Titanic - Trong Vũ Trụ
Chương 27
Khác với Phòng điều hành nhiệm vụ của NASA, đây rõ ràng là một hệ thống điều hành nhỏ lẻ và rẻ tiền. Sàn nhà chỉ làm bằng bê tông. Các cuộn dây điện và dây cáp treo khắp nơi. Một con mèo rất to đang tìm đường đi trong đống thiết bị điện.
Profitt đi đến bảng điều khiển và thấy các dữ liệu được truyền đến.
– Tình hình tàu thế nào rồi? – ông hỏi.
Một trong những người của Gregorian làm nhiệm vụ điều hành bay ở Bộ tư lệnh Không quân Mỹ nói.
– Nó đã đốt gần hết nhiên liệu, thưa ngài. Giờ nó đang đến điểm gốc. Nó có thể hạ cánh xuống Trạm vũ trụ quốc tế trong vòng bốn mươi lăm phút nữa.
– Dừng ngay việc đó lại!
– Không! – Gordon Obie nói. Ông đứng tách ra và bước về phía trước. – Không được làm vậy! Ông không hiểu đâu…
– Không được cứu phi hành đoàn trên trạm. – Profitt nói.
– Đó không phải là nhiệm vụ cứu người!
– Vậy con tàu lên đó làm gì? Rõ ràng nó định hạ cánh xuống Trạm vũ trụ quốc tế.
– Không, nó sẽ không làm vậy. Nó không thể làm được. Nó không có hệ thống hạ cánh, không có cách nào để nối với trạm. Sẽ không thể có việc nhiễm bệnh từ trạm sang con tàu.
– Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi, ông Obie. TàuApogee II đang làm gì trên đó?
Gordon ngập ngừng.
– Nó chỉ tiến lại gần trạm. Thế thôi! Đây là một cuộc thử nghiệm khả năng tiến lại gần của tàu Apogee.
– Thưa ngài. – nhân viên điều hành bay của Bộ tư lệnh không quân nói. – Tôi thấy một điều bất thường ở đây.
Profitt quay phắt lại phía bảng điều khiển.
– Chuyện bất thường gì?
– Áp suất trong buồng lái. Nó chỉ ở mức tám at-mốt-phe. Lẽ ra phải là mười bốn phẩy bảy. Hoặc là con tàu bị rò rỉ ở đâu đó, hoặc là họ cố tình hạ áp cho nó.
– Áp suất thấp như vậy bao lâu rồi?
Nhân viên đó nhanh chóng gõ một dòng lệnh trên bàn phím, một văn bản hiện ra, cho thấy áp suất liên tục trong buồng lái.
– Theo như máy tính của họ, buồng lái đã được duy trì áp suất ở mức mười bốn phẩy bảy trong mười hai giờ đầu sau khi phóng tàu. Sau đó, ba mươi sáu tiếng trước, áp suất được hạ xuống mười phẩy hai và được giữ cho đến một tiếng trước. – đột nhiên anh ta hếch cằm lên. – Thưa ngài, tôi biết họ định làm gì! Rõ ràng đây là một loại tàu chưa từng có!
– Tại sao?
– Nó có thể giúp con người đi bộ trong vũ trụ. – Anh ta nhìn Profitt. – Tôi nghĩ có ai đó trên tàu.
Profitt quay về phía Gordon Obie.
– Ai ở trên tàu? Ông đã đưa ai lên đó?
Gordon thấy không thể giấu được nữa. Ông thú nhận.
– Đó là Jack McCallum. – chồng của Emma Watson.
– Vậy đây là nhiệm vụ cứu người. – Profitt nói. – Các ông định làm gì? Anh ta sẽ ra ngoài vũ trụ, sau đó thì sao?
– Sau đó anh ấy sẽ sử dụng thiết bị hỗ trợ trở lại tàu. Bộ quần áo cỡ M anh ấy đang mặc có thiết bị đó. Anh ấy dùng nó để đi từ tàu Apogee II sang Trạm vũ trụ quốc tế. Anh ấy sẽ vào trạm qua phòng chặn khí.
– Anh ta sẽ tìm và đưa vợ mình về.
– Không. Đó không phải là kế hoạch của chúng tôi. Nghe này, anh ấy hiểu. – tất cả chúng tôi đều hiểu. – tại sao cô ấy không được trở về. Jack lên đó chỉ để mang vi rút Rana cho cô ấy.
– Nếu vi rút đó không có tác dụng thì sao?
– Đây là trò cá cược.
– Anh ta sẽ tiếp xúc với Trạm vũ trụ quốc tế. Chúng tôi sẽ không bao giờ cho anh ta trở về.
– Anh ấy không định trở về! Con tàu sẽ quay về và không có anh ấy. – Gordon dừng lại, nhìn thẳng vào Profitt. – Đó là chuyến đi một chiều và Jack biết điều đó. Anh ấy chấp nhận thỏa thuận đó. Vợ anh ấy đang chết dần trên đó! Anh ấy sẽ không và không thể để cô ấy chết một mình.
Profitt sửng sốt không nói lời nào. Ông nhìn bảng điều khiển, màn hình đầy các dữ liệu. Khi mỗi giây trôi qua, ông lại nghĩ về vợ mình, Amy đang hấp hối ở bệnh viện Bethedas. Ông nhớ mình đã lái xe như điên đến sân bay Denver để bắt chuyến bay tiếp theo về nhà. Ông nhớ mình đã tuyệt vọng thế nào khi ông đến cổng, hết hơi và nhìn máy bay cất cánh. Ông nghĩ chắc chắn sự tuyệt vọng đó đã thúc đẩy McCallum. Ông tưởng tượng ra sự đau đớn khi phải vất vả lắm mới tiến đến gần mục tiêu được, rồi lại thấy nó tuột khỏi tầm tay.
Ông nghĩ. Việc này sẽ không gây bất lợi cho bất cứ ai trên trái đất, không ai khác ngoài McCallum. Anh ta đã quyết định và hoàn toàn hiểu hậu quả. Mình có quyền gì mà ngăn cản anh ta?
Ông nói với nhân viên điều hành bay của Bộ tư lệnh Không quân.
– Hãy trao lại quyền điều hành cho Apogee! Hãy để họ thực hiện nhiệm vụ này!
– Thưa ngài?
– Tôi đã nói rồi, hãy để con tàu tiếp tục lại gần trạm!
Mọi người đều sửng sốt và im lặng. Rồi các nhân viên điều hành của Apogee trở về chỗ ngồi.
– Ông Obie. – Profitt quay về phía Gordon. – Ông biết là chúng tôi sẽ theo dõi mọi động thái của McCallum. Tôi không phải là kẻ thù của các vị. Nhưng tôi chịu trách nhiệm về những lợi ích lớn hơn và tôi sẽ làm những việc cần làm. Nếu tôi phát hiện thấy các vị có ý định đưa một trong hai người đó về, tôi sẽ ra lệnh bắn hạ tàu Apogee II.
Gordon Obie gật đầu.
– Tôi cũng mong ông sẽ làm vậy!
– Vậy là cả hai ta đều hiểu mình đang đứng ở đâu. – Profitt hít sâu, quay về phía bảng điều khiển. – Giờ, hãy tiếp tục đưa anh ta đến chỗ vợ đi!
Jack lơ lửng ở rìa không gian vô tận.
Dù tập luyện đi bộ trong thiết bị rèn luyện môi trường không trọng lượng bao lâu thì anh cũng không thể xóa hết bản năng sợ hãi của mình. Người anh cứng đơ khi anh nhìn vào không gian bất tận. Anh mở cánh cửa dẫn đến trạm đỗ để chuyển các chuyến hàng. Thứ đầu tiên anh nhìn thấy qua cánh cửa là trái đất, như một giọt nước xanh dương bên dưới. Anh không thấy Trạm vũ trụ quốc tế. Nó đang bay trên đầu anh, khuất tầm nhìn. Để đến trạm, anh phải đi qua các cánh cửa của trạm đỗ và bay sang bên kia tàu Apogee II. Nhưng đầu tiên, anh phải cố quên bản năng đang la hét đòi anh trở về khoang chặn khí.
– Emma. – Anh nói. Tên cô vang lên như lời cầu nguyện lầm bầm. Anh hít sâu, chuẩn bị thả tay khỏi cửa và lao mình vào không gian.
– Apogee II, tôi là Chỉ huy liên lạc của Houston đây. Apogee… Jack… xin hãy trả lời!
Đường truyền qua điện đàm khiến Jack giật mình. Anh nghĩ sẽ không có liên lạc từ mặt đất. Khi Houston gọi tên mình anh nghĩ là bí mật đã bị lộ.
– Apogee, chúng tôi cần anh trả lời gấp.
Anh vẫn im lặng và không biết có nên xác nhận mình đã có mặt ở quỹ đạo không.
– Jack, chúng tôi đã được lệnh Nhà Trắng sẽ không can thiệp vào nhiệm vụ của anh. Miễn là anh nhớ một điều quan trọng. Đây là chuyến đi một chiều. – chỉ huy liên lạc dừng lại rồi nói khẽ. – Một khi anh đã lên Trạm vũ trụ quốc tế, anh sẽ không được quay về. Anh sẽ không thể về trái đất.
– Đây là tàu Apogee II. – cuối cùng Jack trả lời. – Tôi đã nhận và hiểu lời nhắn.
– Anh vẫn định tiếp tục sao? Hãy nghĩ lại.
– Anh nghĩ tôi lên đây để làm cái quái gì? Chỉ để ngắm cảnh à?
– Được, chúng tôi hiểu rồi. Nhưng trước khi lên trạm, anh nên biết việc này. Chúng tôi đã mất liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế sáu tiếng trước.
– Ý anh là sao? “Mất liên lạc à”?
– Emma không trả lời nữa.
Sáu tiếng, anh nghĩ. Đã có chuyện gì trong sáu tiếng qua? Họ đã phóng tàu cách đây hai ngày. Apogee II đã mất rất lâu mới bắt kịp Trạm vũ trụ và hoàn tất việc lại gần trạm. Trong suốt thời gian đó, anh đã mất liên lạc và không biết có chuyện gì trên trạm.
– Có thể anh đã đến quá muộn. Anh muốn nghĩ lại thì…
– Sức khỏe của cô ấy thế nào? – Anh ngắt lời. – Nhịp tim ra sao?
– Cô ấy không nối máy điện tâm đồ. Cô ấy đã ngắt mọi thiết bị.
– Vậy là anh cũng không biết. Anh cũng không thể cho tôi biết có chuyện gì trên đó.
– Trước khi ngắt liên lạc, cô ấy đã gửi cho anh một bức thư điện tử. – chỉ huy liên lạc khẽ nói. – Jack, cô ấy đã nói tạm biệt anh.
Không. Anh lập tức buông tay khỏi cánh cửa, đẩy mình khỏi khoang chặn khí và lao đầu về phía trạm đỗ. Không. Anh bắt được tay cầm, đấm mạnh vào cánh cửa và leo sang bên kia tàu Apogee II. Trạm vũ trụ bỗng xuất hiện ngay trước mặt anh, ở ngay đó, thấp thoáng ngay trước mặt. Nó đồ sộ và loằng ngoằng đến nỗi anh bị choáng ngợp. Rồi trong lúc vẫn còn hoảng loạn, anh nghĩ. Khoang chặn khí ở đâu? Mình không thấy khoang chặn khí! Có quá nhiều khoang, quá nhiều tấm năng lượng mặt trời trải khắp khu vực không gian rộng bằng hai sân bóng đá. Anh không thể định hướng được. Anh đã mất hướng và sửng sốt bởi diện tích của nó.
Rồi anh nhận ra thân tàu Soyuz thò ra. Anh đang ở dưới khoang dịch vụ Nga. Lập tức mọi thứ được sắp xếp theo trật tự. Anh nhìn khoang của Mỹ ở gần cuối trạm và xác định được khoang sinh hoạt của Mỹ. Ở gần cuối khoang là nút số 1 dẫn đến khoang chặn khí.
Anh đã biết đường đi.
Đã đến lúc thực hiện cú nhảy. Chỉ có bộ quần áo và dụng cụ đi bộ trong vũ trụ, anh sẽ vượt qua khoảng không vô tận đó mà không có dây buộc, không có thứ gì cố định anh lại. Anh khởi động ba lô có động cơ đẩy, nhảy khỏi tàuApogee và phóng về phía Trạm vũ trụ quốc tế.
Đây là lần đầu tiên anh đi bộ trong vũ trụ. Anh lóng ngóng, thiếu kinh nghiệm nên không thể tính chính xác mình gần mục tiêu mức nào. Anh đâm sầm vào thân tàu mạnh đến nỗi bật ra rồi lại đập vào liên tiếp. Anh hầu như không thể bám vào chỗ tay cầm.
Nhanh lên! Cô ấy sắp chết!
Sợ hãi đến cuống cuồng, anh leo dọc theo thân tàu. Hơi thở anh nặng nhọc và gấp gáp.
– Houston. – Anh hổn hển. – Tôi cần nói chuyện với bác sĩ. – Anh ấy có ở đó không?
– Rõ!
– Gần đến… tôi đã gần đến nút số 1.
– Jack, bác sĩ đây. – giọng nói của Todd Cutler rất khẩn trương. – Anh đã mất liên lạc trong hai ngày qua. Anh cần biết vài chuyện. Lần cuối cùng Emma tiêm liều thuốc hooc-môn kích dục màng ngoài ở người cách đây năm mươi lăm tiếng. Kể từ đó tình hình của cô ấy xấu đi rất nhanh. Nồng độ chất amilaza và nhịp tim tăng đột biến. Trong lần nói chuyện cuối cùng, cô ấy kêu bị đau đầu và mắt mờ. Việc đó xảy ra sáu giờ trước. Chúng tôi không rõ tình trạng hiện nay của cô ấy.
– Tôi đã đến cửa khoang chặn khí!
– Phần mềm điều khiển trên trạm đã chuyển sang chế độ dành cho người đi bộ trong vũ trụ. Anh sắp vào phòng điều áp.
Jack giật tung cánh cửa, lao vào phòng chặn khí. Khi xoay vòng bên ngoài cánh cửa, anh thoáng thấy tàu Apogee II. Nó đã bay mất. Con tàu cứu hộ duy nhất để đưa anh về giờ đã quay về mà không có anh. Anh đã vượt qua điểm không còn đường quay về.
Anh đóng và khóa cánh cửa.
– Van điều áp mở ra. – Anh nói. – Bắt đầu điều áp!
– Tôi đang cố dự báo trước cho anh điều xấu nhất. – Todd nói. – Phòng khi cô ấy…
– Nói với tôi điều gì thiết thực hơn đi!
– Được, được, đây là tin tức mới nhất từ Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm. Vi rút Nara dường như đã có tác dụng với những con vật trong phòng thí nghiệm. Nhưng nó chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu, nếu nó được tiêm trong vòng ba mươi sáu tiếng đầu sau khi bị bệnh.
– Nếu tiêm sau đó thì sao?
Cutler không trả lời. Sự im lặng của anh đã khẳng định điều tồi tệ nhất.
Áp suất trong phòng chặn khí đã tăng lên mười bốn at-mốt-phe. Jack mở cánh cửa ở giữa và lao vào phòng chứa thiết bị. Anh cuống cuồng tháo găng tay, cởi bộ quần áo Orlan cỡ M, lắc mình cho nó tuột ra. Anh lấy các gói chứa đồ y tế và những ống tiêm đã được bơm đầy vi rút Nara từ túi có khóa của bộ quần áo Orlan. Lúc này anh đang run vì sợ hãi. Anh sợ điều mình sắp thấy trên trạm. Anh mở cánh cửa trong cùng.
Anh đối diện với cơn ác mộng khủng khiếp nhất.
Emma đang trôi trong nút số 1 như một vận động viên bơi lội trôi trong biển đen. Chỉ có điều vận động viên này đang chết đuối. Chân tay cô co giật liên tục và đều đặn. Cơn co giật khiến xương sống của cô như gãy gập, đầu giật lên xuống liên tục. Tóc cô quất mạnh như một chiếc roi. Đây là cơn co giật của người sắp chết.
Không, anh nghĩ. Anh sẽ không để em chết. Khốn kiếp thật, Emma. Em không thể bỏ anh.
Anh ôm chặt lấy eo cô, kéo cô về khoang dịch vụ Nga ở cuối trạm, nơi vẫn còn năng lượng và ánh sáng. Toàn thân cô co giật như một đoạn dây sống bị điền truyền liên tục. Nó co giật trên tay anh. Cô thật nhỏ bé và yếu ớt nhưng lúc này sức mạnh truyền khắp cơ thể sắp kiệt sức của cô dường như còn mạnh hơn lực siết của anh. Anh chưa quen với môi trường không trọng lực. Anh va vào tường như người say khi cố đưa cả hai đến khoang dịch vụ Nga.
– Jack, hãy cho tôi biết. – Todd nói. – Có chuyện gì vậy?
– Tôi đang đưa cô ấy đến khoang dịch vụ Nga, đặt cô ấy lên tấm ván cố định bệnh nhân.
– Anh tiêm vi rút cho cô ấy chưa?
– Phải buộc cô ấy đã. Cô ấy đang co giật. – Anh buộc chặt các khóa dán lên ngực và hông cô, cố định toàn thân cô lên tấm ván. Đầu cô giật lên xuống liên tiếp, mắt lộn ngược như đang xoay tròn. Màng mắt cô đỏ rực trông rất sợ. Tiêm vi rút cho cô ấy! Phải làm ngay!
Có một tấm ga-rô được móc ở mép tấm ván cố định. Anh rút nó ra, buộc quanh cánh tay đang co giật của cô. Anh phải dùng hết sức mới khiến khuỷu tay cô duỗi ra, để lộ ra mạch trước khuỷu. Răng anh ngậm chặt ống tiêm chứa vi rút Nara. Anh ấn mạnh mũi tiêm vào tay cô và ấn xi-lanh.
– Đã vào! – Anh nói. – Toàn bộ xi-lanh đã tiêm hết!
– Cô ấy thế nào?
– Cô ấy vẫn co giật!
– Có một hộp chất dilantin làm giãn cơ trong hộp dụng cụ y tế.
– Thấy rồi! Tôi sẽ tiêm! – tấm ga-rô bay lơ lửng gần đó như nhắc nhở anh về tình trạng không trọng lượng. Và cái gì không được buộc chặt sẽ nhanh chóng tuột khỏi tầm tay. Anh chộp lấy nó trong không trung và lại buộc vào tay Emma.
Một lúc sau, anh báo cáo.
– Dilantin đang được tiêm! Cơ của cô ấy đang giãn ra!
– Có thay đổi gì không?
Anh nhìn vợ mình và âm thầm cầu nguyện. Cố lên, Emma. Đừng bỏ anh.
Đốt sống của cô từ từ thả lỏng. Cổ mềm ra và đầu không đập vào tấm ván cố định nữa. Mắt cô đảo quanh. Giờ anh mới thấy con ngươi của cô. Chúng như hai hốc màu đen, chung quanh viền đầy máu. Khi thoáng thấy con ngươi của cô, anh bất chợt kêu lên.
Con ngươi bên trái của cô giờ đã phồng to hết cỡ. Nó đen sì và không còn sức sống.
Anh đã đến chậm. Cô sắp chết.
Anh lấy tay ôm mặt cô như thể anh có thể buộc cô sống lại. Nhưng ngay cả khi cầu xin cô đừng bỏ anh, anh vẫn biết rằng chỉ ôm ấp và cầu nguyện thì anh không thể cứu cô được. Cái chết là một quá trình hữu cơ. Các chức năng sinh hóa, các chuyển động của ion trên màng tế bào từ từ dừng lại. Não dần dần xẹp xuống. Các cơn co thắt đều đều của các tế bào tim yếu dần. Chỉ cầu nguyện sẽ không thể cứu sống cô.
Nhưng cô vẫn chưa chết.
– Todd. – Anh nói.
– Tôi đây.
– Triệu chứng cuối cùng là gì? Chuyện gì đã xảy ra với những con vật trong phòng thí nghiệm?
– Tôi không theo dõi.
– Anh đã nói vi rút Nara đã có tác dụng nếu tiêm cho con vật ở giai đoạn đầu. Điều đó nghĩa là chắc chắn nó tiêu diệt được Chimera. Vậy tại sao nó không có tác dụng ở giai đoạn sau?
– Có quá nhiều tế bào bị phá hủy và chảy máu trong.
– Chảy máu ở đâu? Các khám nghiệm tử thi cho thấy điều gì?
– Bảy mươi lăm phần trăm các ca ở chó thì việc xuất huyết gây tử vong xảy ra ở não. Các enzim của Chimera đã phá hủy các mao mạch trên mặt vỏ não. Các mạch máu bị vỡ. Chứng xuất huyết khiến áp suất trong não tăng đột ngột rất nguy hiểm. Nó như một vết thương rất mạnh ở đầu, Jack. Não sẽ bị lòi ra.
– Nếu chúng ta ngăn được chứng xuất huyết, khiến não không bị tổn thương thì sao? Nếu chúng ta có thể giúp bệnh nhân vượt qua giai đoạn cấp tính và họ có thể sống đủ lâu để vi rút Nara hoạt động thì sao?
– Có thể sẽ có tác dụng.
Jack nhìn con người phồng to của Emma. Một ký ức vụt qua đầu anh: Debbie Haning bất tỉnh trong phòng cấp cứu bệnh viện. Anh đã thất bại với Debbie. Anh đã chờ quá lâu mới hành động. Do sự thiếu quyết đoán mà anh đã mất cô ấy.
Anh sẽ không mất em.
Anh nói.
– Todd, con ngươi bên trái của cô ấy phình to. Cô ấy cần được khoan lỗ.
– Gì? Anh có điên không? Không có máy chụp X-quang à?
– Đây là cơ hội duy nhất của cô ấy! Tôi cần một cái khoan. Cho tôi biết hộp dụng cụ ở đâu?
– Chờ chút! – vài giây sau, Todd nói trên điện đàm. – Chúng tôi không chắc khoang dịch vụ Nga để đồ ở đâu. Nhưng có một hộp của NASA ở nút số 1, trong ngăn dự trữ. Hãy kiểm tra túi có chữ Nomex. Các dụng cụ trong đó rất chuyên biệt.
Jack lao ra ngoài khoang dịch vụ Nga. Anh lại đâm vào các bức tường và cánh cửa khi anh lóng ngóng tìm đường đến nút số 1. Tay anh run rẩy khi mở khay đựng dụng cụ. Anh lấy ra ba túi có chữ Nomex và thấy một túi ghi “khoan điện/ mũi khoan/ máy xạc”. Anh chộp lấy túi thứ hai có máy khoan ốc vít và một cái búa rồi lao ra khỏi nút số 1. Anh đã xa cô một lúc nhưng nỗi sợ rằng anh sẽ thấy cô đã chết cứ bám riết lấy anh khi anh bay qua đường hầm trở lại khoang dịch vụ Nga.
Cô vẫn thở và vẫn sống.
Anh buộc túi Nomex vào bàn, đỡ các dụng cụ. Chúng được dùng để sửa chữa và lắp đặt Trạm vũ trụ chứ không phải để phẫu thuật não. Giờ khi đã cầm chắc chiếc khoan trong tay và nghĩ xem mình phải làm gì thì anh hoảng sợ. Anh sẽ làm việc mà không được khử trùng và dùng dụng cụ để khoan các tấm thép chứ không phải cho xương và thịt người. Anh nhìn Emma nằm bất động trên tấm ván và nghĩ về thứ đang ở trong não cô. Anh nghĩ về chất xám của cô, nơi lưu trữ toàn bộ ký ức, giấc mơ và tình cảm cả đời cô. Tất cả những thứ đó khiến cô là một Emma độc nhất. Giờ tất cả sắp sang bên kia thế giới.
Anh lấy hộp dụng cụ y tế, lấy kéo và dao cạo. Anh túm lấy một mớ tóc của cô và bắt đầu cắt, rồi cạo phần tóc lởm chởm còn lại. Anh làm lộ ra một đường để rạch ở xương thái dương bên trái. Mái tóc đẹp của em. Anh lúc nào cũng thích mái tóc em. Anh luôn yêu em.
Anh búi gọn phần tóc còn lại của cô và vắt sang một bên để nó không vướng khi anh phẫu thuật. Anh lấy một đoạn băng dính gần đó buộc chặt đầu cô vào ván cố định. Giờ anh hành động rất nhanh, chuẩn bị dụng cụ: ống hút nước tiểu, dao mổ, băng gạc. Anh nhúng các mũi khoan vào dung dịch tẩy vết bẩn, rồi lấy cồn lau sạch.
Anh đeo găng tay tiệt trùng, cầm dao mổ lên.
Da anh nhớp nháp dưới lớp găng tay bằng nhựa cao su khi anh tạo vết rạch. Máu rỉ trên dao mổ, rồi to dần thành một giọt lớn. Anh lấy gạc lau sạch rồi ấn sâu hơn cho tới khi mũi dao chạm đến xương.
Khi khoan hộp sọ, não sẽ bị hàng triệu vi trùng xâm nhập. Nhưng cơ thể người rất linh hoạt và mau phục hồi, nó có thể tồn tại sau khi bị ảnh hưởng nặng nề. Anh buộc mình phải luôn nhớ điều này khi tiếp tục ấn sâu vào xương thái dương và xác định vị trí của mũi khoan. Những người Ai Cập và Inca cổ đại đã thực hiện thành công thủ thuật khoan sọ bằng trê-phin. Họ tạo một lỗ hổng trong não chỉ bằng những dụng cụ thô sơ nhất và không hề có các thiết bị tiệt trùng. Việc này có thể thực hiện được.
Tay anh bây giờ không run, anh ngày càng tập trung khi khoan vào xương. Chỉ cần khoan sâu quá vài milimet, anh có thể chạm vào phần chất xám. Hàng nghìn trí nhớ quý giá sẽ bị phá hủy trong một giây. Và nếu chạm vào động mạch chủ, anh sẽ khiến máu phun thành cột và không cầm được. Anh dừng lại một chút để thở và dò độ sâu của mũi khoan. Từ từ thôi! Chậm thôi!
Đột nhiên anh cảm thấy một mảnh xương nhỏ long ra và mũi khoan xuyên vào. Tim anh đập mạnh, anh nhẹ nhàng rút mũi khoan.
Máu lập tức tạo thành bong bóng, từ từ rỉ ra ở chỗ khoan. Nó đỏ đậm. Đó là máu tĩnh mạch. Anh thở phào nhẹ nhõm. Không phải động mạch. Lúc này áp suất trong não Emma sẽ bắt đầu giảm, máu chảy trong não sẽ thoát qua lỗ hổng mới. Anh hút hết chỗ máu, dùng gạc thấm hết chỗ máu rỉ ra. Rồi anh khoan mũi nữa, rồi thêm một mũi khác. Anh khoan một vòng đường kính gần một in-sơ trong não. Khi lỗ cuối cùng đã khoan xong, vòng tròn đã hoàn thành thì tay anh bị chuột rút. Mặt lấm tấm mồ hôi. Anh không thể dừng lại nghỉ ngơi, mỗi giây đều quý giá.
Anh lấy đinh vít và búa nện.
Cầu mong cách này có tác dụng và cứu được em!
Anh dùng ốc vít như một cái đục rồi nhẹ nhàng ấn sâu mũi nó vào hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, tạo một vòng tròn trên não.
Máu trào ra. Cuối cùng, vết khoan lớn hơn đã giúp máu thoát ra, nó từ từ chảy ra khỏi não.
Và một thứ khác cũng vậy. Những quả trứng. Một bọc trứng phụt ra, bay lơ lửng, uốn éo trong không khí. Anh lấy túi chụp chúng lại, cho vào bình chân không. Trong suốt tiến trình lịch sử, kẻ thù nguy hiểm nhất của con người là các sinh vật siêu nhỏ như vi rút, vi khuẩn, động vật ký sinh. Và giờ là chúng mày, Jack nghĩ khi nhìn vào chiếc bình. Nhưng chúng tao sẽ đánh bại mày.
Máu đã ngừng chảy ở não. Khi đợt máu đầu tiên phun ra, áp suất ở não cô đã hạ xuống.
Anh nhìn mắt trái Emma. Đồng tử vẫn mở rộng nhưng khi anh chiếu ánh sáng vào, anh nghĩ có lẽ mình bị hoang tưởng chăng? Phần viền quanh đồng tử đã không còn đỏ và đồng tử như một khối nước màu đen đang trượt vào giữa.
Em sẽ sống, anh nghĩ.
Anh lấy gạc quấn vết thương, và bắt đầu truyền dung dịch chứa xteoit và ít thuốc mê để tạm thời làm cô hôn mê sâu hơn, bảo vệ não cô không bị tổn thương nhiều hơn. Anh nối điện tâm đồ vào ngực cô. Sau khi toàn bộ việc đó đã hoàn tất, anh mới lấy ga-rô buộc quanh tay mình, tiêm một liều vi rút Nara. Nó sẽ giết hoặc sẽ cứu cả hai người. Anh sẽ sớm biết điều đó.
Trên màn hình điện tâm đồ, đường tim của Emma rất đều. Anh cầm lấy tay cô và chờ dấu hiệu đầu tiên.
Ngày 27 tháng 8
Gordon Obie bước vào phòng điều hành đặc biệt, nhìn một lượt những người đàn ông và phụ nữ đang làm việc ở bảng điều khiển. Trên màn hình trước mặt, Trạm vũ trụ tạo thành một vệt uốn lượn trên bản đồ thế giới. Lúc này, ở sa mạc Algeria, những người dân trong làng đang tình cờ nhìn bầu trời đêm sẽ kinh ngạc khi thấy một ngôi sao lạ, sáng như sao Kim đang lao vụt ngang trời. Đó là vì sao duy nhất trên trời vì nó không được Chúa trời tạo ra, không phải do một lực lượng siêu nhiên mà bởi bàn tay yếu ớt của con người.
Trong căn phòng này, cách hoang mạc Algeria nửa vòng trái đất, có những người bảo vệ ngôi sao đó.
Giám đốc điều hành bay Woody Ellis ngạc nhiên, gật đầu buồn bã chào Gordon.
– Không nói lời nào. Trên đó hoàn toàn im lặng.
– Đường truyền cuối cùng cách đây bao lâu?
– Jack đã cắt liên lạc cách đây năm tiếng để chợp mắt một lúc. Đã gần ba ngày nay anh ấy không nghỉ ngơi. Chúng tôi sẽ không làm phiền anh ấy.
Ba ngày, và tình hình Emma vẫn không biến chuyển. Gordon thở dài, đi về phía bảng điều khiển của bác sĩ điều hành bay. Todd Cutler chưa cạo râu, hốc hác đang theo dõi các tín hiệu hóa sinh của Emma trên màn hình. Lần cuối cùng Todd ngủ là khi nào? Gordon tự hỏi. Mọi người trông đã kiệt sức nhưng không ai muốn bỏ cuộc.
– Cô ấy vẫn hôn mê trên đó. – Todd khẽ nói. – Chúng ta đã hết thuốc ngủ.
– Nhưng cô ấy vẫn chưa hết hôn mê à?
– Vẫn chưa. – Todd thở dài, ngả người về sau, kẹp chặt sống mũi. – Tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi chưa từng gặp chuyện này, phẫu thuật não trong vũ trụ.
Trong suốt thời gian gần đây, nhiều người trong số họ luôn nói câu này. Tôi chưa từng gặp chuyện này. Nó thật mới mẻ. Đây là thứ chúng ta chưa từng thấy. Nhưng đó chẳng phải là bản chất của việc khám phá hay sao? Người ta không thể dự đoán trước các rắc rối, mỗi vấn đề mới phát sinh đều có cách giải quyết riêng. Mỗi niềm vui đều được xây đắp trên sự hy sinh.
Và đã có niềm vui trong những thảm kịch này. TàuApogee II đã hạ cánh an toàn xuống sa mạc Arizona, Casper Mulholland giờ đang thương lượng hợp đồng với lực lượng Không quân Mỹ. Jack vẫn khỏe mạnh dù đã ở Trạm vũ trụ quốc tế ba ngày. – điều đó cho thấy vi rút Nara vừa có thể chữa trị và phòng ngừa Chimera. Và sự thật là Emma vẫn còn sống cũng rất đáng mừng.
Mặc dù có thể đó chỉ là việc tạm thời.
Gordon cảm thấy rất buồn khi ông nhìn các tín hiệu điện tâm đồ của cô trên màn hình. Tim cô ấy có thể đập được bao lâu nữa khi não không còn hoạt động? Ông băn khoăn. Cơ thể cô ấy có thể sống được bao lâu sau trận hôn mê? Khi nhìn một người phụ nữ trước kia đầy sức sống đang từ từ yếu dần còn đau đớn hơn khi chứng kiến cái chết đột ngột và thảm khốc của cô.
Ông bỗng ngồi thẳng lên, nhìn chằm chằm vào màn hình.
– Todd. Có chuyện gì với cô ấy vậy?
– Gì cơ?
– Có vấn đề gì đó với tim cô ấy.
Todd ngẩng đầu lên nhìn đường điện tâm đồ lao vọt lên trên màn hình.
– Không. – Anh nói và bấm nút liên lạc. – Đó không phải là tim cô ấy.
Tiếng báo động lớn trên màn hình khiến Jack choàng tỉnh. Anh giật mình thức giấc. Nhiều năm rèn luyện ở bệnh viện và những đêm thức trắng trong phòng trực đã dạy anh phải luôn sẵn sàng tỉnh táo khi đang ngủ say. Khi mở mắt, anh biết mình đang ở đâu. Anh biết có chuyện gì đó.
Anh quay về phía âm thanh báo động và bị mất hướng vì tầm nhìn của anh bị đảo ngược. Emma xuất hiện trước mặt anh và lộn ngược từ trên trần nhà xuống. Một trong các tấm gắn điện tâm đồ của cô trôi tự do như một sợi cỏ biển trôi dạt dưới nước. Anh xoay một trăm tám mươi độ và mọi thứ trở về trật tự cũ.
Anh nối lại điện tâm đồ cho cô. Tim anh đập mạnh khi nhìn màn hình và lo sợ vì điều anh sắp nhìn thấy. Anh nhẹ người khi thấy nhịp tim bình thường hiện trên màn hình.
Rồi… có thứ gì đó. Một chuyển động gì đó. Cử động.
Anh nhìn Emma và thấy mắt cô mở to.
– Trạm vũ trụ quốc tế không trả lời. – chỉ huy liên lạc nói.
– Hãy thử đi! Chúng ta cần anh ấy nói chuyện ngay lúc này! – Todd hét lên. Gordon nhìn đường sinh hóa và không hiểu có chuyện gì. Anh lo sợ điều xấu nhất đã xảy ra. Các đường điện tâm đồ lao vọt lên xuống, rồi đột ngột thẳng băng. Không, anh nghĩ. Chúng ta đã mất cô ấy!
– Nó bị tháo ra. – Todd nói. – Tấm điện bị rơi. Có lẽ cô ấy đang lên cơn co giật.
– Vẫn không có tín hiệu từ Trạm vũ trụ quốc tế. – chỉ huy liên lạc thông báo.
– Có chuyện quái gì trên đó vậy?
– Nghe này! – Gordon gọi.
Hai người đều ngồi im khi một đường thẳng hiện trên màn hình. Tiếp theo lại có đường khác, rồi đường khác nữa.
– Bác sĩ, tôi đã nhận được tín hiệu từ Trạm vũ trụ quốc tế. – chỉ huy liên lạc thông báo. – Yêu cầu cho ý kiến ngay!
Todd chồm về phía trước ghế.
– Trung tâm điều khiển mặt đất, đóng đường truyền lại. Tiếp tục đi, Jack!
Đó là cuộc nói chuyện riêng nhưng Todd nghe rõ Jack đang nói gì. Đột nhiên tất cả đều im lặng, mọi người trong phòng quay về bảng điều khiển của bác sĩ. Ngay cả Gordon ngồi ngay cạnh bác sĩ cũng không thể hiểu tâm trạng của Todd. Todd gập người về phía trước, hai tay ôm tai nghe như thể muốn chặn bất cứ tạp âm nào.
Rồi anh nói.
– Tiếp tục đi, Jack! Có rất nhiều người dưới đây chờ nghe tin này. Hãy báo cho họ đi! – Todd quay về phía giám đốc điều hành bay Ellis và giơ ngón tay cái lên vui sướng. – Watson đã tỉnh lại! Cô ấy đang nói chuyện!
Chuyện xảy ra tiếp theo sẽ mãi hằn sâu trong tâm trí của Gordon Obie. Ông nghe thấy những tiếng nói bập bõm, rồi to dần thành niềm hạnh phúc. Ông thấy Todd vỗ vào lưng mình. Liz Gianni nhảy lên. Và Woody Ellis ngồi phịch xuống ghế vì quá bất ngờ và quá vui.
Nhưng điều ông nhớ nhất là phản ứng của chính mình. Ông nhìn quanh phòng, đột nhiên thấy cổ họng đau rát và nước mắt khiến mắt ông nhòe đi. Trong suốt những năm ở NASA, chưa ai thấy Gordon Obie khóc. Và giờ thì họ lại không để ý điều đó.
Họ vẫn đang reo hò vui mừng khi ông đứng lên, im lặng ra khỏi phòng.
5 tháng sau
Thành phố Panama, bang Florida
Tiếng bản lề kêu ken két và tiếng kim loại va chạm trong xưởng khổng lồ của Hải quân khi cánh cửa phòng điều áp cuối cùng mở ra. Jared Profitt nhìn hai bác sĩ Hải quân bước ra ngoài đầu tiên, cả hai đều hít sâu khi bước ra. Họ đã bị nhốt cả tháng trong không gian gò bó. Dường như họ rất hụt hẫng khi được trở về môi trường tự do. Họ quay lại giúp hai người khác ra khỏi phòng.
Emma Watson và Jack McCallum bước ra. Cả hai đều nhìn Jared Profitt đang tiến về phía họ.
– Chào mừng cô trở về, bác sĩ Watson. – ông nói và đưa tay chúc mừng cô.
Cô lưỡng lự rồi bắt tay ông. Cô gầy hơn nhiều so với trong ảnh. Sau bốn tháng bị cách ly trên vũ trụ, tiếp theo là năm tháng trong phòng bội áp suất khiến cô bị ảnh hưởng rõ rệt. Cơ bắp cô đã rã rời, mắt cô dường như to hơn và lấp lánh trên khuôn mặt xanh xao. Phần tóc mọc lại trên hộp sọ bị cạo trọc bây giờ có màu bạc, nổi bật hẳn trên mớ tóc màu hạt dẻ cũ.
Profitt nhìn hai bác sĩ.
– Các vị để chúng tôi nói chuyện riêng được không? – ông chờ cho đến khi những bước chân xa dần.
Rồi ông hỏi Emma.
– Cô khỏe chứ?
– Tôi ổn. – Emma nói. – Họ nói tôi đã hết bệnh.
– Người ta không phát hiện bệnh trên cơ thể cô nữa. – ông chỉnh lại.
Đây là sự khác biệt quan trọng. Mặc dù họ đã xác nhận là vi rút Nara thực sự đã triệt tiêu Chimera trong phòng thí nghiệm nhưng họ không chắc về việc tiên lượng bệnh cho Emma. Điều chính xác nhất họ có thể nói là không còn dấu vết của Chimera trong cơ thể cô. Từ khi cô trở về trái đất trên tàu Endeavour, cô đã bị thử máu, chụp X-quang và thử nghiệm sinh hóa liên tục. Dù tất cả đều cho kết quả âm tính nhưng Viện nghiên cứu y tế quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm vẫn yêu cầu cô thử nghiệm phòng bội áp trong khi các thí nghiệm tiếp tục. Hai tuần trước, phòng bội áp đã giảm xuống mức một at-mốt-phe. Cô vẫn khỏe mạnh.
Thậm chí lúc này cô vẫn chưa hoàn toàn tự do. Từ nay đến cuối đời, cô sẽ là sinh vật để họ nghiên cứu.
Ông nhìn Jack và thấy sự thân thiện trong mắt anh. Jack không nói gì, tay ôm eo Emma, một cử chỉ như muốn nói rõ rằng: ông không thể lấy mất cô ấy khỏi tay tôi.
– Bác sĩ McCallum, tôi mong anh hiểu mọi quyết định của tôi đều có lý do riêng.
– Tôi hiểu lý do của ông. Điều đó không có nghĩa là tôi đồng ý với những quyết định của ông.
– Vậy thì ít ra chúng ta cũng có điểm chung. – ông không đưa tay ra, ông có cảm giác Jack sẽ từ chối bắt tay mình. Ông chỉ nói. – Có mấy người đang chờ các bạn bên ngoài. Tôi sẽ không giữ các bạn thêm nữa. – ông quay mặt bước đi.
– Chờ đã. – Jack nói. – Giờ thì sao?
– Hai vị được phép đi, miễn là cả hai phải quay lại kiểm tra theo định kỳ.
– Không, ý tôi là những người có liên quan thì sao? Những người đã gửi Chimera lên Trạm vũ trụ?
– Họ sẽ không có quyền quyết định gì.
– Thế thôi à? – Jack cao giọng tức giận. – Không trừng phạt, không chịu hậu quả gì?
– Việc này sẽ được giải quyết như bình thường, cách được thực hiện ở bất cứ bộ phận nào của chính phủ, kể cả NASA. Họ sẽ kín đáo bị loại ra, rồi kín đáo nghỉ việc. Không thể có chuyện điều tra hay tiết lộ bất cứ việc gì. Chimera quá nguy hiểm nên không thể tiết lộ với những người khác trên thế giới.
– Nhưng đã có người chết.
– Chúng tôi sẽ nói đó là do vi rút Marburg. Nó vô tình được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế qua một con khỉ bị nhiễm bệnh. Cái chết của Luther Ames là do trục trặc kỹ thuật của phương tiện di dời khẩn cấp.
– Ai đó phải chịu liên đới chứ?
– Vì tội gì? Vì đưa ra quyết định sai lầm ư? – Profitt lắc đầu. Ông quay lại nhìn cánh cửa phòng chứa đóng chặt. Một tia nắng chiếu qua. – Không có tội phạm bị trừng phạt trong việc này. Chỉ có những người mắc sai lầm, những người không hiểu bản chất của thứ họ đang nghiên cứu. Tôi biết anh rất tức giận về việc này. Tôi hiểu anh muốn buộc tội ai đó. Nhưng không có tội phạm trong việc này, bác sĩ McCallum. Chỉ có… những anh hùng. – ông quay lại, nhìn thẳng vào Jack.
Hai người đàn ông nhìn nhau một lúc. Profitt không thấy chút ấm áp hay lòng tin trong mắt Jack. Nhưng ông thấy thái độ tôn trọng.
– Các bạn anh đang đợi. – cuối cùng Profitt nói.
Jack gật đầu. Anh và Emma bước qua cánh cửa nhà xưởng. Khi họ ra ngoài, Jared Profitt nheo mắt vì ánh sáng. Ông thấy Jack và Emma chỉ còn là hai chấm nhỏ, tay anh khoác vai cô, dáng cô tựa vào anh. Trong tiếng reo hò vui mừng, họ bước ra và biến mất trong ánh sáng rực rỡ buổi trưa.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!