Titanic - Trong Vũ Trụ
Chương 10
MƯỜI
Tại Punta, Mexico
Biển Cortex lấp lánh như dát bạc dưới ánh sáng đang mờ dần. Ngồi bên chiếc bàn trên một bến đỗ ngoài trời ở quán cà phê Las Tres Virgenes, Helen Koenig nhìn thấy những tàu đánh cá đang quay trở về Punta Colorado. Đây là thời điểm cô thích nhất trong ngày. Gió biển mát nhẹ vờn lên nước da rám nắng. Những thớ cơ của cô uể oải một cách dễ chịu sau khi bơi buổi chiều. Một bồi bàn mang cho cô cốc margarita và đặt ngay trước mặt cô.
– Gracias senior. – cô nói khẽ.
Anh ta bất chợt thấy cô đang nhìn mình. Cô nhận thấy anh ta là một người đàn ông trầm lặng, nổi bật với cặp mắt mệt mỏi và mái tóc có vài sợi bạc. Cô thoáng cảm thấy không thoải mái. Một tội lỗi kiểu Mỹ, cô nghĩ vậy khi nhìn anh ta quay trở vào quán. Đó là cảm giác cô luôn có khi lái xe dọc theo Baja. Cô nhấp một ngụm rồi nhìn ra biển, lắng nghe tiếng kèn trumpet não nề của một ban nhạc mariachi đang chơi đâu đó trên bãi biển.
Hôm đó rất đẹp trời nên cô ở dưới biển gần như cả ngày. Sau khi lặn rất sâu vào buổi sáng, cô lặn nông hơn vào buổi chiều. Rồi sau đó, ngay trước khi ăn cơm tối, cô bơi trong làn nước lấp lánh dưới ánh hoàng hôn. Biển khiến cô dễ chịu và là thánh địa của cô. Luôn là như vậy. Không giống với tình yêu của một người đàn ông, biển lúc nào cũng chung thủy và không bao giờ làm cô thất vọng. Nó luôn sẵn sàng ôm ấp, vỗ về cô. Và trong những lúc buồn, cô lại thấy mình muốn trốn vào vòng tay chờ đợi của biển.
Đó cũng chính là lý do cô đến Baja, để được bơi trong làn nước ấm nóng, để được một mình và không ai có thể liên lạc với cô được, thậm chí là Palmer Gabriel.
Môi cô bị một nhúm margarita kéo co lại. Cô nuốt trôi nó và gọi một cốc khác. Đồ uống có cồn đó đã khiến cô cảm thấy như đang bồng bềnh. Không sao, cô là một phụ nữ tự do tự tại. Dự án công ty đã xong và bị bỏ dở. Các mẻ cấy bị hỏng hết. Mặc dù Palmer cũng nổi điên lên với cô nhưng cô biết cô đã làm đúng. Đó là một điều an toàn. Ngày mai cô sẽ ngủ ngon và gọi món sô-cô-la nóng cùng món thịt bò hầm cho bữa sáng. Sau đó, cô sẽ lao mình xuống nước để lặn và lại trở về với người tình biển trong xanh.
Tiếng cười của một phụ nữ khiến cô chú ý. Helen quay về phía quán rượu, chỗ có một đôi đang tán tỉnh nhau. Người phụ nữ nhỏ nhắn, nước da rám nắng, còn người đàn ông có cơ bắp như những lõi thép. Một kỳ nghỉ biến thành cuộc vui chơi. Có thể họ sẽ ăn tối cùng nhau, nắm tay nhau đi dọc bờ biển. Rồi họ sẽ hôn nhau, ôm ấp và toàn bộ các thủ tục tốn hooc-môn của việc ân ái. Helen nhìn họ với con mắt thích thú của một nhà khoa học và thái độ ghen tị của một người đàn bà. Cô biết những thói quen ấy không hợp với cô. Cô đã bốn mươi chín tuổi và cô chỉ quan sát việc đó thôi. Eo cô đã dầy lên, nửa mái đầu đã hoa râm, khuôn mặt chẳng có gì nổi bật ngoài cặp mắt lanh lợi. Cô không phải kiểu phụ nữ khiến những gã đẹp trai rám nắng bị hút mắt.
Cô uống hết cốc margarita thứ hai. Giờ thì cảm giác bồng bềnh tràn ngập khắp cơ thể và cô biết đã đến lúc cho thức ăn vào dạ dày. Cô mở thực đơn có dòng chữ “Nhà hàng của những món cực kỳ tinh khiết” chạy ngay trên đầu. Ba người tinh khiết. Thật là một nơi ăn uống phù hợp với cô. Cô cũng có thể là một kẻ tinh khiết.
Người bồi bàn lấy tờ giấy ghi những món cô gọi. Cô ngẩng lên nhìn anh ta và gọi món cá nục heo nướng trong khi mắt nhìn ti-vi trên quầy rượu. Cô nhìn hình chiếc tàu con thoi được ấn định phóng lên.
– Có chuyện gì thế? – cô hỏi và chỉ cái ti-vi.
Người bồi bàn nhún vai.
– Vặn to âm lên! – cô hét to với người phục vụ ở quầy rượu. – Làm ơn! Tôi cần nghe tin đó.
Anh ta nhấn nút chỉnh âm lượng và đó là bản tin tiếng Anh thuộc kênh truyền hình Mỹ. Helen đi tới quầy rượu, chăm chú nhìn màn hình.
“… việc di dời khẩn cấp vì lý do sức khỏe của phi hành gia Kenichi Hirai. NASA chưa cung cấp thêm thông tin nhưng các bản báo cáo cho thấy các bác sĩ của NASA vẫn đang đau đầu vì căn bệnh của anh ấy. Dựa trên các bài kiểm tra máu hôm nay thì họ thấy cần phải phóng tàu con thoi lên cứu anh. Tàu Discovery theo dự kiến sẽ được phóng ngày mai, lúc sáu giờ sáng theo giờ phía đông”.
– Senora? – Người bồi bàn hỏi.
Helen quay lại và thấy anh ta vẫn đang cầm khay yêu cầu.
– Cô có muốn một loại đồ uống khác không?
– Không, không. Tôi phải đi ngay.
– Nhưng đồ ăn của cô…
– Bỏ món tôi gọi đi, được chứ? – cô mở ví, đưa anh ta mười lăm đô và vội vã rời nhà hàng.
Trở lại phòng khách sạn, cô cố gọi cho Palmer Gabriel ở San Diego. Phải mất năm lần cô mới kết nối được với người trực tổng đài quốc tế. Cuối cùng, khi kết nối được thì cô chỉ nhận được thư thoại của Palmer.
– Họ có một phi hành gia bị bệnh trên Trạm vũ trụ quốc tế. – cô nói. – Palmer, đây là điều tôi lo ngại. Đấy là điều tôi đã muốn cảnh báo với các vị. Nếu việc này đã được xác nhận thì chúng ta phải hành động thật nhanh trước khi…. – Côdừng lại, nhìn đồng hồ. Chuyện này thật tồi tệ, cô nghĩ, rồi gác máy. Mình phải quay về San Diego. Mình là người duy nhất biết cách giải quyết việc này. Họ cần mình.
Cô ném hết quần áo vào va li, gửi phòng, lên taxi và đi mười lăm dặm đến hãng máy bay nhỏ Buena Vista. Một chiếc máy bay nhỏ đang chờ sẵn ở đó để đưa cô đến La Paz. Ở đó cô có thể đi máy bay hạng thương nhân đến San Diego.
Chuyến đi taxi rất xóc. Đường lồi lõm và lắt léo. Bụi cuộn vào cửa xe để mở. Nhưng điều khiến cô sợ nhất trong suốt chuyến đi là khi máy bay cất cánh. Cô rất sợ những máy bay cỡ nhỏ. Nếu không phải vội về nhà thì cô sẽ đi một chuyến dài đến hẳn đảo Baja bằng xe riêng. Bây giờ nó đang được đậu an toàn ở khu nghỉ mát. Bàn tay nhớp nháp mồ hôi của cô bám chặt vào chỗ để tay và hình dung ra một thảm họa hàng không đang chờ đón mình.
Sau đó, cô nhìn lên bầu trời đêm, trong trẻo và đen như nhung. Cô nghĩ về những người trên Trạm vũ trụ quốc tế. Cô nghĩ về những mối nguy hiểm mà những con người dũng cảm hơn đã cáng đáng. Tất cả chỉ là do cảm giác của con người. Một chuyến đi bằng máy bay cỡ nhỏ không thể so sánh được với những mối nguy hiểm mà các phi hành gia phải đối mặt.
Đây không phải là lúc để hèn nhát. Những mạng sống con người đang bị treo trên bàn cân. Và cô là người duy nhất biết phải làm gì để giải quyết việc này.
Chuyến đi lạnh xương sống đã trôi qua suôn sẻ. Giờ họ đã đặt chân trên đường lát gạch, tạ ơn Chúa! Và Buena Vista chỉ còn cách vài dặm.
Cảm thấy sự khẩn thiết của chuyến đi này, tài xế của cô tăng tốc. Gió quất mạnh vào cửa xe để mở. Bụi tung vào mặt cô. Cô với tay giật cửa kính xuống. Đột nhiên cô cảm thấy chiếc xe ngoặt sang bên trái để vượt qua một chiếc xe khác đi chậm hơn. Cô nhìn lên và kinh hoàng nhận ra họ đang ở trước một khúc cua.
– Senor! Más despacio! – cô nói. – Đi chậm lại!
Giờ thì họ đi bằng với chiếc xe kia. Chiếc taxi đã vọt lên trên, người lái xe không chịu nhường đường. Con đường trước mặt uốn về phía bên trái và khuất tầm mắt.
– Đừng vượt qua! – cô hét. – Làm ơn, đừng! – cô nhìn thẳng về phía trước và chết cứng khi nhìn thấy ánh đèn sáng chói của một chiếc xe khác.
Cô đưa tay lên che mặt, chắn luồng sáng của ánh đèn đó. Nhưng cô không thể ngăn lại tiếng bánh xe két trên đường và tiếng kêu thất thanh của chính mình khi những chiếc đèn pha đó nhảy chồm lên họ.
Ngày mùng 3 tháng 8
Từ chỗ ngồi sau ô kính phân cách của bảo tàng đông đúc dành cho khách tham quan, Jack nhìn thấy rõ phòng điều hành. Các bảng điều khiển đều đã có người. Các điều hành viên đều đã quần áo chỉnh tề để xuất hiện trước ống kính truyền hình. Mặc dù những người đàn ông và phụ nữ đang làm việc bên dưới có thể đang tập trung cao độ vào nhiệm vụ của mình nhưng họ không bao giờ quên đi là họ đang bị quan sát và con mắt công chúng đang dồn hết về họ. Mỗi cử chỉ, mỗi cái lắc đầu lo lắng có thể bị nhìn thấy qua tấm kính ngăn cách ngay sau lưng họ. Mới năm ngoái, Jack đã là người làm việc tại bảng điều khiển dành cho bác sĩ trên chuyến bay trong suốt thời gian phóng tàu con thoi và anh cảm thấy ánh mắt của những kẻ lạ mặt như một thứ hơi nóng lờ mờ nhưng rất khó chịu đè nặng lên phía sau cổ. Anh biết những người dưới kia bây giờ đang cảm thấy thế nào.
Không khí trong phòng điều hành bay có vẻ bình tĩnh như băng và những giọng nói trên loa liên lạc cũng vậy. Đó là hình ảnh mà NASA luôn cố gắng duy trì, hình ảnh của những chuyên gia đang làm việc, mà còn làm rất tốt nữa. Điều công chúng hiếm khi thấy là những rắc rối phía sau phòng điều khiển, những hiểm họa đến gần, những mũi khoan nhiệt của Trung Quốc khi mọi chuyện trở nên rắc rối và mọi người loạn lên.
Không phải là hôm nay, anh nghĩ, Carpenter sẽ cầm lái. Mọi chuyện sẽ phải ổn thôi.
Giám đốc điều hành bay Randy Carpenter dẫn đầu đoàn bay chính thức. Anh đã đủ lớn và kinh nghiệm và đã chứng kiến đủ loại rắc rối trong suốt sự nghiệp của mình. Anh tin rằng những thảm họa trên các chuyến bay tàu con thoi thường không chỉ do một trục trặc chính mà là một chuỗi các vấn đề nhỏ tích tụ lại cho đến khi chúng dẫn đến một thảm họa thật sự. Do đó, anh là người rất khắt khe trong từng chi tiết, một người mà đối với anh mỗi vấn đề đều là một thảm họa tiềm ẩn. Đội của anh phải ngước nhìn anh theo đúng nghĩa đen của từ đó. – vì anh thực sự là một người khổng lồ, cao gần hai mét và nặng gần một trăm ba mươi lăm cân.
Gretchen Liu, nhân viên quan hệ quốc tế đang ngồi ở góc xa bên trái, bảng điều khiển cuối cùng. Jack nhìn thấy cô quay lại và nở một nụ cười chứng tỏ mọi việc đều suôn sẻ với những người ngồi trong phòng trưng bày. Hôm nay cô mặc một bộ quần áo đẹp nhất để lên ti-vi, một bộ quần áo màu xanh hải quân và một chiếc khăn lụa màu xám. Nhiệm vụ này đã khiến cả thế giới chú ý và hầu hết các tờ báo đã tụ về khu phóng tàu tại mũi Canaveral. Tại phòng điều hành của Trung tâm vũ trụ Johnson, có đủ phóng viên để làm chật kín phòng trưng bày.
Mười phút đếm ngược sắp đến. Trên đài, họ nghe thấy các thông báo chính thức cuối cùng về thời tiết và việc đếm ngược bắt đầu. Jack cúi về phía trước, các cơ của anh co lại khi những giây cuối cùng cho việc việc phóng tàu đến. Năm ngoái, khi anh phải tạm biệt chương trình vũ trụ, anh nghĩ anh đã bỏ lại tất cả phía sau. Nhưng giờ anh lại ở đây và lại sôinổi như xưa. Đó là giấc mơ. Anh hình dung ra phi hành đoàn được gắn chặt vào ghế ngồi, con tàu rung chuyển dữ dội dưới chân họ khi các thùng chứa ô-xi và hy-đrô tăng áp suất. Anh nghĩ về nỗi sợ bị giam giữ của họ khi họ đóng tấm kính chắn lại. Tiếng thở bình ô-xi xì xì và mạch họ đập nhanh hơn.
– Chúng ta đã kích hoạt động cơ đẩy tên lửa bằng chất lỏng. – nhân viên quan hệ công chúng thông báo trong phòng điều khiển phóng tàu của Trung tâm vũ trụ Kennedy. – Phóng! Chúng ta đã phóng! Việc điều hành giờ giao lại cho Trung tâm vũ trụ Johnson tại Houston…
Khi tìm khắp màn hình trung tâm, con tàu đi lượn về phía tây dọc theo hành trình bay đã định trước. Jack vẫn căng thẳng, tim đập rất nhanh. Trên các màn hình ti-vi được treo trên phòng trưng bày, những hình ảnh về tàu con thoi đang được truyền đến từ Kennedy. Sự liên lạc giữa tổng điều hành viên và thuyền trưởng Kittredge được bật trên loa. Tàu Discovery đã chuyển mình và đang leo lên những tầng khí cao hơn. Ở trên đó, bầu trời trong xanh sẽ nhanh chóng bị màu đen của vũ trụ lấn chiếm.
– Mọi chuyện có vẻ ổn. – Gretchen nói qua bộ đàm. Họ nhận ra sự vui mừng trong giọng nói của cô vì việc phóng tàu đã diễn ra hoàn hảo. Tính đến giờ phút này thì nó hoàn hảo. Đó là ngay khi qua điểm cực đại Q, qua việc tháo thiết bị đốt tên lửa và tắt động cơ chính.
Trong phòng điều hành bay, giám đốc điều hành bay Carpenter đứng bất động. Mắt ông dán chặt vào màn hình trước mặt.
– Tàu Discovery, các bạn sẽ chuẩn bị phóng lên. – Trưởng tàu nói.
– Rõ, Houston. – Kittredge nói. – Chúng tôi đã sẵn sàng.
Cái đầu to tướng của Carpenter đột nhiên lắc mạnh mách bảo với Jack là có điều gì đó đã thay đổi. Trong phòng điều hành bay, một hành động nào đó thay đổi dường như đã khiến toàn bộ các viên điều hành bay bận rộn hẳn lên. Vài người còn quay ngang sang nhìn Carpenter. Đôi vai thõng xuống của anh thường đã đủ khiến người ta để ý. Gretchen ấn tay vào tai nghe khi lắng nghe chăm chú trên bộ đàm.
Có trục trặc gì đó, Jack nghĩ.
Đường dây liên lạc giữa tàu và trái đất vẫn tiếp tục được phát trên phòng trưng bày.
– Discovery. – tổng chỉ huy nói. – Kỹ sư hệ thống bảo trì, kỹ thuật của phi hành đoàn báo cáo các cửa giữa không thể đóng được. Xin xác nhận.
– Rõ, chúng tôi xác nhận. Các cánh cửa không đóng lại.
– Đề nghị các bạn điều khiển bằng tay.
Căn phòng im lặng một cách đáng sợ. Rồi họ nghe thấy Kittredge nói.
– Houston, giờ chúng tôi đã ổn. Các cánh cửa vừa được đóng.
Chỉ đến khi Jack thở mạnh một hơi anh mới nhận ra mình đã nín thở. Đến giờ phút này, đó là trục trặc đầu tiên. Anh nghĩ mọi chuyện khác đều hoàn hảo. Nhưng ảnh hưởng của mức độ adrenalin tăng đột ngột vẫn còn đâu đó và tay anh vã mồ hôi. Họ vừa được nhắc nhở rất nhiều việc có thể trục trặc. Và anh không thể rũ bỏ hết cảm giác khó chịu mới mẻ này.
Anh cúi xuống nhìn phòng điều hành bay và băn khoăn không biết Randy Carpenter, người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc nhất có cảm thấy điềm gở báo trước như anh không.
Ngày mùng 4 tháng 8
Như thể đồng hồ sinh học trong não anh đã tự động cài đặt lại, thay đổi vòng quay ngủ và thức của anh để khiến anh tỉnh giấc lúc 1 giờ sáng. Jack nằm trên giường, mắt mở to, ánh sáng của chiếc đồng hồ phát quang chiếu vào anh. Như tàu con thoi Discovery, anh nghĩ, mình đang chạy đua để đuổi kịp Trạm vũ trụ quốc tế, để đuổi kịp Emma. Toàn bộ cơ thể anh đang đồng bộ hóa cùng cô. Một tiếng nữa, cô sẽ thức giấc và ngày làm việc của cô sẽ bắt đầu. Còn Jack thì ở đây, đã thức và nhịp sinh học của họ song song với nhau.
Anh không cố ngủ tiếp mà thức dậy và mặc quần áo.
Một rưỡi, Trung tâm nhiệm vụ bay có những tiếng làm việc ầm ĩ lặng lẽ. Đầu tiên, anh nhìn phòng điều hành bay, nơi các điều khiển viên tàu con thoi đang ngồi. Đến nay chưa có rắc rối nào xảy ra trên tàu Discovery.
Anh xuống đại sảnh, vào phòng Điều hành phương tiện đặc biệt. Đây là phòng tách biệt dành riêng cho Trạm vũ trụ quốc tế. Nó nhỏ hơn nhiều so với phòng điều hành bay và có hệ thống bảng điều khiển cũng như nhân sự riêng.
Jack đi thẳng về phía bảng điều khiển các bác sĩ trên chuyến bay và ngồi xuống chiếc ghế cạnh bác sĩ Roy Bloomfeld đang trực. Bloomfeld ngạc nhiên khi thấy anh.
– Chào Jack! Tôi nghĩ anh đã thực sự quay lại với chương trình này.
– Không thể đứng nhìn được.
– Ồ, không thể là vì tiền được. Vậy chắc chắn là do sự hồi hộp của công việc. – Anh ngả về sau và ngáp. – Đêm nay chẳng có mấy điều thú vị đâu.
– Bệnh nhân vẫn ổn định à?
– Mười hai tiếng qua vẫn vậy. – Bloomfeld hất đầu về phía các báo cáo y khoa trên bảng điều khiển. Các đường điện tâm đồ và huyết áp của Kenichi Hirai chập chờn trên màn hình. – Nhịp tim giờ rất ổn định.
– Không có biến chuyển gì mới à?
– Báo cáo tình hình mới nhất cách đây bốn giờ. Cơn đau đầu cửa anh ấy ngày càng nặng thêm và anh ấy vẫn bị sốt cao. Các thuốc kháng sinh dường như không có tác dụng gì nhiều. Chúng tôi đang đau đầu vì điều này.
– Emma có ý kiến gì không?
– Lúc này, cô ấy có lẽ quá kiệt sức để suy nghĩ rồi. Tôi đã bảo cô ấy chợp mắt một lúc vì chúng tôi có thể quan sát màn hình. Đến giờ vẫn chán lắm. – Bloomfeld lại ngáp. – Nghe này, tôi phải đi vệ sinh đã. Anh trông chừng màn hình giúp tôi một phút nhé?
– Không có gì.
Bloomfeld rời khỏi phòng và Jack đeo tai nghe vào. Anh cảm thấy rất thân thuộc và tuyệt vời khi lại ngồi trước bảng điều khiển, lại nghe thấy những cuộc nói chuyện thì thầm giữa các điều khiển viên khác, lại nhìn thấy màn hình chính. Trên đó, đường bay theo quỹ đạo của Trạm vũ trụ vệt thành một sóng hình sin ngang bản đồ. Đây có thể không phải là chỗ ngồi trên tàu con thoi nhưng nó cũng gần như vậy. Mình sẽ không bao giờ chạm vào những vì sao được nhưng mình có thể ở đây và nhìn những người khác làm điều đó. Anh thật sự sửng sốt khi nhận ra sự thật đó, nhận ra rằng anh đã chấp nhận bước ngoặt cay đắng trong cuộc đời mình. Anh nhận ra rằng anh có thể đứng bên ngoài giấc mơ xưa của mình và vẫn có thể tận hưởng viễn cảnh đó từ xa.
Jack thấy nhẹ nhõm. Chẳng có gì phải lo, anh nhận ra đó chỉ là một thứ đồ điện bình thường. – có lẽ là một tấm chì điện tâm đồ bị lỏng. Đường đo huyết áp vẫn hiện trên màn hình, không thay đổi gì. Có lẽ bệnh nhân đã tháo ra hay vô tình làm rơi một đầu chì. Hay có lẽ Emma đã ngắt kết nối màn hình để anh ấy đi vệ sinh. Giờ đường đo huyết áp đột nhiên bị ngắt. – thêm một điều nữa cho thấy Kenichi đã không còn hiện ra trên màn hình nữa. Anh nhìn màn hình lâu hơn nữa và mong những thông tin đó lại hiện lên.
Nhưng chúng không hiện lên nữa và anh chộp ngay lấy bộ đàm.
– Đội trưởng, bác sĩ điều hành bay đây. Tôi thấy có một cục chì bị lỏng trên điện tâm đồ của bệnh nhân.
– Tấm chì bị lỏng à?
– Có vẻ như anh ấy đã bị ngắt kết nối với màn hình. Các đường điện tâm đồ không còn chạy ngang màn hình nữa. Anh có thể kiểm tra Emma để xác nhận không?
– Được rồi. Tôi sẽ gọi cho cô ấy.
Một tiếng kêu nhẹ khiến Emma choàng tỉnh trong giấc ngủ chập chờn. Cô tỉnh dậy vì hơi nước lạnh trên mặt. Cô không định chợp mắt. Mặc dù Trung tâm điều khiển nhiệm vụ vẫn liên tục theo dõi điện tâm đồ của Kenichi trên máy đo sinh học và sẽ thông báo với cô nếu có bất cứ thay đổi gì nhưng cô đã định thức trong suốt thời gian đã được lên lịch ngủ cho cả phi hành đoàn. Nhưng hai ngày qua, cô chỉ nghỉ ngơi qua loa. Và những lần nghỉ ngơi đó thường bị các phi hành gia cùng đoàn ngắt đoạn. Họ đánh thức cô và hỏi tình hình người bệnh. Cuối cùng cô đã quen với sự mệt mỏi và tình trạng nghỉ ngơi hoàn toàn trong môi trường không trọng lượng. Điều cuối cùng cô nhớ là nhìn thấy nhịp tim của Kenichi hiện lên ngang màn hình thành những đường vòng vèo như thôi miên, đường đó mờ dần thành màu xanh lục, rồi màu đen.
Cô thấy một vệt nước lạnh bám vào má, cô mở mắt và thấy một giọt nước trôi lơ lửng về phía mình, cuộn trong đó là bảy sắc cầu vồng. Cô ngạc nhiên mất vài giây rồi mới hiểu mình đang nhìn cái gì. Rồi mấy giây sau cô mới để ý thấy hàng chục giọt nước khác đang nhảy nhót quanh cô như những đồ trang trí đêm Giáng sinh.
Rồi một giọng nói bình tĩnh rè rè trong bộ đàm.
– À, cô Watson, chỉ huy đây. Chúng tôi không muốn đánh thức cô nhưng chúng tôi cần xác nhận tình hình điện tâm đồ của bệnh nhân.
Giọng cô khàn khàn mệt mỏi. Cô trả lời.
– Tôi thức rồi, thưa chỉ huy. Tôi nghĩ vậy.
– Màn hình sinh học cho thấy có vấn đề với điện tâm đồ. Các bác sĩ dưới này nghĩ là cô đã để lỏng một đầu chì.
Cô đã bị trôi đi và quay tròn trong không trung trong khi ngủ quên.
Giờ cô định hướng lại về phía khoang tàu và trở về chỗ bệnh nhân.
Túi ngủ của anh ấy trống rỗng. Chiếc ống thở bị tháo trôi tự do, một đầu ống thông đường tiểu nhỏ những giọt nước lấp lánh vào không khí. Các đường dây điện cực lơ lửng thành một đám rối tung.
Ngay lập tức cô đóng ống bơm chất truyền và nhìn quanh.
– Chỉ huy, anh ấy không có ở đây. Anh ấy đã ra khỏi khoang! Chờ đã!
Cô đẩy cánh cửa, lao vào nút số 2 dẫn đến các phòng thí nghiệm NASDA của Nhật và Hãng Hàng không Vũ trụ châu Âu. Cô nhìn qua các cánh cửa và biết ngay anh không có ở đây.
– Cô đã tìm thấy anh ấy chưa? – chỉ huy lo lắng.
– Chưa. Tôi đang tìm.
Anh ấy có mất phương hướng và lang thang không biết ở đâu không? Cô tìm lại trong phòng thí nghiệm của Mỹ và lao thẳng qua cánh cửa dẫn qua nút. Một giọt nước vụt qua mặt cô. Cô lau chất lỏng đó và kinh hãi khi thấy ngón tay mình dính máu.
– Chỉ huy, anh ấy đã trôi qua nút số 1. Anh ấy bị chảy máu từ chỗ gắn ống truyền.
– Tôi khuyên cô nên đóng các đường thông khí giữa các khoang.
– Rõ! – Cô lướt qua cánh cửa sang phòng sinh hoạt. Ánh sáng trong phòng lờ mờ và cô thấy Griggs và Luther. Cả hai đều ngủ và bị khóa trong túi ngủ của họ. Không thấy Kenichi.
Đừng hoảng, cô nghĩ khi đóng đường thông khí giữa các khoang. Động não đi! Anh ấy có thể đi đâu được?
Có lẽ đã quay về chỗ ngủ, tại khoang của Nga trên Trạm vũ trụ quốc tế.
Cô không đánh thức Griggs và Luther. Cô rời phòng sinh hoạt và nhanh chóng đi về phía đường hầm có các khoang và nút thông nhau. Cô đưa mắt sang trái, rồi sang phải cố tìm bệnh nhân bỏ trốn.
– Chỉ huy, tôi vẫn chưa thấy anh ấy. Tôi đang đi quađường hầm Zarya và về phía khoang dịch vụ của Nga.
Cô bước vào khoang dịch vụ của Nga, chỗ Kenichi thường ngủ. Dưới ánh sáng lờ mờ, cô thấy cả Diana và Nicolai đều ngủ, lơ lửng như thể bị chết đuối và hai taybuông thõng tuột ra khỏi túi ngủ. Chỗ của Kenichi vẫn trống không.
Nỗi lo lắng của cô chuyển sang sợ hãi.
Cô lắc Nicolai. Anh từ từ thức dậy và mãi một lúc sau anh mới hiểu cô đang nói gì.
– Tôi không thể tìm thấy Kenichi. – cô nhắc lại. – Chúng ta cần tìm hết các khoang.
– Watson. – chỉ huy nói với cô qua bộ đàm. – Các báo cáo kỹ thuật cho thấy có một dị vật khác thường trong buồng chặn khí, nút số 1. Hãy kiểm tra tình hình.
– Dị vật gì?
– Các báo cáo chập chờn cho thấy cánh cửa giữa các thiết bị và ổ khóa có thể chưa an toàn tuyệt đối.
Kenichi. Anh ấy trong buồng chặn khí.
Nicolai đi ngay sau cô, cô lao như một chú chim dọc theo Trạm vũ trụ vào nút số 1. Cô nhìn chằm chằm qua cánh cửa mở và ổ khóa thiết bị, Emma giật mình khi thoáng thấy một cái gì đó trông giống như ba bóng người. Hai trong số đó chỉ là hai bộ áo khoác không gian, các thân hình cứng đơ đó treo mình trên các bức tường khóa khí để dễ mặc quần áo.
Kenichi lơ lửng trong không trung, cả người anh gập cong về phía sau và đang co giật rối loạn.
– Giúp tôi đưa anh ấy ra khỏi đây. – Emma kêu lên. Cô bay về phía sau anh, chân đạp vào cánh cửa bên ngoài và đẩy anh về phía Nicolai. Họ đưa anh về phía phòng thí nghiệm, ở đó các thiết bị đã được sắp xếp hết.
– Chỉ huy, chúng tôi đã tìm thấy bệnh nhân. – Emma thông báo. – Anh ấy hình như đang co thắt… tệ lắm! Tôi cần liên lạc với một bác sĩ.
Emma giật mình khi nghe thấy một giọng nói quen thuộc ở đầu dây bên kia.
– Này, Em. Anh nghe nói em gặp rắc rối trên đó.
– Jack à? Anh đang làm gì…
– Bệnh nhân của em sao rồi?
Vẫn chưa hết hoảng, cô tập trung chú ý vào Kenichi. Ngay cả khi đã khởi động lại máy trợ thở và nối các dây điện tâm đồ, cô vẫn băn khoăn không biết Jack đang làm gì trong phòng điều khiển nhiệm vụ bay. Anh đã không còn ngồi trước bảng điều khiển của bác sĩ điều hành bay một năm nay, giờ anh lại ở đấy và nói chuyện với cô qua bộ đàm. Giọng anh thật bình tĩnh, thậm chí có vẻ trịnh trọng khi anh hỏi về tình hình của Kenichi.
– Anh ấy vẫn co thắt à?
– Không. Giờ anh ấy đang giãy giụa rất mạnh… anh ấy chống lại chúng tôi.
– Các dấu hiệu chính thì sao?
– Mạch nhanh… 120… 130. Anh ấy đang thở.
– Tốt, ít nhất thì anh ấy vẫn thở.
– Giờ chúng tôi mới nối điện tâm đồ. – cô nhìn lên màn hình, nhìn những đường tim chạy dọc màn hình. – Quá nhanh, mạch một trăm hai mươi bốn lần trên phút.
– Tôi đã thấy trên màn hình.
– Giờ sẽ đo huyết áp. – cô đóng khóa dán lại và nghe mạch đập trên cánh tay… chín lăm trên sáu mươi. Không nguy hiểm lắm.
Cô ngạc nhiên khi bị huých một cái. Cô hét to vì đau khi cánh tay của Kenichi gạt mạnh ra và đánh ngang miệng cô. Cô bị bật ra và bay sang đầu bên kia khoang, đập vào bức tường đối diện.
– Emma? – Jack gọi. – Emma?
Cô vẫn còn sợ, đưa tay lên sờ môi bị đau nhói.
– Cô ấy bị chảy máu. – Nicolai thông báo.
Trên bộ đàm, cô nghe thấy Jack yêu cầu như đang phát điên.
– Chuyện quái gì đang xảy ra trên đó vậy?
– Em ổn. – cô lầm bầm và tức giận nhắc lại. – Em ổn, Jack ạ. Đừng sợ!
Nhưng đầu cô vẫn quay cuồng vì cú đấm. Khi Nicolai buộc Kenichi vào bàn giữ bệnh nhân, cô dừng lại, chờ cho hết chóng mặt. Lúc đầu, cô không thể hiểu nổi Nicolai đang nói gì.
Rồi cô nhận thấy mắt anh có vẻ hoài nghi.
– Nhìn bụng anh ấy xem! – Nicolai thì thầm. – Nhìn đi!
Emma lại gần.
– Cái quái gì thế? – cô thì thào.
– Hãy cho anh biết, Emma. – Jack nài nỉ. – Có chuyện gì thế?
Cô nhìn chằm chằm vào cái bụng của Kenichi. Trên đó, lớp da hình như gợn lăn tăn và đang sôi.
– Có thứ gì đó đang chuyển động… dưới lớp da của anh ấy.
– Em nói sao? Chuyển động à?
– Trông như những bó cơ. Nhưng nó đang đi ngang bụng.
– Không phải là do nhu động à?
– Không. Nó đang di chuyển lên trên. Nó không đi theo đường ruột. – Cô ngừng lại. Những biến động đó đột nhiên dừng lại. Cô chằm chằm nhìn vào bề mặt mịn và không biến đổi gì trên bụng Kenichi.
Các bó cơ, cô nghĩ. Các sợi cơ co thắt lại không theo trật tự nào. Đó gần như là cách giải thích duy nhất, trừ một chi tiết: các bó cơ không tạo thành sóng.
Đột nhiên hai mắt Kenichi mở trừng trừng và anh nhìn Emma.
Báo động về tim đột ngột réo lên. Emma quay sang nhìn máy điện tâm đồ chạy lên xuống trên màn hình.
– Hãy xung tim! – Jack hét.
– Em thấy rồi, em thấy rồi! – cô bật nút sạc điện cho máy xung tim rồi bắt động mạch cảnh.
Nó đây rồi, rất yếu và khó bắt.
Hai mắt Kenichi trợn lên và chỉ còn nhìn thấy màng cứng đỏ như máu. Anh vẫn đang thở.
Cô cầm hai tấm xung điện tim, đặt hai tấm lên ngực anh và ấn các nút ngắt điện. Luồng điện mạnh một trăm Jun truyền qua cơ thể Kenichi.
Các thớ cơ của anh cuộn lại mạnh mẽ và co giật liên tục. Hai chân anh đạp lên tấm ván. Chỉ có các dây buộc mới giúp anh không bay sang đầu bên kia khoang.
– Vẫn trong tình trạng xung tim. – Emma thông báo.
Diana bay vào khoang.
– Tôi có thể làm được gì? – cô hỏi.
– Đi chuẩn bị lidocain! – Emma nói nhanh. – Trong ngăn kéo các dụng cụ y tế, bên phải!
– Thấy rồi.
– Anh ấy không thở nữa! – Nicolai nói.
Emma chụp lấy túi cấp cứu và nói.
– Nicolai, ôm chặt lấy tôi!
Anh bay đến bên cô, ấn chặt chân vào bức tường đối diện, lưng anh ấn chặt vào Emma để giữ cô đứng yên khi cô đeo mặt nạ ô-xi. Trên trái đất, việc hô hấp nhân tạo bằng phổi đã đủ vất vả rồi, trong môi trường trọng lực siêu nhỏ thì đó là một cơn ác mộng của các động tác nhào lộn. Các thiết bị lơ lửng, các ống dây cuộn lại và rối tung trong không khí, các xy-lanh chứa đầy các loại thuốc quý trôi đi. Một động tác đơn giản là ấn tay xuống ngực nạn nhân cũng có thể khiến người ta bay sang đầu bên kia phòng. Mặc dù phi hành đoàn đã thực hành tình huống này nhưng không sự tập luyện nào có thể tái hiện các tình huống hỗn loạn thực sự khi nhiều người bay loạn xạ trong một môi trường giới hạn và chạy đua với đồng hồ của một trái tim đang chết dần.
Khi đã đeo mặt nạ trên miệng và mũi Kenichi, cô bóp mạnh túi cấp cứu, đẩy khí ô-xi vào hai lá phổi. Đường điện tâm đồ vẫn tiếp tục chạy ngang màn hình.
– Một ampe chất lidocain đã được bơm vào ống thở. – Diana nói.
– Nicolai, xung tim lần nữa! – Emma yêu cầu.
Sau một lúc chần chừ chóng vánh, anh lấy hai tấm xung điện, đặt chúng lên ngực Kenichi và ấn nút ngắt điện. Lần này, hai trăm Jun cuộn khắp tim Kenichi.
Emma nhìn màn hình.
– Anh ấy sắp bị rung tim! Nicolai, hãy ấn tim đi! Tôi sẽ luồn ống khí.
Nicolai bỏ hai tấm xung điện và chúng trôi nổi, đung đưa ở cuối đầu dây. Ấn chân vào bức tường đối diện của khoang thí nghiệm, anh phải đặt hai lòng bàn tay mình lên xương ức của Kenichi nhưng đột nhiên anh buông hai tay ra.
Emma nhìn anh.
– Gì thế?
– Ngực anh ấy. Nhìn ngực anh ấy xem!
Họ nhìn chằm chằm vào đó.
Da ngực của Kenichi đang sôi sùng sục và cuộn lên. Những điểm tiếp xúc, nơi các tấm xung điện tạo ra các luồng điện, hai vòng tròn cuộn lên đã hình thành và bây giờ đang lan ra trông như những gợn sóng lăn tăn khi ném một viên đá xuống nước.
– Tiêm asystol! – Jack hét qua bộ đàm.
Nicolai vẫn bất động, không rời mắt khỏi ngực Kenichi.
Emma nhảy ngay vào chỗ đó, ấn lưng vào Nicolai.
Tim đã ngừng đập. Anh ấy sẽ chết nếu không được ép tim.
Cô thấy không có gì chuyển động, không có gì bất thường. Chỉ là một tấm da trải dài và bọc lấy những chỗ xương xẩu trên ngực anh. Các bó cơ, cô nghĩ. Chắc chắn là nó, không thể có cách giải thích nào khác. Cô tựa mình vào một điểm, cô bắt đầu ép ngực. Hai tay cô thực hiện các động tác cần thiết trên ngực Kenichi để bơm máu vào các cơ quan quan trọng trong cơ thể anh.
– Diana, bơm vào một ampe ống khí. – cô yêu cầu.
Diana tiêm thuốc vào ống thở.
Tất cả bọn họ đều nhìn màn hình, mong đợi và cầu cho có một đốm sáng trên đó.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!