Tình Dục Thuở Hồng Hoang - Chú Thích
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
419


Tình Dục Thuở Hồng Hoang


Chú Thích


Một hormone có tác dụng trên dây thần kinh giao cảm. (DG)

Nhân vật thủy thủ trong bộ truyện tranh của nhà văn E. C. Segar. (DG)

Diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Mỹ, từng đoạt giải Oscar. (DG)

Câu thành ngữ tiếng Anh, chỉ một rắc rối nào đó rất khó dứt bỏ. (DG)

Ba hãng tin lớn của nước Mỹ. (DG)

Hệ thống bao gồm 39 nhà hát chuyên nghiệp (500 ghế trở lên) ở Manhattan, New York. Năm 2007-2008, Broadway bán được gần 1 tỉ đô-la tiền vé. (DG)

Người mắc phải hội chứng này có cách hành xử rất trẻ con trong nhiều tình huống của cuộc sống. (DG)

Một thuật ngữ Marketing thường được sử dụng trong các nhà hàng. Vào Happy Hours (thường là từ 4 giờ chiều tới 7 giờ tối nhưng có thể thay đổi tùy từng nhà hàng), đồ uống sẽ được khuyến mại hoặc miễn phí để khuyến khích khách hàng tới nhà hàng. (DG)

Tên đầy đủ của cuốn sách là On the Origin of Species by Means of Natural Selection, or the Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life. Tên bản dịch tiếng Việt là Nguồn gốc các loài, NXB Tri thức, 2009, Trần Bá Tín dịch. (BTV)

Tất nhiên, không phải ai cũng nghĩ như vậy. Khi người em Eramus của Darwin mới đọc cuốn sách này, ông thấy lập luận của Charles thuyết phục đến mức ông không hề cảm thấy khó chịu với việc thiếu bằng chứng, và viết rằng: “Cảm giác của tôi là nếu thực tế không khớp với cuốn sách thì tại sao lại phải quan tâm đến chúng cơ chứ.” Để có cái nhìn tổng quát (nhưng dễ hiểu với người đọc) về việc chủ nghĩa Victoria của Darwin đã ảnh hưởng đến khoa học của ông và sau đó thế nào, hãy xem Hrdy (1996). (TG)

Nguyên văn: The Naked Ape. Bản dịch tiếng Việt là Vượn trần trụi, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2010, Vương Ngân Hà dịch. (BTV)

Những mối quan hệ như vậy chắc hẳn đã tồn tại bên cạnh các kỹ thuật củng cố bản sắc nhóm, trong đó có việc tham gia vào các nghi lễ gắn kết với nhóm vẫn còn phổ biến ở các tôn giáo có pháp sư, đặc trưng của dân hái lượm. Điều thú vị là những nghi lễ khẳng định bản sắc tập thể như vậy lại thường đi cùng với âm nhạc (vốn, giống như cực khoái, sản sinh ra oxytocin, loại hormone gắn bó chặt chẽ nhất với việc tạo nên các mối quan hệ tình cảm). Xem Levitin (2009) để hiểu thêm về âm nhạc và bản sắc giao tiếp.

Đực-cái hoặc Đực-cái, cái, cái… (DG)

Nhà nhân loại học James Woodburn (1981, 1998) chia xã hội hái lượm thành hai hệ thống: lập-tức-trao-đổi (đơn giản) và trì-hoãn-trao-đổi (phức tạp). Ở dạng đầu, thức ăn được tiêu thụ luôn trong hôm kiếm được, không xử lý cầu kỳ hay tích trữ. Nếu không có ghi chú ngược lại tức là chúng ta đang nói đến xã hội kiểu này.

Được cho là thời kỳ Mặt trời đi vào cung Bảo Bình. Bảo Bình ngày nay được gắn liền với “nhân bản” (humanity), với khoa học, kỹ thuật, với điện từ, với xã hội liên kết toàn cầu. (BTV)

Còn được gọi là Magna Carta Libertatum (“Đại Hiến chương về những quyền tự do”), là một văn kiện thời Trung cổ, được vua John của Anh chuẩn thuận ở Runnymede, gần Windsor vào 15/06/1215. Hiến chương cam kết bảo vệ quyền lợi của giáo hội, bảo vệ các quý tộc không bị bắt giam bất hợp pháp, được tiếp cận nhanh chóng với công lý và hạn chế các nghĩa vụ đóng góp cho hoàng gia. Năm 1297, Đại Hiến chương được thừa nhận là một phần của pháp luật thành văn tại Anh. (BTV)

Taylor (1996), tr. 142-3.

Hay nhà thờ cổ Alamo. Năm 1835, một nhóm nổi dậy ở Texas đã bao vây nhà thờ cổ này, một vị trí phòng thủ đặc biệt tại San Antonio, Texas. Cuối năm đó, lính Mexico tại đây thua cuộc và chạy về phía Nam, để mặc nó rơi vào tay quân nổi dậy. Sự kiện này đã dẫn đến một trong những trận chiến quả cảm nhất lịch sử nước Mỹ. Cuộc chiến xảy ra vào tháng 2, tháng 3 năm 1836 là câu chuyện của lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm phi thường. Đây là nguồn gốc của câu: “Remember Alamo” (Hãy tưởng nhớ Alamo). (BTV)

Lời giải thích này là của Todorov (1984), nhưng kiến giải của Todorov về những sự kiện này không được chấp thuận rộng rãi. Xem http://www.yucatantoday.com/culture/esp-yucatan-name.htm làm ví dụ, để khảo sát các từ nguyên khác (bằng tiếng Tây Ban Nha).

Trò chơi phụ nữ mặc bikini vật nhau trong một cái bồn chứa thạch, chủ yếu để vui và kích thích tính dục. (BTV)

Bài hát của Beatles là “Hey Jude”. Ở đây tác giả có ý nói rằng người nghe đã nhầm là “Hey Dude”, nghĩa là “anh chàng đẹp mã”! (BTV)

Nguyên văn: saliva beer, tức chicha, một loại đồ uống lên men truyền thống của vùng Andes, Nam Mỹ. Trong một số nền văn hóa, thay vì ngô nảy mầm, họ dùng bột ngô, ngô đặt ở dưới đất, được làm ẩm bằng miệng của người làm chicha và tạo hình thành các quả bóng nhỏ, sau đó được làm dẹt và làm khô. Các enzyme tự nhiên trong nước bọt của người làm chicha là chất xúc tác giúp phân hủy tinh bột ngô thành đường mantoza. (BTV)

Tác giả chơi chữ: cricket vừa là trò bóng ném vừa có nghĩa là con dế. (DG)

Từ Cẩm nang Thủ tục Phân tích Tổng quan – Phương pháp Gia vị. Xem trực tuyến tại: http://www.fda.gov/Food/ScienceResearch/ LaboratoryMethods/MacroanalyticalProceduresManualMPM/ucm084394.htm.

Món đặc sản nổi tiếng nhất ở Scotland, vừa cay vừa ngậy, chế biến từ nội tạng cừu non, nhồi gia vị và rau thơm vào dạ dày cừu. (DG)

Joseph John Campbell (1904-1987): nhà thần thoại học, nhà văn người Mỹ. Ông nổi tiếng nhất với công việc nghiên cứu và giảng dạy về thần thoại học so sánh và so sánh tôn giáo. (BTV)

Từ Daedalus, Spring, 2007. Để biết thêm quan điểm độc đáo về đa dạng tình dục trong thiên nhiên, xin hãy xem Roughgarden (2004). Để biết thêm về tình dục đồng tính trong thế giới động vật, xin hãy xem Bagemihl (1999).

Amy Alkon (sinh năm 1964), còn được gọi là Nữ thần Tư vấn, viết một cột tư vấn hằng tuần được in trong hơn 100 tờ báo tại Bắc Mỹ. (DG)

Pinker (2002), tr. 253.

Trích trong Richards (1979), tr. 1244.

Erasmus Darwin (1731-1802): bác sĩ, nhà triết học tự nhiên, nhà sinh lý học, nhà phát minh, nhà thơ người Anh. (DG)

Viết trong Scientific American Online (02/2015, tr.30) nhà lịch sử khoa học Londa Schiebinger giải thích: “Erasmus Darwin không giới hạn quan hệ tình dục ở mối quan hệ gia đình thần thánh. Trong cuốn Tình yêu Cây cỏ (1789), cây cối của Darwin tự do thể hiện từng dạng kết hợp khác giới có thể hình dung được. Thở dài cùng vẻ lo lắng ngọt ngào, nàng Collinsonia đẹp đẽ lần lượt thỏa mãn tình yêu của hai anh em. Nàng Meadia – một loại cây anh thảo hoa vàng bình thường – được cúi chào với “bầu không khí dâm ô”, vừa đảo đôi mắt đen và lắc mái tóc vàng óng vừa thỏa mãn từng người trong số năm chàng bạn trai… Darwin có thể đã tận dụng tốt lớp vỏ bọc thực vật để tuyên truyền cho thứ tình yêu tự do mà ông vẫn thực hiện sau cái chết của người vợ đầu”.

Xem Bowlby (1992).

Trong tiếng Anh, Mother nghĩa là Mẹ. (DG)

Từ Hrdy (1999b).

Raverat (1991).

Herman Melville (1819-1891): nhà văn tiểu luận nổi tiếng người Mỹ. (DG)

Desmond & Moore (1994), tr. 257.

Gia đình Flintstones chiếm một vị trí độc đáo trong lịch sử văn hóa nước Mỹ. Đây là loạt phim hoạt hình giờ vàng đầu tiên dành cho người lớn, loạt phim màu đầu tiên của ABC và là loạt phim hoạt hình giờ vàng đầu tiên kéo dài hơn hai mùa (không có đối thủ cho đến khi Gia đình Simpsons được công chiếu năm 1992) và là chương trình hoạt hình đầu tiên chiếu cảnh một nam một nữ lên giường cùng nhau.

Thomas Hobbes: nhà triết học người Anh.Các tác phẩm của ông đã thiết lập nền tảng cho triết học chính trị phương Tây. (BTV)

Jean-Jacques Rousseau: nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc. (BTV)

Thomas Malthus: nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế học người Anh. Ông là một trong những đại biểu của kinh tế học cổ điển, nổi tiếng với “thuyết nghèo khó tự nhiên”. (BTV)

Nguyên văn: science writer, chỉ người viết về các chủ đề khoa học nhưng không phải là khoa học gia thuộc chuyên ngành đó. (BTV)

Ridley (2006), tr. 35.

Herbert Spencer (1820-1903): triết gia, nhà lý thuyết chính trị tự do cổ điển, nhà lý thuyết xã hội học người Anh. Spencer đã phát triển một khái niệm toàn diện tiến hóa như là sự phát triển tiến bộ của thế giới tự nhiên, của các cơ thể sinh vật, trí tuệ và của xã hội văn hóa con người. (BTV)

Chẳng hạn, xem Steven Pinker xác nhận rằng xã hội loài người đã trở nên ngày càng bình yên hơn qua các thế hệ (được thảo luận chi tiết trong Chương 12)

Quần đảo Galapagos ở phía nam Thái Bình Dương. Charles Darwin đã ghé thăm quần đảo này trong một chuyến du lịch vòng quanh thế giới kéo dài 5 năm trên tàu Beagle. Đây là địa danh đầu tiên được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới. (DG)

Edward Osborne Wilson (10/06/1929): nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực sinh học xã hội, đa dạng sinh học, đảo địa sinh học, chuyên gia hàng đầu thế giới về loài kiến. Wilson được xem là “cha đẻ của sinh học xã hội” và “cha đẻ của đa dạng sinh học”. (BTV)

Hình ảnh người nộm được Steven Pinker truyền cho sức sống trong cuốn sách bestseller cùng tên của ông (The Blank Slate: The Modern Denial of Human Nature – Tấm bảng trắng: Sự Phủ nhận Hiện đại về Bản chất Loài người), rất lâu sau khi những hình ảnh khác nhiều sắc thái hơn được sử dụng.

Chẳng hạn, xem Thornhill và Palmer (2000).

Xem Lloyd (2005) để hiểu đầy đủ hơn về quan điểm này.

Lord Acton (1834-1902): nhà chính trị, nhà văn, nhà lịch sử Công giáo người Anh. (DG)

Chính là Giáo hoàng John (tiếng Latin: Joannse) XXI (1215-1277), tên thật là Peter Juliani. (BTV)

Chuyên luận về nền chuyên chế hai người>, Tạp chí The New York Times, 14/10/2001. Bạn có thể đọc bài luận này trên mạng tại địa chỉ: http:// www.english.ccsu.edu/barnetts/courses/vices/kipnis.htm.

Thành viên bồi thẩm đoàn đã đề nghị “phải làm thế” là Jon Hamm, có lẽ rất đáng nói là, lúc đó đang có một mối quan hệ lâu dài (mười năm) nhưng chưa kết hôn và đang đóng vai người quản lý mục quảng cáo người lớn Don Draper trong Người điên, trên kênh truyền hình AMC.

Để biết thêm về tình trạng gia đình và hôn nhân Mỹ ở tâm điểm của nó, hãy xem “Hy vọng nào cho hôn nhân của người Mỹ?” của Caitlin Flanagan trên Time (02/07/2009), xem trực tuyến tại: http://www.time.com/time/nation/article/0,8599,1908243,00.html.

Để biết thêm về cuộc đời và tư tưởng của Morgan, xin hãy xem Moses (2008).

Dixson (1998), tr. 37.

Nguyên văn: fire and brimstone. Từ này xuất phát từ Kinh Thánh, lần đầu tiên được dùng trong Sáng Thế ký, chỉ sự trừng phạt thành Sôđôm. Theo Kinh Thánh, hai thần sứ làm khách đến một ngôi nhà ở Sôđôm, dân làng kéo đến đòi giết các khách ngoại đến thành. Chủ nhà là Lot xin dâng hai người con gái còn trinh cho dân thành tùy ý sử dụng miễn sao bỏ qua cho hai vị khách, nhưng dân thành không chịu. Hai vị thần sứ bảo Lot đưa gia đình trốn đi, và thành Sôđôm bị hủy diệt trong mưa diêm sinh và lửa từ trời. (BTV)

Nhưng ai lại cho rằng tính háu ăn sẽ thỏa mãn ít hơn kẻ háu ăn khi được ăn?

Barkow và những người khác (1992), tr. 289.

Clark và Hatfield (1989).

Birkhead (2000), tr. 33.

Theo Henry Kissinger – đây chỉ là quan điểm thôi, không phải vấn đề riêng tư.

Chúng ta sẽ xem xét bản chất của cơn ghen tình dục một cách chi tiết ở Chương 9.

Caswell và nhiều tác giả (2008). Để có cái nhìn trái chiều đối với tầm quan trọng (hoặc không quan trọng) của sự tương đồng về mặt di truyền của chúng ta với tinh tinh lùn và tinh tinh, xem Taylor (2009).

Lời giải thích này là của de Waal và Laming, (1998).

Bảng dẫn theo de Waal (2005a) và Dixson (1998).

Nơi nghiên cứu tinh tinh ở Tanzania của Goodall và các cộng sự từ năm 1960.

Stanford (2001), tr. 116.

Xem: http://www.edge.org/3rd_ciilture/woods_hare09/woods_hare09_index.html.

Nguyên văn: Machiavellian alliances. Thuật ngữ Machiavellian xuất phát từ tên của chính trị gia, nhà triết học Niccolo Machiavelly, hàm ý chỉ những xảo thuật, biện pháp chính trị cần thiết để xây dựng và bảo vệ quyền lực. (BTV)

de Waal (2005), tr. 106.

Theroux (1989), tr. 195.

Stanford (2001), tr. 26.

McGrew và Feistner (1992), tr. 232.

Mosuo là một dân tộc thiểu số sống ở tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên ở Trung Quốc, gần biên giới Tây Tạng. Ở Mosuo, phụ nữ không kết hôn mà có thể quan hệ với tất cả những người đàn ông mình thích. Đây là nơi duy nhất duy trì chế độ mẫu hệ tại Trung Quốc. (DG)

Tộc người Minangkabau, sống ở Tây đảo Sumatra thuộc Indonesia theo chế độ mẫu hệ. (DG)

de Waal (2001b), tr. 47.

Thông tin trong bảng này được lấy từ nhiều nguồn; (Blount, 1990; Kano, 1980 và 1992; de Waal và Lanting, 1998; Savage-Rumbaugh và Wilkerson, 1978; de Waal, 2001a; de Waal, 2001b)

Với những độc giả muốn tìm hiểu sâu hơn việc chuyển đổi từ hái lượm sang canh tác xảy ra như thế nào và tại sao, hãy tham khảo Fagan (2004) và Quinn (1995).

Anderson được Atul Gawande trích dẫn trong “Hố địa ngục”, đăng trên tờ The New Yorker, 30/03/2009. Bài báo này rất đáng đọc vì nó điều tra xem biệt giam có phi nhân văn đến mức bị xem là tra tấn hay không. Gawande kết luận rõ ràng là có, ông viết: “Chỉ riêng việc tồn tại như một con người bình thường cũng đòi hỏi phải được tương tác với người khác.”

Jones và những người khác. (1992), tr. 123.

Dù có vẻ chỉ con người và tinh tinh lùn mới quan hệ tình dục trong suốt kỳ kinh, nhưng cả tinh tinh và một số loài cá heo cũng thích làm tình cho vui như con người chúng ta, chứ không chỉ là sinh sản.

Những tin đồn này xuất phát từ bài luận tuyệt vời của nhà sử học văn hóa Michael Ventura về nguồn gốc nhạc jazz và nhạc rock có tên gọi Hear That Long Snake Moan (tạm dịch: Hãy nghe con rắn dài than thở), trong Ventura (1986) [Michael Ventura, Shadow Dancing in the USA, Tarcher ấn hành, 1986

Beckerman và Valentine (2000), tr. 10.

Kim Hill được trích dẫn trong Hrdy (1998b), tr. 246-247.

Chẳng hạn, trong cộng đồng người Bari ở Columbia và Venezuela, các nhà nghiên cứu thấy rằng 80% trẻ em có ít nhất hai ông bố được cộng đồng thừa nhận đều sống sót đến tuổi trưởng thành, trong khi chỉ có 64% trẻ em có một ông bố chính thức làm được điều này. Hill và Hurtado cho biết trong số 227 trẻ em Aché làm mẫu, 70% chỉ có một ông bố được thừa nhận sống đến 10 tuổi, trong khi 85% có cả bố chính lẫn bố phụ đều làm được điều này. Trích dẫn này và những trích dẫn khác trong phần này lấy từ Beckerman và Valentine (2000).

Dẫn theo một bài viết của Sally Lehrman đăng trên trang AlterNet.org. Xem tại: http://www.alternet.org/story/13648/?page=entire.

Williams (1988), tr. 114.

Trích trong Littlewood (2003), tr. 146.

Lễ hội hằng năm của Hy Lạp cổ đại tôn vinh nữ thần Aphrodite Pandemos. (BTV)

Lễ hội rất lớn của người Athens cổ đại, tôn vinh thần Dionysus. (BTV)

Lễ hội hằng năm ở Athens và Ionia của Hy Lạp cổ đại. (BTV)

Một phái thờ thần Dionysus của La Mã cổ đại. (BTV)

Đến thời điểm này, những người phản đối sẽ nhảy lên nói rằng các tuyên bố nổi tiếng của Margaret Mead về những kẻ phóng đãng ở Thái Bình Dương đã bị Derek Freeman (1983) bóc mẽ. Nhưng việc Freeman bóc mẽ giờ cũng bị bóc mẽ, do vậy khiến cho các tuyên bố gốc của Mead bị, sao nhỉ, bóc lại. Hiram Caton và những người khác lập luận, khá thuyết phục, rằng việc Freeman không ngừng tấn công Mead chắc là do chứng rối loạn tâm lý thôi thúc, chứng này cũng dẫn tới một số cơn hoang tưởng mạnh đến mức ông bị các quan chức ngoại giao Úc buộc phải rời khỏi Sarawak. Đồng thuận trong cộng đồng nhân học là không biết những phát hiện của Mead sai lầm đến mức nào,nếu có. Freeman đưa ra khẳng định sau nhiều thập kỉ truyền bá Thiên Chúa giáo cho người Samoan, vì vậy không có gì ngạc nhiên nếu như những câu chuyện ông nghe được lại khác nhiều so với những gì được kể cho Mead trước đó nửa thế kỷ. Để đánh giá ngắn gọn, chúng tôi đề xuất đọc Monaghan (2006).

http://primatediaries.blogspot.com/2007/08/forbidden-love.html

Sulloway, 1998.

Để đánh giá các loài có vú khác có hành vi chia sẻ, xin hãy xem Ridley, 1996 và Stanford, 2001.

Mốt của thanh niên cuối những năm 1960 ủng hộ hòa bình và tình yêu, lấy hoa và ma túy làm biểu tượng.

Knight, c. (1991), tr. 210.

Mức độ giấu kín của thời điểm rụng trứng ở loài người không hề được giải thích rõ như nhiều chuyên gia tuyên bố. Có lý do tốt để tin rằng hệ thống khứu giác vẫn có khả năng phát hiện thời điểm rụng trứng ở phụ nữ và rằng những hệ thống như vậy đã bị hao mòn đi nhiều so với con người cổ xưa. Chẳng hạn, hãy xem Singh và Bronstad, (2001). Hơn nữa, có lý do để tin rằng phụ nữ quảng bá tình trạng sinh sản của mình qua những tín hiệu thị giác như trang sức và thay đổi sức hấp dẫn của khuôn mặt. Ví dụ, hãy xem Roberts và những người khác (2004).

Thị trấn nằm ở Serra Gaúcha của Rio Grande de Sul, Brazil.

Crocker và Crocker (2004), tr. 125-126.

Don Pollock có một nhận xét thú vị về khái niệm nhiều bố, ông viết: “Tôi vẫn luôn thấy quan niệm của người Kulina về việc có hơn một người đàn ông làm bố ‘sinh học’ của đứa trẻ sắp ra đời, trớ trêu thay, giống với thực tế di truyền: trong một nền dân số đồng nhất về mặt di truyền (hoặc gần như thế, sau nhiều thế hệ hôn nhân cận huyết), mỗi đứa trẻ có sự tương đồng gần gũi về mặt di truyền với tất cả những người đàn ông mà mẹ đứa bé có quan hệ tình dục – ngay cả với những người mà bà mẹ không dính dáng.”

Một quốc gia thuộc Tây Phi. Tộc người Dagara (Dagaaba) sống tập trung ở Burkina Faso và Ghana. (BTV)

Trích dẫn này lấy từ một cuộc phỏng vấn do Sarah van Gelder thực hiện. “Nhớ về mục đích của chúng ta: Phỏng vấn Malidoma Somé”. Xem tập quý san: In Context: A Quarterly of Humane Sustainable Culture (tạm dịch: In Context: quý san về nền văn hóa con người bền vững), tập 34, tr. 30 (1993). Nguồn trên mạng tại: http://www.context.org/ICLIB/IC34/ Some.htm.

Nguyên văn: allo-parenting, những người không phải là cha mẹ nhưng chăm sóc, nuôi dạy trẻ như cha mẹ. (DG)

Morris (1998), tr. 262.

Xem Sapolsky (2005).

Drucker (2004).

Ngay cả Jean-Jacques Rousseau, con người nổi tiếng của lý tưởng Lãng mạn Noble Savage, cũng sử dụng hình thức vứt bỏ trẻ em này. Năm 1785, Benjamin Franklin đến thăm bệnh viện nơi Rousseau gửi năm đứa con ngoài giá thú của mình và phát hiện tỉ lệ tử vong của trẻ em ở đây lên tới 85%. (Xem Jill Lepore, (Thức ăn trẻ em), 19/01/2009).

Tài liệu của Trivers được xem là văn bản nền tảng xác lập tầm quan trọng cho việc chu cấp (đầu tư) của nam giới là một trong những nhân tố quyết định trong chọn lọc tình dục ở phụ nữ. Tài liệu này rất đáng đọc, nếu bạn muốn hiểu biết sâu hơn về sự phát triển chung của tâm lý học tiến hoá.

Ghiglieri (1999), tr. 150.

Samuel Adolphus Cartwright (1793-1863): bác sĩ người Mỹ, hoạt động ở bang Mississippi và Louisiana. (BTV)

Nguyên văn: !Kung San, chỉ một tộc người sống ở Botswana và Angola. Cách viết “!K” trong “!Kung” để chỉ cách phát âm như tiếng mở một cái nút chai. (BTV)

Hai tác giả Crocker W. H. và Crocker I. G. (BTV)

The New Yorker, 16/04/2007.

Một bộ phim hài của Mỹ, ở đây chỉ kiểu gia đình pha trộn. (DG)

Một khu vực lớn chứa cát bán khô cằn đến khô cằn ở miền nam châu Phi. (BTV)

Vincent xứ Beauvais (1190-1264): tu sĩ dòng Đa Minh. (BTV)

Lấy ý từ bài hát Me and Julio Doion by the Schoolyard của ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ, Paul Simon. (DG)

Cả hai đều từ Townsend & Levy (1990).

Để hiểu thêm về mối liên hệ sâu sắc giữa các cấp độ bạo lực và tình dục của một xã hội, xin hãy xem Prescott (1975).

Marco Polo (1254-1324): Thương gia và nhà thám hiểm nổi tiếng, người Venezia (Ý). (BTV)

Namu (2004).

Để có cái nhìn toàn diện hơn về văn hóa Mosuo, hãy xem Vương quốc Nữ giới của PBS Frontline World, có tại www.pbs.org/frontlineworld/ rough/2005/07/qduction_to.html.

Cuốn sách được xuất bản năm 2002, trong khi sách của Goldberg ra đời trước đó gần một thập kỷ, nhưng toàn bộ công trình của Sanday về người Minangkabau – kể cả tài liệu mà Goldberg trích dẫn – đều có luận điểm ngược với Goldberg – một điểm chắc chắn là đáng đề cập.

Nguồn: http://www.eurekalert.org/pub_releases/2002-05/uop-imm050902.php.

Nguồn: www.eurekalert.org/pub_releases/2002-05/uop-imm050902. php.

Hầu hết các trích dẫn này đều lấy từ bài báo của David Smith xuất hiện trên tờ The Guardian, 18/09/2005. Nguồn mạng có tại đây: http:// www.guardian.co.uk/uk/2005/sep/18/usa.filmnews, hoặc bài phê bình của Stephen Holden trên tờ The New York Times, có tại đây: http://movies. nytimes.com/2005/06/24/movies/24peng.html?_r=2.

The San Diego Union-Tribune-. Studies suggest monogamy isn’t for the birds – or most creatures (tạm dịch: Những nghiên cứu cho thấy một vợ một chồng không dành cho chim chóc – hoặc hầu hết các sinh vật) của Scott LaFee, 04/09/2002.

Monogamy and the Prairie Vole (tạm dịch: Một vợ một chồng và chuột đồng thảo nguyên) Scientific American online, 02/2005, tr. 22-27.

Mọi việc trở nên rắc rối hơn một chút kể từ khi Insel nói điều đó. Gần đây hơn, Insel và những người khác cố gắng khám phá mối tương quan hormone liên quan với lòng chung thủy hoặc thiếu chung thủy ở chuột đồng thảo nguyên, chuột đồng núi và chuột đồng đồng cỏ. Theo bài báo trong số ra ngày 07/10/1993 của tờ Nature, Insel và nhóm của ông thấy rằng dường như vasopressin, một loại hormone tiết ra trong lúc giao phối, khởi động hành vi phòng thủ, bảo vệ tổ ở một số loài chuột đồng đực, nhưng loài khác thì không, dẫn tới tích lũy “gene độc quyền”. Năm 2008, Hasse Walum thuộc Viện Karolinska (Thụy Điển) thấy rằng dường như một biến thể trong gene RS 3334 có liên quan đến việc nam giới dễ dàng gắn kết về mặt cảm xúc với bạn tình thế nào. Điều thú vị nhất là dường như gene này cũng có đôi chút dính líu đến chứng tự kỷ. Tham khảo tài liệu của Walum: Proceedings of the National Academy of Sciences, (tạm dịch: Biên bản lưu của Viện Khoa học Quốc gia), DOI: 10.1073pnas.0803081105. Một bản tin tóm lược các phát hiện này tại đây: http://www.newscientist.com/ article/dn 1464 l-monogamy-gene-found-in-people.html.

Rất nổi tiếng trong bộ phim Heartburn của Nora Ephron.

Các nhà sử học gọi là Kinh Thánh tội lỗi hay Kinh Thánh ngoại tình, sai lầm này khiến các nhà in hoàng gia bị tước bằng và nộp phạt 300 bảng.

Rắc rối ở chỗ bộ tộc được biết đến với cái tên Đầu Dẹt lại không phải là họ, và đầu họ “dẹt”, giống như đầu người đặt bẫy, trong khi đầu các bộ tộc láng giềng lại có hình chóp trông rất kỳ lạ.

Jethá & Falcato 1991.

Để có cái nhìn tổng quan về nghiên cứu ghen tuông của Buss, xin hãy xem (2000). Để xem những nghiên cứu và bình luận phản bác tác phẩm của ông, xin hãy xem: Ryan và Jethá (2005), Harris và Christenfeld (1996) và DeSteno và Salovey (1996).

Nghiên cứu gốc sẵn có (miễn phí) tại www.epjournaJ.net – 2008. 6(4): tr. 667- 675.

Khoa học thực chứng không chỉ mang lại một trong số ít – nếu không phải là duy nhất – những cách nhìn đáng tin cậy đối với các hiện tượng méo mó văn hóa, và như vậy còn đóng vai trò quan trọng đến mức sống còn giúp chúng ta không thấy sợ hãi khi loại bỏ thành kiến văn hóa trong nghiên cứu.

Holmberg (1969), tr. 161.

Một bàn chơi bài poker chỉ có tối đa 9 người chơi. Ở đây có thể tác giả ý nói một người sẵn sàng không ghen khi vợ mình có đến 20 gã tình nhân thì cũng như chơi một bàn poker có đến 20 người, chắc không ai muốn ngồi chơi trong một ván bài như thế. (BTV)

Thể hiện niềm hạnh phúc, phấn khích cao độ. Đây là khẩu hiệu của các nhân vật trong phim hoạt hình nổi tiếng The Flintstone – được phát trên kênh ABC từ năm 1960 đến 1966.

Có lẽ ông đang đọc ấn bản thứ 6, xuất bản năm 1826.

Không phải ngẫu nhiên mà Darwin lại hiểu rõ về tư duy của Malthus. Harriet Martineau, một nhà ủng hộ nữ quyền thời kỳ đầu, một triết gia kinh tế và là một người công khai phản đối chế độ nô lệ, đã rất thân thiết với Malthus trước khi làm bạn với Erasmus, anh trai của Darwin, sau đó được ông này giới thiệu với Charles. Nếu Charles không “kinh ngạc nhận ra cô ta xấu tới cỡ nào” thì một số người, trong đó có cả Matt Ridley, đã nghĩ rằng tình bạn của họ rất có khả năng dẫn tới hôn nhân. Chắc chắn đây sẽ là một cuộc hôn nhân có ảnh hưởng lâu dài lên lối suy nghĩ người phương Tây đương thời (xem bài viết của Ridley, “Trật tự tự nhiên của vạn vật”, trên The Spectator, 07/01/2009).

Alfred Russel Wallace (1823-1913): nhà tự nhiên học, thám hiểm, địa lý, nhân học và sinh học người Anh. Ông nổi tiếng vì đã độc lập đề xuất thuyết tiến hóa nhờ sự chọn lọc tự nhiên, qua đó thúc đẩy Charles Darwin công bố lý thuyết của mình. (DG)

Cả Malthus và Darwin đều gặp thuận lợi khi có suy nghĩ giống với suy nghĩ của MacArthur và Wilson về sinh sản và chọn lọc r/K. Nói một cách ngắn gọn thì họ thừa nhận rằng một số loài (giống như nhiều loài côn trùng, gặm nhấm…) sinh sản nhanh chóng để lấp đầy những khoảng trống sinh thái. Chúng không kỳ vọng hầu hết con non sẽ sống đến lúc trưởng thành, chúng nhanh chóng tràn ngập môi trường (chọn lọc r). Các loài chọn lọc K có ít con non hơn và đầu tư nhiều vào từng con. Theo thuyết này, trong môi trường có trạng thái cân bằng, các loài như vậy nhìn chung đều đạt tới điểm cân bằng về dân số/nguồn thức ăn.

Ví dụ: “Trong khoảng 2 triệu năm tổ tiên chúng ta sống bằng cách săn bắn và hái lượm, dân số tăng từ khoảng 10.000 người nguyên thủy tới khoảng 4 triệu người hiện đại. Nếu, như chúng ta vẫn tin, mô hình tăng trưởng trong kỷ nguyên này tương đối ổn định thì dân số phải tăng bình quân gấp đôi sau mỗi 250.000 năm.” Kinh tế học Phi thường, Robin Hanson http://www.spectrum.ieee.org/jun08/6274.

Lilia (2007).

Bài luận của Smith trên mạng: http://realhumannature.com/ipage_id=26.

Hassan (1980).

Hầu hết các loài thuộc họ người khác trước đây phân tán từ châu Phi tới châu Á và châu Âu đều đã tuyệt chủng khi con người hiện đại lang thang ra khỏi châu Phi. Những loài đang sống, Neanderthal và (có thể) Người đứng thẳng, đều mang bất lợi rất lớn nếu như có cạnh tranh trong cùng giống loài – điều này chưa được làm rõ. Người ta có thể lập luận rằng sự hiện diện của người Neanderthal ở châu Âu và nhiều vùng ở Trung Á có thể đã dẫn tới việc cạnh tranh khu vực săn bắn, nhưng mức độ giao tiếp giữa tổ tiên chúng ta và người Neanderthal, nếu có, vẫn chưa được giải đáp. Thêm nữa, nếu có chồng lấn thì cũng chỉ là phần nào, bởi có vẻ như người Neanderthal là loài ăn thịt bậc cao, trong khi Homo sapiens lại là loài ăn tạp vô cùng (ví dụ, xem Richards vàTrinkaus, 2009).

Vấn đề con người lần đầu đặt chân đến châu Mỹ khi nào vẫn chưa được làm sáng tỏ. Các kết quả khảo cổ học gần đây ở Chile cho thấy con người định cư cách đây khoảng 35.000 năm đã mở ra câu hỏi về việc con người lần đầu đặt chân lên Tây bán cầu như thế nào và bao giờ. Ví dụ, hãy xem Dillehay và những người khác (2008).

Bản thân nông nghiệp có lẽ nên được xem như một phản ứng đối với việc bão hòa về mặt sinh thái do những ảnh hưởng tổng hợp của dân số dần tăng cao và biến đổi khí hậu khủng khiếp. Chẳng hạn, Nick Brooks, một nhà nghiên cứu thuộc Đại học Đông Anglia, lập luận rằng: “Về cơ bản, văn minh là một sản phẩm phụ tình cờ của việc thích nghi không định trước đối với biến đổi khí hậu thảm khốc.” Brooks và những người khác lập luận rằng chuyển sang nông nghiệp là phản ứng mang tính “biện pháp cuối cùng” đối với điều kiện khí hậu suy thoái. Để biết về cuộc tranh luận tổng quát đối với vấn đề biến đổi khí hậu đã mang lại nông nghiệp như thế nào, xin hãy xem Fagan (2004).

Thói ăn đất phổ biến ở nhiều cộng đồng trên thế giới – đặc biệt là ở phụ nữ có thai và đang cho con bú. Bên cạnh đó, nhiều thực phẩm độc có chứa alkaloid và acid tannic được nấu cùng đất sét có dính alkaloid. Đất sét có thể là một nguồn giàu sắt, đồng, magne và calci – tất cả đều quan trọng đối với thai phụ.

(08/05/2007).

http://moneyfeatures.blogs.money.cnn.eom/2009/04/30/millionaires-arent-sleeping-well-either/?section=money_topstories.

Xem Wolf và những người khác (1989) và Bruhn & Wolf (1979). Malcolm Gladwell (2008) cũng bàn về Roseto.

http://www.newyorker.com/online/blogs/books/2009/0-4/the-ex-change-david-plotz.html.

Để có phân tích chi tiết hơn về việc lý thuyết kinh tế hiện đại được (hoặc không được) tận dụng thế nào ở các cộng đồng phi nhà nước, xin hãy xem Henrich và những người khác (2005) và chương của Richard Lee có tiêu đề “Những phản ánh về chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy”, trong Ingold và những người khác (1988).

Richard Dawkins, Gene vị kỷ, NXB Tri Thức, 2011. (BTV)

Trong Thuyết tình cảm đạo đức, Smith viết: “Bất kể người ta nghĩ con người ích kỷ đến mức nào, rõ ràng trong bản chất của anh ta vẫn có một vài nguyên tắc, nó khiến anh ta quan tâm đến tài sản của người khác và tạo ra niềm hạnh phúc cần thiết cho anh ta, mặc dù anh ta chả nhận được gì từ đó cả, ngoại trừ niềm vui được nhìn thấy nó.”

Một nhóm chủng vi khuẩn thường sống trong ruột người và động vật. Hầu hết các chủng E. Coli là vô hại, nhưng một số chủng có thể gây bệnh nghiêm trọng. (BTV)

NYT 7/23/2002 Tại sao chúng ta lại dễ thương đến vậy: Chúng ta gắn bó để hợp tác. Xem Rilling và những người khác (2002).

Chúng tôi rút ra từ một phân tích tuyệt vời của Ian Angus đối với tài liệu của Appell, có thể xem tại http://links.org.au/node/595.

Giống loài chúng ta, tr. 344-5.

Harris, 1989. tr. 147.

van der Merwe (1992) tr. 372 (Ngoài ra xem Jared Diamond: Sai lầm tồi tệ nhất trong lịch sử loài người (có sẵn trên mạng).

Lejeaune (1897), trang 281-283.

Trích dẫn trong Menzel & D’Aluisio, tr. 178.

Những kẻ ăn thịt người và các vị vua, tr. X. Ngoài ra, xem Đơn thuốc thời đồ đá cũ.

Điều chỉnh hành vi hòa giải qua trải nghiệm xã hội: Thí nghiệm với hai loài khỉ macaque. Child Dev. T6/1993; 64(3): 897-908, de Waal FB, Johanowicz DL.

Văn hóa hòa bình ở khỉ đầu chó hoang dã: Hình ảnh và truyền bá. Sapolsky, RM, Share LJ PLoS Biol 2004; 4(2): E106 và NYTimes 04/13/2004. Không phải thời của bọn côn đồ: Khỉ đầu chó trang bị lại văn hóa cho mình, Natalie Angier.

Từ tranh luận của ông trong vụ Scopes.

Wade (2006), tr. 151.

Những nghiên cứu gần đây về ADN ty thể cho thấy ngay cả trước khi loài người di cư ra khỏi châu Phi cách đây khoảng 60.000 năm, dân số loài người vẫn sống rải rác xa nhau như cách đây 100.000 năm, tại Đông và Nam châu Phi. Theo nghiên cứu này, chỉ cách đây 40.000 năm thì hai dòng này mới quy tụ lại, trở thành một cộng đồng dân cư duy nhất trên toàn châu Phi. Xem Behar và những người khác (2008). Toàn văn tài liệu có sẵn trên mạng tại: http://www.cell.eom/AJHG/fulltext/S0002-9297%2808%2900255-3#.

Độc giả quan tâm đến việc tìm hiểu sâu hơn bài phê bình các giả định kiểu Hobbes xin mời đọc: chiến tranh thời tiền sử có thể bắt đầu với Fry (2009) và Ferguson (2000).

Bài nói chuyện của Pinker dựa trên lập luận mà ông giới thiệu trong cuốn sách bán chạy nhất The Blank Slate: The Modern Denial of Human Nature (Danh sách trống: Lời phủ nhận hiện đại đối với bản chất loài người), đặc biệt là trong những trang cuối cùng của Chương 3.

Liên kết tới bài thuyết trình của Pinker là http://vmw.ted.com/index. php/talks/steven_pinker_on_the_myth_of_violence.html. Bạn có thể tìm thấy nhiều bài thuyết trình thú vị khác ở trang này. Chẳng hạn, có thể bạn sẽ muốn tìm các bài nói chuyện của Sue Savage-Rumbaugh về tinh tinh lùn. Nếu thích đọc các nhận xét của Pinker hơn, bạn có thể tìm thấy bài luận dựa trên bài nói chuyện này tại www.edge.org/3rd_culture/pinker07/ pinker07_index.html.

Lưu ý rằng biểu đồ của Pinker thể hiện một phần của biểu đồ trong cuốn sách của Keeley (1996), và rằng Keeley gọi các xã hội này là “nguyên thủy”, “tiền nhà nước”, và “tiền sử”, trong các biểu đồ của mình (tr. 89-90). Trên thực tế, ở trang 31, Keeley phân biệt cái ông gọi là “người săn bắt-hái lượm tại chỗ” với “người săn bắt-hái lượm du cư” đích thực, viết rằng “Người săn bắt-hái lượm du cư thưa thớt, với tài sản ít ỏi (và mang vác được), lãnh thổ rộng lớn, ít tài nguyên cố định hoặc phương tiện xây dựng, được lựa chọn cách trốn tránh xung đột và các nhóm cướp bóc. Trong trường hợp tốt nhất, thứ duy nhất mà họ mất khi chạy trốn như vậy chính là sự điềm tĩnh của họ.” Như chúng ta đã biết, những người săn bắt-hái lượm du cư (kiếm ăn qua ngày) là đại diện cho thời tiền sử của loài người – thời kỳ mà, theo định nghĩa, có trước khi xuất hiện các cộng đồng định cư, thực phẩm canh tác, động vật thuần hóa… Nhầm lẫn của Keeley (và do vậy, của Pinker) chủ yếu là do ông gọi nhầm những người làm vườn, có vườn riêng, động vật thuần hóa và làng mạc định cư, là “người săn bắt-hái lượm tại chỗ”. Vâng, thi thoảng họ có săn bắt và đôi khi họ có hái lượm, nhưng vì hoạt động của họ không phải là nguồn thực phẩm duy nhất nên đời sống của họ không giống với đời sống của những người săn bắt-hái lượm thực thụ. Vườn tược, làng mạc định cư khiến cho việc bảo vệ lãnh thổ trở nên cần thiết và việc chạy trốn các xung đột tiềm năng trở nên khó khăn hơn nhiều so với thời tổ tiên chúng ta. Keeley thừa nhận điều này, viết rằng: “Nhưng với lãnh thổ nhỏ bé, tài sản tương đối nhiều, nhà cửa cố định và thi công tốn nhiều công sức, kho chứa thức ăn, đồng ruộng, những người nông dân hoặc người săn bắt-hái lượm tại chỗ tìm cách chạy trốn rắc rối có thể mất hết mọi thứ và do đó có nguy cơ bị đói. Nông dân và người săn bắt-hái lượm tại chỗ có rất ít lựa chọn ngoài việc phải đương đầu và, sau khi bị thương, làm nản lòng những vụ cướp bóc sau đó bằng cách trả thù.” Điểm này đáng được lặp lại. Nếu bạn sống yên ổn trong một ngôi làng ổn định, có một ngôi nhà đắt tiền, có những cánh đồng để canh tác và có quá nhiều tài sản để có thể mang vác dễ dàng, bạn không phải là người săn bắt-hái lượm. Người tiền sử không có bất cứ thứ gì như vậy, và điều này, dù sao đi nữa, cũng chính là thứ làm nên cái “tiền sử” của họ.

Knauft (1987 và 2009).

Tệ hơn, Pinker còn đặt các tỉ lệ tử vong giả này của “người săn bắt-hái lượm” cạnh một vạch nhỏ, thể hiện những cái chết tương đối ít liên quan đến chiến tranh của nam giới ở Mỹ và châu Âu thế kỷ XX. Điều này hoàn toàn sai lầm trên nhiều khía cạnh. Có lẽ quan trọng nhất, thế kỷ XX khai sinh ra “chiến tranh toàn diện” giữa các quốc gia với nhau, trong đó thường dân (không phải chỉ các nam giới tham chiến) được nhắm tới vì lợi thế tâm lý (Dresden, Hiroshima, Nagasaki…), do đó sẽ là vô nghĩa nếu chỉ tính đến các ca tử vong ở nam giới. Ngoài ra, tại sao Pinker lại không tính cả hàng chục triệu người chết trong một số ví dụ tàn khốc và chết chóc nhất của chiến tranh thế kỷ XX? Trong tranh luận của ông về “thời đại bình yên nhất của chúng ta”, ông không hề nhắc gì đến vụ hãm hiếp ở Nam Kinh, toàn bộ nhà hát Thái Bình Dương trong Thế chiến II (bao gồm vụ thả hai quả bom nguyên tử trên đất Nhật Bản), những cánh đồng giết người của Khmer Đỏ và Pol Pot ở Cambodia, những cuộc chiến tranh kéo dài vài thập kỷ liên tiếp ở Việt Nam (chống lại người Nhật, người Pháp và người Mỹ), cách mạng và nội chiến Trung Quốc, vụ chia tách Ấn Độ/Pakistan và những cuộc chiến sau đó, chiến tranh Triều Tiên. Trong số nhiều triệu cái chết này, không một ai được đưa vào đánh giá của ông về số người (nam giới) chết vì chiến tranh trong thế kỷ XX. Pinker cũng không tính đến châu Phi, với những cuộc xung đột không bao giờ ngớt, những binh lính trẻ em, những vụ diệt chủng bất chợt. Không nhắc gì tới Rwanda. Không thấy bóng dáng một người Tutsi hay Hutu nào. Ông gạt bỏ bất cứ cuộc chiến tranh và chế độ độc tài nào ở Nam Mỹ thế kỷ XX, khét tiếng với việc tra tấn và thủ tiêu hàng chục nghìn thường dân. El Salvador? Nicaragua? Hơn 100.000 dân làng chết ở Guatemala? Không. Tuyệt đối không.

Để có ví dụ cụ thể, xem Zihlman, (1984).

Tại sao lại chiến tranh? Hãy xem tại đây: http://realhumannature. com/?page_id=26. Sau khi chúng tôi liên hệ để hỏi xem ông ta có khắc phục được gì đối với việc bỏ sót này không, ban đầu Smith trích dẫn lời bác bỏ của Wrangham và Peterson về việc tinh tinh lùn không tiêu biểu bằng tinh tinh khi đại diện cho tổ tiên chung cuối cùng của chúng ta, nhưng lúc chúng tôi chỉ ra rằng nhiều nhà linh trưởng học lập luận ngược lại (rằng tinh tinh lùn tiêu biểu hơn), và thậm chí Wrangham cũng xem xét lại quan điểm của mình đối với vấn đề này, và trong bất cứ trường hợp nào, thật sự sai khi nói rằng tinh tinh là “họ hàng không-phải-người gần gũi nhất” của chúng ta mà không đề cập đến tinh tinh lùn, cuối cùng thì ông ta cũng dịu đi và bổ sung hai nguồn tham khảo chính về tinh tinh lùn vào những mô tả khủng khiếp của mình về “những cuộc chiến tranh đầy máu me” của tinh tinh.

Ghiglieri, (1999), tr. 104-5.

Để có bài phê bình, xem chương của Sussman và Garber trong Chapman & Sussman (2004).

Trích dẫn này là của de Waal, (1998).

Goodall, (1971), trích dẫn trong Power, (1991), tr. 28-29.

Lạ một điều, mặc dù đồng ý với quan điểm trung tâm này do Power đưa ra, de Waal đề cập rất ít đến tác phẩm của bà – và có đề cập thì cũng chỉ bác bỏ bà. Trong một chú thích của cuốn sách năm 1996 của mình, Good natured: The origins of right and wrong in humans and other animals (Tốt tính: Nguồn gốc đúng sai ở loài người và các loài khác), ông viết: “Trên cơ sở đọc tác phẩm này, Power (1991) lập luận rằng việc cung cấp đồ ăn ở một số địa điểm điền dã (chẳng hạn như trại chuối của Gombe) khiến lũ tinh tinh bạo lực hơn và kém quân bình hơn, do vậy thay đổi ‘tầng’ quan hệ cả trong lẫn giữa các cộng đồng với nhau. Phân tích của Power – pha trộn sự khảo sát lại một cách nghiêm túc những dữ liệu sẵn có với nỗi luyến tiếc hình ảnh những năm 1960 của loài khỉ như những kẻ mọi rợ cao quý – dấy lên những câu hỏi chắc chắn được giải đáp nhờ cuộc nghiên cứu đang diễn ra về lũ tinh tinh hoang dã không được cho ăn”. Phân tích mang tính phủ nhận này của Power có vẻ phi lý. Bất kể bà có “luyến tiếc những năm 1960 hay không”, de Waal vẫn đang thừa nhận rằng phân tích của bà “dấy lên những câu hỏi” cần được giải đáp. Các câu hỏi này có nguy cơ khiến rất nhiều dữ liệu liên quan đến tương tác xã hội của tinh tinh – điều khiến chúng ta rất quan tâm đến de Waal, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về hành vi của tinh tinh, và chắc chắn là học thuật của ông thể hiện một đầu óc cởi mở – trở nên mất hiệu lực.

Để đánh giá các báo cáo này và lời bác bỏ lập luận của Power, xem Wilson & Wrangham (2003). Tài liệu này có trên mạng tại http://anthro. annualreviews.org.

Nolan (2003).

Behar và những người khác. (2008). Ngoài ra, để có đánh giá tốt hơn về tài liệu này, xem Fagan, (2004).

Turchin, (2003, 2006).

Độc giả nào mang trong đầu hình ảnh các thủ lĩnh Sioux (Lakota) với chiếc mũ chiến cắm lông đại bàng bay phấp phới trong gió cần nhớ rằng ở các thế hệ trước khi bắt đầu tiếp xúc với người da trắng, bệnh tật lây lan qua nhiều bộ lạc và vó ngựa đến mang theo những rạn nứt văn hóa nghiêm trọng, dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng trước đó vốn hòa hiếu với nhau (xem Brown, 1970/2001).

Ferguson (2003).

Vào ngày Giáng sinh năm 1968, nhà du hành vũ trụ Apollo 8 Frank Borman đọc lời cầu nguyện này tới khán giả thế giới: “Lạy Chúa, hãy cho chúng con cái nhìn có thể thấy được tình yêu của người trong thế giới bất chấp thất bại của con người. Hãy cho chúng con niềm tin để tin tưởng điều tốt bất chấp sự ngu dốt và yếu đuối của chúng con. Hãy cho chúng con hiểu biết để chúng con có thể tiếp tục cầu nguyện bằng trái tim cảm thông và chỉ cho chúng con điều mà mỗi chúng con có thể làm để lý giải cho sự xuất hiện của ngày hòa bình chung. Amen.”

Qua so sánh, tổng thời gian của Chagnon ở với người Yanomami lên tới khoảng 60 tháng. Tranh cãi về nghiên cứu của Chagnon và mô tả sau đó về người Yanomami nhận được rất nhiều chú ý trong những năm gần đây. Độc giả nào muốn biết nhiều hơn có thể bắt đầu với Good (1991). Đây là một ghi chép rất riêng tư và có thể tiếp cận được về thời gian ông ở chung với họ. Tierney (2000) phác thảo trường hợp chống lại Chagnon, mặc dù vượt xa những lời phê bình chúng tôi vừa phác ra ở đây. Ferguson (1995) là một phân tích sâu sắc về những tính toán và kết luận của Chagnon. Để biết thêm về quan điểm của Ferguson về nguồn gốc của chiến tranh, có thể xem thêm tại: (http://andromeda.rutgers.edu/socant/brian.htm): Chiến tranh bộ lạc, “sắc tộc”, và toàn cầu và Mười điểm chiến tranh, trong đó thảo luận khá rộng về sinh học, khảo cổ học và tranh cãi về người Yanomami. Borofsky (2005) đưa ra lời giải thích cân bằng về cuộc tranh cãi này và bối cảnh diễn ra. Tất nhiên, công trình của Chagnon cũng luôn sẵn có.

Trích trong Tierney (2000), tr. 32.

Bài bình luận trên Washington Post về Bóng tối ở El Dorado: Cơn sốt rừng già, Marshall Sahlins Chủ nhật, 10/12/2000; tr. X01.

Tierney (2000), tr. 14.

Sponsel (1998).

Vụ giết người Altamont xảy ra năm 1969 tại một buổi diễn miễn phí của ban nhạc rock Rolling Stones ở công viên Altamont Raceway, Bắc California. Các thành viên của bang mô-tô Hell’s Angels, khi đó được thuê làm bảo vệ cho buổi diễn, đã đánh chết một thanh niên người Mỹ gốc Phi, Meredith Curly Hunter. (BTV)

Lưu ý rằng các con số này chỉ nhằm mục đích thuyết minh mà thôi. Để cho đơn giản (và vì dù sao thì nó cũng vô nghĩa), chúng tôi đã không điều chỉnh theo sự khác biệt về kích thước nam/nữ, sai khác về kích thước xương trẻ sơ sinh bình quân theo vùng miền…

Adovasio và những người khác. (2007), tr. 129.

Chúng ta có sống mãi được không?, của Gina Kolata. 11/11/2003.

Scientific American, 3/06 tr. 57.

Harris (1989), tr. 211.

http://www.gendercide.org/case_infantidde.html.

Các con số này không bao gồm việc phá thai có chọn lọc ở phụ nữ, vốn phổ biến ở các nước này. Chẳng hạn, Agence-France Presse báo cáo rằng phá thai chọn lọc đã khiến Trung Quốc thừa 32 triệu nam giới, và chỉ trong một năm (2005), số bé trai sinh ra ở Trung Quốc nhiều hơn so với các bé gái là 1,1 triệu bé.

Nhà triết học Peter Singer đã viết những cuốn sách và bài luận kích thích tư duy về vấn đề làm thế nào để tính toán giá trị của đời sống con người với đời sống phi con người. Ví dụ, xem Singer (1990).

Blurton Jones và những người khác, (2002).

Xem Lee (1979). Một tài liệu tuyệt vời mà độc giả quan tâm đến các vấn đề tương tự rất nên đọc là Kaplan và những người khác, (2000). Tài liệu này có thể tải về tại website của khoa nơi Kaplan giảng dạy: www.unm.edu/~hebs/pubs_kaplan.html.

Từ tài liệu của Kaplan và những người khác, trích dẫn ở trên, tr. 171.

Larrick và những người khác. (1979).

Nguồn: Diamond (1997)

Robert Sapolsky, nhà linh trưởng học và thần kinh học của Stanford, có một cái nhìn tổng quan tuyệt vời về việc căng thẳng tác động đến chúng ta với tên gọi Tại sao ngựa vằn không bị nhọt (2000). Ngoài ra, đối với các vấn đề như căng thẳng và sự tương đồng giữa con người/ tinh tinh lùn, cần lưu ý một điều thú vị là khi bom rơi gần vườn thú của chúng trong Thế chiến II, toàn bộ tinh tinh lùn chết vì căng thẳng do các vụ nổ gây ra trong khi không một con tinh tinh nào bỏ mạng cả (theo de Waal).

The New Yorker, 26/06/2006, tr. 76.

Janis Lyn Joplin (1943-1970): ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ. Bà nổi tiếng trong thập niên 1960 và được bình chọn vào danh sách 100 nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại vào năm 2004. Bà mất khi mới 27 tuổi. (BTV)

Trích dẫn này được lấy từ cuộc tranh cãi giữa một bên là Gould và một bên là Steven Pinker và Daniel Dennett. Rất đáng đọc, nếu bạn thích kiểu thảo luận trí tuệ với nhiều đòn hiểm. Tiến hóa: Lạc thú Đa thê. Điểm sách New York 44 (11): 47-52.

Miller, (2000), tr. 169.

Như chúng ta sẽ thảo luận trong chương sau, thuyết tiếng vọng sinh dục thừa nhận rằng phụ nữ phát triển cặp vú lủng lẳng để việc phân chia sẽ bắt chước (có thuật ngữ khoa học nào cho khái niệm này không?) khe mông vốn rất cám dỗ đối với tổ tiên linh trưởng của chúng ta. Theo dòng lý giải đó, một số người lập luận rằng son môi có tên gọi lôi cuốn là nhằm tái tạo “phần cửa hậu” màu đỏ tươi vốn khiến cho Darwin tội nghiệp phải hết sức bối rối.

Xem Baker và Bellis (1995) hoặc Baker (1996) để biết thuyết nhóm-tinh-trùng.

Diamond (1991), tr. 62.

In Barkow và những người khác (1992), tr. 299.

Barash và Lipton (2001), tr. 141.

Pochron & Wright (2002).

Wyckoff và những người khác (2000). Các nghiên cứu khác về di truyền học tinh hoàn linh trưởng đã tăng cường cảm giác về việc hành vi giao phối của người cổ xưa giống với sự bừa bãi của tinh tinh hơn là hành vi một-con-đực-một-lần của khỉ đột. Ví dụ, hãy xem Kingan và những người khác (2003), kết luận rằng mặc dù “Dự đoán cường độ kỳ vọng của cạnh tranh tinh trùng ở người Homo cổ xưa vẫn còn gây tranh cãi… chúng tôi thấy các mẫu biến đổi nucleotide ở Sgl ở con người giống với các mẫu tìm thấy ở tinh tinh hơn là ở khỉ đột”.

Để hiểu thêm về vấn đề này, xem tác phẩm của Todd Shackelford, đặc biệt là Shackelford và những người khác (2007). Shackelford hào phóng đưa hầu hết các tác phẩm đã xuất bản của mình lên mạng để tải miễn phí tại http://www.toddkshackelford.com/publications/index.html.

Cạnh tranh tinh trùng là một lĩnh vực gây nhiều tranh cãi. Giới hạn về không gian (và rất có thể, sự quan tâm của độc giả) khiến chúng ta không thể thảo luận toàn diện hơn – đặc biệt là liên quan đến những tuyên bố gây tranh cãi mạnh của Baker và Bellis liên quan đến các nhóm tinh trùng được tạo thành từ những tế bào chuyên biệt hoạt động với tư cách “ngăn chặn”, “kamakaze”, và “lấy trứng”. Để có đánh giá khoa học về phát hiện của họ, xin hãy xem Baker & Bellis (1995). Để có một đánh giá đại chúng, xem Baker (1996). Để xem một thảo luận cân bằng về cuộc tranh luận do một bên thứ ba viết, xin hãy xem Birkhead (2000), đặc biệt là từ tr. 21-29.

Chỉ một thể loại phim người lớn. (BTV)

Hay luyến ái chỉ sự yêu đương hay mối quan hệ tình dục với những người khác giới tính với mình, nói cách khác là việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa nam và nữ thông thường. (BTV)

Kilgallon & Simmons (2005).

Một vài độc giả sẽ lập luận rằng những quy ước này trong khiêu dâm đương đại là biểu hiện của sự nô dịch phụ nữ và xuống cấp chứ không phải là đa dâm. Dù đây có đúng là trường hợp đó hay không (cuộc thảo luận mà chúng ta sẽ tạm gác lại ở thời điểm này), người ta vẫn phải hỏi tại sao nó lại được thể hiện theo cách này, với những hình ảnh này, trong khi có quá nhiều cách để hiển nhiên nhục mạ một con người. Một số tác giả tin rằng tập quán bukkake ra đời như một cách trừng phạt phụ nữ mắc tội thông dâm ở Nhật – một dạng Dấu ấn Ô nhục (Scarlet Letter) đỡ khắt khe hơn. (Ví dụ, xem Nướng bánh? Vạch trần tập quán tình dục Bukkake. Áp phích trưng bày tại Hội nghị Thế giới về Tình dục học lần thứ 17, của Jeff Hudson và Nicholas Doong: http://abstracts. co.allenpress.com/pweb/sexo2005/document/502l4). Nếu bạn không biết bukkake là gì, và thậm chí bạn có chút dễ bị xúc phạm, xin hãy bỏ qua việc chúng tôi đề cập đến nó.

Frans de Waal hoài nghi rằng tinh tinh lùn có dương vật dài hơn con người, ít nhất là xét theo tương quan kích thước cơ thể, nhưng hầu hết các nhà linh trưởng học khác đều tỏ ra không đồng ý với đánh giá của ông. Trong bất cứ trường hợp nào cũng đều không có ai thắc mắc về việc dương vật người lớn hơn nhiều so với bất cứ loài khỉ nào, xét cả về mặt tuyệt đối lẫn tương quan kích thước cơ thể.

Trên thực tế, một loài vượn, vượn bờm đỏ (Hybbates concolor), có bìu dái lủng lẳng bên ngoài. Điều thú vị là loài vượn này cũng là ngoại lệ trong việc không mấy chung thủy cho lắm (xem Jiang và những người khác, 1999).

http://news.bbc.co.uk/go/pr/fr/-/2/hi/health/7633400.stm 2008/09/24.

Harvey & May (1989), tr. 508.

Trong Bách khoa thư về tiến hóa loài người, Robert Martin viết: “Về tỉ lệ kích thước cơ thể, con người có tiềm năng tối đa cho sinh sản thấp thậm chí khi so với các loài linh trưởng khác. Điều này cho thấy chọn lọc đã ủng hộ cho tiềm năng sinh sản thấp trong quá trình tiến hóa loài người. Bất cứ mô hình tiến hóa nào của loài người đều phải cân nhắc đến yếu tố này”. Tỉ lệ cơ thể có mức tiềm năng sinh sản tối đa thấp cùng với mức hoạt động tình dục cao điển hình cho loài người là một chỉ số khác cho thấy tình dục từ lâu đã phục vụ cho những mục đích phi-sinh-sản của giống loài chúng ta. Tương tự, mặc dù Dixson (1998) mô tả túi tinh của các loài linh trưởng đơn phối và đa phối (trừ loài khỉ đầu chó gelada) là thô sơ hoặc nhỏ, ông xếp túi tinh của con người ở mức trung bình – bởi vì “Rất hợp lý khi cho rằng chọn lọc tự nhiên có thể đã ủng hộ việc giảm bớt kích thước túi tinh trong điều kiện giao phối không thường xuyên và nhu cầu khối lượng xuất tinh lớn cũng như hình thành khối đông bị giảm sút”. Ông tiếp tục nói rằng, “điều này có thể giải thích cho kích thước túi tinh rất nhỏ ở một số loài (linh trưởng) về căn bản là sống đơn phối”.

BBC News online, 16/07/2003.

BBC News online, 16/07/2003.

Psychology Today, Tháng Ba/Tư, 2001.

Barratt và những người khác. (2009).

Về mặt giả thuyết, người ta có thể tìm cách bóp méo giả thuyết này bằng cách sử dụng dữ liệu về khối lượng tinh hoàn và sản xuất tinh trùng ở một số cộng đồng mà chúng ta đã thảo luận có ảnh hưởng của cạnh tranh tinh trùng và làm cha chung. Để làm được điều này, chúng tôi đã liên lạc với các nhà nhân học mà chúng tôi có thể xác định được từng làm việc ở Amazon (hoặc bất cứ nơi nào khác với người săn bắt-hái lượm), nhưng dường như không ai thu thập được thứ dữ liệu “tinh tế” này. Mặc dù vậy, ngay cả khi phát hiện ra rằng nam giới trong những cộng đồng này có khối lượng tinh hoàn và sản xuất tinh trùng cao, như giả thuyết của chúng tôi dự đoán, thì vẫn cần phải loại trừ việc khẳng định chắc chắn về giả thuyết này do thiếu các độc tố trong môi trường gây ra hiện tượng giảm mạnh ở các cộng đồng công nghiệp hóa.

BBC News online, 12/08/2006.

Baker (1996), tr. 316.

Nguyên văn: Born to Fuck

Nguyên văn: Born to Breathe, Born to Eat, Born to Drink, Born to Shit, Born to Die

Chippendales là đoàn múa nổi tiếng với các màn biểu diễn thoát y nam. Được thành lập vào năm 1979, Chippendales biểu diễn cho khán giả chủ yếu là phụ nữ.

Trích dẫn lấy từ cuộc phỏng vấn do Sarah van Gelder thực hiện, “Remembering our purpose: An interview with Malidoma Somé” (Hồi tưởng lại mục đích của chúng ta: Phỏng vấn Malidoma Somé), in trong In Context: A Quarterly of Humane Sustainable Culture (Bối cảnh: Tạp chí quý về Văn hóa Bền vững-Nhân đạo), số 34, tr. 30 (1993). Nguồn: http://www.context.org/ICLIB/IC34/Some.htm.

Xem Tiền (2000). Điều thú vị là suy tinh lại là tâm điểm của cách hiểu Đạo Lão về sức khỏe cũng như hoạt động tình dục nam giới. Để có ví dụ, xin hãy xem Reid (1989).

Chứng bắt thế hay là Chứng giữ nguyên thế là một trạng thái thần kinh đặc trưng bởi sự cứng cơ và tư thế bất động bất kể kích thích từ bên ngoài cũng như sự giảm cảm giác đau. Người bị chứng này vẫn hoàn toàn tỉnh táo và nhận biết được các hiện tượng xung quanh nhưng không phản ứng được.

Về Baker Brown, xem Fleming (1960) và Moscucci (1996).

Trích trong Coventry (2000).

Xem Bừa bãi của Naomi Wolf, tr. 143-153, để nắm được lược sử âm vật trong lịch sử phương Tây – một câu chuyện mà bà kể vừa đáng sợ lại vừa vui.

Mặc dù âm vật thường được coi là “cơ quan duy nhất trong cơ thể người chỉ thực hiện chức năng đem lại lạc thú”, có hai vấn đề với quan sát này. Đầu tiên, nếu cực khoái nữ hoạt động theo các nghĩa mà chúng ta vạch ra (tăng cơ hội thụ thai, thôi thúc kêu la và theo đó thúc đẩy cạnh tranh tinh trùng), thì rõ ràng là chuyện sung sướng này có mục đích. Thứ hai, núm vú nam giới thì sao? Không phải mọi đàn ông đều thấy chỗ này sướng, nhưng chắc chắn là chúng rất yếu và không phục vụ mục đích chức năng nào cả.

Trớ trêu thay, theo nhà khảo cổ học Timothy Taylor (1996), hình ảnh này của Quỷ sứ được cho là bắt nguồn từ Cernunnos, vị thánh có sừng, cách hiểu của người Celt về tập quán Mật tông Ấn Độ và do vậy ban đầu nó là biểu tượng của sự siêu việt tâm linh thông qua tập quán tình dục.

Pinker (2002), tr. 253.

Không loại trừ phụ nữ hay đồng tính nam, nhưng không đủ dữ liệu khoa học về góc độ này. Mặc dù điều thú vị là một số người ngẫu nhiên nói với chúng tôi rằng khi họ nghe lỏm thấy hàng xóm (các cặp đôi cả đồng tính nam lẫn đồng tính nữ) làm tình, bên mà họ cho là nhiều nữ tính hơn chính là bên tạo nhiều tiếng ồn nhất.

Khi đạo diễn Rob Reiner đưa kịch bản cho mẹ mình xem, bà gợi ý rằng ở cuối cảnh đó, máy quay nên chuyển sang cảnh một bà già trong nhà hàng đang chuẩn bị gọi món và nói: “Tôi sẽ gọi món mà cô ấy đang ăn.” Câu thoại này quá xuất sắc, đến nỗi Reiner nói với mẹ là ông sẽ đưa vào, nhưng chỉ với điều kiện bà đồng ý đọc câu thoại trong phim, và bà đã đồng ý.

Các trích đoạn này lấy từ Hamilton & Arrowood (1978).

Cường độ âm thanh của phụ nữ, ví dụ, có thể tác động đến phản ứng cực khoái thấy rõ của nam giới – nhờ vậy tăng cơ hội cực khoái đồng thời hoặc gần đồng thời. Như chúng ta thảo luận dưới đây, có bằng chứng cho thấy vấn đề thời gian này có thể thuộc về lợi thế sinh sản của nam giới.

Không giống như lời tuyên bố có vẻ ồn ào (“Không có vú, không có thiên đường”), tiêu đề là tên của một chương trình kịch truyền hình Columbia về những phụ nữ trẻ cấy ghép ngực với hy vọng thu hút được chú ý của các ông trùm ma túy địa phương để thoát được đói nghèo.

Vệ nữ Willendorf (tiếng Đức: Venus von Willendorf) còn có tên khác là Người phụ nữ Willendorf là một đồ tạo tác dạng tượng cao 11 cm. Đây là một trong những đồ tạo tác và hiện vật khảo cổ quan trọng nhất của ngành khảo cổ hiện đại. (BTV)

Dolly Rebecca Parton (19/01/1946): ca sĩ, nhạc sĩ nhạc đồng quê, diễn viên và nhà từ thiện người Mỹ. Bà là một trong những ca sĩ nhạc country thành công nhất. (BTV)

Ví dụ, Symons (1979) và Wright (1994).

Xem Diamond (1991) và Fisher (1992).

http://dir.salon.com/story/mWstyle/2002/05/28/booty_call/.

Mặc dù có thể được coi là phồng vĩnh viễn, điều này không có nghĩa là cặp vú không thay đổi trong suốt cuộc đời và chu kỳ (kinh nguyệt) của người phụ nữ. Về cơ bản, chúng phồng to hơn trong thời kỳ mang thai, kinh nguyệt và cực khoái (lớn hơn tới 25% so với bình thường, theo Sherfey) và giảm kích thước cũng như độ đầy đặn theo tuổi tác và cho con bú. Chúng tôi không chắc có giải đáp được câu hỏi liệu bộ ngực phụ nữ có phải là dấu hiệu tình dục hay không. Ở nhiều nền văn hóa trên thế giới, phụ nữ ngực trần không hề thu hút được sự chú ý nào, có vẻ như sự hấp dẫn mà nhiều đàn ông phương Tây cảm thấy chỉ là sự thụt lùi về thời kỳ đè nén của Victoria. Nếu vậy, đây lại là một biểu hiện mạnh mẽ nữa của sức mạnh văn hóa khi tạo ra (nếu không làm giảm bớt) ham muốn tình dục ở đàn ông.

Haselton và những người khác. (2007). Có trên mạng tại WWW. sciencedirect.com.

Nhiều trường hợp hoạt động tình dục của loài người phù hợp với lời giải thích này, nhưng của Desmond Morris có thể vẫn là trường hợp phổ biến nhất.

Dixson đề cập cụ thể đến khỉ nâu macaque và tinh tinh trong đoạn này, mặc dù ông đang nói đến khả năng cực khoái nhiều lần ở linh trưởng cái nói chung trong những phần mà đoạn văn xuất hiện. Những đoạn như vậy khiến chúng ta phải tự hỏi tại sao Dixson không theo những dữ liệu này đến nơi mà chúng có vẻ làm cho sáng tỏ. Chúng tôi gửi cho ông một email nói về luận điểm của mình và yêu cầu ông nhận xét và phê bình, nhưng giả như có nhận được thư thì ông cũng quyết định không trả lời.

Lloyd, một sinh viên cũ của Stephen Jay Gould, xem xét lại (và đúng hơn là tạm thời bác bỏ) các luận cứ thích nghi đối với cơn cực khoái ở nữ giới. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề này gần hơn với quan điểm thể hiện trong đánh giá của David Barash về cuốn sách của Lloyd, có sẵn trên mạng (Hãy để một nghìn cơn cực khoái bùng nổ). Tải về tại: http://www. epjournal.net/filestore/ep03347354.pdf

Như đã nói ở trên, một số phát hiện của Baker và Beilis gây nên rất nhiều tranh cãi. Chúng tôi nhắc đến họ bởi vì nhiều độc giả phổ thông đã biết đến họ nhưng không một phát hiện nào của họ cần thiết cho luận cứ của chúng tôi.

Barratt và những người khác. (2009). Có trên mạng tại: http://jbiol. com/content/8/7/63.

Cả hai trích dẫn đều xuất hiện trong Potts và Short (1999). Trích dẫn đầu tiên ở trong văn bản chính, tr. 38 và trích dẫn thứ hai trong Laura Betzig, tr. 39.

Một đánh giá tuyệt vời về sự phát triển của khái niệm chọn lọc tình dục hậu giao phối có thể tìm thấy trong Birkhead (2000). Vô số bằng chứng về chức năng sàng lọc này có thể tìm thấy trong Eberhard (1996), trong đó tác giả giới thiệu hàng chục ví dụ về phụ nữ áp dụng “kiểm soát hậu giao phối” để tinh trùng thụ tinh cho trứng của mình.

Một loại hormone. Ở động vật có vú, testosterone được bài tiết chủ yếu trong tinh hoàn của con đực và buồng trứng của con cái, mặc dù một lượng nhỏ cũng được tiết ra bởi tuyến thượng thận. (BTV)

Một loại hormone do cơ quan sinh dục nữ tiết ra. (BTV)

Hormone này do tiền liệt tuyến tiết ra, đóng vai trò như một chất trung gian hóa học của quá trình viêm và nhận cảm đau, ngoài ra còn có các tác dụng sinh lí ở các mô riêng biệt. (BTV)

Gallup và những người khác, (2002).

Prolactin có vai trò kích thích các tuyến sữa sản xuất sữa, được tiết ra từ thùy trước tuyến yên trong sự đáp ứng với sự ăn uống, giao phối, hay trong sự rụng trứng và cho con bú. (BTV)

Kendrick và những người khác, (1998).

Chivers và những người khác, (2007).

Phần lớn nghiên cứu được đánh giá ở đây đều được đề cập trong bài viết tuyệt vời của Bergner: “Phụ nữ muốn gì? – Khám phá điều nhen nhóm khao khát của phụ nữ”, 22/01/2009. Nguồn: http://www.nytimes. com/2009/01/25/magazine/25desire-t.html.

Sự thiếu ăn khớp này cũng liên quan tới các nghiên cứu về ghen tuông mà chúng tôi đã thảo luận trong Chương 9.

Georgiadis và những người khác, (2006). Hoặc bài bình luận: “Phụ nữ rơi vào trạng thái ‘xuất thần’ khi cực khoái.” Times Online, bài của Mark Henderson, 20/6/2005. http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/ health/article535521.ece.

Wedekind C. và những người khác (1995). Một bản tiếp nối gần đây hơn xác nhận các kết quả này là: Santos và những người khác, (2005).

Điều này không phải là nhằm lên án thuốc tránh thai. Nhưng xét các thay đổi này, chúng tôi mạnh mẽ đề xuất các cặp vợ chồng hãy dành ra vài tháng sử dụng các hình thức tránh thai khác trước khi đưa ra kế hoạch lâu dài.

Lippa (2007). Có sẵn trên mạng tại: http://psych.fullcrton.edu/rlippa/ bbc_sexdrive.htm.

Latex-, ở đây chỉ những vấn đề liên quan đến đam mê thời trang nhựa dẻo PVQ và cao su (rubber), những người đam mê xu hướng này tự gọi mình là rubberist. Một rubberist có thể tưởng tượng mình mang bản sắc mới trong những bộ đồ bó sát, được ngâm hóa chất tăng cường mùi. Tương tự là những người sùng bái đồ da (Leather) đa phần là những người đồng tính nam (gay). Những người sùng bái đồ da thường liên quan đến những người khổ dâm hoặc nô lệ tình dục. (BTV)

Hay Sado-Masochism, bắt nguồn từ thuật ngữ sadism, dùng để chỉ những hành vi tình dục quái đản. Ở Nhật, có một trò chơi tình dục hợp pháp trong đó S là người thích hành hạ, còn M là người bị hành hạ. (BTV)

Nguyên văn: goat or lamb. Trong thần học, goat là biểu tượng cho sự nhạy cảm và khao khát tình dục, do đó Satyr nửa người nửa dê được xem là biểu tượng cho bản năng dục vọng của con người. Ngược lại là lamb, biểu tượng cho sự ân cần, chăm sóc, dịu dàng. Theo đó trong thần học, goat-lamb cũng thuộc hệ thống các cặp đối nghĩa như Địa ngục-Thiên đường, Đêm-ngày. (BTV)

Cả hai cuộc phỏng vấn này đều xuất hiện trên This American Life (tạm dịch: Đời sống Mỹ) của NPR (National Public Radio), Phần 220. Có thể tải miễn phí tại iTunes hoặc tại www.thislife.org.

Một trong số nhiều ví dụ: Dabbs và những người khác (1991/1995) thấy rằng, “Người phạm tội có mức testosterone cao thực hiện những tội ác bạo lực hơn, bị ban quản chế phán xét hà khắc hơn, và vi phạm quy định của nhà tù nhiều hơn so với những người có mức testosterone thấp.”

Gibson (1989)

Người ta thắc mắc về tác động xã hội lâu dài của hiện tượng thất vọng tình dục phổ biến ở nam vị thành niên. Ví dụ, sự thất vọng này góp phần tạo nên cơn hận đàn bà ở nhiều nam giới đến mức nào? Sự thất vọng này ảnh hưởng đến việc nam vị thành niên sẵn sàng tham chiến hoặc gia nhập các băng nhóm đường phố ra sao? Mặc dù chúng tôi không đồng ý với những lập luận như của Kanazawa (2007) tuyên bố rằng Hồi giáo chấp thuận đa thê để tăng thất vọng tình dục ở nam giới nhằm tạo ra nguồn đánh bom tự sát, thật khó mà bác bỏ quan niệm cho rằng nỗi thất vọng mạnh mẽ thường được thể hiện dưới dạng nỗi căm giận mù quáng.

Bang Georgia coi tình dục đường miệng là tội rất nặng. Mãi đến năm 1998, hành vi đó vẫn là bất hợp pháp – ngay cả giữa vợ chồng cưới xin đàng hoàng trên giường ngủ của chính họ – và có thể bị phạt tới 20 năm tù.

Nguyên văn: consensual sex. Từ này chỉ hành vi quan hệ tình dục tự nguyện giữa hai bên nhưng lại phạm pháp, chẳng hạn trong trường hợp một trong hai bên chưa đến độ tuổi được quan hệ tình dục theo luật. (BTV)

Sexting là từ ghép gồm Sex (tình dục) và Texting (nhắn tin).

Ví dụ, http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyld=1023869 52&ft=l&f=1001.

Fortenberry (2005).

Mọi trích dẫn trong phần này đều được lấy từ Prescott (1975).

Một đảo nhỏ thuộc quần đảo Cook ở Nam Thái Bình Dương. (BTV)

Xem Elwin (1968) và Schlegel (1995).

“Vài suy nghĩ về khoa học giao hợp nửa vời”. Bài diễn thuyết dành cho Câu lạc bộ Stomach, một hiệp hội nhà văn và nghệ sĩ Mỹ.

Klismaphilia là hiện tượng cảm thấy hưng phấn, thậm chí cực khoái khi cơ thể tiếp nhận chất lỏng vào trực tràng và đại tràng qua đường hậu môn. Các chất lỏng có thể là bất kì thứ gì, từ nước, dung dịch thụt rửa đến tinh trùng. (BTV)

Xem http://www.cirp.org/Iibrary/statistics/USA/.

Những người này tin rằng bất kỳ gia vị hay mùi vị mạnh nào đều kích thích năng lượng tình dục, vì vậy họ đề xuất ăn nhạt nhằm dập tắt ham muốn. Ban đầu các bậc phụ huynh dùng bánh quy Graham và ngũ cốc không đường cho bữa ăn sáng của những cậu con trai trong tuổi vị thành niên của mình với mục đích giúp chúng tránh được thói xấu thủ dâm.

Điều thú vị là cháu của Freud, Edward Bernays, được coi là một trong những người sáng lập ngành quan hệ công chúng và quảng cáo hiện đại. Một trong những chiến dịch quảng cáo nổi tiếng của ông là chiến dịch quảng cáo đầu tiên kết hợp thuốc lá với nâng cao quyền tự quyết cho phụ nữ. Những năm 1920, Bernays chủ trì một chương trình quảng cáo huyền thoại đến nay vẫn được giảng dạy trong các lớp đào tạo kinh doanh. Ông sắp xếp cho các người mẫu thời trang tham gia diễu hành trong lễ Phục sinh của New York, mỗi người cầm một điếu thuốc đã châm lửa và đeo một băng rôn “ngọn đuốc tự do”. Để biết thêm thông tin, xin hãy xem Ewen (1976/2001).

John Calvin Coolidge, Jr. (1872-1933): Tổng thống Hoa Kỳ thứ 30. (BTV)

Nông dân biết rằng để bò đực giao phối với một con bò cái nhiều lần, họ phải lừa cho nó nghĩ rằng đấy là con bò cái khác. Họ làm điều này bằng cách xoa chăn lên một con bò cái khác để thấm mùi của nó rồi đặt lên lưng con bò cái sẽ được giao phối. Nếu con bò đực không bị lừa, nó sẽ từ chối – bất kể con bò kia hấp dẫn đến mức nào.

Sprague &c Quadagno (1989).

Ví dụ, hãy xem bộ phim tài liệu Thuê một tín đồ Rasta, kịch bản và đạo diễn J. Michael Seyfert: www.rentarasta.com hoặc bộ phim truyện, Vẽ phương Nam, của đạo diễn Laurent Cantet, nói về những người phụ nữ đến Haiti vào những năm 1970.

Tất cả các tên và chi tiết nhận dạng đã được thay đổi.

The New Yorker, 6 & 13/07/2009, tr. 68.

Ngoài ra, cái gọi là hiệu ứng Westermark đã xuất hiện để ngăn chặn mối quan hệ tình dục giữa những người cận huyết.

Xem ví dụ, Gray và những người khác, (1997 và 2002) và Ellison và những ngưới khác, (2009).

Xem ví dụ: Glass và Wright (1985).

Berkowitz và Yager-Berkowitz (2008).

Bản dịch tiếng Việt là Đời nhẹ khôn kham, NXB Văn học, 2002, Trịnh Y Thư dịch (BTV)

Ví dụ, đối với bệnh trầm cảm: Shores, và những người khác. (2004); bệnh tim: Malkin và những người khác. (2003); giảm sút trí tuệ: Henderson và Hogervorst (2004); tỷ lệ tử vong: Shores và những người khác. (2006).

Một loại thuốc chống trầm cảm. (DG)

Điều này dường như là quỹ đạo của lịch sử. Trong khi nhiều người đang lúng túng, bối rối bởi cái “móc câu” văn hóa, các sexting với những hình ảnh hấp dẫn gửi qua lại, sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền hợp pháp cho các cặp đồng tính nam, đồng tính nữ…, không có nhiều thứ để họ có thể ngăn được dòng chảy lịch sử – dường như đang chảy về hướng tình dục tùy tiện của người săn bắt-hái lượm. Nếu vậy, các thế hệ trong tương lai có thể phải chịu đựng ít hơn những biểu hiện bệnh lý của sự thất vọng tình dục. Liên quan đến người Siriono, người mà ông đã sống cùng, Holmberg (1969) viết: “Siriono hiếm khi thiếu đối tác tình dục. Bất cứ khi nào ham muốn tình dục lên cao, thì luôn luôn có một đối tác tình dục sẵn sàng giảm bớt nó… Lo lắng tình dục dường như khá thấp trong xã hội Siriono. Những biểu hiện như đam mê tình dục quá mức, trinh tiết hoặc những giấc mơ và tưởng tượng tình dục rất hiếm gặp.” (tr. 258).

“Có hy vọng cho hôn nhân Mỹ”, Caitlin Flanagan, Time, Thứ 5, 02/07/ 2009. http://www.time.eom/time/nation/artide/0,8599,1908243,oo.html.

Những trích dẫn từ Druckerman được lấy từ một bài đánh giá về cuốn sách của cô trong The Observer, ngày 08/07/2007.

“Chỉ có bạn. Và bạn. Và bạn. Đa hôn – mối quan hệ với nhiều đối tác đồng thuận lẫn nhau — sắp có một bữa tiệc.” Jessica Bennett. Newsweek (Web Exclusive) 29/07/2009. http://www.newsweek.com/id/209l64.

“Hậu trường hôn nhân nhóm.” Laird Harrison Salon.com. http://mobile.salon.com/mwt/featurc/2008/06/04/open_marriage/ index.html.

Nguyên văn là: swinger. Trao đổi quyền ân ái tạm thời hay còn gọi là trò trao đổi vợ làm tình (tiếng Anh: Swinging và người tham gia được gọi là swinger) là việc trao đổi vợ chồng tạm thời để quan hệ tình dục, nó có thể xảy ra từ việc thỏa thuận giữa các cặp vợ chồng hoặc từ những người tham gia câu lạc bộ swingers. Đây là một kiểu hành vi tình dục tập thể, theo đó các đối tác vợ chồng cam kết tham gia vào một quan hệ tình dục với người khác theo lựa chọn hoặc một cách ngẫu nhiên như là một quan hệ giải trí, một hoạt động xã hội đơn thuần.

Bergstrand và Blevins Williams (2000).

Bạn có thể nghe các cuộc họp báo tại www.thisamericanlife.org/Radio_Episode.aspx?episode=95.

Lần đầu chúng ta biết về mối quan hệ mặt trời/mặt trăng ấn tượng này trong Weil (1981): một cuốn sách thú vị về tiềm năng thay đổi ý thức mọi thứ từ nhật thực tới những quả xoài chín hoàn hảo.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN