Trảm Long - Trọn Bộ 4 Tập - Tâp 3 - Chương 1: Quái Tướng Pháp
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
256


Trảm Long - Trọn Bộ 4 Tập


Tâp 3 - Chương 1: Quái Tướng Pháp


Ba năm sau khi chia tay với Lục Kiều Kiều, An Long Nhi đã là một thiếu niên chững chạc, kiên định với con đường mình chọn. Trở về Quảng Đông, cậu gặp lại những người bạn từ gánh mãi võ khi xưa, cũng từ đó, phát hiện ra âm mưu tàn độc của triều đình…

Giữa thời loạn, mỗi phong thủy đại sư đều ôm trong lòng một giấc mộng thái bình, và ra sức hiện thực hóa nó. Với An Thanh Nguyên, bằng cách trảm hết long mạch Quảng Đông, dập tắt các cuộc khởi nghĩa. Với Phùng Vân Sơn, bằng cách xây nên một thiên quốc bình đẳng bác ái. Với An Long Nhi, bằng cách bảo vệ con người, trừng trị kẻ ác. Nhưng, có những việc, không thể chỉ dựa vào phong thủy, mà phải căn cứ vào lòng người.

Và giữa những loạn lạc liên miên ấy, lòng ai có thể thái bình, lòng ai lại đang dậy sóng?

Mời các bạn đón đọc.

Khu ngõ liễu tường hoa xung quanh ngõ Hinh Lan ở Trần Đường thuộc thành Quảng Châu vẫn tấp nập nhốn nháo, kỹ viện Vạn Hoa quán ở đầu ngõ đêm đêm vẫn đèn đuốc sáng trưng, trời còn chưa sáng thì còn chưa yên tĩnh.

Từ khi theo Lục Kiều Kiều luyện tập công phu nữ đan, An Long Nhi đã mất hẳn thói quen ngủ, đêm dài đằng đẵng chỉ là một trong những khóa hành công tu luyện của cậu. Giờ đã là canh tư, An Long Nhi đang ngồi trước bàn sách trong gian nhà phía Đông, hai mắt khép hờ, để mặc cho nội khí di chuyển trong kỳ kinh bát mạch khắp cơ thể, cũng để mặc cho dòng suy nghĩ của mình lần tìm về quá khứ.

Ba năm trước, Lục Kiều Kiều sống trong gian nhà lớn kiểu Tây Quan này, còn An Long Nhi thì được cô sắp cho ở trong phòng giữa phía sau khoảng sân. Xét về mặt phong thủy, chỉ có chủ nhà mới được ở phòng giữa, nhưng An Long Nhi vừa đến đây với thân phận nô bộc, đã lập tức được hưởng ưu đãi này.

Lúc bấy giờ, An Long Nhi chỉ là một thằng bé mãi nghệ nuôi thân, sự cát đặt kín kẽ như vậy, người lớn còn chưa chắc có tâm tư đoán ra, cậu làm sao mà chú ý đến được? Nhưng hôm nay ngồi ở đây, cậu đã hoàn toàn hiểu được tâm tư của Lục Kiều Kiều khi đó.

Một nhà huyền học khi đã tự đặt tên cho mình thì tuyệt không có chuyện chỉ muốn tên hay dễ gọi. Cô đặt cho mình cái tên Lục Kiều Kiều, một là lấy tên kỹ nữ biểu đạt niềm bi phẫn trong lòng, lý do thứ hai hẳn là vì mệnh của cô khuyết mộc; phương Đông thuộc hành mộc trong ngũ hành, phòng phía Đông có tính mộc rất mạnh, Lục Kiều Kiều có mệnh khuyết mộc chủ động ở phòng này, chính là muốn bổ sung cho sự thiếu khuyết trong mệnh cục của mình. Thêm nữa, cô là con gái, một thân một mình ẩn cư giữa chốn Trần Đường phong nguyệt, ở phòng giữa chẳng khác nào thông báo cho kẻ xấu biết nhà này không có đàn ông, nếu chủ động tránh phòng giữa, lánh sang một bên, thì dẫu khi một mình ở nhà mà gặp phải phiền phức, cũng có phòng giữa để bọn trộm cướp vồ hụt, kéo dài thêm chút thời gian, mức độ an toàn cũng cao lên.

An Long Nhi chỉ thấy hơi đáng tiếc, năm đó tại sao Lục Kiều Kiều không nuôi một con chó nhỉ? Bỏ bao nhiêu tâm cơ bày bố phòng giặc cướp cũng chẳng thực tế bằng nuôi một con chó. Giờ Đại Hoa Bối đang nằm rạp cạnh chân cậu, chỉ cần có người bất cẩn chạm vào cánh cổng, Đại Hoa Bối sẽ sủa nhặng lên một tràng; nếu có người trèo vào trộm đồ, Đại Hoa Bối nhất định sẽ đớp cho hắn một phát. Nghĩ tới đây, An Long Nhi không khỏi nhoẻn miệng cười, Lục Kiều Kiều thông minh lanh lợi như thế, không ngờ cũng có chỗ không nghĩ tới.

An Long Nhi đã ở đây được mấy ngày, căn nhà lớn được cậu thu dọn lại sạch sẽ gọn gàng, bài trí giống hệt như trước khi Lục Kiều Kiều rời đi. Bàn ghế, giường tủ, đến cả vị trí của ấm trà chén trà ngoài tiền sảnh, rồi chiếc giường trúc mới mua rất thích hợp để nằm hút thuốc phiện ngoài giếng trời, tất cả đều tái hiện lại không sai một li ký ức của An Long Nhi lúc mới đến căn nhà này ba năm về trước. Bất kể căn nhà này có được sáp đặt theo bố cục phong thủy tốt nhất hay không, kể cả đây có là Thiên sát tử cục đi chăng nữa, An Long Nhi vẫn muốn ở lại, để tự mình cảm nhận niềm hạnh phúc thời gian chưa từng trôi đi.

Từ sau trận đại chiến ở phủ Thiên Sư, An Long Nhi một mình ở lại nơi đó tu luyện ba năm, đồng thời cũng chờ đợi chẵn ba năm. Cậu và Thiên sư Trương Bồi Nguyên đều hiểu rất rõ, Quốc sư Đại Thanh An Thanh Nguyên chỉ có được một bản không đày đủ của Trảm long quyết, không có tâm pháp Trảm long phối hợp, cũng không có Lôi thích trong tay, tuyệt đối không thể trảm sát thành công long mạch, vì vậy y nhất định sẽ quay lại tìm tâm pháp và Lôi thích.

Lòng biết rõ ngày này sớm muộn cũng sẽ tới, nhưng điều khiến cả Thiên sư Trương Bồi Nguyên và An Long Nhi đều lấy làm khó hiểu là, trong ba năm liền An Thanh Nguyên không hề có động tĩnh gì. Mỗi năm bọn họ đều gieo một quẻ tính toán hướng đi và vận hội của An Thanh Nguyên, chỉ tính ra được quan vận của y không hanh thông, chắc đã bị bãi quan mất chức, chẳng những vậy, quẻ tượng trong mấy năm đều thể hiện ra tượng lục xung hất định,chứng tỏ người đang lang bạt tứ phương, không có nơi ở cố định. Lẽ nào An Thanh Nguyên đã từ bỏ việc tìm kiếm Trảm long quyết?

Đến Quảng Châu lần này là quyết định của cá nhân An Long Nhi. Mặc dù cậu không biết Bát tự của mình, nhưng dựa theo năm hạn để gieo quẻ thì tính ra được, năm nay sẽ có chuyện lớn không tầm thường xảy ra với mình. Thời điểm này mà cậu còn ở lại phủ Thiên Sư, cũng bằng như đẩy phiền phức sang cho Trương thiên sư. Lôi thích ở trong tay cậu, vậy thì mục tiêu cuối cùng của cuộc tranh đoạt Trảm long quyết cũng nhất định tập trung chỗ cậu, cứ né tránh lấn trốn, chi bằng công khai luôn thân phận và địa điểm, bản thân xuất hiện ngoài ánh sáng trước, đến ở nơi An Thanh Nguyên dễ tìm ra nhất mà chủ động cầu chiến, đánh nhanh quyết gọn, ngược lại còn gọn gàng dứt khoát hơn.

Trước khi chia tay với An Long Nhi ở phủ Thiên Sư, Lục Kiều Kiều từng nói, muốn tìm cô thì đi Côn Minh ở Vân Nam. Nhưng An Long Nhi không muốn liên lụy đến phủ Thiên Sư, lại càng không muốn liên lụy Lục Kiều Kiều. Cậu đã hiểu mục tiêu của cuộc đời mà An Thanh Nguyên từng nhắc đến, trong khoảnh khác Lôi thích vào tay mình, cậu đã biết số mệnh mình gán chặt với Trảm long quyết, vậy thì cứ để mình và Trảm long quyết quấn lấy nhau đến tận cùng đi thôi.

Trước mắt, người cậu cần gặp nhất chính là An Thanh Nguyên, vì mục đích sử dụng Trảm long quyết của y chính là trảm sát long mạch thiên tử ở Quảng Đông, y sẽ không rời khỏi nơi này. An Long Nhi ở Quảng Đông thì cơ hội gặp được An Thanh Nguyên mới lớn nhất. Việc quan trọng hàng đầu lúc này chính là ngăn cản An Thanh Nguyên ra tay, đoạt lại Trảm long quyết.

Theo sáp đặt của Lục Kiều Kiều, cuộc sống của An Long Nhi hoàn toàn không có vấn đề gì, vì trước khi chia tay, cô đã để lại cho cậu hơn trăm lượng ngân phiếu, cộng với số tiền thường ngày An Long Nhi tự mình dành dụm, cậu đã có thể mua một căn nhà lớn ở quê. An Long Nhi không nghiện thuốc nghiện rượu, ngày ngày chỉ ra chợ mua ít rau ít thịt, tính ra thịt Đại Hoa Bối ăn còn nhiều hơn cả cậu, ngoài ra, cậu còn được ở miễn phí trong nhà cũ của Lục Kiều Kiều, phí tổn hằng ngày rất ít, chỉ cần duy trì cuộc sống kiểu này, có khi cả đời cậu cũng chẳng tiêu hết tiền có trong tay.

Không cần lo kế sinh nhai không có nghĩa là người ta được phép chây lười, An Long Nhi muốn tìm một công việc thích hợp để làm. Buổi tối cậu ở nhà đánh quyền luyện kiếm, ban ngày thì lang thang khắp chốn trong thành, sau cùng, cậu cho rằng trước mắt làm thầy xem bói là một lựa chọn rất tốt. Thứ nhất là nhiều cơ hội lộ mặt ngoài đường ngoài phố, An Thanh Nguyên có thể dễ dàng tìm thấy cậu. Nếu phủ Quốc sư vẫn đang tiếp tục ám sát các nhà huyền học dân gian, tin tức cậu xuất hiện rõ ràng có thể truyền tới phủ Quốc sư một cách nhanh nhất; thứ hai là cậu vất vả học tập đạo pháp mấy năm nay vẫn chưa có cơ hội nào ẩn chứng, ra phố bày sạp có thể thực hành được một số công phu huyền học của bản thân; thứ ba là nếu chẳng buôn may bán đắt thì ngồi ngoài sạp cũng có thể đọc sách.

Chủ ý đã định, cậu bắt đầu đi loanh quanh trong thành theo trình tự, tìm kiếm chốn phố thị tập trung đông người nhất, nơi có nhiều thầy bói nhất. Cậu muốn dùng con mắt của một nhà phong thủy để đánh giá lại xem thành Quảng Châu mà mình lớn lên rốt cuộc có bố cục phong thủy như thế nào; đồng thời, cậu cũng muốn thăm dò tình hình làm ăn của giới bói toán trong thành, từ mức độ nhiều ít của cao thủ trên phố có thể đoán được mấy năm nay phủ Quốc sư có còn săn giết các nhà huyền học nữa hay không, tìm hiểu xem bói một lần phải thu bao nhiêu tiền, cũng là thử xem mình có thể vừa ra tay đã kiếm được bộn tiền như Lục Kiều Kiều thuở trước hay không.

Xưa nay An Long Nhi vẫn luôn vô cùng khâm phục năng lực kiếm tiền của Lục Kiều Kiều, khi một thân một mình đến Quảng Châu, cô cũng mới mười sáu tuổi, hai năm sau đã kiếm đủ ngân lượng mua được căn nhà lớn trong ngõ Hĩnh Lan. Nếu thiên hạ thái bình, cậu làm hai năm liệu có thể được như thế?

Mang theo sự tò mò đó, cậu lang thang ở Đông Sơn và Tây Quan suốt mấy ngày. Đông Sơn là khu vực quân sự và chính trị quan trọng trong thành Quảng Châu, nhân sĩ tam giáo cửu lưu tương đối ít; còn chín con đường ở khu Tây Quan lại cực kỳ hỗn tạp, rồng rắn lẫn lộn, các sạp xem bói xem tướng khá nhiều, vậy nên cậu chủ yếu quanh quẩn ở khu Tây Quan.

Hôm nay sác trời hơi âm u, mới lúc trước còn có mưa nhỏ, An Long Nhi đeo cây Lôi thích được bọc kín bằng vải, tay cầm ô giấy dầu, mua một cái bánh hấp ở ven đường, vừa ăn vừa đứng trước mấy sạp bói toán xem náo nhiệt. Cậu phát hiện những tay thầy bói nói nhảm quả thật không hề ít, có thể thấy phủ Quốc sư mấy năm nay không hề lười nhác, những người có chút công phu thực học e là đã bị xử lý hết cả rồi.

Cách chỗ cậu đứng không xa có một đám người đang túm tụm, mười bảy mười tám chiếc ô trên đầu nối liền thành một mảng, che kín mít, không nhìn được bọn họ đang vây quanh cái gì, chỉ thấy một cây trường thương treo một lá cờ buông rủ, bên trên đề ba chữ lớn “Tiểu Thần Tiên”, xem chừng không phải bốc quẻ thì cũng là coi mệnh.

Thời tiết xấu, ngoài hàng bán ô ra thì chẳng có mấy hàng làm ăn tốt, nhưng bên dưới lá cờ Tiểu Thần Tiên này còn đông vui hơn cả gánh mãi võ, An Long Nhi thực tình không thể tưởng tượng xem bói bốc quẻ kiểu gì mà có thể náo nhiệt đến mức này. Cậu liền rảo bước qua đó, thầm nghĩ không nên bỏ qua cao nhân. Hơn hai chục người ken kín mít đến giọt nước cũng chẳng lọt, An Long Nhi cố sức chen vào, song chỉ qua một lớp rồi không sao nhích thêm được nữa, có điều, vẫn có thể nhìn qua đám đầu người xem cả bọn đang quây quanh thứ gì.

Đám người bị ngăn lại bởi năm chiếc ghế dài được quây thành hình bán nguyệt, trong vòng bán nguyệt có một chiếc bàn nhỏ, giữa bàn có một lỗ thủng, lá cờ Tiểu Thần Tiên chính là được cắm ở đó. Bên cạnh chiếc bàn là một người đàn ông cao hơn An Long Nhi chừng nửa cái đầu, y mặc áo dài bằng lụa đen, đầu đội mũ quả dưa gán một viên ngọc bích, đuôi sam vừa dài vừa to, trông đen bóng mà mềm mại; mát đeo kính đen, sác mặt trắng hồng, sống mũi cao, gương mặt gầy gò, thoạt nhìn qua làm An Long Nhi nhớ đến gương mặt của Jack; trên mặt y còn để ba chòm râu đen nhánh, khiến người khác không thể đoán ra tuổi tác.

Giọng y rất dễ nghe, giọng nam trung sang sảng mềm mại, vang mà không chói tai. Y cầm ô trên tay, đảo mắt nhìn quanh đám người, miệng liến thoắng:

“Đừng thấy ở đây ít người, nhưng việc thì chẳng ít đâu, ta đưa mắt nhìn một cái, là có thể nhận ra ai có việc gì… ở đây có hai người đang tìm việc làm, có điều vẫn chưa tìm được…”

Cặp mắt Tiểu Thần Tiên đảo một vòng phía sau cặp kính đen, sau đó y lại cất lời:

“Có một người rất xúi quấy, đang đi kiện cáo, giờ vẫn chưa biết là tháng hay thua… có một người đang rất phiền lòng, trong nhà anh ta có người mắc bệnh…”

Y dừng lại một thoáng, rồi nói với giọng nghe còn có vẻ thần bí hơn:

“Có một người khí sắc rất kém, đang phạm vào kẻ tiểu nhân, ngày nào cũng cãi nhau với người ta… còn có một người đã mất đi thứ rất quan trọng, mãi vẫn chưa tìm thấy…”

Nói tới đây, cặp kính của Tiểu Thần Tiên hất về phía An Long Nhi một cái. An Long Nhi lập tức trợn tròn mắt lên, cậu đưa mắt nhìn sang trái rồi sang phải, dưới tán ô trong ngày trời đất sầm sì thế này, nhìn cái gì cũng mờ mịt, tay Tiểu Thần Tiên ấy lại còn đeo kính râm, tối mịt như vậy còn có thể xem tướng, quả là không đơn giản. Thêm nữa, trình độ xem tướng cao như Lục Kiều Kiều, cũng chỉ một lần xem tướng cho một người, Tiểu Thần Tiên này không ngờ lại có thể đứng giữa đường, vừa liếc mắt nhìn đã ra được năm sáu người, thậm chí cả việc mình đang tìm Trảm long quyết y cũng nhìn thấu, công lực bậc này quả không hề đơn giản.

Tiểu Thần Tiên làm An Long Nhi hết sức hứng thú, cậu vừa nghe y nói, vừa ngấm ngầm sử dụng ám kình chen lên phía trước.

“Hôm nay xem tướng không thu tiền, tặng miễn phí!” Tiểu Thần Tiên nói ra điều mọi người muốn nghe nhất, cả đám người kích động lớn tiếng khen hay.

“Có điều…”

Quả tim của đám đông lại treo ngược lên.

“Không thể nào miễn phí hết được, chỉ tặng cho năm người thôi.”

Trong đám người liền vẳng lên tiếng trao đổi rầm rì, tiếng nói của Tiểu Thần Tiên nãy giờ vẫn át hết cả tiếng mọi người, y lại cất giọng hùng hồn mà tròn vành rõ chữ nói tiếp: “Phép xem tướng này của ta không miễn phí cho người điếc, ta nói gì hắn cũng không nghe thấy; người câm cũng không miễn phí, ta nói xong hắn chẳng thể truyền thanh danh của ta đi được; không miễn phí cho trẻ con, ta nói gì nó cũng không hiểu… ta có ý thế này, ở đây ta có năm tờ giấy, người nào muốn được xem tướng miễn phí thì giơ tay ra lấy một tờ, lấy được cũng đừng lấy làm mừng, mà không lấy được cũng chớ nên tức giận, tất cả đều là duyên phận do ông trời sắp đặt… nào đến đây, vị đại ca này giơ tay nhanh nhất, cho anh một tờ.”

Anh chàng kia vừa nhận được mảnh giấy liền ngoác miệng ra cười, nhưng Tiểu Thần Tiên lại không buông tay, y vẫn giữ mảnh giấy, đoạn hỏi: “Vị đại ca này là người ở đâu vậy?”

“Người Thạch Loan, ở Nam Hải.”

“Tôi thấy Quan tinh trên mũi anh có sắc xanh, có phải đến tỉnh thành để kiện cáo gì không?”

“Đúng rồi, Tiểu Thần Tiên tài thật đấy, thế tôi đi kiện liệu có tháng được không?”

“Đừng gấp đừng gấp, ngồi xuống ghế cái đã… người tiếp theo!” Tiểu Thần Tiên chém đinh chặt sắt một câu rồi lại tiếp tục phát giấy.

An Long Nhi vừa thấy y thể hiện ra chiêu này, quả cũng có chút trình độ, lập tức từ xa vươn tay qua đám đầu người nhấp nhô chen chúc, Tiểu Thần Tiên đã phát bốn tờ giấy, không ngờ lại đưa tờ thứ năm qua đầu đám người, đặt vào tay An Long Nhi đang ở vòng ngoài không làm sao chen vào trong được.

Theo sự sắp xếp của Tiểu Thần Tiên, An Long Nhi và bốn người lạ mặt đều ngồi xuống ghế băng bằng gỗ bên trong vòng tròn. Tiểu Thần Tiên tay cầm ô, nhìn một người trẻ tuổi phán rõ ràng rành mạch, không chút hàm hồ: “Hôm nay anh ra khỏi nhà là để tìm việc làm, đúng không?”

“Đúng vậy!”

“Từ hướng Bắc đi tới hướng Nam, đến giờ vẫn trắng tay không được chút lộc lá gì.”

“Đúng thế, tiên sinh, tôi ở mạn Trần gia từ, từ sáng sớm đến giờ chưa tìm được việc gì làm, ngài xem tôi liệu có tìm được không?”

“Năm nay anh gặp phải năm hạn, không có lợi, lại phạm phải sao Tang môn Điếu khách, chẳng những tìm việc khó, mà trong nhà còn có chuyện khác nữa…”

“Hả?”

Anh chàng thất nghiệp kia vẫn còn đang kinh ngạc, Tiểu Thần Tiên đã quay sang nói với một người đàn ông trung niên:

“Vợ ông đang mắc bệnh có phải không?”

“Ôi trời ơi! Chuyện này mà tiên sinh cũng biết à?”

“Tiểu Thần Tiên ta đây biết được cả chuyện năm trăm năm trước năm trăm năm sau, hôm nay đến đây chính là để thanh danh đồn khắp, chuyện của ông có gì ta đều biết hết.”

“Bệnh của bà nhà tôi liệu có khỏi được không?”

“Đi về phía Tây sẽ được cứu.”

“Đúng quá rồi, đại phu mà tôi tìm chính là ở phía Tây.”

Tiểu Thần Tiên không lằng nhằng thêm với ông ta nữa, lại nói với một bà thím:

“Bà thím này, có phải muốn hỏi chuyện sau này, phải vậy không?”

“Đúng đúng đúng, tôi chính là…”

“Bà không cần phải nói, Tiểu Thần Tiên nhìn qua là biết ngay, con cái bà đối xử không tốt với bà có phải không?”

“Đúng đúng đúng, tôi…”

“Không cần phải nói nữa. Giờ bà đang có người trong lòng rồi, có điều vẫn chưa chắc chán…”

An Long Nhi nghe mà trợn mắt há hốc miệng, đây gọi là phép xem tướng gì vậy chứ, thật đúng là chẳng khác nào thần tiên. Phép xem tướng học được từ Lục Kiều Kiều và Thiên Sư phủ hình như cũng không được đến mức ấy? Cậu quay đầu lại nhìn bà thím đó, tuổi tác tuy hơi lớn một chút, gương mặt vát nhọn, cằm dưới mỏng, thoạt nhìn cũng có vài phần nhan sắc, có điều tướng mặt kiểu này thì đường con cái đích thực là không được tốt cho lắm; người tuổi tác đã cao mà con ngươi không vàng, khóe mắt ánh lên sác đào hoa, quả nhiên là tình huống mai nở hai lần. Nhưng điều khiến An Long Nhi lấy làm thắc mắc là, dù xem tướng mặt có thể nhìn ra những điều này, song bây giờ người nào người nấy đều che ô, Tiểu Thần Tiên lại đeo kính râm đứng tít ngoài xa, y làm sao nhìn được chứ?

Quả nhiên núi cao còn có núi khác cao hơn, An Long Nhi ngồi ngay ngắn với thái độ hết sức khiêm cung, đợi Tiểu Thần Tiên xem tướng mặt cho mình.

Bà thím vội vàng truy hỏi tình hình cuộc sống sau này của mình và người đàn ông trong lòng kia, Tiểu Thần Tiên cũng lại bảo bà ta ngồi yên đó, không cho biết đáp án ngay. Y quay đầu, cặp kính râm hướng về phía An Long Nhi nói: “Anh bạn trẻ, cậu mất cả cha lẫn mẹ từ lâu, tuổi còn nhỏ đã phải lang bạt giang hồ, có đúng không?”

An Long Nhi thành kính gật đầu. Bởi lẽ, việc cha mẹ mất sớm có thể tính ra nhờ vào mệnh cục, song xem tướng mặt thì chỉ có thể biết rằng duyên phận với cha mẹ của người này dày mỏng ra sao mà thôi. Lời phán chuẩn xác của Tiểu Thần Tiên đã khiến cậu phục sát đất.

“Cậu đánh mất một thứ rất quý giá, tìm kiếm đã lâu mà vẫn không thấy?”

An Long Nhi lần này đã có thể thật tâm khẳng định, từ lúc cậu đứng bên ngoài vòng người, Tiểu Thần Tiên này đã biết cậu đang tìm kiếm Trảm long quyết bị đoạt mất, cậu cũng buột miệng hỏi giống những người khác:

“Tiên sinh, ngài xem liệu tôi có tìm lại được không?”

Tiểu Thần Tiên nghe thấy cậu hỏi vậy, liền ngửa mặt cười dài, từ tiếng cười có thể nhận ra niềm khoái lạc đầy đắc ý giống như thể vừa hoàn thành một việc lớn.

Y cười chán chê rồi mới bảo An Long Nhi: “Anh bạn trẻ, khó đấy, cậu ngồi xuống trước đi đã.”

Sau đó, y ngẩng đầu lên nói với đám người vây quanh:

“Mọi người đều thấy cả rồi đấy, vàng thật không sợ lửa, ta tặng mấy câu tướng pháp, chính là để mọi người nghe mà biết được trình độ xem tướng của ta thế nào, tặng thì chỉ có mấy câu đó thôi, nếu thực sự muốn nói về tướng mạo thì nhiều quá. cả đời ăn mặc đi lại tài vận quan lộc thế nào, cha mẹ sống được bao lâu, anh em liệu có đắc lực không, vợ chồng liệu có hòa hợp không, con cái thế nào, có con nối dõi hay không, cuối đời có mấy người chăm sóc, nghèo hèn hay giàu sang, sống được bao nhiêu tuổi, tính tình thế nào, vận số trọn đời ra sao, bao giờ gặp vận bao giờ đen đủi, cả một đời người phải nói từng ly từng tí như vậy mới gọi là xem tướng, có đúng không hả? Vậy thì muốn Tiểu Thần Tiên ta xem tướng phải dâng tặng bao nhiêu lễ vật đây? Hoàng kim còn có giá, tài nghệ thì không, ta đây xem tướng mỗi lần thu hai lạng bạc trắng!”

“Chà…” Trong đám người đang kinh ngạc và chấn động trước tiền xem tướng cắt cổ vọng lên tiếng xôn xao.

Nhưng An Long Nhi thì cảm thấy cái giá này không thể xem là cao, cậu đã quen thấy Lục Kiều Kiều xem bói cho người ta một lần thu vài lượng bạc, đến nỗi cơ hồ quên mất thời buổi bây giờ, hai lạng bạc tương đương với tiền sinh hoạt phí của một nhà tám người trong cả tháng.

“Có điều!” Tiểu Thần Tiên lại dùng giọng nói lớn hơn át đi tiếng xôn xao.

“Hôm nay mục đích của ta không phải vì kiếm tiền, mà chỉ muốn lưu truyền danh tiếng, cũng như câu người qua lưu danh, nhạn qua để tiếng, người đi qua mà không lưu lại danh tiếng thì đâu biết là Trương Tam hay Lý Tứ, nhạn bay qua mà không để tiếng thì sao biết được xuân hạ thu đông. Hôm nay vì muốn lưu truyền thanh danh, ta xem tướng không cần hai lạng bạc, mỗi vị chỉ thu hai xâu tiền là đủ!”

Lời này vừa thốt ra, đám đông liền “ồ” lên như được an ủi. Tiểu Thần Tiên lớn tiếng tuyên bố giảm giá làm mọi người lại có hy vọng mới, hai xâu tiền tức là hai trăm đồng tiền, thông thường, những người đang có việc canh cánh trong lòng cũng sẵn lòng nghiến răng trả giá để hỏi xem tiền đồ thế nào.

An Long Nhi cũng kích động vì hành vi giảm giá, cậu ngẩng đầu lên nhìn Tiểu Thần Tiên thao thao bất tuyệt giảng giải:

“Nếu ai cũng muốn xem tướng thì ta thiệt to rồi, hôm nay là ưu đãi đặc biệt để danh tiếng lan xa, từ hôm sau không còn cái giá này nữa đâu, hôm nay cũng không thể xem cho nhiều người, mà chỉ ba vị thôi, ưu tiên mấy vị ngồi hàng đầu. ở đây ta có ba tờ giấy, vị nào sẵn sàng xem tướng thì giơ tay ra, ai lấy được tờ giấy thì có một cơ hội, lấy được rồi đừng vội mừng rỡ, không lấy được cũng đừng tức giận…”

Tiểu Thần Tiên vừa phát giấy vừa nói liên miên, những người ngồi dãy trước toàn bộ đều giơ tay lên, An Long Nhi cũng nhận được một tờ.

“Sau ba vị này, có ai muốn xem tướng thì ta vẫn thu tiền là hai lạng bạc, các vị có thể không xem, ta cũng có thể không nhận. Vị nào muốn biết chung thân đại sự phú quý bần hàn thế nào, việc cát hung trước mắt, đại kế tiến thoái ra làm sao, thì cứ đến tìm Tiểu Thần Tiên ta đây.”

Sau một phen sàng lọc, trong đám người chỉ có ba người khách tha thiết muốn xem tướng, An Long Nhi là một trong số đó. Bốn người kê ghế ngồi quây lại phía trước chiếc bàn nhỏ, đám người phía sau đã tản đi một nửa, còn lại mười mấy kẻ rỗi việc, tuy bản thân không xem tướng nhưng cũng không đi, cứ đứng quây xung quanh dòm Tiểu Thần Tiên xem tướng cho kẻ khác.

Tiểu Thần Tiên nói với cả bọn:

“Xem tướng thì phải đặt lễ trước, mọi người hãy chuẩn bị sẵn tiền, đặt lên mặt bàn, nếu xem đúng thì đây là của ta, còn nếu không đúng, ta không lấy một xu, trả lại toàn bộ.”

Mọi người thấy vậy cũng công bằng, liền làn lượt lấy ra hai xâu tiền trong túi đặt lên bàn, Tiểu Thần Tiên vơ lại thành đống đẩy sang mé bên chiếc bàn, sau đó nói với bà thím:

“Bà thím này, trong mệnh có Dịch mã tinh, cả đời lao khổ vất vả mà không được hưởng phúc; vừa làm mẹ chồng lại vừa làm con dâu, miệng bảo không làm nhưng tay chân lại vơ việc vào mình, miệng bảo không lo, nhưng tay chân lại đi nấu ăn rửa bát. Từ sáng sớm đến tối khuya không nghe được một lời cảm tạ. Làm từ sáng đến tối, mà vẫn có người nói bà lười. Trong mệnh lại có Chỉ bối sát, tuy được ý thần song lại không được lòng người. Làm cơm chưa chín đã giữ khách lại ăn, ngâm rượu chưa nồng đã mời người ta thử, khiến cho người ta trước mặt thì gọi bà là đại nương, sau lưng lại bảo bà chẳng hiền lương. Họ hàng lãnh đạm, chị em xa lánh, từ đầu năm đến cuối năm cũng chẳng gặp mặt thân nhân lấy một làn… Thảm nhất là con cái có cũng như không, dẫu không trách con cái bất hiếu thì cũng phải trách thế đạo khó khăn, nhìn người ta sinh con đẻ cái được hưởng lạc thú thiên luân, còn mình thì lại như kẻ cô quạnh cả đời, cũng may ông trời có mắt, giờ bà vẫn có thể như cây khô gặp mùa xuân nở hoa thêm làn nữa, chỉ e gặp phải người bất thiện, tiền đồ mờ mịt…”

Một tràng bình giải như nước chảy mây trôi của Tiểu Thần Tiên khiến cho bà thím kia luôn miệng khen phải, An Long Nhi lại càng coi Tiểu Thần Tiên này như người trời. Mỗi khi Lục Kiều Kiều tính toán Bát tự cho người ta, vẫn phải bày ra mệnh cục, lần lượt bình giải từng điểm một, vị Tiểu Thần Tiên này mở miệng ra là nói liền một tràng, mà lại không sai câu nào, nếu y không chịu dừng lại, sợ rằng còn có thể nói ba ngày ba đêm cũng không hết.

Trong lúc bà thím gật đầu lia lịa, Tiểu Thần Tiên đã cầm hai xâu tiền lên tay, nói với bà ta: “Tôi nói có đúng không? Có đáng nhận hai xâu tiền này của bà không?”

“Đúng, vâng vâng vâng…” Bà thím dở khóc dở cười nói: “Đáng lắm, đúng là thần tiên, nhưng còn cuộc sống về sau của tôi thì sao?”

“Bà năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”

“Tôi được năm mươi tư.”

“Vận bà mấy năm nay kém lắm, cũng may tâm địa bà tử tế, ăn nói hiền lành lòng dạ thẳng thán nên mới giữ được tuổi thọ. Trước năm năm mươi ba tuổi thì cuộc sống đồng sàng dị mộng cứ bình đạm trôi qua, năm năm mươi chín tuổi thì có tai nạn sinh ly tử biệt. Giờ mệnh lại phạm phải sao Kế La, gốc rễ lìa rồi có trồng lại cũng không thể ổn, bất định như ngọn cỏ vô danh trên tường, tường nhà người ta chân móng không vững thì bà cũng chỉ có thể chịu được hai cơn gió là đổ gục. Cái đó gọi là La cùng Kế, phải nhẫn nhịn người ta, Kế cùng La, bị giày vò hành hạ. Theo ta thấy, sau năm sáu mươi ba tuổi thì bà dễ sống, sau năm bảy mươi mốt thì phải cân nhắc. Hai xâu tiền này của bà là tiền xem tướng, xem tướng xong cũng phải xem ông trời có ban phúc cho bà hay không, xem ông trời có cho ta làm phúc cho bà hay không nữa. Bà cứ ngồi đó, đừng nóng vội, lát nữa để ta giúp bà cầu xin ông trời.”

Tiểu Thần Tiên nói một tràng dài rồi thu tiền về, quay sang hỏi một người đàn ông trung niên:

“VỊ đại ca này tuổi gì? Vợ anh ở nhà bao nhiêu tuổi rồi?”

“Tôi ba mươi hai, vợ tôi ba mươi lăm.”

“Mệnh của anh phạm tiểu nhân rất nặng, trời sinh đã bị người ta tị hiềm ghen ghét, nhưng không phải vì con người anh không tốt, mà là do tổ tiên anh tích phúc khiến anh từ nhỏ đã được ăn no mặc ấm, học hành hiểu lẽ, thông minh lanh lợi, mệnh số như vậy trên thế gian này hiếm đến chừng nào chứ? Đừng nói là những người quen biết anh ghen tức với anh, ta vừa nói ra thế này, những người quây quanh đứng xem đây cũng đều ghen tức với anh…”

Tiểu Thần Tiên lại nói một mạch khiến người đàn ông gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, làm cả đám người đứng xem đều cười ồ lên.

Người trung niên ấy lại hỏi tiếp: “Tiên sinh, ngài có thể nhìn ra vụ kiện cáo này của tôi là vì sao không?”

“Anh tuổi Thìn, năm nay là năm hạn phạm phải Bạch hổ tinh, long hổ tương tranh, người hợp tác tranh giành tài sản, lẽ đâu lại không đâm đơn kiện cáo chứ?”

“Đúng quá đi mất, thần tiên đúng là thần tiên.” Người đàn ông kích động thốt lên: “Hai xâu tiền tiên sinh cứ lấy, ngài xem vụ kiện này của tôi có thắng được không?”

An Long Nhi lại quay sang nhìn gương mặt người trung niên ấy, chỉ thấy trên đầu anh ta đội mũ quả dưa, mặc dù nửa trán phía dưới rộng rãi bằng phẳng, nhưng sự thật là chiếc mũ đã che đi cả nửa trán bên trên, trong tình huống không nhìn thấy toàn bộ vầng trán và đường tóc, cậu thực tình không hiểu Tiểu Thần Tiên làm sao có thể đoán ngay ra chuyện thời thiếu niên của người này.

Chắc là xem tai? An Long Nhi thầm nhủ, bèn lại nhìn sang tai của đối tượng, chỉ thấy vành tai tròn đầy đặn, thịt tai dày và hồng nhuận, hai dái tai không chỉ buông xuống mà còn hơi vòng ra phía trước, kiểu tai này gọi là “Minh châu triều hải”, là tướng cả đời có phúc, bản thân cậu cũng có thể nhìn ra được.

Có điều, chuyện kiện tụng không thể chỉ nhìn khí sắc của Quan tinh trên mũi mà đoán ra, khi chưa biết chi tiết Bát tự mệnh cục, lại càng không thể trực tiếp phán đoán nguyên nhân kiện tụng là do tranh chấp tài sản; thêm nữa, kể cả có dùng Bát tự tính ra được việc kiện tụng tranh chấp tài sản, thì cũng vì tài kiếp trong mệnh cục quá vượng thành ra khắc ngược lại Quan tinh; đối với người tuổi Thìn, năm nay là năm Dậu, chẳng những không phạm phải Bạch hổ sát, ngược lại còn được nằm trong Lục hợp, vậy mà Tiểu Thần Tiên này lại nói tuổi Thìn xung khắc với Bạch hổ tinh, nên mới có kiện tụng tranh giành tài sản, đây là lý luận vớ vấn kiểu gì vậy chứ, rõ ràng là nói bừa để che mắt người ta… An Long Nhi thầm nhủ, Tiểu Thần Tiên này chắc chắn có một số kỳ thuật quái dị nào đó mà mình không hiểu.

Tiểu Thần Tiên nói với người đàn ông kia: “Vụ kiện này của anh không dễ dàng, nhẹ thì phá sản, nặng thì bản thân và gia đình cũng khó mà giữ nổi.”

An Long Nhi và người đàn ông cùng lúc kinh ngạc thốt lên thành tiếng: “Hả?”

“Vậy có cứu được không?” sắc mặt người đàn ông đã trở nên rất khó coi, ngữ điệu hết sức căng thẳng.

Tiểu Thần Tiên cũng rất nghiêm túc nói với anh ta: “Anh đừng hỏi ta, hãy hỏi ông trời ãy.

Nói đoạn, một tay y thu hai xâu tiền vào túi mình, tay kia đẩy về phía người đàn ông một bộ chén thánh.

Chén thánh là một loại công cụ chiêm bốc thời cổ đại, làm bằng xương hoặc gỗ, hình dạng giống như hai cái sừng trâu to bằng lòng bàn tay, mặt dương gồ lên, mặt âm bằng phẳng, mặt âm của hai miếng có thể ghép vào nhau, rồi dùng một sợi dây ngán xâu lại. Khi xem bói, người ta quăng chén thánh xuống đất, nếu cả hai mặt âm cùng hướng lên trên là tượng hung, cả hai mặt âm cùng hướng xuống đất cũng là hung; chỉ có một hướng lên trên, một úp xuống dưới mới là tượng cát; điều này có nghĩa rằng ông trời đồng tình với việc muốn chiêm bốc.

Người đàn ông trung niên kia định vươn tay ra lấy bộ chén thánh, nhưng bàn tay Tiểu Thần Tiên lại vẫn đè lên hai chiếc chén trên bàn, nói với anh ta:

“Bạch hổ tinh mà mệnh của anh năm nay phạm phải là đại sát tinh, nếu không ai giúp, anh giữ được cái mạng thì cũng chẳng giữ nổi gia đình nhà cửa; có điều, muốn giải được sát khí này chẳng khác nào đi ngược lại ý trời, anh muốn ta giúp giải hạn, thì cũng bằng như đem cái hạn của anh đổ lên đầu ta, đến lúc ấy có chết hay thương tổn gì cũng là ta gánh hết, chuyện như vậy thì có cho bao nhiêu tiền ta cũng chẳng muốn làm; chỉ là hôm nay anh đã đến đây gặp được Tiểu Thần Tiên này rồi, bên trong nhất định là có huyền cơ, chúng ta hãy xem ý trời thế nào, liệu ta có thể giúp được anh không. Nếu ông trời không cho ta giúp, thì anh tự mà về làm việc thiện tích đức, tán tài cầu phúc thế nào cũng được, ta không dám quản, còn nếu ông trời thấy không thuận mắt, muốn Tiểu Thần Tiên ta đây ra tay, thì ta đành nhận lấy số mệnh ấy, mà anh cũng phải nhận mệnh của mình, coi như là nhân duyên của ngày hôm nay. Giờ anh hãy bỏ hết vàng bạc ngân phiếu mang theo người đặt lên bàn, để ông trời thấy được thành ý của anh đi. Nếu ông trời cho ta giúp anh, ta mới dám tế Bạch hổ phá tà khí cho anh, rồi anh hãy để hết những vật phàm tục trên người ấy lại đây trấn áp Bạch hổ, sau đó yên tâm mà đi kiện cáo; còn nhược bằng ông trời không cho phép, xin lỗi, những vật phàm tục này anh cứ mang đi, đợi đến khi tán gia bại sản thì lấy ra mà mua thuốc mua cơm, anh thấy thế có được không?”

“Chuyện này…” Người đàn ông trung niên lộ vẻ do dự, có lẽ là tiền bạc trên người nhiều quá, anh ta không nỡ dứt bỏ, cũng có lẽ là những lời của Tiểu Thần Tiên khiến anh ta nửa tin nửa ngờ.

Tiểu Thần Tiên thấy anh ta không móc tiền ra ngay, liền đẩy chén thánh trên tay tới trước mặt bà thím kia, nói với bà ta:

“Bà thím, bà quăng chén thánh này trước đi, quăng xong rồi ta thu một xâu tiền, làm phúc cho bà vậy.”

Bà thím vừa nghe nói chỉ lấy một xâu tiền, vui sướng cười toét miệng, luôn miệng dạ vâng, một mặt lại nói:

“Tiên sinh đúng là chiếu cố cho bà già này thật, biết bà già không có ngân lượng nên chỉ lấy có một xâu tiền, nếu ngài bảo bà già này lấy hết tiền trên người ra, chắc tối nay tôi sẽ bị mắng chết mất thôi, khụ khụ khụ…”

“Bà thím, không phải ta tính rẻ cho bà đâu, mà là việc của đại ca đây là chuyện lớn, nếu anh ta không tế Bạch hổ, chẳng những phá sản, thua kiện mà ngoảnh lại còn bị kẻ thù đâm thọc sau lưng, nói không chừng còn phải ngồi đại lao cũng nên, lúc ấy đừng nói là tiền bạc mang theo người, kể cả của cải trong nhà cũng bị sung công hết ấy chứ, bà nói xem, ta có dám chỉ lấy anh ta một xâu tiền hay không?”

Bà thím quăng chén thánh lên bàn được hai mặt một âm một dương, lập tức lấy trong người ra hai chồng năm mươi văn tiền đặt lên bàn. Tiểu Thần Tiên rút trên bàn ra một tờ giấy tráng, dùng bút lông viết nguệch ngoạc một hồi, mọi người nhìn vào, chỉ thấy y viết xong xuôi rồi mà giấy trắng vẫn hoàn giấy tráng. Sau đó, Tiểu Thần Tiên dùng hai ngón bàn tay trái kẹp tờ giấy, tay phải chập lại thành kiếm chỉ vung vấy vẽ bùa lên mặt giấy, miệng lấm nhẩm niệm một tràng chú ngữ không ai hiểu gì, không lâu sau, trên bề mặt tờ giấy đã hiện ra mấy hàng chữ trắng. Tiểu Thần Tiên nhanh nhẹn gấp tờ giấy lại nhét vào tay bà thím, rồi nói:

“Phép tạo phúc được trời cao ban xuống đều viết trong giấy này, bà mau cất vào mang về nhà, trên đường không được xem, sau khi về nhà phải thắp hương cúng thần, đặt mảnh giấy này thờ trước bát hương, ba ngày sau mới được xem, rồi làm theo những gì viết trong đó là được, nhớ là không được có sai sót gì đấy, đi mau đi!”

Bà thím vừa nghe vậy vội vàng gói ghém mảnh giấy chạy về nhà, Tiểu Thần Tiên và An Long Nhi quay đầu lại nhìn trên bàn, thấy đã đặt mấy tấm ngân phiếu, bên trên ngân phiếu chặn một đồng tiền, người đàn ông trung niên kia nói với Tiểu Thần Tiên:

“Tiên sinh, trên người tôi chỉ có ngàn này thôi.”

Tiểu Thần Tiên nghiêm túc nói: “Ta không quan tâm của anh nhiều hay ít, anh có thành ý hay không đã có ông trời biết rồi, nếu có chuyện gì che trời giấu đất, tế Bạch hổ không linh thì người chịu khổ vẫn là anh thôi. Anh quăng chén thánh ba làn đi, nếu cả ba lần đều không quăng ra được một âm một dương, thì anh có thể mang số tiền này về nhà được rồi đấy.”

Người đàn ông trung niên căng thẳng cầm chén thánh lên, Tiểu Thần Tiên lại nói với anh ta: “Trước tiên hướng về phía Nam bái lạy ba lần đã, sau đó mới quăng, thành tâm môt chút…”

Nói xong, y quay sang nhìn An Long Nhi, khóe miệng nhếch một nụ cười. An Long Nhi có cảm giác Tiểu Thần Tiên này chắc cũng chuẩn bị lột sạch bạc trên người cậu trước mặt mọi người, nên chỉ chớp chớp mắt, nhìn vào mắt kính râm thâm xịt của đối phương, thầm nuốt một ngụm nước bọt.

Cậu nhớ Lục Kiều Kiều từng nói, trên giang hồ khắp nơi đều là bọn lừa đảo, muốn nhìn thấu được tất cả các thứ trò vè lường gạt là điều không thể, nhưng tên bịp nào cũng chỉ có một mục đích là cầu tài, chỉ cần mình nhất quyết không chịu móc tiền ra, thì dẫu ngây ngô đến mức tín nhiệm người trong toàn thiên hạ cũng không bao giờ thực sự bị bịp.

Tiểu Thần Tiên quả nhiên đã cất tiếng nói:

“Anh bạn trẻ này là người ở đâu nhỉ?”

“Nhân sĩ Quảng phủ.”

“Năm nay bao nhiêu tuổi?”

“Mười bảy.”

“Đã lấy vợ chưa?”

“Chưa.”

“Cậu vừa trở về Quảng Châu đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Cậu rời Quảng Châu được ba năm rồi?”

“Đúng vậy?!” An Long Nhi hơi bất ngờ, chuyện này không phải xem tướng mà nhìn ra được.

“Cậu từ phương Bắc tới?”

“Đúng vậy! Làm sao tiên sinh biết được? Có phải đang tính quẻ không?” An Long Nhi thực sự không kìm nổi tò mò, cậu rất muốn biết trong thiên hạ này còn có tuyệt kỹ thần kỳ gì có thể liếc qua một cái là nhìn ra được những chuyện cá nhân riêng tư chi tiết tới vậy.

“Phì…” Tiểu Thần Tiên cười khẩy đày khinh miệt: “Tiểu Thần Tiên cần gì phải tính quẻ chứ, không phải đã nói rồi đấy thôi, nhìn qua là biết, ta còn biết cậu ở trên núi tu đạo ba năm, giờ chác cũng là đại pháp sư rồi đúng không?”

An Long Nhi há hốc miệng, năng lực lý giải huyền học mà cậu tạo lập mấy năm nay cơ hồ không theo kịp cảnh giới của Tiểu Thần Tiên, người này thực sự quá đáng sợ.

Lúc này, người đàn ông trung niên kia đã gieo chén thánh xong, nãy giờ vẫn quan sát hai người đối thoại, đồng thời cũng kinh ngạc đến bần thần cả người, anh ta vừa thấy An Long Nhi ngây ra như phỗng dừng câu chuyện lại, lập tức tranh thủ thời gian chen miệng vào, chỉ tay lên mặt bàn nói:

“Thần tiên, thần tiên, tôi quăng ra được hai mặt âm dương rồi, ngài xem có được không?”

Tiểu Thần Tiên lộ vẻ yên tâm, nói: “ông trời đối đãi anh không bạc, mà đối với ta lại chẳng ra sao cả, thế này tức là ta phải chịu tội thế cho anh rồi đó, đúng là ý trời, ý trời.” Nói đoạn, y lại lấy giấy trắng vẽ một lá bùa tráng trơn, ngước nhìn lên không trung vạch bùa niệm chú, mọi người liền thấy mặt tờ giấy Tuyên dần dần tối lại, hiện ra mấy hàng chữ trắng. Tiểu Thần Tiên nhanh nhẹn gấp giấy vào, bảo người đàn ông kia nhắm mắt, vạch mấy đạo bùa trước mặt anh ta rồi điểm lên trán một cái, đồng thời nhét lá bùa giấy vào tay áo đối phương, miệng nói:

“Hiện giờ Bạch hổ sát đã rời khỏi thân thể anh rồi, anh phải lập tức trở về khách điếm đừng đi đâu, bằng không Bạch hổ sát lại đuổi theo anh nữa… gượm đã nào, ta đã nói hết đâu, trước khi vào cửa phòng hãy nhảy qua chậu lửa trước, sau khi qua cửa thì ngâm nước lá bưởi mà tám, trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày không được chạm đến rượu, thuốc phiện và nữ sắc, bằng không Bạch hổ sát lại ám vào người, anh vẫn cứ thua kiện vẫn cứ phải vào đại lao đấy, đi mau đi!”

Người đàn ông nghe thấy có nhiều quy tắc như vậy thì thoáng thần người ra, đang định nói gì đó lại nghe Tiểu Thần Tiên xua đuổi: “Đi mau đi!” Anh ta đành không nghĩ ngợi gì thêm nữa, cũng lập tức chạy về giống như bà thím lúc nãy.

Đám người vây xung quanh thấy Tiểu Thần Tiên đã giải quyết được hai người, cuối cùng chỉ chờ xem y giải quyết trường hợp của An Long Nhi thế nào nữa thôi.

Tiểu Thần Tiên thu số ngân phiếu trên bàn lên đếm qua, áng chừng có khoảng năm sáu chục lượng bạc, y nhét hết cả vào ngực áo, rồi nói với An Long Nhi:

“Anh bạn trẻ, ta đã nhìn ra hết rồi, vấn đề của cậu là nghiêm trọng nhất, nếu cậu có thời gian thì có thể theo ta về nhà một chuyến, để ta xem tướng toàn diện cho cậu.”

An Long Nhi đã nảy sinh hứng thú rất lớn đối với người tự xưng là Tiểu Thần Tiên này, nghe y nói vậy đương nhiên là cầu còn chẳng được, lập tức nhận lời. Tiểu Thần Tiên liền xua đám người rỗi việc đang vây quanh đi rồi nhổ lá cờ lớn lên bảo An Long Nhi vác, còn y thì dùng cả chân lẫn tay, vừa móc vừa đá, thoắt cái đã hất năm cái ghế úp chồng lên mặt bàn, cuối cùng giơ chân đạp cái bàn trượt ngang ra chỗ chân tường, rành rành một thân thủ giỏi đã tập luyện cả trăm nghìn lần, khiến An Long Nhi cũng phải khen thầm.

Tiểu Thần Tiên thu dọn bàn ghế xong, cũng không nhận lại cả thương lẫn cờ, để mặc cho An Long Nhi vác giúp, còn mình thì đi đằng trước. Y nói với An Long Nhi:

“Nhà ta ở bên kia sông, phải ngồi thuyền qua Châu Giang ở chỗ đầm Bạch Nga, cậu có vẩn đề gì không?”

“Không muộn quá thì vẫn được, buổi đêm tôi phải về nhà.”

“Nhà cậu ở đâu?”

“Trần Đường, đê phía Tây.”

“Sao lại ở cái khu đó? Nhà cậu mở kỹ viện à?”

“Không, chỉ là ở đó thôi.”

“Trong nhà có người khác không?”

“Không, nhưng có một con chó lớn, tôi không về thì nó không có cơm ăn.”

Tiểu Thần Tiên nghe An Long Nhi nói vậy thì phá lên cười ha hả.

Họ đi qua hai góc phố, vẫn còn chưa tới bờ đầm Bạch Nga, đột nhiên nghe thấy phía sau có một giọng nữ hét lớn:

“Tiểu Thần Tiên, ngươi đứng lại cho ta!”

Tiểu Thần Tiên và An Long Nhi ngoảnh lại, chỉ thấy một cô gái xinh đẹp đang trợn mắt cau mày đi về phía bọn họ. Cô gái này ước chừng mười sáu mười bảy, đầu chít khăn lụa xanh, trông bừng bừng anh khí, người mặc một bộ kỳ bào trắng viền hoa nhỏ màu xanh, kiểu dáng đơn giản nhưng có thể nhận ra vẻ hoa lệ đắt đỏ; trên tay cô cầm một cây gậy mà đám quan sai vẫn hay dùng, cây gậy cao bằng người cô, nhưng so với thân hình yểu điệu mảnh mai ấy, cây nha trượng trông chẳng khác nào cái mái chèo.

Bên cạnh cô gái còn có bốn người đàn ông ăn mặc theo lối người hầu, trên tay đều cầm gậy gỗ cái dài cái ngán, khí thế hùng hùng hổ hổ đi tới.

Tiểu Thần Tiên vừa trông thấy cô gái, lập tức kéo An Long Nhi hô lớn: “Chạy mau! sáp đánh nhau rồi!”

Y vừa dứt lời, đã guồng chân chạy cật lực về phía bờ sông Châu Giang. An Long Nhi không biết xảy ra chuyện gì, cũng đành vác lá cờ của Tiểu Thần Tiên chạy thục mạng theo An Long Nhi biết chính lá cờ trên tay mình gây ra chuyện, vì cậu vác lá cờ của Tiểu Thần Tiên, nên ân oán của y giờ cũng đã chuốc lên người cậu, vừa chạy cậu vừa gọi lớn: “Tiểu Thần Tiên! Ngài mau tự mình cầm lấy lá cờ này đi!”

Tiểu Thần Tiên ngoảnh đầu liếc nhìn, thấy cô gái kia hình như đã đuổi đến gần hơn, y xoay người lại kéo An Long Nhi chui tọt vào một con ngõ nhỏ.

An Long Nhi bị y kéo chạy như bay, cũng không hiểu đối phương có ý tứ gì, cậu nói với Tiểu Thần Tiên:

“Tiên sinh, chuyện này không liên quan đến tôi, tôi về nhà đây, ngài tự đi mà chạy cho nhanh!”

Dứt lời, cậu đưa trả lá cờ cho Tiểu Thần Tiên rồi vung tay định trèo tường bỏ chạy, nhưng Tiểu Thần Tiên nhận lấy lá cờ xong vẫn níu chặt ống tay áo của An Long Nhi nói:

“Thằng nhãi Lông Vàng nhà cậu đúng là không có nghĩa khí gì cả, vừa nãy ta còn định tối nay mời cậu ăn cơm nữa cơ đấy, giờ ta bị người khác đuổi đánh thì cậu lại muốn tự chạy một mình! Đừng hất nữa! Đi theo ta…”

Tiểu Thần Tiên luồn lách vòng vèo trong các ngõ hẻm, như thể bôi dầu dưới chân, An Long Nhi không phải không theo kịp bước chân y, cũng không phải không hất tay Tiểu Thần Tiên ra được, chỉ có điều một tiếng “thằng nhãi Lông Vàng” mà Tiểu Thần Tiên gọi cậu khiến An Long Nhi hết sức bất ngờ. Cha mẹ An Long Nhi đã chết trong chiến loạn khi quân Anh tấn công vào thành năm cậu lên tám tuổi, sư phụ mãi võ giang hồ Sái Tiêu thu nhận cậu, chỉ có Sái sư phụ và đám trẻ con trong đoàn mãi võ ấy mới gọi cậu là “thằng nhãi Lông Vàng” mà thôi. Khi Sái Tiêu bán cậu qua tay Lục Kiều Kiều, ngay hôm đầu tiên Lục Kiều Kiều đã đặt tên mới cho cậu là An Long Nhi, vì vậy người có thể gọi ra cái tên “thằng nhãi Lông Vàng” này nhất định có liên quan đến gánh mãi võ. Đầu óc cậu xoay chuyển cực nhanh, lập tức nhớ ra Tiểu Thần Tiên này rốt cuộc là ai.

“Ngươi là Cố Tư Văn! Râu đã mọc dài ra thế này rồi cơ à?” An Long Nhi vừa chạy vừa hỏi Tiểu Thần Tiên.

“Phì, râu giả đấy… chạy mau lên, đến nhà ta rồi nói sau…” Thì ra Tiểu Thần Tiên chính là thằng bé Cố Tư Văn bốn năm trước đã cùng An Long Nhi đi theo Sái Tiêu mãi nghệ, năm đó vì trả nợ cờ bạc, cha Cố Tư Văn đã bán cậu ta cho gánh mãi võ. Cố Tư Văn hơn An Long Nhi hai tuổi, là đứa trẻ lớn nhất trong gánh, đồng thời cũng là đứa nghịch ngợm nhiều mưu ma chước quỷ nhất. Cậu ta và An Long Nhi từng hợp diễn khá nhiều tiết mục võ thuật được bà con láng giềng hết sức hoan nghênh, tự nhiên cũng khá ăn ý với nhau, bản thân cậu ta cũng rất thích chơi đùa với An Long Nhi.

An Long Nhi vừa làm rõ Tiểu Thần Tiên là người phe mình, cô gái xinh đẹp kia đã đuổi tới sau lưng, quát thét àm ĩ giơ cây nha trượng lên đập thẳng xuống đầu cậu, lúc này đang chạy phía sau Cố Tư Văn.

Thế gậy như sấm sét, An Long Nhi sớm đã có phòng bị, cậu vội đẩy Cố Tư Văn ra phía trước, còn mình thì nhảy chéo một bước, đạp lên tường con ngõ chật hẹp né tránh, bước thứ hai lại đạp tiếp lên tường, đang xoay người chuẩn bị chặn cô gái và mấy người hầu lại thì đã thấy cây nha trượng trong tay cô gái trẻ kia xoay vòng qua mé phải người mình, phong tỏa hướng phản kích, đồng thời tăng tốc đánh vào gáy Cố Tư Văn.

An Long Nhi ở trên bờ tường quan sát rất rõ ràng, côn pháp của cô gái này không giống chiêu thức của môn phái nào trong võ lâm cả, lối đánh của cô đơn giản mà trực tiếp, đầy vẻ thực chiến, làm cậu nhớ đến những binh lính Đại Thanh mình từng giáp mặt. Trực giác nói cho An Long Nhi biết, cô gái này đang sử dụng chiến pháp binh khí trong quân đội, thêm vào đó, trên tay cô lại không phải gậy gộc bình thường, mà là nha trượng của quan sai, xem chừng hẳn cũng có chút lai lịch. Không biết Cố Tư Văn lấy đâu ra bản lĩnh lớn như vậy, có thể đắc tội đến cả loại tiểu thư này nữa.

Có điều, thời điểm này không thích hợp để phân tích tình hình vụ án, mà chỉ hợp chạy tháo thân. An Long Nhi mắt thấy cây nha trượng đã đánh tới gáy Cố Tư Văn, liền lấy ra một đồng tiền trong miếng bọc cổ tay, cổ tay vung ra, bán đồng tiền về phía nha trượng. Đồng tiền buộc với một sợi chỉ đỏ bắn trúng đoạn giữa cây gậy, chỉ nghe “rắc rắc” một tiếng, nha trượng đã gãy đôi, đồng tiền lập tức theo sợi chỉ đỏ trở về tay An Long Nhi.

Cô gái kia còn chưa kịp nhìn rõ là chuyện gì, chỉ thấy tay chấn động, kế đó phát hiện ra cây gậy mình đang vung vẩy gãy lìa, lại càng tức đến xịt khói ra đằng tai, liền vung tay ném nửa cây gậy trên tay về phía Cố Tư Văn. An Long Nhi lại bắn đồng tiền buộc dây đỏ ra lần nữa, hất văng đoạn gậy gãy trên không trung lên mái nhà ở mé bên con ngõ nhỏ.

Lần này cô gái đã nhìn rõ miệng ra máng chửi:

õ là sợi dây đỏ kia tác quái, lại càng tức tối, lập tức ngoác “Bọn người Hán các ngươi toàn là lũ bịp bợm lưu manh! Lừa tiền của ta rồi còn muốn đánh ta hả! Các người không muốn sống nữa rồi!”

Cả đời An Long Nhi chưa làm chuyện gì hổ thẹn với lòng, bị cô gái máng cho như vậy, lại còn ngoảnh đầu nhìn, vừa nghe dứt câu lập tức cảm thấy không ổn, đồng thời cũng có chút ngại ngùng, cậu chạy mấy bước trên mái nhà đuổi theo Cố Tư Văn hỏi:

“Ngươi gạt tiền của người ta hả?”

Cố Tư Văn vác lá cờ Tiểu Thần Tiên, đang thành thục len lỏi trong con ngõ nhỏ, cậu ta tung người nhảy tránh một đàn gà mái dưới chân, nói: “Lừa cái gì mà lừa, cô nàng trả tiền ta làm việc, đều là song phương tình nguyện mà… chạy mau lên, còn nói gì nữa!”

Cô gái và đám người hầu ở phía sau đuổi theo hất đổ những làn những sọt và đồ tạp nham đày đường, khiến bà con làng xóm kêu la mắng chửi ầm ĩ, con ngõ nhỏ bỗng náo nhiệt phi thường. Cô gái giờ chỉ còn hai tay không, vẫn bám sát lấy Cố Tư Văn, nhưng cô đã nghe ra người có sức chiến đấu rất mạnh là An Long Nhi có vẻ không hiểu rõ tình huống cho lắm, để chia rẽ kẻ địch, cô ngẩng đầu lên chỉ vào An Long Nhi nói lớn:

“Tiểu tử, ngươi đừng giúp hắn nữa, tên bịp đó lừa của ta hai mươi lạng bạc, lại còn hại chết chồng ta, hôm nay ta không tính sổ với hắn không được.” An Long Nhi nãy giờ vẫn luôn ở trên nóc nhà bọc lót cho Cố Tư Văn chạy trốn, vừa nghe nói chuyện có liên quan đến mạng người, thì kinh hãi giật thót mình, lập tức quát hỏi Cố Tư Văn: “Ngươi giết người rồi à?”

“Làm… làm sao có thể chứ! Ta cũng không biết xảy ra chuyện gì, đừng hỏi nữa… bác ơi cẩn thận!”

Cố Tư Văn hai tay giơ cao lá cờ nhanh chóng xoay người, lách qua một ông bác suýt chút nữa thì đâm sàm vào mình, An Long Nhi ở trên nóc nhà vừa khéo đón lấy lá cờ.

Chính vì một nhịp chậm lại ấy, cô gái đã đuổi tới sát sau lưng Cố Tư Văn, phi thân nhảy lên chộp vào gáy cậu ta.

Bàn tay thanh mảnh vươn cực nhanh về phía Cố Tư Văn đang xoay người, nhưng không tóm được cổ áo cậu ta mà lại chụp vào ba chòm râu dài hất tung lên; Cố Tư Văn chưa kịp đề phòng thì râu đã bị tóm lấy, vẫn đang tận lực xoay vòng, hết một vòng lớn cậu ta mới nhận ra mình xoay hơi quá đà, dừng lại nhìn mới biết thì ra mình đã quay mặt về phía sau, chòm râu gán trên mặt rơi vào tay cô gái, để lộ ra gương mặt trẻ trung trắng trẻo anh tuấn.

Trước mặt Cố Tư Văn là một thiếu nữ xinh đẹp đang sửng sốt, cậu ta phát hiện cô gái đang ngây người ra nhìn mình, dường như sát khí vừa nãy đã bay biến đi đâu mất, đang định nhe răng cười với cô, thì cái mũi đã ăn ngay một đẩm, chiếc kính râm lập tức bay đi đâu không rõ. Thì ra đám người hầu sau lưng cô gái kia cũng đã đuổi tới nơi, thấy tên bịp đang đứng trước mặt tiểu thư nhà mình, lý nào lại không đánh, một là để bảo vệ chủ nhân, hai là để giành lấy công lao, đương nhiên cú đẩm này được đánh ra với cả mười thành công lực.

Cố Tư Văn “ối cha” một tiếng ngã lăn xuống đất, trước mắt tối sàm lại, chỉ thấy sao bay đầy trời, cậu ta cảm thấy thiếu nữ kia đang cưỡi lên người mình, vội giơ hai tay lên che mặt, quả nhiên lập tức cảm thấy có nắm đấm từ hai bên giội xuống mặt mình.

Cố Tư Văn nghe thấy An Long Nhi quát lên một tiếng, biết rằng bạn mình sắp ra tay. Trong ký ức của Cố Tư Văn, từ nhỏ An Long Nhi đã có võ nghệ hơn người, vả lại đấy còn là chuyện của bốn năm về trước, hôm nay nhất định An Long Nhi đã có công phu ra tay là đánh chết người, nghĩ đoạn, cậu ta vội vàng hét lớn: “Lông Vàng đừng ra tay! Đừng đánh người! A… tiểu thư, đừng đánh vào mặt chứ…”

An Long Nhi ở trên nóc nhà đúng là đang chuẩn bị ra tay cứu viện, nhưng lúc đó vừa đón lấy lá cờ không rảnh tay giúp đỡ, đến khi nhìn rõ tình thế thì lại thấy đối phương là con gái, thực tình không thể ra tay được, cuối cùng Cố Tư Văn bị đánh ngã xuống đất, khổ chủ lại còn chủ động yêu cầu cậu không ra tay, cậu đành nhảy từ trên mái nhà xuống, ra sức ngăn cản bốn gã người hầu vây đánh Cố Tư Văn, nhưng còn cô gái đang cưỡi trên người họ Cố thì cậu không dám đụng tới, đành cất lời khuyên giải trong tiếng kêu gào thảm thiết của Cố Tư Văn: “Có gì từ từ nói, tiểu thư đừng đánh nữa. Đánh đủ rồi, đánh đủ rồi…”

Thiếu nữ ấy bĩu môi đánh thêm một đấm nữa rồi mới đứng dậy: “Đền tiền, bốn mươi lạng bạc!”

Cố Tư Văn vẫn hai tay che mặt, lắp bắp nói: “Tôi chỉ thu của cô có hai chục lạng bạc, giờ sao lại thành ra nhiều thế…”

Thiếu nữ trợn trừng mắt, lại giơ nắm đấm lên, Cố Tư Văn sợ hãi kêu ầm ĩ: “Đền! Đền! Bốn mươi lạng thì bốn mươi lạng!”

An Long Nhi từ nãy đến giờ vẫn chưa biết là chuyện gì, cậu nói: “Tiểu thư, cô nói hắn lừa của cô hai chục lạng bạc, giờ người cô cũng đã đánh rồi, tiền thuốc men không tính, hắn đền cô hai chục lạng bạc cũng là chuyện thiên kinh địa nghĩa, có gì mà phải đền tới những bốn mươi lạng bạc chứ?”

Thiếu nữ nhắc đến chuyện này lại tức điên lên, cô khuỵu một chân xuống trước ngực Cố Tư Văn, tát cho cậu ta một tát, miệng hằn học nói: “Nửa năm trước, cha ta đã tìm cho ta một người chồng trong kinh thành, ta mới tìm hán bói một quẻ…”

Vừa nói, cô gái lại vung bàn tay kia tát vào mặt Cố Tư Văn: “Hắn nói ta có mệnh khắc chồng, là Sát trư đằng, gả cho người nào là chết người ấy, mới nhận của ta hai chục lạng bạc làm phúc cho ta…”

“Bốp bốp”, lại thêm hai cái tát nữa, Cố Tư Văn có lẽ bị đánh đã quen rồi, thuận miệng kêu thảm hai tiếng lấy lệ, nghe không có vẻ đau đớn cho lắm. Cô gái tiếp lời: “Giờ thì hay rồi, ta còn chưa lên kinh, đầu tháng người ở Bắc Kinh đã gửi thư về bảo chồng ta chết rồi… nhìn cái gì mà nhìn, đánh chết ngươi bây giờ…”

Hai tay thiếu nữ không ngừng vả vào miệng Cố Tư Văn: “Ngươi thì làm phúc cái quái gì chứ? Bây giờ lễ lạt gì ta cũng định hết cả rồi, người cũng coi như đã có danh có phận, nhưng lại không cần lên kinh nữa… mà phải ở lại Quảng Châu này làm bà quả phụ…”

Cô đứng dậy giơ chân đạp lên người Cố Tư Văn mấy phát: “Tên gì? ở đâu?”

Cố Tư Văn lồm cồm ngồi dậy, xoa xoa mặt nói: “Tiểu thư, có câu sống chết do mạng, phú quý tại trời, chúng ta cũng coi như đã tận hết sức mình rồi, hỏi lòng cũng không hổ thẹn với lương tâm, chồng cô chết từ bây giờ, dẫu sao thì cũng tốt hơn là sau khi cô lên kinh mới chết, có phải không nào? Kỳ thực đây cũng là công lực của tôi làm phúc cho cô đấy…”

Cô gái một tay chống nạnh, xòe bàn tay kia ra, một tên người hầu lập tức đưa cho cô cây gậy to tướng đang cầm trên tay, Cố Tư Văn tức thì lớn tiếng nói:

“Tôi tên Phương Thế Ngọc, ở Phương Thôn Hoa Địa.”

Thiếu nữ trợn trừng mát, hai tay giơ gậy, xuống tẩn chuẩn bị đánh xuống, cô quát lên: “Cha ta là Thiên tổng của quân Bát kỳ, ta đánh chết người không cần phải đền mạng đâu.”

Cô vừa nói dứt lời, Cố Tư Văn ngay tắp lự báo cáo lại: “Tôi tên là Cố Tư Văn, ở Đại Cơ Đầu tỉnh Hà Nam.”

“Bạc đâu!”

Cố Tư Văn lập tức lấy trong áo ra một xấp ngân phiếu, cô gái trẻ cầm lấy đếm một lượt rồi hỏi: “Còn năm lượng nữa đâu?”

Cố Tư Văn lại lôi ra một nắm bạc vụn ở thắt lưng quàn, cô gái vươn tay giật lấy, bỏ vào tay tên người hầu đứng cạnh, nói: “Mọi người chia nhau đi!”

Lúc này, một tên người hầu nói với cô gái: “A Đồ cách cách sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta cũng về thôi.”

A Đồ cách cách tay cầm ngân phiếu, “hừ” một tiếng, lừ mát liếc Cố Tư Văn, nhăn nhăn mũi vẫy tay dẫn theo mấy tên người hầu xoay người bỏ đi.

Cố Tư Văn ngồi dưới đất nhìn bóng lưng A Đồ cách cách đi xa dàn, không ngờ lại bật cười hì hì: “A Đồ cách cách, hí hí, con thỏ con này thật là đáng yêu…”

An Long Nhi giờ mới nhìn rõ bộ dạng của họ Cố, mặt mũi cậu ta so với bốn năm trước đã thêm mấy phần khí khái đàn ông, ánh mắt thâm trầm, khuôn mặt đường nét rõ ràng, nếu không phải mũi đang chảy máu và xương gò má hơi sưng lên, tuyệt đối có thể coi là một mỹ nam tử.

An Long Nhi đỡ Cố Tư Văn đi tới bờ đầm Bạch Nga đậu đầy thuyền lớn thuyền nhỏ, Cố Tư Văn dẫn cậu đi về phía một con thuyền ba lá, bên trên có một thiếu nữ áo vải thân hình yểu điệu đang đứng. Thiếu nữ ấy cũng quan sát họ từ phía xa, đến khi lại gần, mọi người có thể nhìn rõ bộ dạng của nhau, cô gái liền nhảy lên bờ, lớn tiếng gọi An Long Nhi: “Nhãi Lông Vàng!” Vừa gọi, vừa rảo chân chạy tới.

An Long Nhi trông thấy gương mặt xinh xắn của cô gái, liền nhận ra cô là con gái duy nhất của Sái Tiêu, cũng là vị sư tỷ năm xưa đã cùng mình mãi võ, tên là Sái Nguyệt. Sái Nguyệt tuy ngang tuổi với An Long Nhi, nhưng trong gánh mãi võ phải sắp theo vai vế, cô là con gái của chủ gánh, vì vậy dù là ai cũng phải gọi cô một tiếng sư tỷ. Sái Nguyệt từ nhỏ đã giống như một người chị lớn, luôn quan tâm chu đáo đến mọi người, có tranh chấp liền đứng ra chủ trì công đạo, riêng với An Long Nhi tính trầm mặc ít nói, thỉnh thoảng lại phải chịu thiệt thòi cô càng thêm chiếu cố. An Long Nhi nhớ nhất ở cô là cặp mắt to và hàng lông mày dài mảnh, chiếc mũi cao cùng đôi môi mỏng cong cong trên gương mặt tròn trịa, trông xinh đẹp như một con búp bê Tây vậy.

Giờ đây nhìn lại, khuôn mặt Sái Nguyệt đã không còn giống quả táo lớn như An Long Nhi nhớ hồi nhỏ nữa, cầm cô thon thon xinh xắn, kết hợp cùng ngũ quan đẹp đẽ hơn, đượm vẻ nữ tính hơn.

Sái Nguyệt kêu ré lên, vừa tới trước mặt An Long Nhi liền ôm chầm lấy cậu, vùi mặt vào vai cậu, mừng rỡ một hồi, đoạn ngẩng đầu lên nói với An Long Nhi: “Nhãi Lông Vàng, đúng là ngươi rồi! Vui quá đi mất… cao thế này rồi kia à!”

Cố Tư Văn cũng cười cười cất tiếng: “Vừa nãy ta đang làm ăn, hán đứng bên ngoài xem náo nhiệt, từ đằng xa ta đã nhận ra bộ tóc vàng khè của hắn rồi… đừng nói nữa, lên thuyền sang Phương Thôn ăn cơm đi, tối nay ta mời…”

Sái Nguyệt quay đầu lại nhìn Cố Tư Văn hỏi luôn: “Ngươi lại bị người ta đánh nữa à?”

“Cái gì mà lại bị đánh chứ… cũng có mấy lần thôi mà, làn trước đã tận nửa năm rồi…” Cố Tư Văn hậm hực giải thích.

An Long Nhi lấy làm kỳ quái nói: “Văn thiếu gia, công phu của ngươi cũng không tệ, sao lại để cho người ta đánh thế, còn không cho ta giúp nữa?”

Cố Tư Văn khoác vai An Long Nhi, vừa đi về phía con thuyền ba lá vừa nói: “Nghề này của chúng ta có rất nhiều quy củ, không được đánh khách hàng, lại càng không được làm tử nhất ca, nghe có hiểu không? Tức là không được vì kiếm tiền mà bức tử khách hàng… nếu ta cậy giỏi công phu mà đi choảng nhau với khách hàng, thì còn làm ăn cái gì nữa, thà đi mở võ quán luôn cho xong.”

Ba năm sau khi chia tay với Lục Kiều Kiều, An Long Nhi đã là một thiếu niên chững chạc, kiên định với con đường mình chọn. Trở về Quảng Đông, cậu gặp lại những người bạn từ gánh mãi võ khi xưa, cũng từ đó, phát hiện ra âm mưu tàn độc của triều đình…

Giữa thời loạn, mỗi phong thủy đại sư đều ôm trong lòng một giấc mộng thái bình, và ra sức hiện thực hóa nó. Với An Thanh Nguyên, bằng cách trảm hết long mạch Quảng Đông, dập tắt các cuộc khởi nghĩa. Với Phùng Vân Sơn, bằng cách xây nên một thiên quốc bình đẳng bác ái. Với An Long Nhi, bằng cách bảo vệ con người, trừng trị kẻ ác. Nhưng, có những việc, không thể chỉ dựa vào phong thủy, mà phải căn cứ vào lòng người.

Và giữa những loạn lạc liên miên ấy, lòng ai có thể thái bình, lòng ai lại đang dậy sóng?

Mời các bạn đón đọc.

Khu ngõ liễu tường hoa xung quanh ngõ Hinh Lan ở Trần Đường thuộc thành Quảng Châu vẫn tấp nập nhốn nháo, kỹ viện Vạn Hoa quán ở đầu ngõ đêm đêm vẫn đèn đuốc sáng trưng, trời còn chưa sáng thì còn chưa yên tĩnh.

Từ khi theo Lục Kiều Kiều luyện tập công phu nữ đan, An Long Nhi đã mất hẳn thói quen ngủ, đêm dài đằng đẵng chỉ là một trong những khóa hành công tu luyện của cậu. Giờ đã là canh tư, An Long Nhi đang ngồi trước bàn sách trong gian nhà phía Đông, hai mắt khép hờ, để mặc cho nội khí di chuyển trong kỳ kinh bát mạch khắp cơ thể, cũng để mặc cho dòng suy nghĩ của mình lần tìm về quá khứ.

Ba năm trước, Lục Kiều Kiều sống trong gian nhà lớn kiểu Tây Quan này, còn An Long Nhi thì được cô sắp cho ở trong phòng giữa phía sau khoảng sân. Xét về mặt phong thủy, chỉ có chủ nhà mới được ở phòng giữa, nhưng An Long Nhi vừa đến đây với thân phận nô bộc, đã lập tức được hưởng ưu đãi này.

Lúc bấy giờ, An Long Nhi chỉ là một thằng bé mãi nghệ nuôi thân, sự cát đặt kín kẽ như vậy, người lớn còn chưa chắc có tâm tư đoán ra, cậu làm sao mà chú ý đến được? Nhưng hôm nay ngồi ở đây, cậu đã hoàn toàn hiểu được tâm tư của Lục Kiều Kiều khi đó.

Một nhà huyền học khi đã tự đặt tên cho mình thì tuyệt không có chuyện chỉ muốn tên hay dễ gọi. Cô đặt cho mình cái tên Lục Kiều Kiều, một là lấy tên kỹ nữ biểu đạt niềm bi phẫn trong lòng, lý do thứ hai hẳn là vì mệnh của cô khuyết mộc; phương Đông thuộc hành mộc trong ngũ hành, phòng phía Đông có tính mộc rất mạnh, Lục Kiều Kiều có mệnh khuyết mộc chủ động ở phòng này, chính là muốn bổ sung cho sự thiếu khuyết trong mệnh cục của mình. Thêm nữa, cô là con gái, một thân một mình ẩn cư giữa chốn Trần Đường phong nguyệt, ở phòng giữa chẳng khác nào thông báo cho kẻ xấu biết nhà này không có đàn ông, nếu chủ động tránh phòng giữa, lánh sang một bên, thì dẫu khi một mình ở nhà mà gặp phải phiền phức, cũng có phòng giữa để bọn trộm cướp vồ hụt, kéo dài thêm chút thời gian, mức độ an toàn cũng cao lên.

An Long Nhi chỉ thấy hơi đáng tiếc, năm đó tại sao Lục Kiều Kiều không nuôi một con chó nhỉ? Bỏ bao nhiêu tâm cơ bày bố phòng giặc cướp cũng chẳng thực tế bằng nuôi một con chó. Giờ Đại Hoa Bối đang nằm rạp cạnh chân cậu, chỉ cần có người bất cẩn chạm vào cánh cổng, Đại Hoa Bối sẽ sủa nhặng lên một tràng; nếu có người trèo vào trộm đồ, Đại Hoa Bối nhất định sẽ đớp cho hắn một phát. Nghĩ tới đây, An Long Nhi không khỏi nhoẻn miệng cười, Lục Kiều Kiều thông minh lanh lợi như thế, không ngờ cũng có chỗ không nghĩ tới.

An Long Nhi đã ở đây được mấy ngày, căn nhà lớn được cậu thu dọn lại sạch sẽ gọn gàng, bài trí giống hệt như trước khi Lục Kiều Kiều rời đi. Bàn ghế, giường tủ, đến cả vị trí của ấm trà chén trà ngoài tiền sảnh, rồi chiếc giường trúc mới mua rất thích hợp để nằm hút thuốc phiện ngoài giếng trời, tất cả đều tái hiện lại không sai một li ký ức của An Long Nhi lúc mới đến căn nhà này ba năm về trước. Bất kể căn nhà này có được sáp đặt theo bố cục phong thủy tốt nhất hay không, kể cả đây có là Thiên sát tử cục đi chăng nữa, An Long Nhi vẫn muốn ở lại, để tự mình cảm nhận niềm hạnh phúc thời gian chưa từng trôi đi.

Từ sau trận đại chiến ở phủ Thiên Sư, An Long Nhi một mình ở lại nơi đó tu luyện ba năm, đồng thời cũng chờ đợi chẵn ba năm. Cậu và Thiên sư Trương Bồi Nguyên đều hiểu rất rõ, Quốc sư Đại Thanh An Thanh Nguyên chỉ có được một bản không đày đủ của Trảm long quyết, không có tâm pháp Trảm long phối hợp, cũng không có Lôi thích trong tay, tuyệt đối không thể trảm sát thành công long mạch, vì vậy y nhất định sẽ quay lại tìm tâm pháp và Lôi thích.

Lòng biết rõ ngày này sớm muộn cũng sẽ tới, nhưng điều khiến cả Thiên sư Trương Bồi Nguyên và An Long Nhi đều lấy làm khó hiểu là, trong ba năm liền An Thanh Nguyên không hề có động tĩnh gì. Mỗi năm bọn họ đều gieo một quẻ tính toán hướng đi và vận hội của An Thanh Nguyên, chỉ tính ra được quan vận của y không hanh thông, chắc đã bị bãi quan mất chức, chẳng những vậy, quẻ tượng trong mấy năm đều thể hiện ra tượng lục xung hất định,chứng tỏ người đang lang bạt tứ phương, không có nơi ở cố định. Lẽ nào An Thanh Nguyên đã từ bỏ việc tìm kiếm Trảm long quyết?

Đến Quảng Châu lần này là quyết định của cá nhân An Long Nhi. Mặc dù cậu không biết Bát tự của mình, nhưng dựa theo năm hạn để gieo quẻ thì tính ra được, năm nay sẽ có chuyện lớn không tầm thường xảy ra với mình. Thời điểm này mà cậu còn ở lại phủ Thiên Sư, cũng bằng như đẩy phiền phức sang cho Trương thiên sư. Lôi thích ở trong tay cậu, vậy thì mục tiêu cuối cùng của cuộc tranh đoạt Trảm long quyết cũng nhất định tập trung chỗ cậu, cứ né tránh lấn trốn, chi bằng công khai luôn thân phận và địa điểm, bản thân xuất hiện ngoài ánh sáng trước, đến ở nơi An Thanh Nguyên dễ tìm ra nhất mà chủ động cầu chiến, đánh nhanh quyết gọn, ngược lại còn gọn gàng dứt khoát hơn.

Trước khi chia tay với An Long Nhi ở phủ Thiên Sư, Lục Kiều Kiều từng nói, muốn tìm cô thì đi Côn Minh ở Vân Nam. Nhưng An Long Nhi không muốn liên lụy đến phủ Thiên Sư, lại càng không muốn liên lụy Lục Kiều Kiều. Cậu đã hiểu mục tiêu của cuộc đời mà An Thanh Nguyên từng nhắc đến, trong khoảnh khác Lôi thích vào tay mình, cậu đã biết số mệnh mình gán chặt với Trảm long quyết, vậy thì cứ để mình và Trảm long quyết quấn lấy nhau đến tận cùng đi thôi.

Trước mắt, người cậu cần gặp nhất chính là An Thanh Nguyên, vì mục đích sử dụng Trảm long quyết của y chính là trảm sát long mạch thiên tử ở Quảng Đông, y sẽ không rời khỏi nơi này. An Long Nhi ở Quảng Đông thì cơ hội gặp được An Thanh Nguyên mới lớn nhất. Việc quan trọng hàng đầu lúc này chính là ngăn cản An Thanh Nguyên ra tay, đoạt lại Trảm long quyết.

Theo sáp đặt của Lục Kiều Kiều, cuộc sống của An Long Nhi hoàn toàn không có vấn đề gì, vì trước khi chia tay, cô đã để lại cho cậu hơn trăm lượng ngân phiếu, cộng với số tiền thường ngày An Long Nhi tự mình dành dụm, cậu đã có thể mua một căn nhà lớn ở quê. An Long Nhi không nghiện thuốc nghiện rượu, ngày ngày chỉ ra chợ mua ít rau ít thịt, tính ra thịt Đại Hoa Bối ăn còn nhiều hơn cả cậu, ngoài ra, cậu còn được ở miễn phí trong nhà cũ của Lục Kiều Kiều, phí tổn hằng ngày rất ít, chỉ cần duy trì cuộc sống kiểu này, có khi cả đời cậu cũng chẳng tiêu hết tiền có trong tay.

Không cần lo kế sinh nhai không có nghĩa là người ta được phép chây lười, An Long Nhi muốn tìm một công việc thích hợp để làm. Buổi tối cậu ở nhà đánh quyền luyện kiếm, ban ngày thì lang thang khắp chốn trong thành, sau cùng, cậu cho rằng trước mắt làm thầy xem bói là một lựa chọn rất tốt. Thứ nhất là nhiều cơ hội lộ mặt ngoài đường ngoài phố, An Thanh Nguyên có thể dễ dàng tìm thấy cậu. Nếu phủ Quốc sư vẫn đang tiếp tục ám sát các nhà huyền học dân gian, tin tức cậu xuất hiện rõ ràng có thể truyền tới phủ Quốc sư một cách nhanh nhất; thứ hai là cậu vất vả học tập đạo pháp mấy năm nay vẫn chưa có cơ hội nào ẩn chứng, ra phố bày sạp có thể thực hành được một số công phu huyền học của bản thân; thứ ba là nếu chẳng buôn may bán đắt thì ngồi ngoài sạp cũng có thể đọc sách.

Chủ ý đã định, cậu bắt đầu đi loanh quanh trong thành theo trình tự, tìm kiếm chốn phố thị tập trung đông người nhất, nơi có nhiều thầy bói nhất. Cậu muốn dùng con mắt của một nhà phong thủy để đánh giá lại xem thành Quảng Châu mà mình lớn lên rốt cuộc có bố cục phong thủy như thế nào; đồng thời, cậu cũng muốn thăm dò tình hình làm ăn của giới bói toán trong thành, từ mức độ nhiều ít của cao thủ trên phố có thể đoán được mấy năm nay phủ Quốc sư có còn săn giết các nhà huyền học nữa hay không, tìm hiểu xem bói một lần phải thu bao nhiêu tiền, cũng là thử xem mình có thể vừa ra tay đã kiếm được bộn tiền như Lục Kiều Kiều thuở trước hay không.

Xưa nay An Long Nhi vẫn luôn vô cùng khâm phục năng lực kiếm tiền của Lục Kiều Kiều, khi một thân một mình đến Quảng Châu, cô cũng mới mười sáu tuổi, hai năm sau đã kiếm đủ ngân lượng mua được căn nhà lớn trong ngõ Hĩnh Lan. Nếu thiên hạ thái bình, cậu làm hai năm liệu có thể được như thế?

Mang theo sự tò mò đó, cậu lang thang ở Đông Sơn và Tây Quan suốt mấy ngày. Đông Sơn là khu vực quân sự và chính trị quan trọng trong thành Quảng Châu, nhân sĩ tam giáo cửu lưu tương đối ít; còn chín con đường ở khu Tây Quan lại cực kỳ hỗn tạp, rồng rắn lẫn lộn, các sạp xem bói xem tướng khá nhiều, vậy nên cậu chủ yếu quanh quẩn ở khu Tây Quan.

Hôm nay sác trời hơi âm u, mới lúc trước còn có mưa nhỏ, An Long Nhi đeo cây Lôi thích được bọc kín bằng vải, tay cầm ô giấy dầu, mua một cái bánh hấp ở ven đường, vừa ăn vừa đứng trước mấy sạp bói toán xem náo nhiệt. Cậu phát hiện những tay thầy bói nói nhảm quả thật không hề ít, có thể thấy phủ Quốc sư mấy năm nay không hề lười nhác, những người có chút công phu thực học e là đã bị xử lý hết cả rồi.

Cách chỗ cậu đứng không xa có một đám người đang túm tụm, mười bảy mười tám chiếc ô trên đầu nối liền thành một mảng, che kín mít, không nhìn được bọn họ đang vây quanh cái gì, chỉ thấy một cây trường thương treo một lá cờ buông rủ, bên trên đề ba chữ lớn “Tiểu Thần Tiên”, xem chừng không phải bốc quẻ thì cũng là coi mệnh.

Thời tiết xấu, ngoài hàng bán ô ra thì chẳng có mấy hàng làm ăn tốt, nhưng bên dưới lá cờ Tiểu Thần Tiên này còn đông vui hơn cả gánh mãi võ, An Long Nhi thực tình không thể tưởng tượng xem bói bốc quẻ kiểu gì mà có thể náo nhiệt đến mức này. Cậu liền rảo bước qua đó, thầm nghĩ không nên bỏ qua cao nhân. Hơn hai chục người ken kín mít đến giọt nước cũng chẳng lọt, An Long Nhi cố sức chen vào, song chỉ qua một lớp rồi không sao nhích thêm được nữa, có điều, vẫn có thể nhìn qua đám đầu người xem cả bọn đang quây quanh thứ gì.

Đám người bị ngăn lại bởi năm chiếc ghế dài được quây thành hình bán nguyệt, trong vòng bán nguyệt có một chiếc bàn nhỏ, giữa bàn có một lỗ thủng, lá cờ Tiểu Thần Tiên chính là được cắm ở đó. Bên cạnh chiếc bàn là một người đàn ông cao hơn An Long Nhi chừng nửa cái đầu, y mặc áo dài bằng lụa đen, đầu đội mũ quả dưa gán một viên ngọc bích, đuôi sam vừa dài vừa to, trông đen bóng mà mềm mại; mát đeo kính đen, sác mặt trắng hồng, sống mũi cao, gương mặt gầy gò, thoạt nhìn qua làm An Long Nhi nhớ đến gương mặt của Jack; trên mặt y còn để ba chòm râu đen nhánh, khiến người khác không thể đoán ra tuổi tác.

Giọng y rất dễ nghe, giọng nam trung sang sảng mềm mại, vang mà không chói tai. Y cầm ô trên tay, đảo mắt nhìn quanh đám người, miệng liến thoắng:

“Đừng thấy ở đây ít người, nhưng việc thì chẳng ít đâu, ta đưa mắt nhìn một cái, là có thể nhận ra ai có việc gì… ở đây có hai người đang tìm việc làm, có điều vẫn chưa tìm được…”

Cặp mắt Tiểu Thần Tiên đảo một vòng phía sau cặp kính đen, sau đó y lại cất lời:

“Có một người rất xúi quấy, đang đi kiện cáo, giờ vẫn chưa biết là tháng hay thua… có một người đang rất phiền lòng, trong nhà anh ta có người mắc bệnh…”

Y dừng lại một thoáng, rồi nói với giọng nghe còn có vẻ thần bí hơn:

“Có một người khí sắc rất kém, đang phạm vào kẻ tiểu nhân, ngày nào cũng cãi nhau với người ta… còn có một người đã mất đi thứ rất quan trọng, mãi vẫn chưa tìm thấy…”

Nói tới đây, cặp kính của Tiểu Thần Tiên hất về phía An Long Nhi một cái. An Long Nhi lập tức trợn tròn mắt lên, cậu đưa mắt nhìn sang trái rồi sang phải, dưới tán ô trong ngày trời đất sầm sì thế này, nhìn cái gì cũng mờ mịt, tay Tiểu Thần Tiên ấy lại còn đeo kính râm, tối mịt như vậy còn có thể xem tướng, quả là không đơn giản. Thêm nữa, trình độ xem tướng cao như Lục Kiều Kiều, cũng chỉ một lần xem tướng cho một người, Tiểu Thần Tiên này không ngờ lại có thể đứng giữa đường, vừa liếc mắt nhìn đã ra được năm sáu người, thậm chí cả việc mình đang tìm Trảm long quyết y cũng nhìn thấu, công lực bậc này quả không hề đơn giản.

Tiểu Thần Tiên làm An Long Nhi hết sức hứng thú, cậu vừa nghe y nói, vừa ngấm ngầm sử dụng ám kình chen lên phía trước.

“Hôm nay xem tướng không thu tiền, tặng miễn phí!” Tiểu Thần Tiên nói ra điều mọi người muốn nghe nhất, cả đám người kích động lớn tiếng khen hay.

“Có điều…”

Quả tim của đám đông lại treo ngược lên.

“Không thể nào miễn phí hết được, chỉ tặng cho năm người thôi.”

Trong đám người liền vẳng lên tiếng trao đổi rầm rì, tiếng nói của Tiểu Thần Tiên nãy giờ vẫn át hết cả tiếng mọi người, y lại cất giọng hùng hồn mà tròn vành rõ chữ nói tiếp: “Phép xem tướng này của ta không miễn phí cho người điếc, ta nói gì hắn cũng không nghe thấy; người câm cũng không miễn phí, ta nói xong hắn chẳng thể truyền thanh danh của ta đi được; không miễn phí cho trẻ con, ta nói gì nó cũng không hiểu… ta có ý thế này, ở đây ta có năm tờ giấy, người nào muốn được xem tướng miễn phí thì giơ tay ra lấy một tờ, lấy được cũng đừng lấy làm mừng, mà không lấy được cũng chớ nên tức giận, tất cả đều là duyên phận do ông trời sắp đặt… nào đến đây, vị đại ca này giơ tay nhanh nhất, cho anh một tờ.”

Anh chàng kia vừa nhận được mảnh giấy liền ngoác miệng ra cười, nhưng Tiểu Thần Tiên lại không buông tay, y vẫn giữ mảnh giấy, đoạn hỏi: “Vị đại ca này là người ở đâu vậy?”

“Người Thạch Loan, ở Nam Hải.”

“Tôi thấy Quan tinh trên mũi anh có sắc xanh, có phải đến tỉnh thành để kiện cáo gì không?”

“Đúng rồi, Tiểu Thần Tiên tài thật đấy, thế tôi đi kiện liệu có tháng được không?”

“Đừng gấp đừng gấp, ngồi xuống ghế cái đã… người tiếp theo!” Tiểu Thần Tiên chém đinh chặt sắt một câu rồi lại tiếp tục phát giấy.

An Long Nhi vừa thấy y thể hiện ra chiêu này, quả cũng có chút trình độ, lập tức từ xa vươn tay qua đám đầu người nhấp nhô chen chúc, Tiểu Thần Tiên đã phát bốn tờ giấy, không ngờ lại đưa tờ thứ năm qua đầu đám người, đặt vào tay An Long Nhi đang ở vòng ngoài không làm sao chen vào trong được.

Theo sự sắp xếp của Tiểu Thần Tiên, An Long Nhi và bốn người lạ mặt đều ngồi xuống ghế băng bằng gỗ bên trong vòng tròn. Tiểu Thần Tiên tay cầm ô, nhìn một người trẻ tuổi phán rõ ràng rành mạch, không chút hàm hồ: “Hôm nay anh ra khỏi nhà là để tìm việc làm, đúng không?”

“Đúng vậy!”

“Từ hướng Bắc đi tới hướng Nam, đến giờ vẫn trắng tay không được chút lộc lá gì.”

“Đúng thế, tiên sinh, tôi ở mạn Trần gia từ, từ sáng sớm đến giờ chưa tìm được việc gì làm, ngài xem tôi liệu có tìm được không?”

“Năm nay anh gặp phải năm hạn, không có lợi, lại phạm phải sao Tang môn Điếu khách, chẳng những tìm việc khó, mà trong nhà còn có chuyện khác nữa…”

“Hả?”

Anh chàng thất nghiệp kia vẫn còn đang kinh ngạc, Tiểu Thần Tiên đã quay sang nói với một người đàn ông trung niên:

“Vợ ông đang mắc bệnh có phải không?”

“Ôi trời ơi! Chuyện này mà tiên sinh cũng biết à?”

“Tiểu Thần Tiên ta đây biết được cả chuyện năm trăm năm trước năm trăm năm sau, hôm nay đến đây chính là để thanh danh đồn khắp, chuyện của ông có gì ta đều biết hết.”

“Bệnh của bà nhà tôi liệu có khỏi được không?”

“Đi về phía Tây sẽ được cứu.”

“Đúng quá rồi, đại phu mà tôi tìm chính là ở phía Tây.”

Tiểu Thần Tiên không lằng nhằng thêm với ông ta nữa, lại nói với một bà thím:

“Bà thím này, có phải muốn hỏi chuyện sau này, phải vậy không?”

“Đúng đúng đúng, tôi chính là…”

“Bà không cần phải nói, Tiểu Thần Tiên nhìn qua là biết ngay, con cái bà đối xử không tốt với bà có phải không?”

“Đúng đúng đúng, tôi…”

“Không cần phải nói nữa. Giờ bà đang có người trong lòng rồi, có điều vẫn chưa chắc chán…”

An Long Nhi nghe mà trợn mắt há hốc miệng, đây gọi là phép xem tướng gì vậy chứ, thật đúng là chẳng khác nào thần tiên. Phép xem tướng học được từ Lục Kiều Kiều và Thiên Sư phủ hình như cũng không được đến mức ấy? Cậu quay đầu lại nhìn bà thím đó, tuổi tác tuy hơi lớn một chút, gương mặt vát nhọn, cằm dưới mỏng, thoạt nhìn cũng có vài phần nhan sắc, có điều tướng mặt kiểu này thì đường con cái đích thực là không được tốt cho lắm; người tuổi tác đã cao mà con ngươi không vàng, khóe mắt ánh lên sác đào hoa, quả nhiên là tình huống mai nở hai lần. Nhưng điều khiến An Long Nhi lấy làm thắc mắc là, dù xem tướng mặt có thể nhìn ra những điều này, song bây giờ người nào người nấy đều che ô, Tiểu Thần Tiên lại đeo kính râm đứng tít ngoài xa, y làm sao nhìn được chứ?

Quả nhiên núi cao còn có núi khác cao hơn, An Long Nhi ngồi ngay ngắn với thái độ hết sức khiêm cung, đợi Tiểu Thần Tiên xem tướng mặt cho mình.

Bà thím vội vàng truy hỏi tình hình cuộc sống sau này của mình và người đàn ông trong lòng kia, Tiểu Thần Tiên cũng lại bảo bà ta ngồi yên đó, không cho biết đáp án ngay. Y quay đầu, cặp kính râm hướng về phía An Long Nhi nói: “Anh bạn trẻ, cậu mất cả cha lẫn mẹ từ lâu, tuổi còn nhỏ đã phải lang bạt giang hồ, có đúng không?”

An Long Nhi thành kính gật đầu. Bởi lẽ, việc cha mẹ mất sớm có thể tính ra nhờ vào mệnh cục, song xem tướng mặt thì chỉ có thể biết rằng duyên phận với cha mẹ của người này dày mỏng ra sao mà thôi. Lời phán chuẩn xác của Tiểu Thần Tiên đã khiến cậu phục sát đất.

“Cậu đánh mất một thứ rất quý giá, tìm kiếm đã lâu mà vẫn không thấy?”

An Long Nhi lần này đã có thể thật tâm khẳng định, từ lúc cậu đứng bên ngoài vòng người, Tiểu Thần Tiên này đã biết cậu đang tìm kiếm Trảm long quyết bị đoạt mất, cậu cũng buột miệng hỏi giống những người khác:

“Tiên sinh, ngài xem liệu tôi có tìm lại được không?”

Tiểu Thần Tiên nghe thấy cậu hỏi vậy, liền ngửa mặt cười dài, từ tiếng cười có thể nhận ra niềm khoái lạc đầy đắc ý giống như thể vừa hoàn thành một việc lớn.

Y cười chán chê rồi mới bảo An Long Nhi: “Anh bạn trẻ, khó đấy, cậu ngồi xuống trước đi đã.”

Sau đó, y ngẩng đầu lên nói với đám người vây quanh:

“Mọi người đều thấy cả rồi đấy, vàng thật không sợ lửa, ta tặng mấy câu tướng pháp, chính là để mọi người nghe mà biết được trình độ xem tướng của ta thế nào, tặng thì chỉ có mấy câu đó thôi, nếu thực sự muốn nói về tướng mạo thì nhiều quá. cả đời ăn mặc đi lại tài vận quan lộc thế nào, cha mẹ sống được bao lâu, anh em liệu có đắc lực không, vợ chồng liệu có hòa hợp không, con cái thế nào, có con nối dõi hay không, cuối đời có mấy người chăm sóc, nghèo hèn hay giàu sang, sống được bao nhiêu tuổi, tính tình thế nào, vận số trọn đời ra sao, bao giờ gặp vận bao giờ đen đủi, cả một đời người phải nói từng ly từng tí như vậy mới gọi là xem tướng, có đúng không hả? Vậy thì muốn Tiểu Thần Tiên ta xem tướng phải dâng tặng bao nhiêu lễ vật đây? Hoàng kim còn có giá, tài nghệ thì không, ta đây xem tướng mỗi lần thu hai lạng bạc trắng!”

“Chà…” Trong đám người đang kinh ngạc và chấn động trước tiền xem tướng cắt cổ vọng lên tiếng xôn xao.

Nhưng An Long Nhi thì cảm thấy cái giá này không thể xem là cao, cậu đã quen thấy Lục Kiều Kiều xem bói cho người ta một lần thu vài lượng bạc, đến nỗi cơ hồ quên mất thời buổi bây giờ, hai lạng bạc tương đương với tiền sinh hoạt phí của một nhà tám người trong cả tháng.

“Có điều!” Tiểu Thần Tiên lại dùng giọng nói lớn hơn át đi tiếng xôn xao.

“Hôm nay mục đích của ta không phải vì kiếm tiền, mà chỉ muốn lưu truyền danh tiếng, cũng như câu người qua lưu danh, nhạn qua để tiếng, người đi qua mà không lưu lại danh tiếng thì đâu biết là Trương Tam hay Lý Tứ, nhạn bay qua mà không để tiếng thì sao biết được xuân hạ thu đông. Hôm nay vì muốn lưu truyền thanh danh, ta xem tướng không cần hai lạng bạc, mỗi vị chỉ thu hai xâu tiền là đủ!”

Lời này vừa thốt ra, đám đông liền “ồ” lên như được an ủi. Tiểu Thần Tiên lớn tiếng tuyên bố giảm giá làm mọi người lại có hy vọng mới, hai xâu tiền tức là hai trăm đồng tiền, thông thường, những người đang có việc canh cánh trong lòng cũng sẵn lòng nghiến răng trả giá để hỏi xem tiền đồ thế nào.

An Long Nhi cũng kích động vì hành vi giảm giá, cậu ngẩng đầu lên nhìn Tiểu Thần Tiên thao thao bất tuyệt giảng giải:

“Nếu ai cũng muốn xem tướng thì ta thiệt to rồi, hôm nay là ưu đãi đặc biệt để danh tiếng lan xa, từ hôm sau không còn cái giá này nữa đâu, hôm nay cũng không thể xem cho nhiều người, mà chỉ ba vị thôi, ưu tiên mấy vị ngồi hàng đầu. ở đây ta có ba tờ giấy, vị nào sẵn sàng xem tướng thì giơ tay ra, ai lấy được tờ giấy thì có một cơ hội, lấy được rồi đừng vội mừng rỡ, không lấy được cũng đừng tức giận…”

Tiểu Thần Tiên vừa phát giấy vừa nói liên miên, những người ngồi dãy trước toàn bộ đều giơ tay lên, An Long Nhi cũng nhận được một tờ.

“Sau ba vị này, có ai muốn xem tướng thì ta vẫn thu tiền là hai lạng bạc, các vị có thể không xem, ta cũng có thể không nhận. Vị nào muốn biết chung thân đại sự phú quý bần hàn thế nào, việc cát hung trước mắt, đại kế tiến thoái ra làm sao, thì cứ đến tìm Tiểu Thần Tiên ta đây.”

Sau một phen sàng lọc, trong đám người chỉ có ba người khách tha thiết muốn xem tướng, An Long Nhi là một trong số đó. Bốn người kê ghế ngồi quây lại phía trước chiếc bàn nhỏ, đám người phía sau đã tản đi một nửa, còn lại mười mấy kẻ rỗi việc, tuy bản thân không xem tướng nhưng cũng không đi, cứ đứng quây xung quanh dòm Tiểu Thần Tiên xem tướng cho kẻ khác.

Tiểu Thần Tiên nói với cả bọn:

“Xem tướng thì phải đặt lễ trước, mọi người hãy chuẩn bị sẵn tiền, đặt lên mặt bàn, nếu xem đúng thì đây là của ta, còn nếu không đúng, ta không lấy một xu, trả lại toàn bộ.”

Mọi người thấy vậy cũng công bằng, liền làn lượt lấy ra hai xâu tiền trong túi đặt lên bàn, Tiểu Thần Tiên vơ lại thành đống đẩy sang mé bên chiếc bàn, sau đó nói với bà thím:

“Bà thím này, trong mệnh có Dịch mã tinh, cả đời lao khổ vất vả mà không được hưởng phúc; vừa làm mẹ chồng lại vừa làm con dâu, miệng bảo không làm nhưng tay chân lại vơ việc vào mình, miệng bảo không lo, nhưng tay chân lại đi nấu ăn rửa bát. Từ sáng sớm đến tối khuya không nghe được một lời cảm tạ. Làm từ sáng đến tối, mà vẫn có người nói bà lười. Trong mệnh lại có Chỉ bối sát, tuy được ý thần song lại không được lòng người. Làm cơm chưa chín đã giữ khách lại ăn, ngâm rượu chưa nồng đã mời người ta thử, khiến cho người ta trước mặt thì gọi bà là đại nương, sau lưng lại bảo bà chẳng hiền lương. Họ hàng lãnh đạm, chị em xa lánh, từ đầu năm đến cuối năm cũng chẳng gặp mặt thân nhân lấy một làn… Thảm nhất là con cái có cũng như không, dẫu không trách con cái bất hiếu thì cũng phải trách thế đạo khó khăn, nhìn người ta sinh con đẻ cái được hưởng lạc thú thiên luân, còn mình thì lại như kẻ cô quạnh cả đời, cũng may ông trời có mắt, giờ bà vẫn có thể như cây khô gặp mùa xuân nở hoa thêm làn nữa, chỉ e gặp phải người bất thiện, tiền đồ mờ mịt…”

Một tràng bình giải như nước chảy mây trôi của Tiểu Thần Tiên khiến cho bà thím kia luôn miệng khen phải, An Long Nhi lại càng coi Tiểu Thần Tiên này như người trời. Mỗi khi Lục Kiều Kiều tính toán Bát tự cho người ta, vẫn phải bày ra mệnh cục, lần lượt bình giải từng điểm một, vị Tiểu Thần Tiên này mở miệng ra là nói liền một tràng, mà lại không sai câu nào, nếu y không chịu dừng lại, sợ rằng còn có thể nói ba ngày ba đêm cũng không hết.

Trong lúc bà thím gật đầu lia lịa, Tiểu Thần Tiên đã cầm hai xâu tiền lên tay, nói với bà ta: “Tôi nói có đúng không? Có đáng nhận hai xâu tiền này của bà không?”

“Đúng, vâng vâng vâng…” Bà thím dở khóc dở cười nói: “Đáng lắm, đúng là thần tiên, nhưng còn cuộc sống về sau của tôi thì sao?”

“Bà năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”

“Tôi được năm mươi tư.”

“Vận bà mấy năm nay kém lắm, cũng may tâm địa bà tử tế, ăn nói hiền lành lòng dạ thẳng thán nên mới giữ được tuổi thọ. Trước năm năm mươi ba tuổi thì cuộc sống đồng sàng dị mộng cứ bình đạm trôi qua, năm năm mươi chín tuổi thì có tai nạn sinh ly tử biệt. Giờ mệnh lại phạm phải sao Kế La, gốc rễ lìa rồi có trồng lại cũng không thể ổn, bất định như ngọn cỏ vô danh trên tường, tường nhà người ta chân móng không vững thì bà cũng chỉ có thể chịu được hai cơn gió là đổ gục. Cái đó gọi là La cùng Kế, phải nhẫn nhịn người ta, Kế cùng La, bị giày vò hành hạ. Theo ta thấy, sau năm sáu mươi ba tuổi thì bà dễ sống, sau năm bảy mươi mốt thì phải cân nhắc. Hai xâu tiền này của bà là tiền xem tướng, xem tướng xong cũng phải xem ông trời có ban phúc cho bà hay không, xem ông trời có cho ta làm phúc cho bà hay không nữa. Bà cứ ngồi đó, đừng nóng vội, lát nữa để ta giúp bà cầu xin ông trời.”

Tiểu Thần Tiên nói một tràng dài rồi thu tiền về, quay sang hỏi một người đàn ông trung niên:

“VỊ đại ca này tuổi gì? Vợ anh ở nhà bao nhiêu tuổi rồi?”

“Tôi ba mươi hai, vợ tôi ba mươi lăm.”

“Mệnh của anh phạm tiểu nhân rất nặng, trời sinh đã bị người ta tị hiềm ghen ghét, nhưng không phải vì con người anh không tốt, mà là do tổ tiên anh tích phúc khiến anh từ nhỏ đã được ăn no mặc ấm, học hành hiểu lẽ, thông minh lanh lợi, mệnh số như vậy trên thế gian này hiếm đến chừng nào chứ? Đừng nói là những người quen biết anh ghen tức với anh, ta vừa nói ra thế này, những người quây quanh đứng xem đây cũng đều ghen tức với anh…”

Tiểu Thần Tiên lại nói một mạch khiến người đàn ông gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, làm cả đám người đứng xem đều cười ồ lên.

Người trung niên ấy lại hỏi tiếp: “Tiên sinh, ngài có thể nhìn ra vụ kiện cáo này của tôi là vì sao không?”

“Anh tuổi Thìn, năm nay là năm hạn phạm phải Bạch hổ tinh, long hổ tương tranh, người hợp tác tranh giành tài sản, lẽ đâu lại không đâm đơn kiện cáo chứ?”

“Đúng quá đi mất, thần tiên đúng là thần tiên.” Người đàn ông kích động thốt lên: “Hai xâu tiền tiên sinh cứ lấy, ngài xem vụ kiện này của tôi có thắng được không?”

An Long Nhi lại quay sang nhìn gương mặt người trung niên ấy, chỉ thấy trên đầu anh ta đội mũ quả dưa, mặc dù nửa trán phía dưới rộng rãi bằng phẳng, nhưng sự thật là chiếc mũ đã che đi cả nửa trán bên trên, trong tình huống không nhìn thấy toàn bộ vầng trán và đường tóc, cậu thực tình không hiểu Tiểu Thần Tiên làm sao có thể đoán ngay ra chuyện thời thiếu niên của người này.

Chắc là xem tai? An Long Nhi thầm nhủ, bèn lại nhìn sang tai của đối tượng, chỉ thấy vành tai tròn đầy đặn, thịt tai dày và hồng nhuận, hai dái tai không chỉ buông xuống mà còn hơi vòng ra phía trước, kiểu tai này gọi là “Minh châu triều hải”, là tướng cả đời có phúc, bản thân cậu cũng có thể nhìn ra được.

Có điều, chuyện kiện tụng không thể chỉ nhìn khí sắc của Quan tinh trên mũi mà đoán ra, khi chưa biết chi tiết Bát tự mệnh cục, lại càng không thể trực tiếp phán đoán nguyên nhân kiện tụng là do tranh chấp tài sản; thêm nữa, kể cả có dùng Bát tự tính ra được việc kiện tụng tranh chấp tài sản, thì cũng vì tài kiếp trong mệnh cục quá vượng thành ra khắc ngược lại Quan tinh; đối với người tuổi Thìn, năm nay là năm Dậu, chẳng những không phạm phải Bạch hổ sát, ngược lại còn được nằm trong Lục hợp, vậy mà Tiểu Thần Tiên này lại nói tuổi Thìn xung khắc với Bạch hổ tinh, nên mới có kiện tụng tranh giành tài sản, đây là lý luận vớ vấn kiểu gì vậy chứ, rõ ràng là nói bừa để che mắt người ta… An Long Nhi thầm nhủ, Tiểu Thần Tiên này chắc chắn có một số kỳ thuật quái dị nào đó mà mình không hiểu.

Tiểu Thần Tiên nói với người đàn ông kia: “Vụ kiện này của anh không dễ dàng, nhẹ thì phá sản, nặng thì bản thân và gia đình cũng khó mà giữ nổi.”

An Long Nhi và người đàn ông cùng lúc kinh ngạc thốt lên thành tiếng: “Hả?”

“Vậy có cứu được không?” sắc mặt người đàn ông đã trở nên rất khó coi, ngữ điệu hết sức căng thẳng.

Tiểu Thần Tiên cũng rất nghiêm túc nói với anh ta: “Anh đừng hỏi ta, hãy hỏi ông trời ãy.

Nói đoạn, một tay y thu hai xâu tiền vào túi mình, tay kia đẩy về phía người đàn ông một bộ chén thánh.

Chén thánh là một loại công cụ chiêm bốc thời cổ đại, làm bằng xương hoặc gỗ, hình dạng giống như hai cái sừng trâu to bằng lòng bàn tay, mặt dương gồ lên, mặt âm bằng phẳng, mặt âm của hai miếng có thể ghép vào nhau, rồi dùng một sợi dây ngán xâu lại. Khi xem bói, người ta quăng chén thánh xuống đất, nếu cả hai mặt âm cùng hướng lên trên là tượng hung, cả hai mặt âm cùng hướng xuống đất cũng là hung; chỉ có một hướng lên trên, một úp xuống dưới mới là tượng cát; điều này có nghĩa rằng ông trời đồng tình với việc muốn chiêm bốc.

Người đàn ông trung niên kia định vươn tay ra lấy bộ chén thánh, nhưng bàn tay Tiểu Thần Tiên lại vẫn đè lên hai chiếc chén trên bàn, nói với anh ta:

“Bạch hổ tinh mà mệnh của anh năm nay phạm phải là đại sát tinh, nếu không ai giúp, anh giữ được cái mạng thì cũng chẳng giữ nổi gia đình nhà cửa; có điều, muốn giải được sát khí này chẳng khác nào đi ngược lại ý trời, anh muốn ta giúp giải hạn, thì cũng bằng như đem cái hạn của anh đổ lên đầu ta, đến lúc ấy có chết hay thương tổn gì cũng là ta gánh hết, chuyện như vậy thì có cho bao nhiêu tiền ta cũng chẳng muốn làm; chỉ là hôm nay anh đã đến đây gặp được Tiểu Thần Tiên này rồi, bên trong nhất định là có huyền cơ, chúng ta hãy xem ý trời thế nào, liệu ta có thể giúp được anh không. Nếu ông trời không cho ta giúp, thì anh tự mà về làm việc thiện tích đức, tán tài cầu phúc thế nào cũng được, ta không dám quản, còn nếu ông trời thấy không thuận mắt, muốn Tiểu Thần Tiên ta đây ra tay, thì ta đành nhận lấy số mệnh ấy, mà anh cũng phải nhận mệnh của mình, coi như là nhân duyên của ngày hôm nay. Giờ anh hãy bỏ hết vàng bạc ngân phiếu mang theo người đặt lên bàn, để ông trời thấy được thành ý của anh đi. Nếu ông trời cho ta giúp anh, ta mới dám tế Bạch hổ phá tà khí cho anh, rồi anh hãy để hết những vật phàm tục trên người ấy lại đây trấn áp Bạch hổ, sau đó yên tâm mà đi kiện cáo; còn nhược bằng ông trời không cho phép, xin lỗi, những vật phàm tục này anh cứ mang đi, đợi đến khi tán gia bại sản thì lấy ra mà mua thuốc mua cơm, anh thấy thế có được không?”

“Chuyện này…” Người đàn ông trung niên lộ vẻ do dự, có lẽ là tiền bạc trên người nhiều quá, anh ta không nỡ dứt bỏ, cũng có lẽ là những lời của Tiểu Thần Tiên khiến anh ta nửa tin nửa ngờ.

Tiểu Thần Tiên thấy anh ta không móc tiền ra ngay, liền đẩy chén thánh trên tay tới trước mặt bà thím kia, nói với bà ta:

“Bà thím, bà quăng chén thánh này trước đi, quăng xong rồi ta thu một xâu tiền, làm phúc cho bà vậy.”

Bà thím vừa nghe nói chỉ lấy một xâu tiền, vui sướng cười toét miệng, luôn miệng dạ vâng, một mặt lại nói:

“Tiên sinh đúng là chiếu cố cho bà già này thật, biết bà già không có ngân lượng nên chỉ lấy có một xâu tiền, nếu ngài bảo bà già này lấy hết tiền trên người ra, chắc tối nay tôi sẽ bị mắng chết mất thôi, khụ khụ khụ…”

“Bà thím, không phải ta tính rẻ cho bà đâu, mà là việc của đại ca đây là chuyện lớn, nếu anh ta không tế Bạch hổ, chẳng những phá sản, thua kiện mà ngoảnh lại còn bị kẻ thù đâm thọc sau lưng, nói không chừng còn phải ngồi đại lao cũng nên, lúc ấy đừng nói là tiền bạc mang theo người, kể cả của cải trong nhà cũng bị sung công hết ấy chứ, bà nói xem, ta có dám chỉ lấy anh ta một xâu tiền hay không?”

Bà thím quăng chén thánh lên bàn được hai mặt một âm một dương, lập tức lấy trong người ra hai chồng năm mươi văn tiền đặt lên bàn. Tiểu Thần Tiên rút trên bàn ra một tờ giấy tráng, dùng bút lông viết nguệch ngoạc một hồi, mọi người nhìn vào, chỉ thấy y viết xong xuôi rồi mà giấy trắng vẫn hoàn giấy tráng. Sau đó, Tiểu Thần Tiên dùng hai ngón bàn tay trái kẹp tờ giấy, tay phải chập lại thành kiếm chỉ vung vấy vẽ bùa lên mặt giấy, miệng lấm nhẩm niệm một tràng chú ngữ không ai hiểu gì, không lâu sau, trên bề mặt tờ giấy đã hiện ra mấy hàng chữ trắng. Tiểu Thần Tiên nhanh nhẹn gấp tờ giấy lại nhét vào tay bà thím, rồi nói:

“Phép tạo phúc được trời cao ban xuống đều viết trong giấy này, bà mau cất vào mang về nhà, trên đường không được xem, sau khi về nhà phải thắp hương cúng thần, đặt mảnh giấy này thờ trước bát hương, ba ngày sau mới được xem, rồi làm theo những gì viết trong đó là được, nhớ là không được có sai sót gì đấy, đi mau đi!”

Bà thím vừa nghe vậy vội vàng gói ghém mảnh giấy chạy về nhà, Tiểu Thần Tiên và An Long Nhi quay đầu lại nhìn trên bàn, thấy đã đặt mấy tấm ngân phiếu, bên trên ngân phiếu chặn một đồng tiền, người đàn ông trung niên kia nói với Tiểu Thần Tiên:

“Tiên sinh, trên người tôi chỉ có ngàn này thôi.”

Tiểu Thần Tiên nghiêm túc nói: “Ta không quan tâm của anh nhiều hay ít, anh có thành ý hay không đã có ông trời biết rồi, nếu có chuyện gì che trời giấu đất, tế Bạch hổ không linh thì người chịu khổ vẫn là anh thôi. Anh quăng chén thánh ba làn đi, nếu cả ba lần đều không quăng ra được một âm một dương, thì anh có thể mang số tiền này về nhà được rồi đấy.”

Người đàn ông trung niên căng thẳng cầm chén thánh lên, Tiểu Thần Tiên lại nói với anh ta: “Trước tiên hướng về phía Nam bái lạy ba lần đã, sau đó mới quăng, thành tâm môt chút…”

Nói xong, y quay sang nhìn An Long Nhi, khóe miệng nhếch một nụ cười. An Long Nhi có cảm giác Tiểu Thần Tiên này chắc cũng chuẩn bị lột sạch bạc trên người cậu trước mặt mọi người, nên chỉ chớp chớp mắt, nhìn vào mắt kính râm thâm xịt của đối phương, thầm nuốt một ngụm nước bọt.

Cậu nhớ Lục Kiều Kiều từng nói, trên giang hồ khắp nơi đều là bọn lừa đảo, muốn nhìn thấu được tất cả các thứ trò vè lường gạt là điều không thể, nhưng tên bịp nào cũng chỉ có một mục đích là cầu tài, chỉ cần mình nhất quyết không chịu móc tiền ra, thì dẫu ngây ngô đến mức tín nhiệm người trong toàn thiên hạ cũng không bao giờ thực sự bị bịp.

Tiểu Thần Tiên quả nhiên đã cất tiếng nói:

“Anh bạn trẻ này là người ở đâu nhỉ?”

“Nhân sĩ Quảng phủ.”

“Năm nay bao nhiêu tuổi?”

“Mười bảy.”

“Đã lấy vợ chưa?”

“Chưa.”

“Cậu vừa trở về Quảng Châu đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Cậu rời Quảng Châu được ba năm rồi?”

“Đúng vậy?!” An Long Nhi hơi bất ngờ, chuyện này không phải xem tướng mà nhìn ra được.

“Cậu từ phương Bắc tới?”

“Đúng vậy! Làm sao tiên sinh biết được? Có phải đang tính quẻ không?” An Long Nhi thực sự không kìm nổi tò mò, cậu rất muốn biết trong thiên hạ này còn có tuyệt kỹ thần kỳ gì có thể liếc qua một cái là nhìn ra được những chuyện cá nhân riêng tư chi tiết tới vậy.

“Phì…” Tiểu Thần Tiên cười khẩy đày khinh miệt: “Tiểu Thần Tiên cần gì phải tính quẻ chứ, không phải đã nói rồi đấy thôi, nhìn qua là biết, ta còn biết cậu ở trên núi tu đạo ba năm, giờ chác cũng là đại pháp sư rồi đúng không?”

An Long Nhi há hốc miệng, năng lực lý giải huyền học mà cậu tạo lập mấy năm nay cơ hồ không theo kịp cảnh giới của Tiểu Thần Tiên, người này thực sự quá đáng sợ.

Lúc này, người đàn ông trung niên kia đã gieo chén thánh xong, nãy giờ vẫn quan sát hai người đối thoại, đồng thời cũng kinh ngạc đến bần thần cả người, anh ta vừa thấy An Long Nhi ngây ra như phỗng dừng câu chuyện lại, lập tức tranh thủ thời gian chen miệng vào, chỉ tay lên mặt bàn nói:

“Thần tiên, thần tiên, tôi quăng ra được hai mặt âm dương rồi, ngài xem có được không?”

Tiểu Thần Tiên lộ vẻ yên tâm, nói: “ông trời đối đãi anh không bạc, mà đối với ta lại chẳng ra sao cả, thế này tức là ta phải chịu tội thế cho anh rồi đó, đúng là ý trời, ý trời.” Nói đoạn, y lại lấy giấy trắng vẽ một lá bùa tráng trơn, ngước nhìn lên không trung vạch bùa niệm chú, mọi người liền thấy mặt tờ giấy Tuyên dần dần tối lại, hiện ra mấy hàng chữ trắng. Tiểu Thần Tiên nhanh nhẹn gấp giấy vào, bảo người đàn ông kia nhắm mắt, vạch mấy đạo bùa trước mặt anh ta rồi điểm lên trán một cái, đồng thời nhét lá bùa giấy vào tay áo đối phương, miệng nói:

“Hiện giờ Bạch hổ sát đã rời khỏi thân thể anh rồi, anh phải lập tức trở về khách điếm đừng đi đâu, bằng không Bạch hổ sát lại đuổi theo anh nữa… gượm đã nào, ta đã nói hết đâu, trước khi vào cửa phòng hãy nhảy qua chậu lửa trước, sau khi qua cửa thì ngâm nước lá bưởi mà tám, trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày không được chạm đến rượu, thuốc phiện và nữ sắc, bằng không Bạch hổ sát lại ám vào người, anh vẫn cứ thua kiện vẫn cứ phải vào đại lao đấy, đi mau đi!”

Người đàn ông nghe thấy có nhiều quy tắc như vậy thì thoáng thần người ra, đang định nói gì đó lại nghe Tiểu Thần Tiên xua đuổi: “Đi mau đi!” Anh ta đành không nghĩ ngợi gì thêm nữa, cũng lập tức chạy về giống như bà thím lúc nãy.

Đám người vây xung quanh thấy Tiểu Thần Tiên đã giải quyết được hai người, cuối cùng chỉ chờ xem y giải quyết trường hợp của An Long Nhi thế nào nữa thôi.

Tiểu Thần Tiên thu số ngân phiếu trên bàn lên đếm qua, áng chừng có khoảng năm sáu chục lượng bạc, y nhét hết cả vào ngực áo, rồi nói với An Long Nhi:

“Anh bạn trẻ, ta đã nhìn ra hết rồi, vấn đề của cậu là nghiêm trọng nhất, nếu cậu có thời gian thì có thể theo ta về nhà một chuyến, để ta xem tướng toàn diện cho cậu.”

An Long Nhi đã nảy sinh hứng thú rất lớn đối với người tự xưng là Tiểu Thần Tiên này, nghe y nói vậy đương nhiên là cầu còn chẳng được, lập tức nhận lời. Tiểu Thần Tiên liền xua đám người rỗi việc đang vây quanh đi rồi nhổ lá cờ lớn lên bảo An Long Nhi vác, còn y thì dùng cả chân lẫn tay, vừa móc vừa đá, thoắt cái đã hất năm cái ghế úp chồng lên mặt bàn, cuối cùng giơ chân đạp cái bàn trượt ngang ra chỗ chân tường, rành rành một thân thủ giỏi đã tập luyện cả trăm nghìn lần, khiến An Long Nhi cũng phải khen thầm.

Tiểu Thần Tiên thu dọn bàn ghế xong, cũng không nhận lại cả thương lẫn cờ, để mặc cho An Long Nhi vác giúp, còn mình thì đi đằng trước. Y nói với An Long Nhi:

“Nhà ta ở bên kia sông, phải ngồi thuyền qua Châu Giang ở chỗ đầm Bạch Nga, cậu có vẩn đề gì không?”

“Không muộn quá thì vẫn được, buổi đêm tôi phải về nhà.”

“Nhà cậu ở đâu?”

“Trần Đường, đê phía Tây.”

“Sao lại ở cái khu đó? Nhà cậu mở kỹ viện à?”

“Không, chỉ là ở đó thôi.”

“Trong nhà có người khác không?”

“Không, nhưng có một con chó lớn, tôi không về thì nó không có cơm ăn.”

Tiểu Thần Tiên nghe An Long Nhi nói vậy thì phá lên cười ha hả.

Họ đi qua hai góc phố, vẫn còn chưa tới bờ đầm Bạch Nga, đột nhiên nghe thấy phía sau có một giọng nữ hét lớn:

“Tiểu Thần Tiên, ngươi đứng lại cho ta!”

Tiểu Thần Tiên và An Long Nhi ngoảnh lại, chỉ thấy một cô gái xinh đẹp đang trợn mắt cau mày đi về phía bọn họ. Cô gái này ước chừng mười sáu mười bảy, đầu chít khăn lụa xanh, trông bừng bừng anh khí, người mặc một bộ kỳ bào trắng viền hoa nhỏ màu xanh, kiểu dáng đơn giản nhưng có thể nhận ra vẻ hoa lệ đắt đỏ; trên tay cô cầm một cây gậy mà đám quan sai vẫn hay dùng, cây gậy cao bằng người cô, nhưng so với thân hình yểu điệu mảnh mai ấy, cây nha trượng trông chẳng khác nào cái mái chèo.

Bên cạnh cô gái còn có bốn người đàn ông ăn mặc theo lối người hầu, trên tay đều cầm gậy gỗ cái dài cái ngán, khí thế hùng hùng hổ hổ đi tới.

Tiểu Thần Tiên vừa trông thấy cô gái, lập tức kéo An Long Nhi hô lớn: “Chạy mau! sáp đánh nhau rồi!”

Y vừa dứt lời, đã guồng chân chạy cật lực về phía bờ sông Châu Giang. An Long Nhi không biết xảy ra chuyện gì, cũng đành vác lá cờ của Tiểu Thần Tiên chạy thục mạng theo An Long Nhi biết chính lá cờ trên tay mình gây ra chuyện, vì cậu vác lá cờ của Tiểu Thần Tiên, nên ân oán của y giờ cũng đã chuốc lên người cậu, vừa chạy cậu vừa gọi lớn: “Tiểu Thần Tiên! Ngài mau tự mình cầm lấy lá cờ này đi!”

Tiểu Thần Tiên ngoảnh đầu liếc nhìn, thấy cô gái kia hình như đã đuổi đến gần hơn, y xoay người lại kéo An Long Nhi chui tọt vào một con ngõ nhỏ.

An Long Nhi bị y kéo chạy như bay, cũng không hiểu đối phương có ý tứ gì, cậu nói với Tiểu Thần Tiên:

“Tiên sinh, chuyện này không liên quan đến tôi, tôi về nhà đây, ngài tự đi mà chạy cho nhanh!”

Dứt lời, cậu đưa trả lá cờ cho Tiểu Thần Tiên rồi vung tay định trèo tường bỏ chạy, nhưng Tiểu Thần Tiên nhận lấy lá cờ xong vẫn níu chặt ống tay áo của An Long Nhi nói:

“Thằng nhãi Lông Vàng nhà cậu đúng là không có nghĩa khí gì cả, vừa nãy ta còn định tối nay mời cậu ăn cơm nữa cơ đấy, giờ ta bị người khác đuổi đánh thì cậu lại muốn tự chạy một mình! Đừng hất nữa! Đi theo ta…”

Tiểu Thần Tiên luồn lách vòng vèo trong các ngõ hẻm, như thể bôi dầu dưới chân, An Long Nhi không phải không theo kịp bước chân y, cũng không phải không hất tay Tiểu Thần Tiên ra được, chỉ có điều một tiếng “thằng nhãi Lông Vàng” mà Tiểu Thần Tiên gọi cậu khiến An Long Nhi hết sức bất ngờ. Cha mẹ An Long Nhi đã chết trong chiến loạn khi quân Anh tấn công vào thành năm cậu lên tám tuổi, sư phụ mãi võ giang hồ Sái Tiêu thu nhận cậu, chỉ có Sái sư phụ và đám trẻ con trong đoàn mãi võ ấy mới gọi cậu là “thằng nhãi Lông Vàng” mà thôi. Khi Sái Tiêu bán cậu qua tay Lục Kiều Kiều, ngay hôm đầu tiên Lục Kiều Kiều đã đặt tên mới cho cậu là An Long Nhi, vì vậy người có thể gọi ra cái tên “thằng nhãi Lông Vàng” này nhất định có liên quan đến gánh mãi võ. Đầu óc cậu xoay chuyển cực nhanh, lập tức nhớ ra Tiểu Thần Tiên này rốt cuộc là ai.

“Ngươi là Cố Tư Văn! Râu đã mọc dài ra thế này rồi cơ à?” An Long Nhi vừa chạy vừa hỏi Tiểu Thần Tiên.

“Phì, râu giả đấy… chạy mau lên, đến nhà ta rồi nói sau…” Thì ra Tiểu Thần Tiên chính là thằng bé Cố Tư Văn bốn năm trước đã cùng An Long Nhi đi theo Sái Tiêu mãi nghệ, năm đó vì trả nợ cờ bạc, cha Cố Tư Văn đã bán cậu ta cho gánh mãi võ. Cố Tư Văn hơn An Long Nhi hai tuổi, là đứa trẻ lớn nhất trong gánh, đồng thời cũng là đứa nghịch ngợm nhiều mưu ma chước quỷ nhất. Cậu ta và An Long Nhi từng hợp diễn khá nhiều tiết mục võ thuật được bà con láng giềng hết sức hoan nghênh, tự nhiên cũng khá ăn ý với nhau, bản thân cậu ta cũng rất thích chơi đùa với An Long Nhi.

An Long Nhi vừa làm rõ Tiểu Thần Tiên là người phe mình, cô gái xinh đẹp kia đã đuổi tới sau lưng, quát thét àm ĩ giơ cây nha trượng lên đập thẳng xuống đầu cậu, lúc này đang chạy phía sau Cố Tư Văn.

Thế gậy như sấm sét, An Long Nhi sớm đã có phòng bị, cậu vội đẩy Cố Tư Văn ra phía trước, còn mình thì nhảy chéo một bước, đạp lên tường con ngõ chật hẹp né tránh, bước thứ hai lại đạp tiếp lên tường, đang xoay người chuẩn bị chặn cô gái và mấy người hầu lại thì đã thấy cây nha trượng trong tay cô gái trẻ kia xoay vòng qua mé phải người mình, phong tỏa hướng phản kích, đồng thời tăng tốc đánh vào gáy Cố Tư Văn.

An Long Nhi ở trên bờ tường quan sát rất rõ ràng, côn pháp của cô gái này không giống chiêu thức của môn phái nào trong võ lâm cả, lối đánh của cô đơn giản mà trực tiếp, đầy vẻ thực chiến, làm cậu nhớ đến những binh lính Đại Thanh mình từng giáp mặt. Trực giác nói cho An Long Nhi biết, cô gái này đang sử dụng chiến pháp binh khí trong quân đội, thêm vào đó, trên tay cô lại không phải gậy gộc bình thường, mà là nha trượng của quan sai, xem chừng hẳn cũng có chút lai lịch. Không biết Cố Tư Văn lấy đâu ra bản lĩnh lớn như vậy, có thể đắc tội đến cả loại tiểu thư này nữa.

Có điều, thời điểm này không thích hợp để phân tích tình hình vụ án, mà chỉ hợp chạy tháo thân. An Long Nhi mắt thấy cây nha trượng đã đánh tới gáy Cố Tư Văn, liền lấy ra một đồng tiền trong miếng bọc cổ tay, cổ tay vung ra, bán đồng tiền về phía nha trượng. Đồng tiền buộc với một sợi chỉ đỏ bắn trúng đoạn giữa cây gậy, chỉ nghe “rắc rắc” một tiếng, nha trượng đã gãy đôi, đồng tiền lập tức theo sợi chỉ đỏ trở về tay An Long Nhi.

Cô gái kia còn chưa kịp nhìn rõ là chuyện gì, chỉ thấy tay chấn động, kế đó phát hiện ra cây gậy mình đang vung vẩy gãy lìa, lại càng tức đến xịt khói ra đằng tai, liền vung tay ném nửa cây gậy trên tay về phía Cố Tư Văn. An Long Nhi lại bắn đồng tiền buộc dây đỏ ra lần nữa, hất văng đoạn gậy gãy trên không trung lên mái nhà ở mé bên con ngõ nhỏ.

Lần này cô gái đã nhìn rõ miệng ra máng chửi:

õ là sợi dây đỏ kia tác quái, lại càng tức tối, lập tức ngoác “Bọn người Hán các ngươi toàn là lũ bịp bợm lưu manh! Lừa tiền của ta rồi còn muốn đánh ta hả! Các người không muốn sống nữa rồi!”

Cả đời An Long Nhi chưa làm chuyện gì hổ thẹn với lòng, bị cô gái máng cho như vậy, lại còn ngoảnh đầu nhìn, vừa nghe dứt câu lập tức cảm thấy không ổn, đồng thời cũng có chút ngại ngùng, cậu chạy mấy bước trên mái nhà đuổi theo Cố Tư Văn hỏi:

“Ngươi gạt tiền của người ta hả?”

Cố Tư Văn vác lá cờ Tiểu Thần Tiên, đang thành thục len lỏi trong con ngõ nhỏ, cậu ta tung người nhảy tránh một đàn gà mái dưới chân, nói: “Lừa cái gì mà lừa, cô nàng trả tiền ta làm việc, đều là song phương tình nguyện mà… chạy mau lên, còn nói gì nữa!”

Cô gái và đám người hầu ở phía sau đuổi theo hất đổ những làn những sọt và đồ tạp nham đày đường, khiến bà con làng xóm kêu la mắng chửi ầm ĩ, con ngõ nhỏ bỗng náo nhiệt phi thường. Cô gái giờ chỉ còn hai tay không, vẫn bám sát lấy Cố Tư Văn, nhưng cô đã nghe ra người có sức chiến đấu rất mạnh là An Long Nhi có vẻ không hiểu rõ tình huống cho lắm, để chia rẽ kẻ địch, cô ngẩng đầu lên chỉ vào An Long Nhi nói lớn:

“Tiểu tử, ngươi đừng giúp hắn nữa, tên bịp đó lừa của ta hai mươi lạng bạc, lại còn hại chết chồng ta, hôm nay ta không tính sổ với hắn không được.” An Long Nhi nãy giờ vẫn luôn ở trên nóc nhà bọc lót cho Cố Tư Văn chạy trốn, vừa nghe nói chuyện có liên quan đến mạng người, thì kinh hãi giật thót mình, lập tức quát hỏi Cố Tư Văn: “Ngươi giết người rồi à?”

“Làm… làm sao có thể chứ! Ta cũng không biết xảy ra chuyện gì, đừng hỏi nữa… bác ơi cẩn thận!”

Cố Tư Văn hai tay giơ cao lá cờ nhanh chóng xoay người, lách qua một ông bác suýt chút nữa thì đâm sàm vào mình, An Long Nhi ở trên nóc nhà vừa khéo đón lấy lá cờ.

Chính vì một nhịp chậm lại ấy, cô gái đã đuổi tới sát sau lưng Cố Tư Văn, phi thân nhảy lên chộp vào gáy cậu ta.

Bàn tay thanh mảnh vươn cực nhanh về phía Cố Tư Văn đang xoay người, nhưng không tóm được cổ áo cậu ta mà lại chụp vào ba chòm râu dài hất tung lên; Cố Tư Văn chưa kịp đề phòng thì râu đã bị tóm lấy, vẫn đang tận lực xoay vòng, hết một vòng lớn cậu ta mới nhận ra mình xoay hơi quá đà, dừng lại nhìn mới biết thì ra mình đã quay mặt về phía sau, chòm râu gán trên mặt rơi vào tay cô gái, để lộ ra gương mặt trẻ trung trắng trẻo anh tuấn.

Trước mặt Cố Tư Văn là một thiếu nữ xinh đẹp đang sửng sốt, cậu ta phát hiện cô gái đang ngây người ra nhìn mình, dường như sát khí vừa nãy đã bay biến đi đâu mất, đang định nhe răng cười với cô, thì cái mũi đã ăn ngay một đẩm, chiếc kính râm lập tức bay đi đâu không rõ. Thì ra đám người hầu sau lưng cô gái kia cũng đã đuổi tới nơi, thấy tên bịp đang đứng trước mặt tiểu thư nhà mình, lý nào lại không đánh, một là để bảo vệ chủ nhân, hai là để giành lấy công lao, đương nhiên cú đẩm này được đánh ra với cả mười thành công lực.

Cố Tư Văn “ối cha” một tiếng ngã lăn xuống đất, trước mắt tối sàm lại, chỉ thấy sao bay đầy trời, cậu ta cảm thấy thiếu nữ kia đang cưỡi lên người mình, vội giơ hai tay lên che mặt, quả nhiên lập tức cảm thấy có nắm đấm từ hai bên giội xuống mặt mình.

Cố Tư Văn nghe thấy An Long Nhi quát lên một tiếng, biết rằng bạn mình sắp ra tay. Trong ký ức của Cố Tư Văn, từ nhỏ An Long Nhi đã có võ nghệ hơn người, vả lại đấy còn là chuyện của bốn năm về trước, hôm nay nhất định An Long Nhi đã có công phu ra tay là đánh chết người, nghĩ đoạn, cậu ta vội vàng hét lớn: “Lông Vàng đừng ra tay! Đừng đánh người! A… tiểu thư, đừng đánh vào mặt chứ…”

An Long Nhi ở trên nóc nhà đúng là đang chuẩn bị ra tay cứu viện, nhưng lúc đó vừa đón lấy lá cờ không rảnh tay giúp đỡ, đến khi nhìn rõ tình thế thì lại thấy đối phương là con gái, thực tình không thể ra tay được, cuối cùng Cố Tư Văn bị đánh ngã xuống đất, khổ chủ lại còn chủ động yêu cầu cậu không ra tay, cậu đành nhảy từ trên mái nhà xuống, ra sức ngăn cản bốn gã người hầu vây đánh Cố Tư Văn, nhưng còn cô gái đang cưỡi trên người họ Cố thì cậu không dám đụng tới, đành cất lời khuyên giải trong tiếng kêu gào thảm thiết của Cố Tư Văn: “Có gì từ từ nói, tiểu thư đừng đánh nữa. Đánh đủ rồi, đánh đủ rồi…”

Thiếu nữ ấy bĩu môi đánh thêm một đấm nữa rồi mới đứng dậy: “Đền tiền, bốn mươi lạng bạc!”

Cố Tư Văn vẫn hai tay che mặt, lắp bắp nói: “Tôi chỉ thu của cô có hai chục lạng bạc, giờ sao lại thành ra nhiều thế…”

Thiếu nữ trợn trừng mắt, lại giơ nắm đấm lên, Cố Tư Văn sợ hãi kêu ầm ĩ: “Đền! Đền! Bốn mươi lạng thì bốn mươi lạng!”

An Long Nhi từ nãy đến giờ vẫn chưa biết là chuyện gì, cậu nói: “Tiểu thư, cô nói hắn lừa của cô hai chục lạng bạc, giờ người cô cũng đã đánh rồi, tiền thuốc men không tính, hắn đền cô hai chục lạng bạc cũng là chuyện thiên kinh địa nghĩa, có gì mà phải đền tới những bốn mươi lạng bạc chứ?”

Thiếu nữ nhắc đến chuyện này lại tức điên lên, cô khuỵu một chân xuống trước ngực Cố Tư Văn, tát cho cậu ta một tát, miệng hằn học nói: “Nửa năm trước, cha ta đã tìm cho ta một người chồng trong kinh thành, ta mới tìm hán bói một quẻ…”

Vừa nói, cô gái lại vung bàn tay kia tát vào mặt Cố Tư Văn: “Hắn nói ta có mệnh khắc chồng, là Sát trư đằng, gả cho người nào là chết người ấy, mới nhận của ta hai chục lạng bạc làm phúc cho ta…”

“Bốp bốp”, lại thêm hai cái tát nữa, Cố Tư Văn có lẽ bị đánh đã quen rồi, thuận miệng kêu thảm hai tiếng lấy lệ, nghe không có vẻ đau đớn cho lắm. Cô gái tiếp lời: “Giờ thì hay rồi, ta còn chưa lên kinh, đầu tháng người ở Bắc Kinh đã gửi thư về bảo chồng ta chết rồi… nhìn cái gì mà nhìn, đánh chết ngươi bây giờ…”

Hai tay thiếu nữ không ngừng vả vào miệng Cố Tư Văn: “Ngươi thì làm phúc cái quái gì chứ? Bây giờ lễ lạt gì ta cũng định hết cả rồi, người cũng coi như đã có danh có phận, nhưng lại không cần lên kinh nữa… mà phải ở lại Quảng Châu này làm bà quả phụ…”

Cô đứng dậy giơ chân đạp lên người Cố Tư Văn mấy phát: “Tên gì? ở đâu?”

Cố Tư Văn lồm cồm ngồi dậy, xoa xoa mặt nói: “Tiểu thư, có câu sống chết do mạng, phú quý tại trời, chúng ta cũng coi như đã tận hết sức mình rồi, hỏi lòng cũng không hổ thẹn với lương tâm, chồng cô chết từ bây giờ, dẫu sao thì cũng tốt hơn là sau khi cô lên kinh mới chết, có phải không nào? Kỳ thực đây cũng là công lực của tôi làm phúc cho cô đấy…”

Cô gái một tay chống nạnh, xòe bàn tay kia ra, một tên người hầu lập tức đưa cho cô cây gậy to tướng đang cầm trên tay, Cố Tư Văn tức thì lớn tiếng nói:

“Tôi tên Phương Thế Ngọc, ở Phương Thôn Hoa Địa.”

Thiếu nữ trợn trừng mát, hai tay giơ gậy, xuống tẩn chuẩn bị đánh xuống, cô quát lên: “Cha ta là Thiên tổng của quân Bát kỳ, ta đánh chết người không cần phải đền mạng đâu.”

Cô vừa nói dứt lời, Cố Tư Văn ngay tắp lự báo cáo lại: “Tôi tên là Cố Tư Văn, ở Đại Cơ Đầu tỉnh Hà Nam.”

“Bạc đâu!”

Cố Tư Văn lập tức lấy trong áo ra một xấp ngân phiếu, cô gái trẻ cầm lấy đếm một lượt rồi hỏi: “Còn năm lượng nữa đâu?”

Cố Tư Văn lại lôi ra một nắm bạc vụn ở thắt lưng quàn, cô gái vươn tay giật lấy, bỏ vào tay tên người hầu đứng cạnh, nói: “Mọi người chia nhau đi!”

Lúc này, một tên người hầu nói với cô gái: “A Đồ cách cách sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta cũng về thôi.”

A Đồ cách cách tay cầm ngân phiếu, “hừ” một tiếng, lừ mát liếc Cố Tư Văn, nhăn nhăn mũi vẫy tay dẫn theo mấy tên người hầu xoay người bỏ đi.

Cố Tư Văn ngồi dưới đất nhìn bóng lưng A Đồ cách cách đi xa dàn, không ngờ lại bật cười hì hì: “A Đồ cách cách, hí hí, con thỏ con này thật là đáng yêu…”

An Long Nhi giờ mới nhìn rõ bộ dạng của họ Cố, mặt mũi cậu ta so với bốn năm trước đã thêm mấy phần khí khái đàn ông, ánh mắt thâm trầm, khuôn mặt đường nét rõ ràng, nếu không phải mũi đang chảy máu và xương gò má hơi sưng lên, tuyệt đối có thể coi là một mỹ nam tử.

An Long Nhi đỡ Cố Tư Văn đi tới bờ đầm Bạch Nga đậu đầy thuyền lớn thuyền nhỏ, Cố Tư Văn dẫn cậu đi về phía một con thuyền ba lá, bên trên có một thiếu nữ áo vải thân hình yểu điệu đang đứng. Thiếu nữ ấy cũng quan sát họ từ phía xa, đến khi lại gần, mọi người có thể nhìn rõ bộ dạng của nhau, cô gái liền nhảy lên bờ, lớn tiếng gọi An Long Nhi: “Nhãi Lông Vàng!” Vừa gọi, vừa rảo chân chạy tới.

An Long Nhi trông thấy gương mặt xinh xắn của cô gái, liền nhận ra cô là con gái duy nhất của Sái Tiêu, cũng là vị sư tỷ năm xưa đã cùng mình mãi võ, tên là Sái Nguyệt. Sái Nguyệt tuy ngang tuổi với An Long Nhi, nhưng trong gánh mãi võ phải sắp theo vai vế, cô là con gái của chủ gánh, vì vậy dù là ai cũng phải gọi cô một tiếng sư tỷ. Sái Nguyệt từ nhỏ đã giống như một người chị lớn, luôn quan tâm chu đáo đến mọi người, có tranh chấp liền đứng ra chủ trì công đạo, riêng với An Long Nhi tính trầm mặc ít nói, thỉnh thoảng lại phải chịu thiệt thòi cô càng thêm chiếu cố. An Long Nhi nhớ nhất ở cô là cặp mắt to và hàng lông mày dài mảnh, chiếc mũi cao cùng đôi môi mỏng cong cong trên gương mặt tròn trịa, trông xinh đẹp như một con búp bê Tây vậy.

Giờ đây nhìn lại, khuôn mặt Sái Nguyệt đã không còn giống quả táo lớn như An Long Nhi nhớ hồi nhỏ nữa, cầm cô thon thon xinh xắn, kết hợp cùng ngũ quan đẹp đẽ hơn, đượm vẻ nữ tính hơn.

Sái Nguyệt kêu ré lên, vừa tới trước mặt An Long Nhi liền ôm chầm lấy cậu, vùi mặt vào vai cậu, mừng rỡ một hồi, đoạn ngẩng đầu lên nói với An Long Nhi: “Nhãi Lông Vàng, đúng là ngươi rồi! Vui quá đi mất… cao thế này rồi kia à!”

Cố Tư Văn cũng cười cười cất tiếng: “Vừa nãy ta đang làm ăn, hán đứng bên ngoài xem náo nhiệt, từ đằng xa ta đã nhận ra bộ tóc vàng khè của hắn rồi… đừng nói nữa, lên thuyền sang Phương Thôn ăn cơm đi, tối nay ta mời…”

Sái Nguyệt quay đầu lại nhìn Cố Tư Văn hỏi luôn: “Ngươi lại bị người ta đánh nữa à?”

“Cái gì mà lại bị đánh chứ… cũng có mấy lần thôi mà, làn trước đã tận nửa năm rồi…” Cố Tư Văn hậm hực giải thích.

An Long Nhi lấy làm kỳ quái nói: “Văn thiếu gia, công phu của ngươi cũng không tệ, sao lại để cho người ta đánh thế, còn không cho ta giúp nữa?”

Cố Tư Văn khoác vai An Long Nhi, vừa đi về phía con thuyền ba lá vừa nói: “Nghề này của chúng ta có rất nhiều quy củ, không được đánh khách hàng, lại càng không được làm tử nhất ca, nghe có hiểu không? Tức là không được vì kiếm tiền mà bức tử khách hàng… nếu ta cậy giỏi công phu mà đi choảng nhau với khách hàng, thì còn làm ăn cái gì nữa, thà đi mở võ quán luôn cho xong.”

Yêu thích: 5 / 5 từ (1 thả tim)
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN