bị, nếu các cậu có yêu cầu gì thì cứ việc nói thẳng ra.”

Thật ra, tôi lựa chọn hợp tác với Vương Phổ Nguyên hoàn toàn là việc chẳng đừng. Cả cái nước Mỹ này, chúng tôi một không có nguồn tiền, hai không có nguồn nhân lực, có thể nói là đi một bước cũng khó. Chưa cần nói đến đích đến của chuyến đi này là Peru ở tận mãi tít Châu Mỹ La Tinh xa xôi, một quốc gia mà tôi mới chỉ được nghe nói tới trên đài phát thanh. Chỉ có gia nhập đội ngũ do Vương Phổ Nguyên tổ chức, chúng tôi mới có thể có cơ hội xâm nhập truy tìm. Rất may là chúng tôi vẫn có đủ vốn liếng để đánh bạc. Không có chiếc nhẫn bằng ngọc Phỉ Thúy, lão chủ họ Vương chỉ dựa vào mỗi một tấm bản đồ không có tọa độ chính xác thì không thể nào tìm được tới chỗ cái đền thờ đó.

Thử nghĩ mà coi, làm cách nào mà tìm một công trình kiến trúc cách đây cả nghìn năm trong một khu vực rộng hơn 7 triệu km vuông. Nếu như không có bản đồ với tọa độ chính xác, cho dù Thiên Vương Lão Tử lão ta thực sự có bản lãnh trùm đời đi chăng nữa, chỉ sợ cả đời này cũng tuyệt đối không có lấy một tia hi vọng. Huống chi, hiện giờ đội ngũ của Cây Sào đã tập hợp đủ tín vật trước chúng tôi một bước, chắc chắn bọn chúng đang bước chân trên hành trình đi tìm rồi. Nếu đám người chúng tôi không đánh cược một lần, chỉ sợ không những làm mất cái ấn báu, mà ngay cả tính mạng Shirley Dương cũng sẽ khó mà bảo toàn.

Vương Phổ Nguyên đương nhiên sẽ không thể để mặc cái ấn báu của sư môn rơi vào tay kẻ phản bội. Lão và ông cụ Tang đã là kẻ thù một mất một còn, đồng thời cũng là kỳ phùng địch thủ về mặt trí tuệ cả một đời. Hai ông lão đã đấu với nhau cả đời, không thể nào để cho một kẻ phản bội đắc lợi được. Lão lập tức sai đám tay chân đi chuẩn bị những vật tư cần thiết cho chuyến hành trình đến Peru, sau đó lại gọi vài cuộc điện thoại đến các cơ quan ban ngành có liên quan, cứng rắn yêu cầu tạo điều kiện.

Chỉ trong vòng một buổi, toàn bộ đã được lão sắp xếp thỏa đáng. Tôi, Tuyền béo, Ma Cô Trẻ, Đầu Trọc cùng với Tần bốn mắt được xếp vào danh sách đội viên. Tôi nói: “Có lẽ cậu cả nhà cụ không nên tham gia vào vụ mạo hiểm này mới phải, lỡ chẳng may xảy ra sơ xuất gì, nhà họ Vương của cụ có lẽ sẽ không còn người nối dõi nữa.”

Ma Cô Trẻ trợn trừng mắt, khiêu chiến tôi: “Đồ nhà quê chết tiệt, trước khi mở mồm phải động não một chút. Cậu đây dù gì cũng là sinh viên đại học tốt nghiệp hệ khảo cổ của Harvard. Đám người nhà quê các anh, ngay cả lịch sử Châu Mỹ cũng còn chưa được học nữa là. Thiếu tôi thì làm thế nào mà lăn lộn được ở Peru.”

Tuyền béo là người ngang như cua, lên tiếng giễu cợt y: “Thám hiểm tìm bảo là việc tốn thể lực, đừng nói những quyển sách mà Ma Cô Trẻ nhà cậu đọc có tác dụng cái mẹ gì, cho dù có thực sự có tác dụng đi chăng nữa, sau khi tiến vào đó, ngay cả Đông Tây Nam Bắc còn không phân biệt chính xác nữa là. Hơn nữa, hãy thử ngẫm lại cho kỹ xem, cậu đã từng thấy bò cạp to bằng cái giầy chưa? Đã bao giờ thấy chưa?”

Ma Cô Trẻ nổi nóng vì bị khiêu khích, bắt đầu tranh cãi với Tuyền béo, bảo rằng trong rừng nhiệt đới hoàn toàn không có bò cạp. Tôi chẳng hơi đâu mà khuyên can, cảm thấy hai con người này cứ chạm mặt nhau là lại cãi lộn không cho ai yên, thật chẳng hiểu nổi đời trước ai đã mắc nợ ai nữa. Tôi quay sang bảo Tần bốn mắt, chuyến đi lần này quá mạo hiểm. Mức độ nguy hiểm của rừng nhiệt đới Amazon, mặc dù tôi chưa từng tận mắt nhìn thấy, nhưng nếu so với vùng rừng thiêng nước độc ở Vân Nam thì chỉ sợ không kém mà chỉ có hơn. Đó là một khu vực bị loài người quên lãng, đồng thời cũng là nơi bài xích người ngoài, anh không cần phải mạo hiểm đi cùng với chúng tôi.

Tần bốn mắt nói: “Ông cụ Tang có ơn tri ngộ với tôi, huống chi nhà họ Vương người đông thế mạnh, thêm người thì bên phía anh sẽ có lợi thế hơn một chút. Nếu anh Bát Nhất không gai mắt với họ Tần tôi, không chê tôi vướng víu, vậy thì chuyến đi này chúng ta tất sẽ cùng tiến cùng lui.”

Tôi không còn cách nào đối phó với anh chàng luật sư cứng đầu này, đành phải đồng ý cho anh ta cùng đi. Tuy nhiên đưa ra ước định trước, sau khi vào rừng, tất cả sẽ do tôi quyết định. Nếu như nảy sinh vấn đề, chỉ cần tôi hô ngừng, anh ta nhất định phải đứng im. Phiền phức nhất là Mũ Sắt Đen, anh ta loáng thoáng hiểu được chúng tôi đang nói cái gì, vậy là lập tức gào ầm lên bảo rằng đây là hoạt động phi pháp, phải giao việc này cho cảnh sát để bọn họ tổ chức đội dò tìm thám hiểm. Tôi bảo anh ta, anh bạn à, việc này anh đừng có mơ chen chân vào làm gì, trước hết tìm cách sống sót chạy ra khỏi địa bàn nhà họ Vương mới là việc thiết thực. Cũng may Mũ Sắt Đen là một người biết cách biến báo, không giống mấy kẻ nước ngoài đầu óc như khúc gỗ, không đến nỗi tự đẩy bản thân vào đường cùng. Vương Phổ Nguyên vẫn luôn chẳng thèm để viên cảnh sát trưởng bé xíu này vào mắt. Thấy anh ta yên phận ngồi im trong góc, lão chẳng hề hé răng nhắc tới câu gì liên quan đến việc giết người diệt khẩu.

Bên phía Vương Phổ Nguyên, ngoài đứa cháu lão tự xưng là cử nhân hệ khảo Vương Thanh Chính ra, người còn lại chính là lão già tâm phúc Lưu Đầu Trọc. Nghe đâu, tổ tiên Lưu Đầu Trọc là người Mông Cổ. Lão chẳng những dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa còn hành xử kín kẽ, biết khi nào cần tiến thoái. Bản thân Vương Phổ Nguyên tuy có lòng xuất chiến, tiếc rằng thời gian vô tình, gió sương tàn phá, sức khoẻ thân thể có hạn, lão không thể nào đi cùng với chúng tôi vào lưu vực sông Amazon. Trước khi đi, lão nhắn nhủ tôi: “Đứa cháu này của ta được nuông chiều từ bé, chẳng làm nên công cán gì, cũng chưa từng trải qua bất cứ khó khăn nguy hiểm nào, đoạn đường sắp tới vẫn phải phiền cậu để mắt đến nó nhiều hơn.”

Tôi nghĩ bụng, cái loại cậu ấm đó dù có kênh kiệu đến mấy, sau khi vào rừng chẳng phải mặc cậu đây trừng trị. Những việc khác không nói tới, chỉ cần điều kiện khí hậu mưa rừng nhiệt đới là đã đủ cho y phải chịu khổ một phen, hết đường ba hoa khoác lác. Tuy nhiên vẫn phải nể mặt y đôi phần, ai bảo lão già kia không những xuất tiền lại còn cung cấp trang bị, ngay cả phiên dịch đi theo cũng được bố trí trước cả rồi. Tôi vỗ ngực cam đoan với Vương Phổ Nguyên: “Ông chủ Vương, ngài yên tâm. Lần này còn tôi thì còn cậu ta, khi quay về sẽ trả lại cho ngài một cậu cả Vương hiểu biết lão luyện.”

Tuyền béo chỉ chăm chăm nghĩ đến kho báu của đế quốc Inca, đeo ba lô lên, hưng phấn nói: “Lão Hồ, không ngờ quanh đi quẩn lại, chúng ta lại quay trở về nghề cũ. Xem ra, tớ mang theo xẻng công binh quả đúng là hành động sáng suốt.”

Tôi bảo, chúng ta vào rừng nhiệt đới để tìm đền thờ của người Inca, có phải đi đào đất tìm vàng đâu. Cái xẻng đó của cậu dùng để đập rắn rết muỗi độc còn được, chứ đừng có mà mơ tưởng chuyến đi này có thể đào được cái mồ chôn vàng nào đó của người Inca. Tuyền béo đáp: “Biết đâu đấy! Tớ nghe thấy lão già kia nói loáng thoáng về việc em trai vị Quốc vương Inca mang theo cả đống vàng lui về phòng thủ tuyến hai. Mặc dù trên thực tế, nhiệm vụ chủ yếu lần này của chúng ta là tìm cách cứu viện Dương tham mưu trưởng, nhưng đào vàng đóng vai trò là công việc phụ kèm theo, không thể nào bỏ qua cho được.”

Hiệu suất của đội hậu cần của Vương Phổ Nguyên cao tới mức khiến người khác phải há hốc mồm, thậm chí tầng lớp cao cấp của thương hội còn chuẩn bị cho chúng tôi một chiếc S-51. Tuyền béo kích động chỉ vào chiếc máy bay trực thăng đó, nói: “Cha tớ đã từng kể cho tớ nghe, vào thời kháng Mỹ viện Triều, cái loại máy bay trực thăng bay này rợp trời như chuồn chuồn. Sau đó, ngày nào tớ cũng nằm mơ, mơ thấy mình nhặt lấy một viên đá nhỏ, ném đánh vèo một cái, vậy là nó rụng xuống. Đám máy bay bay rợp trời đó đều bị tớ dùng sỏi bắn rụng sạch. Ôi giấc mộng hồn nhiên thuở ấu thơ của tớ!”

Tôi vội vàng túm Tuyền béo lại, sợ cậu ta nhặt bừa lấy một hòn đá ném thẳng vào chiếc máy bay trực thăng của lão già họ Vương kia mất.

Tần bốn mắt chợt nói: “Chúng ta quá nhiều người, máy bay trực thăng không thể nào đủ chỗ cho tất cả. Tuy nhiên, nhờ có sự yểm trợ của nó, chúng ta xông pha trong rừng sẽ thuận tiện hơn rất nhiều.”

Tuyền béo vẫn không chịu từ bỏ mong ước từ thuở ấu thơ, cậu ta bảo: “Chúng ta có năm người, thực ra vẫn có thể chen lọt mà.”

Ma Cô Trẻ nói: “Anh nói nhảm nhí gì thế, ngoài người điều khiển ra thì tổng cộng chỉ chở được bốn hành khách nữa. Chen lọt? Tên mập mạp chết bầm nhà anh to bằng cả hai cái lu, làm thế nào mà chen vào được, cho anh đeo dây lơ lửng ở bên dưới có được hay không?”

Vương Phổ Nguyên đứng ra hoà giải, bảo rằng máy bay trực thăng có thể đóng vai trò chiến lược hậu bị cho chúng tôi, phụ trách thả dù vật tư, đảm bảo đường lui cho cả đoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý với cách nghĩ này, bèn bảo với Tuyền béo: “Dám ước mơ là tốt, dũng cảm thực hiện giấc mơ đó thì càng tốt hơn. Nhưng hiện giờ chúng ta là một đoàn đội. Nếu như cậu đưa ra yêu cầu đặc thù, các đồng chí khác sẽ có ý kiến. Làm như vậy chẳng những phá hủy sự đoàn kết giữa chúng ta, mà còn phá hoại hình tượng của cậu trong suy nghĩ của mọi người. Hay là thế này, đến khi chúng ta quay về, sẽ do cậu leo lên máy bay trực thăng dẫn mọi người xông ra khỏi Amazon. Đến lúc đó, chúng ta sẽ bảo phi công cho cậu bay vòng quanh tượng Nữ thần Tự Do ba vòng, nhìn ngắm toàn bộ vùng đất rộng lớn bị tư bản chủ nghĩa chiếm giữ này.”

Nghe xong kế hoạch của tôi, Tuyền béo hết sức động tâm, đáp lại tôi với thái độ nghiêm trang: “Tôi kiên quyết phục tùng quyết định của tổ chức. Tổ chức cử tôi đi đâu, tôi sẽ đi đến đó, kể cả có phải đứng làm một chiếc đinh ốc sáng bóng trên ngọn đuốc của tượng Nữ thần Tự Do đi chăng nữa.”

Cả đoàn người chúng tôi trang bị tối giản khởi hành, chuyển sang ngồi xe lửa, trước tiên đi đến biên cảnh nước Mỹ, kế đó được đại biểu thương hội người Hoa địa phương đón nhập cảnh. Trên đường đi, mặc dù xóc nảy nhưng vẫn được chiêm ngưỡng phong thổ nhân tình cuốn hút đa sắc màu của Châu Mỹ La Tinh. Toàn bộ vùng đất nằm ở nam bán cầu này có vô vàn cảnh sắc hùng vĩ bao la, có vô vàn những động thực vật mà chúng tôi chưa hề từng nhìn thấy. Nơi này có nền văn minh lâu đời sánh ngang với dân tộc Trung Hoa, hơn nữa còn là một châu lục vẫn giữ được cảnh sắc nhiên nhiên hoang sơ từ thời nguyên thủy.

Sau khi đến Peru, cuối cùng tôi mới hiểu được tại sao Peru lại được gọi là đất nước của cây ngô. Ở nơi đây, đâu đâu cũng chỉ là những ruộng ngô. Vị đại biểu người Hoa, Tom Trần giới thiệu, từ xưa tới nay, cây ngô là cây công nghiệp chủ chốt của Peru. Đại bộ phận thương nhân trong thương hội Hoa Kiều của anh ta tiến hành buôn bán các sản phẩm được làm từ ngô. Tôi nhớ tới nông trường tư nhân của Vương Phổ Nguyên, sản lượng ngô ở đó so với ở nơi này quả thật là không đáng là cái gì. Tôi ngồi trên xe, trong tầm mắt chỉ là bạt ngàn cây ngô.

Đích đến đầu tiên của chúng tôi chính là thành Mặt trời Cuzco. Thung lũng nơi ngôi thành cổ ngàn năm trùng sinh sau khói lửa chiến tranh của kẻ xâm lược trong dãy Andes được các ngọn núi trùng điệp vây quanh, thêm vào đó là những triền núi cây rừng xanh tốt khiến khí hậu trong toàn bộ khu vực làm say lòng người, không vương lấy một chút giá rét trời đông nào. Tần bốn mắt nói, trong ngôn ngữ của người bản địa, “Cuzco” có nghĩa là “Trung tâm thế giới”. Theo truyền thuyết, người đầu tiên đảm nhiệm Quốc vương của Inca, Manco Capac đã dùng cây trượng vàng do thần Mặt trời ban cho để định đô tại Cuzco. Bởi là nền tảng lập quốc của Inca nên được gọi là “cái rốn của mặt đất”, mang ý nghĩa là trung tâm của bốn phương. Qua đó có thể thấy nơi được gọi là trung tâm của thế giới – Cuzco có địa vị thần thánh đến cỡ nào trong lòng của người dân khi ấy.

Vào trong thành Cuzco, tôi và Tuyền béo hoàn toàn biến thành mắt mù tai điếc. Đối với cái cố đô mang nặng phong thổ nhân tình của một nơi xa lạ, chúng tôi mới là người nước ngoài. Đường xá nơi đây vừa hẹp vừa bụi mù, khắp mọi nơi là những con đường thô sơ lát đá. Những công trình kiến trúc được xây dựng theo địa hình tự nhiên, trong đó không thiếu những công trình do thực dân Tây Ban Nha xây dựng. Hai bên đường xá nhỏ hẹp chi chít những quầy hàng của tiểu thương buôn bán sản phẩm thổ sản. Ăn mày ngồi lê lết dưới tường thành. Người đi lại trên đường phần lớn là người Anh-điêng có làn da màu đỏ. Họ khoác áo choàng dệt bằng lông lạc đà, đội mũ chóp nhọn đặc trưng của thổ dân. Khi nhóm người da vàng chúng tôi đi ngang qua, tất cả họ đều tò mò dõi mắt nhìn theo. Bời vì ngay cả một câu đơn giản bằng tiếng Tây Ban Nha cũng không biết, cho nên mỗi khi được chào hỏi tôi thực sự chẳng biết đáp lại thế nào, đành phải liên tục nở nụ cười thân thiện với những người đi ngang qua. Do cười quá lâu, cơ mặt đã cứng hết cả lại.

Khi còn ở trên xe lửa, chúng tôi đã xác định trước kế hoạch hành động, đầu tiên sẽ tới Cuzco. Người dẫn đường mà Vương Phổ Nguyên đã bố trí trước cho chúng tôi sống ở nơi này, là nghiên cứu viên của viện bảo tàng Cuzco. Theo lời Đầu Trọc, vị nghiên cứu viên này là con lai giữa người Anh-điêng và người Tây Ban Nha, quanh năm chỉ vùi đầu vào nghiên cứu văn hóa Inca, có kinh nghiệm khảo cổ trong rừng nhiệt đới, biết nói tiếng Quechua(1) của người Inca, có sự trợ giúp đắc lực đối với chuyến đi này của chúng ta. Trước kia, mỗi lần Vương Phổ Nguyên tổ chức đội thám hiểm đều mời vị nghiên cứu viên đáng kính này làm cố vấn. Có ông ta, chúng ta đương nhiên sẽ như hổ thêm cánh. Tuy nhiên, tôi cũng nói trước với Đầu Trọc và Ma Cô Trẻ, hành động lần này có mức độ nguy hiểm rất lớn. Ngoài người dẫn đường vừa mới nói đến, các vị ở đây chẳng có ai có kinh nghiệm sinh tồn trong rừng nhiệt đới Amazon cả. Sau khi vào rừng, tất cả buộc phải nghe sự chỉ huy của tôi, không thể tự tiện hành động.

(1) Nhóm ngôn ngữ Quechua, còn được gọi là runa simi (“ngôn ngữ con người”), là một nhóm ngôn ngữ bản địa châu Mỹ, gồm những ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với nhau, được nói bởi người Quechua tại dãy Andes ở Nam Mỹ. Các ngôn ngữ Quechua xuất phát từ một ngôn ngữ tổ tiên chung. Với tổng cộng 8-10 triệu người nói, Quechua là nhóm ngôn ngữ bản địa phổ biến nhất châu Mỹ. Đây cũng từng là ngôn ngữ chính của Đế quốc Inca.

Bởi vì chênh lệch múi giờ, chúng tôi đến Cuzco chẳng hề đúng lúc một chút nào, nhà bảo tàng đã đóng cửa. Trước đó, Đầu Trọc đã liên hệ với người dẫn đường mấy lần mà không được. Tom Trần luôn canh cánh việc buôn bán của mình trong lòng. Tôi thấy anh ta hoàn toàn không có tâm trí nào để ý đến chuyện của mấy người chúng tôi, chủ yếu là bị Vương Phổ Nguyên ép nên không thể không tiếp đãi chúng tôi, vậy là đuổi thẳng cổ anh ta về. Đầu Trọc dẫn mấy người chúng tôi tới một quán rượu nhỏ ở gần nhà bảo tàng để nghỉ chân, còn bản thân sẽ đi tới nhà người dẫn đường xem tình hình thế nào, mong rằng ông lão chưa đến mức tuổi cao sức yếu đã về chầu trời mất rồi. Chúng tôi kéo cả nhóm tới nhà tìm người ta, hiển nhiên không quá thích hợp.

Quán rượu nhỏ này mang đậm phong cách miền tây, có thể đoán ra là tòa nhà do thực dân Tây Ban Nha xây dựng. Người trầm lặng nhất trong nhóm mấy người chúng tôi là Đầu Trọc vừa đi khỏi, không khí lập tức trở nên thoải mái hơn rất nhiều. Tần bốn mắt và Ma Cô Trẻ không biết tại sao lại bắt đầu gây hấn với nhau, còn Tuyền béo và tôi thống nhất trước tiên cứ thưởng thức đôi ba chén rượu đặc sản địa phương đã. Tôi giơ tay đẩy cánh cửa quạt nhỏ của quán để đi vào. Trong quán rượu mù mịt ngột ngạt, vào ban ngày mà đã có rất nhiều người đang ngồi vây quanh bàn rượu, uống rượu hút thuốc. Hai thằng chúng tôi loay hoay ở quầy bar một lúc lâu, nhưng dù nhìn đi nhìn lại vẫn không thể nào hiểu được cái nhãn bên ngoài vỏ chai ghi loại rượu gì. Tuyền béo nói: “Hay là cứ chọn bừa lấy một loại, kệ bu nó là nước đái ngựa hay là trâu, cứ uống trước rồi tính sau.”

Tôi bảo: “Cậu nói có lý! Không thể để đám da đỏ man di này coi thường chúng ta được.” Thế rồi tôi gõ ngón tay lên bàn rồi chỉ vào cái kệ đằng sau đám ma men, định bảo chủ quán lấy cho chúng tôi một chai bất kỳ rồi tính sau. Không ngờ, một cái cốc thủy tinh to đùng sáng lấp lánh đột nhiên bay thẳng vào đầu tôi đánh cốp một cái rồi vỡ tan. Tôi lập tức cảm thấy choáng váng, thiếu chút nữa là đứng không vững. Tôi vừa vừa bịt tay lên cái trán đang đổ máu, vừa thầm rủa trong bụng, chẳng hiểu ngôi sao xui xẻo từ đâu bay đến. Cậu đây có làm cái gì đâu, sao lại vô duyên vô cớ ăn đập vào đầu như thế này. Con mẹ nó, chẳng lẽ đây là phương thức chào hỏi của người Peru hay sao?

Tôi còn chưa kịp hiểu ra tại sao, lại có thêm rất nhiều chai lọ cốc chén đua nhau bay tới. Người trong quán rượu đột nhiên giống như đã phát điên, vớ lấy ghế đẩu tròn, bàn rượu rồi đập thẳng tay, hoàn toàn không cần biết đối phương là ai. Tần bốn mắt đứng ở cửa ra vào, hét to: “Hai người mau chạy ra, người ở bên trong đang kéo bè kéo lũ đánh nhau “

Thấy tôi bị thương, Tuyền béo không nói năng câu gì, túm cổ áo lôi tuột tôi ra bên ngoài. Tôi vừa định nói, “các vị anh em tôi có làm gì đâu, tôi chỉ định chọn một chai rượu trong góc thôi mà”, có ngờ đâu, trước mắt chợt tối sầm. Không hiểu một người có hình thể cao to từ đây lao tới, đè tôi ngã bẹp dí xuống đất. Cú đè đó rất nặng, tôi chợt cảm thấy không khí trong phổi mình bị người ta ép hết ra ngoài, khỏi cần phải nói khó chịu đến mức độ nào. Tuyền béo đứng bên cạnh cố dấu nụ cười tí tởn, hoàn toàn bọc lộ bản chất bạn xấu. Tôi vung tay lên, định nện cho kẻ đang đè trên người mình một cú. Nhưng vừa nhìn lại, người đó hóa ra lại là phụ nữ, đã ngất lịm từ bao giờ.

Chúng tôi vừa mới vào quán rượu, không may dính vào trận ẩu đả của đám ma men địa phương. Tôi chẳng những là người vô tội bị liên quan, vỡ đầu chảy máu, mà thiếu chút nữa còn bị một thiếu nữ Anh Điêng có hình thể cao lớn đè chết. Thật đúng là ra quân chưa thắng thân đà thác, mãi khiến anh hùng lệ xót xa (2)! Chẳng trách Tuyền béo lại khoanh tay đứng bên cạnh cười trên nỗi đau khổ của người khác, mà chẳng thèm ra tay viện trợ cho tôi. Hơn nữa còn thừa biết tôi không bao giờ đánh phụ nữ, cho nên mới chờ để xem tôi biến thành thẳng hề. Tôi đẩy cô thiếu nữ đã ngất lịm ra, bảo Tuyền béo: “Trước kia cậu đâu có như thế. Chàng béo trượng nghĩa trước kia đã đi đâu mất rồi. Chẳng lẽ sinh sống ở một nước tư bản chủ nghĩa lâu rồi, ngay cả vị chiến hữu thân thiết nhất của tôi, đồng chí Vương Khải Tuyền cũng bị biến chất rồi hay sao?”

(2) Đây là hai câu cuối trong bài thơ “Thừa tướng nước Thục” do Đỗ Phủ viết khi ông đến viếng đền thờ Gia Cát Lượng.

七言律詩

杜甫

蜀相

丞相祠堂何處尋? 錦官城外柏森森,

映階碧草自春色, 隔葉黃鸝空好音。

三顧頻煩天下計, 兩朝開濟老臣心。

出師未捷身先死, 長使英雄淚滿襟。

Hán Việt:

Thục Tướng

Thục tướng từ đường hà xứ tầm

Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm

Ánh giai bích thảo tự xuân sắc

Cách diệp hoàng ly không hảo âm

Tam cố tần phiền thiên hạ kế

Lưỡng triều khai tế lão thần tâm

Xuất sư vi tiệp thân tiên tử

Trường sử anh hùng lệ mãn khâm

Dịch Nghĩa

Tìm ở nơi nào thấy đền thờ của thừa tướng?

Chính là ở ngoài thành Cẩm Quan,

nơi có hàng cây bách um tùm

Soi sáng thềm, cỏ xanh vẫn có màu vẻ xuân;

Bên kia lá cây, chim oanh vàng vẫn cất tiếng hót hay

Lưu Huyền Ðức ba lần đến thăm làm cho ngài phải bận tâm với kế sách bình định thiên hạ Ngài đã có công mở nước và giúp rập hai triều, hết lòng bậc lão thần.

Ngài đem quân đi đánh Ngụy chưa thắng trận mà thân đã thác;

Việc này mãi mãi khiến cho các bậc anh hùng lệ rơi đầy vạc áo

–Bản dịch của Trần Trọng San–

Thừa tướng nước Thục

Biết đâu tìm đến đền Thục tướng

Phía ngoài thành Cẩm bách rườm rà

Soi thềm cỏ biếc luôn tươi thắm

Bên lá oanh vàng vẫn hát ca

Ba lượt ân cần ơn chúa nặng

Hai triều giúp rập bụng tôi già

Ra quân chưa thắng thân đà thác

Mãi khiến anh hùng lệ xót xa.

Tuy nhiên, Tuyền béo đâu có kịp đấu võ mồm với tôi. Chẳng hiểu tại sao, đám ma men trong quán rượu nhìn thấy Tuyền béo cứ như bò tót nhìn thấy quần đùi đỏ, nổi điên lao thẳng tới cậu ta. Đám đàn ông da đỏ đeo giày mũi nhọn giày đồng loạt gào lên gì đó mà chúng tôi không hiểu, nhảy nhót loi choi như đám khỉ, không ngừng ném chai, cốc đựng rượu về phía chúng tôi. Bởi vì không hiểu bọn chúng đang hò hét cái gì, lại bị mấy cái chai rượu đập trúng bờ mông, đến lúc này Tuyền béo đã hoàn toàn phát khùng. Cậu ta vớ lấy cái bàn tròn gần đó, nện thẳng cánh tới bọn người đang dần quây kín chúng tôi. Tôi sợ cô thiếu nữ Anh Điêng bị ngộ thương, vừa thầm nghĩ bụng, một cô thiếu nữ không có việc gì làm hay sao mà lại xuất đầu lộ diện ở một nơi như thế này, vừa đỡ cô dậy.

Lúc này Tần bốn mắt đã vọt vào trong đám đông, vẫy tay rối rít, gọi tôi: “Lão Hồ, chạy mau. Người bọn chúng muốn bắt chính là cô gái này!”

Nghe xong, Tuyền béo kích động còn hơn cả tôi lúc nãy, thiếu chút nữa là nhảy dựng lên: “ĐM, cái đám khỉ da đỏ này có còn biết xấu hổ hay không? Một đám đàn ông bắt nạt một cô gái nhỏ. Có chuyện mẹ gì đang xảy ra thế này. Lão Hồ, cậu đỡ cô ta một chút, cái đám loi choi này cứ giao cho tớ xử lý.”

Tôi đá văng một tên đội nón lá xông về phía mình, giao cô thiếu nữ vào tay Tần bốn mắt, giục anh ta và Ma Cô Trẻ mang người chạy trước, sau đó quay lại bảo với Tuyền béo: “Đừng có khùng nữa! Toan tính nhỏ nhặt của cậu, tớ còn lạ gì nữa. Thực ra là do mông bị đập trúng vài cú, trong lòng không nhịn nổi, muốn trả đũa một chút. Tớ hiểu mà, không có việc gì. Nào, hai anh em chúng ta cùng xông lên.” Nói xong, tôi và Tuyền béo rống lên một tiếng hào hùng vang vọng cả đất trời. Đám người Anh-điêng có mặt ở đó đều bị tiếng hét của chúng tôi làm chấn động đờ người ra, lập tức không dám hành động thiếu suy nghĩ. Tôi thấy vừa đúng lúc, hét to một tiếng:

“Chạy!”

Tôi hét xong, hai thằng vung chân đá văng, gạt ngã một loạt ma men, cướp đường mà chạy.

Tục ngữ nói rất chính xác, cường long khó áp địa đầu xà, huống chi bọn chúng lại còn là rắn chuột một ổ, chúng tôi sính anh hùng ở lại có khác gì tự tìm đường chết. Làm anh hùng, thỉnh thoảng thực hiện thì còn được, nhưng biến hành động đó thành thường xuyên thì không khôn ngoan một chút nào. Chúng tôi vừa ra khỏi quán rượu, lập tức bị nắng chiều làm cho lóa mắt mất một thoáng. Ngay sau đó, phía sau chợt vang lên vài tiếng súng đinh tai. Tôi nhận thấy tình hình bất ổn, đám người kia làm lớn chuyện thật rồi, không dám chần chừ lấy một giây, hận không thể dùng cả bốn tay chân mà chạy thoát thân. Đường xá trong thành cổ hết sức gập ghềnh và hẹp, phần vì phải cắm đầu chạy xuyên qua cả một biển người, phần vì chưa quen thuộc đường đi lối lại, chúng tôi bị đám người kia truy đuổi, nhô lên hụp xuống để tránh né chẳng khác gì chuột bị lùa trong hang cả.

Khi vừa chạy tới chỗ chân một bậc thang đá, một người đột nhiên nhô đầu ra từ một căn nhà bé xíu thấp lè tè ở bên đường. Tôi nhìn qua bên đó, một cái đầu trọc to đùng bóng lưỡng, chẳng phải là Đầu Trọc đi tìm người dẫn đường lúc trước thì còn ai vào đây nữa.

Toàn thân Đầu Trọc bê bết máu, hai mắt đỏ sọng. Chúng tôi chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, lão cũng chẳng có thời gian mà giải thích. Vừa nhìn thấy đám người truy đuổi phía sau chúng tôi, lão cầm theo “chó lửa” nhảy vọt ra khỏi cửa sổ, “đoàng đoàng” bắn xuống đất hai phát. Nhìn thấy dáng vẻ hung thần ác sát của lão, đám người kia đồng loạt dừng lại. Đúng lúc này, phía sau vang lên tiếng huýt sáo, chúng tôi quay đầu lại nhìn. Ma Cô Trẻ chẳng hiểu kiếm được ở đâu một chiếc xe Jeep, đang rồ máy ở chân cầu thang chờ chúng tôi.

Đầu Trọc móc từ trong ngực áo ra một khẩu súng rồi ném cho tôi. Tôi bắt lấy xem xét, thầm than của hiếm, khẩu súng ngắn Walter do Đức sản xuất, bán tự động 9 li. Đây chính là của báu mà ở trong nước tuyệt đối không có khả năng kiếm ra được.

“Lão Hồ, đừng ngây ra đó, mau yểm hộ bọn tớ rút lui!” Tuyền béo vừa đánh nhau với tên Anh-điêng cầm đầu, vừa gọi tôi cứu giúp. Tôi và Đầu Trọc, một trái một phải yểm trợ Tuyền béo, vừa lùi vừa nổ súng về phía đám truy binh. Ma Cô Trẻ ngồi trên xe chờ đã không còn kiên nhẫn được nữa. Lúc nãy, trong quán rượu, y mải cãi nhau với Tần bốn mắt, không có cơ hội để thể hiện bản lĩnh. Đến giờ, thấy chúng tôi lùi lại với tốc độ quá chậm, y nhấn lút chân ga, lái xe lao vụt về phía chúng tôi. Chiếc Jeep bị y lái húc thẳng vào bậc thang đá, thiếu chút nữa là vỡ ra thành từng mảnh, rất may là chúng tôi đã kịp thời nhảy vọt lên. Ba chúng tôi chẳng kịp dùng tay mà trèo lên, ưỡn người nhảy luôn lên băng ghế sau của chiếc xe Jeep. Đầu Trọc lộn người nhảy vào, đầu đập thẳng vào thành xe, đau đến mức chảy cả nước mắt. Nhưng vì sĩ diện, lão nhất quyết không chịu kêu lấy một tiếng. Ma Cô Trẻ xoay mạnh vô lăng một cái, chúng tôi lập tức phi vọt từ bậc thang xuống, chạy vào một con đường lớn. Đám truy binh phía sau hiển nhiên không chịu buông tha, vừa bám riết phía sau chúng ta vừa nổ súng. Tuy nhiên, đùi người vĩnh viễn không thể đua được với bốn bánh, chúng nhanh chóng bị chúng tôi cắt đuôi.

“Tiếp tục chạy đi, Kuester không thể ở lâu. Giờ chúng ta đi thẳng tới thôn Titamar luôn, đến chỗ đó tìm thổ dân dẫn đường vào rừng.” Đầu Trọc vuốt máu trên mặt, sau đó bảo với chúng tôi: “Ông Alla Bula bị sát hại rồi, chúng ta đã đến chậm một bước. Còn đây chính là con gái của ông ấy, tên Dollier.”

Đến lúc này tôi mới nhận ra, trên hàng ghế sau của xe Jeep có một người cuộn tròn lại, đang run rẩy toàn thân, chính là cô gái Anh Điêng hậu đậu vừa rồi thiếu chút nữa đã đè chết tôi trong quán rượu. Đầu Trọc thở phì một hơi ra đằng mũi, siết chặt tay thành nắm đấm, nói: “Chúng ta đã lạc đường ở khu vực thành cổ, thành ra trễ mất một ít thời gian. Con mẹ nó, chỉ chậm có một bước! Khi tôi tới nơi, Alla Bula đã bị kẻ khác cắt đứt cổ rồi, có mấy người dân bản xứ đang định nhẫn tâm xuống tay với Dollier. Tôi nổ súng bắn chết một kẻ, rồi bảo Dollier chạy tới quán rượu cầu cứu, không ngờ lại bị một tên người châu Á đột ngột tấn công từ phía sau”. Đầu Trọc chỉ vào vết thương be bét máu ở trên đầu mình, nói: “Tên kia vừa đen vừa vạm vỡ, tôi đoán hắn chính là tên Trâu Mộng mà Tưởng Bình đã nói, là kẻ phụ tá đắc lực cho Cây Sào trong chuyến đi này.”

Tôi cứ tưởng đội ngũ của Cây Sào đã tiến vào rừng Amazon trước chúng tôi một bước, nhưng xem ra bọn chúng vẫn chưa thể tìm được người dẫn đường thích hợp. Do đe dọa lẫn dụ dỗ không thành công nên chúng thẳng tay giết người diệt khẩu, định sát hại toàn bộ người nhà Alla Bula. Về phần thiếu nữ người Anh Điêng tên Dollier kia, mặc dù có vẻ cao lớn, nhưng nhìn kỹ lại thì chỉ mới tầm mười tám mười chín tuổi. Một cô thiếu nữ còn ít tuổi như vậy, trong tình huống phải đối mặt với một đám côn đồ xông vào nhà mình mà vẫn còn có thể bình tĩnh chạy đi cầu cứu, thật sự là đáng quý. Mặc dù vậy, cô đột ngột phải hứng chịu nỗi đau mất đi người thân, giờ phút này đã trở nên ngây dại, co rúm người lại một góc, không chịu nói chuyện với bất cứ người nào trong số chúng tôi. Chúng tôi rặt một đám đám đực rựa, chẳng biết phải an ủi cô như thế nào. Cuối cùng vẫn là Tần bốn mắt tính toán chu toàn. Anh ta nói, tới thôn trấn kế tiếp thì đi tìm bệnh viện để đưa cô Dollier tới đó. Một là, để xem cô có bị thương hay không; Hai là, nếu nhân viên y tế nhìn thấy cô bê bết máu khắp người tất nhiên sẽ đi báo cảnh sát; Ba là, bệnh viện dù sao cũng là nơi mang đặc tính công cộng, nếu đám truy binh có đuổi kịp thì cũng không dám xông bừa vào trong đó để hành hung. Huống chi, hành tung của chúng tôi đã bị lộ, bọn chúng tất yếu sẽ truy đuổi ráo riết. Một thiếu nữ vẫn còn ngây dại chưa hoàn hồn như cô, nếu đi theo chúng tôi thì sẽ rất nguy hiểm.

Ma Cô Trẻ lái xe, lắc đầu nói chen vào: “Lần này chúng ta đã gây ra họa lớn rồi, không chỉ đám Cây Sào, ngay cả cảnh sát địa phương cũng sẽ tìm chúng ta gây phiền phức.”

Tôi bảo, ẩu đả trong quán rượu không được coi là tội quá nặng. Đến khi chúng ta vào trong rừng rồi, cảnh sát chắc gì đã dám xông vào đó truy đuổi. Tần bốn mắt cười gượng gạo, chỉ vào Ma Cô Trẻ, nói: “Cậu cả này đã tấn công cảnh sát tuần tra, chiếc xe chúng ta đang ngồi được cướp từ tay của họ.”

Nghe nói vậy, tôi vội vàng cúi đầu xuống nhìn thân xe, quả nhiên trên đó vẽ quốc huy ba màu của Peru. Tôi lập hối hận muốn chết quách cho rồi. Xuất ngoại một chuyến, Shirley Dương thì chẳng gặp mấy lần, lại còn bị cảnh sát Mỹ truy nã, đến giờ còn cướp cả xe cảnh sát Peru. Sau này còn mặt mũi nào để về gặp mặt hương thân phụ lão chốn quê nhà. Nếu ông cụ nhà tôi có hỏi: Bát Nhất, con mang được những món đặc sản địa phương gì về tặng cho hàng xóm láng giềng thế? Chắc tôi phải trả lời thế này mất, Ha ha… Bố, đặc sản không có, nhưng lệnh truy nã thì có một đám; Hơn nữa, văn tự của nước nào cũng có. Con mẹ nó chứ, thà rằng tự mình cắt cổ chết ngay tại đây cho rảnh nợ.

Tôi và Tuyền béo đua nhau mắng Ma Cô Trẻ xối xả một chặp. Chiếc xe Jeep lao vun vút suốt cả ngày lẫn đêm. Cuối cùng, trước khi hết sạch xăng, chúng tôi đã tới được một trấn nhỏ ở gần thôn Titamar. Chúng ta đưa cô thiếu nữ Dollier vẫn chưa hoàn hồn lại tới bệnh viện địa phương, may mắn là vừa khéo có có mấy vị nữ tu sĩ đang truyền giáo tại bệnh viện. Chúng tôi giao cô Dollier cho họ nhờ chăm sóc, để lại một ít tiền hương hoa, rồi mới rời khỏi cái thị trấn nhỏ có được nét hiện đại văn minh cuối cùng ở nơi đây, cuốc bộ về phía thôn Titamar, một thôn xóm của thổ dân chỉ cách rừng Amazon có 1,5 km.

Càng đến gần thôn Titamar, thảm thực vật biến đổi càng rõ nét. Chúng tôi đã đi vào vùng khí hậu mưa rừng nhiệt đới ở cận đông Peru. Nơi đây thuộc về thượng lưu sông Amazon, là khu vực đồi núi trung du xen lẫn đồng bằng phù sa, quanh năm nhiệt độ cao mưa nhiều, rừng rậm ngút ngàn, hoang vắng. Thôn Titamar mà Đầu Trọc đã nói, chính là trạm tiếp tế cuối cùng có dấu vết hoạt động của con người trước khi chúng tôi đi vào rừng Amazon.

Trước khi vào thôn, Đầu Trọc còn cho chúng tôi một cú phủ đầu choáng váng. Lão bảo, thổ dân nơi này rất hiếm khi gặp người lạ. Lúc trước, lão cũng chỉ mới bắt chuyện với họ có vài lần khi cùng với đội thám hiểm do ông chủ mình tổ chức đi ngang qua đây. Bởi vậy, chúng ta phải kìm chế mà làm việc, không thể quấy nhiễu cuộc sống của dân bản xứ. Nếu có thể tìm được thổ dân đồng ý dẫn chúng ta vào trong rừng nhiệt đới thì là tốt nhất; Nếu như không thể, vậy thì đành phải dựa vào bản lĩnh của chính mình mà lần mò trong rừng. Trình độ nói tiếng Quechua của Đầu Trọc so với trình độ nói tiếng Anh của tôi chẳng hơn kém nhau là bao. Lần này không có ông lão Alla Bula kia đi theo làm phiên dịch, sợ rằng tiến độ chuyến đi của chúng tôi sẽ sụt giảm rất nhiều. Dựa theo kế hoạch ban đầu, máy bay thả dù vật tư của nhà họ Vương mãi sáng ngày thứ hai mới có thể đến nơi, cho nên chúng tôi buộc phải qua đêm ở trong thôn. Nếu như không thể thiết lập quan hệ thân thiện với thổ dân, chúng tôi sẽ buộc phải ngủ ngay trên mặt đất đầy rắn rết bên cạnh khu rừng nhiệt đới. Để tránh cho tình huống xấu này phát sinh, chúng tôi đồng loạt trưng ra nụ cười thân thiện nhất rồi bước chân vào bộ lực nguyên thủy trong truyền thuyết này.

Khi vào trong thôn Titamar, tôi mới hiểu tại sao Đầu Trọc lại gọi họ là thổ dân nguyên thủy. Quần áo những người ở đây mặc giống hệt như của người tiền sử mà chúng ta nhìn thấy trong viện bảo tàng. Chẳng cần biết là nam nữ hay già trẻ, trên người nào cũng chỉ mặc độc một chiếc khố nhỏ được bện bằng rễ cây. Da họ màu đỏ, toàn thân kín mít hình xăm. Nhìn thấy chúng tôi đi vào thôn, toàn bộ đều tỏ vẻ sợ hãi, nháo nhác chạy trốn về phía chiếc lều lớn nhất nằm ở trung tâm của thôn. Để khoe khoang kiến thức đã học được trong sách khi còn ngồi ghế đại học, Ma Cô Trẻ hết sức vênh váo chỉ vào chếc lều được dựng bằng gỗ và cỏ khô đó, nói: “Các vị nhìn đi, trên đỉnh lều treo cờ bện bằng lông lạc đà. Đó là tiêu chí của Tộc trưởng thổ dân.”

Tuyền béo bảo cậu nói nhảm nhí vừa thôi, nếu đó không phải là lều của ông chủ lớn của mình, họ chạy đến chỗ đó làm cái chết mẹ gì! Nếu tinh ý thì chỉ cần liếc mắt nhìn là có thể nhận ra được, cậu ở đó mà ồn ào ra vẻ ta đây làm cái gì. Tôi sợ hai người họ lại gây lộn, làm đám thổ dân xung quanh hoảng sợ, bèn hỏi bừa Đầu Trọc vài câu về phong tục, tục lệ của bộ lạc này để chuyển hướng chủ đề. Mấy người còn lại mới là lần đầu tiên được tiếp xúc với thổ dân Amazon với khoảng cách gần như vậy, cho nên lập tức không gây ồn ào nữa. Chúng tôi vừa đi về phía chiếc lều lớn, vừa chăm chú nghe Đầu Trọc giảng giải.

Đầu Trọc là người trầm tĩnh nhất, kín kẽ nhất trong số mấy người chúng tôi, có lẽ là bởi có liên quan đến việc lão quanh năm làm công việc hộ vệ. Mặc dù bề ngoài cực kỳ cao to, thô kệch, nhưng cung cách hành xử lại đặc biệt thận trọng. Lão thấy mấy người chúng tôi đều đang đợi mình kể chuyện, gương mặt thoáng đỏ bừng lên trông thấy. Lão sờ lên lớp băng trên đầu, nói: “Thực ra tôi cũng không biết rõ lắm. Chỉ biết là lần trước khi cùng với ông chủ Vương đến đây, tôi đã được nhìn thấy tên độc của họ. Loại tên thổi bằng ống này hết sức kinh khủng, tôi đã tận mắt nhìn thấy dũng sĩ của họ dùng một mũi tên giết chết báo rừng.”

Tôi lập tức vỗ tay, khen Đầu Trọc chẳng những thân thủ nhanh nhẹn, học thức cũng hết sức uyên bác, không hổ là nhân vật cứng cựa được tôi luyện trong thực chiến. Đầu Trọc tỏ vẻ xấu hổ, khiêm tốn bảo rằng những điều đó không đáng là cái gì. Đang đi, Ma Cô Trẻ dẫn đầu đoàn đột nhiên đứng khựng lại. Tuyền béo đập cho y một cái, nói thằng nhóc nhà cậu lại phạm phải tật xấu gì nữa đây. Không ngờ, lần này là lần đầu tiên Ma Cô Trẻ không hề tranh cãi với cậu ta, hơn nữa còn giơ hai tay lên quá đầu. Chúng tôi vượt lên trước xem sao thì thấy ngay một đám đàn ông vẽ kín hoa văn màu đen trên cơ thể, đang đứng đầy xung quanh chiếc lều lớn. Trên đầu họ cắm những chiếc lông vũ nhiều màu sắc, tay mỗi người đều cầm một chiếc ống nho nhỏ tương tự như ống đựng bút của học sinh, toàn bộ miệng ống đều chĩa thẳng về phía chúng tôi.

Chúng tôi không dám chần chừ lấy một giây, mấy người lập tức học theo Ma Cô Trẻ ngoan ngoãn giơ hai tay lên.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN