Truyện cổ Tây Tạng
Người Nghèo Và Người Giàu
Ngày xưa có hai người hàng xóm, một người nghèo và một người giàu. Người giàu rất mộ đạo. Thế nhưng một hôm vì đã tụng kinh suốt ba ngày, nghiền ngẫm tất cả nghi thức và quy tắc, ông ta đâm ra chán ngán chuyện cầu nguyện, tụng niệm. Ông ta tự bảo sẽ tiêu khiển một chút. Thế nên ông ta sửa soạn một bữa tiệc lớn, mời hết người trong vùng. “Nhưng mình sẽ không mời anh chàng hàng xóm khốn khổ – ông ta tính toán. Một người loại đó không thể ngồi chung với những người khá giả”.
Tối đến, ông ta cho đốt một đống lửa lớn để nướng thịt, cho lăn những thùng rượu, để khách ăn, uống, vui đùa thỏa thích.
Vợ của người nhà giàu dắt một con bê mới sinh trong ngày tới gần lửa cho nó sưởi ấm. Nhưng vì con bê muốn ở gần mẹ nó nên nó kêu la tuyệt vọng. Anh hàng xóm nghèo nghe tiếng kêu, tưởng rằng người láng giềng giàu mời mình, và anh ta tới, ngồi gần đống lửa. Người giàu lo săn sóc khách, nói với mỗi người một câu khả ái, bỗng nhìn thấy anh nhà nghèo nên ông ta cau mày:
– Anh làm gì ở đây ? Ông ta sách mé. Một người quê mùa như anh đâu có việc gì trong một cuộc tiếp đãi như vầy !
– Hình như ông đã gọi tôi ! Anh nhà nghèo trả lời.
– Anh có điên mới tưởng vậy ? Ông nhà giàu nổi nóng. Đi khỏi đây và đừng tới làm rộn khách của tôi nữa.
Sau đó anh nhà nghèo than với vợ:
Cuộc đời những người nghèo chúng ta không có gì vui ! Phải chi em thấy bộ mặt ông ta khi ông ta nhìn anh. Như thể chúng ta không thể tiệc tùng và vui chơi một chút !
– Đừng bứt rứt nữa! Vợ anh nói. Chúng ta cũng sẽ tự ban cho mình một cuộc vui nho nhỏ.
Thế là họ lấy một thùng rượu nhỏ, làm thịt con heo gầy và cùng con cái đi lên núi. Họ dựng một cái lều cũ rách, đốt một đống lửa lớn trên một khoảng đất trống. Khi lửa bốc cao, người nhà nghèo cầu nguyện:
Trời có thấy sự bất công trên đời này không ? Có lẽ nào trời không nhìn thấy người giàu có tấm lòng sắt đá, và người nghèo chúng tôi chịu quá nhiều đau khổ? Hỡi Đức Phật cao cả trên núi! Hỡi đấng tối linh, làm sao người ta có thể lãnh đạm nhìn cảnh đau buồn như vậy? Phải chăng phải chăng tôi không cúng dâng đầy đủ? Công bằng có hay không ? Nhưng tôi xin nói, nếu người không làm gì cho tôi, tôi sẽ không cúng nữa!
Nói xong, anh ta cùng vợ con ăn con heo quay gầy còm. Họ ăn uống thỏa thích và dìm nỗi đắng cay trong những ngụm rượu lớn. Rồi họ nắm tay nhau nhảy quanh đống lửa cho tới khuya. Nửa đêm người vợ vào ngủ trong chiếc lều cũ với các con. Anh nhà nghèo thì ngồi bên đống lửa sắp tàn. Những tư tưởng đen tối lại tấn công anh.
Và chỉ có thế – anh tự bảo. Hôm nay chúng ta đã có một lần vui, nhưng thế là hết. Ngày mai chúng ta không có gì bỏ vào nồi nữa!”.
Anh nằm dài dưới đất, nhìn đăm đăm bầu trời đầy sao. Anh không tài nào ngủ được; anh lăn qua lộn lại mãi cũng không ngủ được. Nằm mở mắt thau láu như thế mãi cũng chán, anh ngồi dậy, lấy chiếc khăn trắng, một ngọn đèn và hương rồi đi tới ngôi chùa gần nhất.
Anh vào, vái trước tượng phật thật sâu, cầm khăn trắng trên tay, đốt đèn, hương rồi khấn vái:
Cầu xin phật công bằng với con chút xíu. Phật muốn người nghèo chúng con phải làm sao khi đói không có ăn mà phải làm việc quần quật?
Trong khi khấn vái, anh dò xét nét mặt khó đoán của đức Phật qua ánh đèn nhợt nhạt của mình. Trong đầu anh, ý nghĩ đen tối về những ngày đói kém sắp tới cứ trở đi trở lại. Sau cùng, vì đã qua một ngày mệt nhọc, anh ngồi bệt xuống đất trước tượng Phật rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Khi anh thức dậy, đèn đã tắt từ lâu, nhưng một vạch sáng mỏng manh xuyên qua ngôi chùa tăm tối. Anh giụi mắt. Ánh sáng phát ra từ bệ tượng. Hết sức tò mò, anh ngồi đậy, lại gần tượng. Anh thấy có một lỗ hổng ở đế tượng. Anh cúi xuống để nhìn vào. Anh ngạc nhiên biết mấy khi thấy lỗ hổng đó đưa tới một cái hang rộng ! Một đống lửa cháy sáng ở giữa, gần đó có hai người tí hon ngồi xổm – một người đàn ông và một người đàn bà – và mỗi người nắm trong tay một khúc xương lớn dính đầy thịt. Anh nhà nghèo lạnh buốt cả xương sống. Cảnh tượng hai người tí hon gậm xương ngon lành khiến anh sợ quá nên anh lùi lại một bước, làm một miếng gỗ lót sàn kêu đánh rắc.
Mình này, hình như có người – người đàn ông lầm bầm.
– Ông nói cái gì ? Người đàn bà nói. Trông chừng khúc xương của ông thì hơn, ấy là bọn chuột chạy nhảy trong chùa đó.
Được một lúc, người đàn bà đứng dậy, lấy ở trên tường một chiếc đũa vàng và vươn vai để với tới trần hang có treo lủng lẳng ba chiếc túi da. Bà ta vừa nói vừa đập đầu đũa vào chiếc túi thứ nhất:
Chảy ra, dầu, chảy ra ! Bà ta vừa bảo xong thì một dòng thơm ngát từ túi chảy ra.
Người đàn bà vừa chạm đũa vào chiếc túi thứ hai vừa nói:
Vãi ra, tsam-pa, vãi ra ! Bà ta vừa nói xong thì hàng đống tsampa vàng óng từ túi vãi ra.
Kế đó người đàn bà chạm đũa vào chiếc túi thứ ba và nói:
Nhảy ra, đùi heo, nhảy ra ! Lập tức những khúc vàng rực nhảy ra khỏi túi.
Hai người tí hon ăn ngon lành, họ nhai rau ráu, thở hổn hển, nhồi nhét đầy bụng đến lồi cả mắt ra và, để kết thúc, họ giùi lỗ một thùng rượu và uống cho đã khát và còn thêm chút nữa. Rồi họ lăn quay ra đất, ngủ mê man.
“Chừng đó thứ ngon lành chỉ để cho hai người tí hon!”, anh nhà nghèo thở dài rồi nói thêm: “Còn những kẻ bất hạnh như chúng ta thì thường đi ngủ với cái bụng trống rỗng. Thật quá bất công !”.
Thế nên anh lẻn qua cửa hang, nhón chân lại gần bức tường những chiếc đũa vàng và khéo léo lấy nó xuống. Rồi anh nhấc ba chiếc túi da treo ở trần hang, và nhẹ nhàng, không một tiếng động, theo đường cũ trở lại chùa, Khi ra khỏi cửa chùa, anh chạy vắt giò lên cổ.
Về tới lều, anh thấy vợ con anh vẫn còn ngủ. Anh đánh thức họ : “Dậy! Dậy mau! Tôi mang về một kho báu !”. Và anh kể lại câu chuyện. Vợ anh nhìn anh, không tin, nghĩ rằng chồng chị mất trí. Chỉ khi nhờ chiếc đũa vàng, anh đem những thứ ngon lành trong ba chiếc túi ra thì chị mới tin.
Sung sướng quá! Hết lo buồn! Và vì anh nhà nghèo có lòng tốt và rộng rãi, anh tổ chức một bữa tiệc lớn mà anh mời tất cả những người quanh vùng. Tin đó tới tai người hàng xóm giàu có.
“Xì ! Ông ta nhăn mũi. Ta rất muốn thấy bữa tiệc của nó. Chắc là nó sẽ cho khách ăn gạo mốc. Tuy nói thế nhưng ông ta cũng rất tò mò nên, dầu không được mời, ông ta cũng trà trộn vào đám thực khách. Ông ta không thể tin vào mắt mình nữa. Chỉ thấy chỗ nào cũng có những thùng rượu ngon, những đùi heo vàng ngậy và không khí thơm lừng.
“Tên khố rách áo ôm quỷ quái này lấy ở đâu ra những thứ đó? Ông ta tức mình bảo thầm. Chắc chỉ có thể ăn cắp đâu đó thôi”. Ông ta đi tìm anh nhà nghèo và không úp mở hỏi anh tìm được tất cả những cái ngon lành đó ở đâu. Dễ hiểu là anh nhà nghèo không muốn cho ông ta biết ngay sự bí mật của mình; anh ngập ngừng, quanh co, nhưng ông nhà giàu cật vấn ráo riết nên cuối cùng anh kể ra hết.
“Nếu tên cầu bơ cầu bấc này đạt được tất cả những cái đó chỉ nhờ mấy cây hương – ông nhà giàu tự bảo – thì có gì mà đức Phật không cho mình, đổi lấy một món cúng dường hậu hĩ ?”.
Ngay lúc đó ông ta không muốn ăn nữa, quay về nhà ở kế bên ngay. Ông ta tức thì ra lệnh cho vợ:
– Cho làm thịt con heo béo nhất, chúng ta sẽ cúng thần.
Rồi ông nhà giàu dẫn vợ con đi lên núi, đem theo một chiếc lều thêu thùa rất đẹp. Tới khoảng đất bằng phẳng, họ dựng lều, đốt một đống lửa lớn, nướng những miếng thịt heo chín béo ngậy ngon lành, uống rượu và nhảy múa. Nửa đêm, người vợ vào lều ngủ với mấy đứa con, ông nhà giàu ở lại một mình trong đêm tối.
Ông ta lấy một cây đèn, châm đầy dầu hoa hồng tốt nhất, một bình rượu hảo hạng, một miếng thịt quay ngon lành – miếng béo nhất – một chiếc khăn trắng, một bó hương, và đi thẳng tới chùa.
Tới nơi, ông quỳ mọp trước tượng Phật, đốt đèn và hương, đặt khăn trắng trên tay vươn thẳng của tượng Phật, để bình rượu và miếng thịt quay dưới đất. Và ông ta khấn:
Đức Phật cao cả, người biết rằng lúc nào tôi cung nghĩ tới người, rằng tôi nhịn miếng ăn ngon nhất để cúng cho người. Tuy nhiên, tôi muốn thấy người có biết thế nào là công bằng không. Người có nhớ anh chàng nhà nghèo đã tới đây không lâu và được người cho rất nhiều chỉ nhờ một cây hương khốn khổ chứ ?
Ông ta còn khấn vái nhiều nữa rồi, vì buồng ngủ, ông ta ngồi xuống đất và chẳng bao lâu đã ngủ say.
Khi ông ta thức dậy, đèn đã tắt. Ngôi chùa tối tăm chỉ được soi sáng bằng một vạch ánh sáng phát ra từ đế tượng Phật. Ông nhà giàu tới gần lỗ hổng và nhìn vào. Tim ông ta đập mạnh vì vui mừng. Ông ta thấy cái hang, ngọn lửa ở giữa, và hai người tí hon ngồi xổm gần bên – một người đàn ông và một người đàn bà – đang thưởng thức món thịt ngọt ngào.
Ông nhà giàu thiếu kiên nhẫn có một cử động, và tấm ván lót sàn kêu kèn kẹt.
Mình có nghe không ? Có người lạ ! Người đàn ông kêu thất thanh, giận dữ.
Lúc nào ông cũng có chuyện để cãi vã, nếu có người nào, đó chỉ có thể là con chuột nhắt! Người đàn bà bình thản trả lời và tiếp tục ăn.
– Hừ, một con chuột nhắt – Người đàn ông càng giận hơn . Mới đây thôi, con chuột của bà đã hẳn hoi cuỗm mất kho báu của chúng ta. Nhưng tôi cảnh cáo: tối nay, bà không được uống rượu, và bà sẽ thức canh nghiêm chỉnh!
Nói xong ngươi đàn ông kéo một thùng rượu lại gần, nâng lên và uống ừng ực. Chỉ một lúc sau, đầu ông ta gục xuống ngực và ông ta ngủ ngon lành. Người đàn bà lẩm bẩm. Bà ta tóm lấy thùng rượu, lật ngược trên miệng và bắt đầu uống, cung uống. Cũng uống khi trong thùng chưa hết rượu. Rồi bà ta lăn ra đất và cũng ngủ.
Đó là lúc ông nhà giàu chờ đợi. Ông lẻn qua lỗ hổng, nhẹ nhàng tới gần cây đũa vàng, thận trọng tháo nó ra khỏi tường, rồi lấy cả ba chiếc túi da treo ở trần hang.
“Nhưng mình phải lấy nhiều hơn anh chàng nghèo nàn kia một thứ gì đó – Ông ta vừa tự nhủ, vừa nhìn quanh để xem có thể lấy thêm cái gì. Bỗng ông ta chú ý đến một vật sáng lấp lánh trong góc hang. Ông ta hấp tấp chạy tới, nhưng khi làm vậy ông ta quên người tí hon nằm dưới đất, choán cả lối đi. Ông ta vấp phải chân người tí hon và – ôi ghê gớm quá! – Người tí hon cựa mình, hai mắt xanh biếc tinh quái nhìn chằm chằm khủng khiếp.
– Thế là ta bắt được mày rồi, tên trộm kho báu! Người tí hon vừa nói, vừa siết chặt bàn tay như một gọng kềm bằng sắt.
Chuyện đó kéo dài không bao lâu – và trong cái hang, bên ngọn lửa hồng, hai người tí hon, một người đàn ông và một người đàn bà – lại ngồi xổm gặm xương.
– Món thịt nướng ngon lắm ! Người đàn ông nhìn nhận.
– Ít khi tôi được ăn món ngon hơn – người đàn bà nói thêm.
Trong lúc đó, ở nhà ông nhà giàu, người ta tìm ông không ra. Ông đã đi đâu ? Không ai nói được.
Ngày xưa có hai người hàng xóm, một người nghèo và một người giàu. Người giàu rất mộ đạo. Thế nhưng một hôm vì đã tụng kinh suốt ba ngày, nghiền ngẫm tất cả nghi thức và quy tắc, ông ta đâm ra chán ngán chuyện cầu nguyện, tụng niệm. Ông ta tự bảo sẽ tiêu khiển một chút. Thế nên ông ta sửa soạn một bữa tiệc lớn, mời hết người trong vùng. “Nhưng mình sẽ không mời anh chàng hàng xóm khốn khổ – ông ta tính toán. Một người loại đó không thể ngồi chung với những người khá giả”.
Tối đến, ông ta cho đốt một đống lửa lớn để nướng thịt, cho lăn những thùng rượu, để khách ăn, uống, vui đùa thỏa thích.
Vợ của người nhà giàu dắt một con bê mới sinh trong ngày tới gần lửa cho nó sưởi ấm. Nhưng vì con bê muốn ở gần mẹ nó nên nó kêu la tuyệt vọng. Anh hàng xóm nghèo nghe tiếng kêu, tưởng rằng người láng giềng giàu mời mình, và anh ta tới, ngồi gần đống lửa. Người giàu lo săn sóc khách, nói với mỗi người một câu khả ái, bỗng nhìn thấy anh nhà nghèo nên ông ta cau mày:
– Anh làm gì ở đây ? Ông ta sách mé. Một người quê mùa như anh đâu có việc gì trong một cuộc tiếp đãi như vầy !
– Hình như ông đã gọi tôi ! Anh nhà nghèo trả lời.
– Anh có điên mới tưởng vậy ? Ông nhà giàu nổi nóng. Đi khỏi đây và đừng tới làm rộn khách của tôi nữa.
Sau đó anh nhà nghèo than với vợ:
Cuộc đời những người nghèo chúng ta không có gì vui ! Phải chi em thấy bộ mặt ông ta khi ông ta nhìn anh. Như thể chúng ta không thể tiệc tùng và vui chơi một chút !
– Đừng bứt rứt nữa! Vợ anh nói. Chúng ta cũng sẽ tự ban cho mình một cuộc vui nho nhỏ.
Thế là họ lấy một thùng rượu nhỏ, làm thịt con heo gầy và cùng con cái đi lên núi. Họ dựng một cái lều cũ rách, đốt một đống lửa lớn trên một khoảng đất trống. Khi lửa bốc cao, người nhà nghèo cầu nguyện:
Trời có thấy sự bất công trên đời này không ? Có lẽ nào trời không nhìn thấy người giàu có tấm lòng sắt đá, và người nghèo chúng tôi chịu quá nhiều đau khổ? Hỡi Đức Phật cao cả trên núi! Hỡi đấng tối linh, làm sao người ta có thể lãnh đạm nhìn cảnh đau buồn như vậy? Phải chăng phải chăng tôi không cúng dâng đầy đủ? Công bằng có hay không ? Nhưng tôi xin nói, nếu người không làm gì cho tôi, tôi sẽ không cúng nữa!
Nói xong, anh ta cùng vợ con ăn con heo quay gầy còm. Họ ăn uống thỏa thích và dìm nỗi đắng cay trong những ngụm rượu lớn. Rồi họ nắm tay nhau nhảy quanh đống lửa cho tới khuya. Nửa đêm người vợ vào ngủ trong chiếc lều cũ với các con. Anh nhà nghèo thì ngồi bên đống lửa sắp tàn. Những tư tưởng đen tối lại tấn công anh.
Và chỉ có thế – anh tự bảo. Hôm nay chúng ta đã có một lần vui, nhưng thế là hết. Ngày mai chúng ta không có gì bỏ vào nồi nữa!”.
Anh nằm dài dưới đất, nhìn đăm đăm bầu trời đầy sao. Anh không tài nào ngủ được; anh lăn qua lộn lại mãi cũng không ngủ được. Nằm mở mắt thau láu như thế mãi cũng chán, anh ngồi dậy, lấy chiếc khăn trắng, một ngọn đèn và hương rồi đi tới ngôi chùa gần nhất.
Anh vào, vái trước tượng phật thật sâu, cầm khăn trắng trên tay, đốt đèn, hương rồi khấn vái:
Cầu xin phật công bằng với con chút xíu. Phật muốn người nghèo chúng con phải làm sao khi đói không có ăn mà phải làm việc quần quật?
Trong khi khấn vái, anh dò xét nét mặt khó đoán của đức Phật qua ánh đèn nhợt nhạt của mình. Trong đầu anh, ý nghĩ đen tối về những ngày đói kém sắp tới cứ trở đi trở lại. Sau cùng, vì đã qua một ngày mệt nhọc, anh ngồi bệt xuống đất trước tượng Phật rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Khi anh thức dậy, đèn đã tắt từ lâu, nhưng một vạch sáng mỏng manh xuyên qua ngôi chùa tăm tối. Anh giụi mắt. Ánh sáng phát ra từ bệ tượng. Hết sức tò mò, anh ngồi đậy, lại gần tượng. Anh thấy có một lỗ hổng ở đế tượng. Anh cúi xuống để nhìn vào. Anh ngạc nhiên biết mấy khi thấy lỗ hổng đó đưa tới một cái hang rộng ! Một đống lửa cháy sáng ở giữa, gần đó có hai người tí hon ngồi xổm – một người đàn ông và một người đàn bà – và mỗi người nắm trong tay một khúc xương lớn dính đầy thịt. Anh nhà nghèo lạnh buốt cả xương sống. Cảnh tượng hai người tí hon gậm xương ngon lành khiến anh sợ quá nên anh lùi lại một bước, làm một miếng gỗ lót sàn kêu đánh rắc.
Mình này, hình như có người – người đàn ông lầm bầm.
– Ông nói cái gì ? Người đàn bà nói. Trông chừng khúc xương của ông thì hơn, ấy là bọn chuột chạy nhảy trong chùa đó.
Được một lúc, người đàn bà đứng dậy, lấy ở trên tường một chiếc đũa vàng và vươn vai để với tới trần hang có treo lủng lẳng ba chiếc túi da. Bà ta vừa nói vừa đập đầu đũa vào chiếc túi thứ nhất:
Chảy ra, dầu, chảy ra ! Bà ta vừa bảo xong thì một dòng thơm ngát từ túi chảy ra.
Người đàn bà vừa chạm đũa vào chiếc túi thứ hai vừa nói:
Vãi ra, tsam-pa, vãi ra ! Bà ta vừa nói xong thì hàng đống tsampa vàng óng từ túi vãi ra.
Kế đó người đàn bà chạm đũa vào chiếc túi thứ ba và nói:
Nhảy ra, đùi heo, nhảy ra ! Lập tức những khúc vàng rực nhảy ra khỏi túi.
Hai người tí hon ăn ngon lành, họ nhai rau ráu, thở hổn hển, nhồi nhét đầy bụng đến lồi cả mắt ra và, để kết thúc, họ giùi lỗ một thùng rượu và uống cho đã khát và còn thêm chút nữa. Rồi họ lăn quay ra đất, ngủ mê man.
“Chừng đó thứ ngon lành chỉ để cho hai người tí hon!”, anh nhà nghèo thở dài rồi nói thêm: “Còn những kẻ bất hạnh như chúng ta thì thường đi ngủ với cái bụng trống rỗng. Thật quá bất công !”.
Thế nên anh lẻn qua cửa hang, nhón chân lại gần bức tường những chiếc đũa vàng và khéo léo lấy nó xuống. Rồi anh nhấc ba chiếc túi da treo ở trần hang, và nhẹ nhàng, không một tiếng động, theo đường cũ trở lại chùa, Khi ra khỏi cửa chùa, anh chạy vắt giò lên cổ.
Về tới lều, anh thấy vợ con anh vẫn còn ngủ. Anh đánh thức họ : “Dậy! Dậy mau! Tôi mang về một kho báu !”. Và anh kể lại câu chuyện. Vợ anh nhìn anh, không tin, nghĩ rằng chồng chị mất trí. Chỉ khi nhờ chiếc đũa vàng, anh đem những thứ ngon lành trong ba chiếc túi ra thì chị mới tin.
Sung sướng quá! Hết lo buồn! Và vì anh nhà nghèo có lòng tốt và rộng rãi, anh tổ chức một bữa tiệc lớn mà anh mời tất cả những người quanh vùng. Tin đó tới tai người hàng xóm giàu có.
“Xì ! Ông ta nhăn mũi. Ta rất muốn thấy bữa tiệc của nó. Chắc là nó sẽ cho khách ăn gạo mốc. Tuy nói thế nhưng ông ta cũng rất tò mò nên, dầu không được mời, ông ta cũng trà trộn vào đám thực khách. Ông ta không thể tin vào mắt mình nữa. Chỉ thấy chỗ nào cũng có những thùng rượu ngon, những đùi heo vàng ngậy và không khí thơm lừng.
“Tên khố rách áo ôm quỷ quái này lấy ở đâu ra những thứ đó? Ông ta tức mình bảo thầm. Chắc chỉ có thể ăn cắp đâu đó thôi”. Ông ta đi tìm anh nhà nghèo và không úp mở hỏi anh tìm được tất cả những cái ngon lành đó ở đâu. Dễ hiểu là anh nhà nghèo không muốn cho ông ta biết ngay sự bí mật của mình; anh ngập ngừng, quanh co, nhưng ông nhà giàu cật vấn ráo riết nên cuối cùng anh kể ra hết.
“Nếu tên cầu bơ cầu bấc này đạt được tất cả những cái đó chỉ nhờ mấy cây hương – ông nhà giàu tự bảo – thì có gì mà đức Phật không cho mình, đổi lấy một món cúng dường hậu hĩ ?”.
Ngay lúc đó ông ta không muốn ăn nữa, quay về nhà ở kế bên ngay. Ông ta tức thì ra lệnh cho vợ:
– Cho làm thịt con heo béo nhất, chúng ta sẽ cúng thần.
Rồi ông nhà giàu dẫn vợ con đi lên núi, đem theo một chiếc lều thêu thùa rất đẹp. Tới khoảng đất bằng phẳng, họ dựng lều, đốt một đống lửa lớn, nướng những miếng thịt heo chín béo ngậy ngon lành, uống rượu và nhảy múa. Nửa đêm, người vợ vào lều ngủ với mấy đứa con, ông nhà giàu ở lại một mình trong đêm tối.
Ông ta lấy một cây đèn, châm đầy dầu hoa hồng tốt nhất, một bình rượu hảo hạng, một miếng thịt quay ngon lành – miếng béo nhất – một chiếc khăn trắng, một bó hương, và đi thẳng tới chùa.
Tới nơi, ông quỳ mọp trước tượng Phật, đốt đèn và hương, đặt khăn trắng trên tay vươn thẳng của tượng Phật, để bình rượu và miếng thịt quay dưới đất. Và ông ta khấn:
Đức Phật cao cả, người biết rằng lúc nào tôi cung nghĩ tới người, rằng tôi nhịn miếng ăn ngon nhất để cúng cho người. Tuy nhiên, tôi muốn thấy người có biết thế nào là công bằng không. Người có nhớ anh chàng nhà nghèo đã tới đây không lâu và được người cho rất nhiều chỉ nhờ một cây hương khốn khổ chứ ?
Ông ta còn khấn vái nhiều nữa rồi, vì buồng ngủ, ông ta ngồi xuống đất và chẳng bao lâu đã ngủ say.
Khi ông ta thức dậy, đèn đã tắt. Ngôi chùa tối tăm chỉ được soi sáng bằng một vạch ánh sáng phát ra từ đế tượng Phật. Ông nhà giàu tới gần lỗ hổng và nhìn vào. Tim ông ta đập mạnh vì vui mừng. Ông ta thấy cái hang, ngọn lửa ở giữa, và hai người tí hon ngồi xổm gần bên – một người đàn ông và một người đàn bà – đang thưởng thức món thịt ngọt ngào.
Ông nhà giàu thiếu kiên nhẫn có một cử động, và tấm ván lót sàn kêu kèn kẹt.
Mình có nghe không ? Có người lạ ! Người đàn ông kêu thất thanh, giận dữ.
Lúc nào ông cũng có chuyện để cãi vã, nếu có người nào, đó chỉ có thể là con chuột nhắt! Người đàn bà bình thản trả lời và tiếp tục ăn.
– Hừ, một con chuột nhắt – Người đàn ông càng giận hơn . Mới đây thôi, con chuột của bà đã hẳn hoi cuỗm mất kho báu của chúng ta. Nhưng tôi cảnh cáo: tối nay, bà không được uống rượu, và bà sẽ thức canh nghiêm chỉnh!
Nói xong ngươi đàn ông kéo một thùng rượu lại gần, nâng lên và uống ừng ực. Chỉ một lúc sau, đầu ông ta gục xuống ngực và ông ta ngủ ngon lành. Người đàn bà lẩm bẩm. Bà ta tóm lấy thùng rượu, lật ngược trên miệng và bắt đầu uống, cung uống. Cũng uống khi trong thùng chưa hết rượu. Rồi bà ta lăn ra đất và cũng ngủ.
Đó là lúc ông nhà giàu chờ đợi. Ông lẻn qua lỗ hổng, nhẹ nhàng tới gần cây đũa vàng, thận trọng tháo nó ra khỏi tường, rồi lấy cả ba chiếc túi da treo ở trần hang.
“Nhưng mình phải lấy nhiều hơn anh chàng nghèo nàn kia một thứ gì đó – Ông ta vừa tự nhủ, vừa nhìn quanh để xem có thể lấy thêm cái gì. Bỗng ông ta chú ý đến một vật sáng lấp lánh trong góc hang. Ông ta hấp tấp chạy tới, nhưng khi làm vậy ông ta quên người tí hon nằm dưới đất, choán cả lối đi. Ông ta vấp phải chân người tí hon và – ôi ghê gớm quá! – Người tí hon cựa mình, hai mắt xanh biếc tinh quái nhìn chằm chằm khủng khiếp.
– Thế là ta bắt được mày rồi, tên trộm kho báu! Người tí hon vừa nói, vừa siết chặt bàn tay như một gọng kềm bằng sắt.
Chuyện đó kéo dài không bao lâu – và trong cái hang, bên ngọn lửa hồng, hai người tí hon, một người đàn ông và một người đàn bà – lại ngồi xổm gặm xương.
– Món thịt nướng ngon lắm ! Người đàn ông nhìn nhận.
– Ít khi tôi được ăn món ngon hơn – người đàn bà nói thêm.
Trong lúc đó, ở nhà ông nhà giàu, người ta tìm ông không ra. Ông đã đi đâu ? Không ai nói được.
Ngày xưa có hai người hàng xóm, một người nghèo và một người giàu. Người giàu rất mộ đạo. Thế nhưng một hôm vì đã tụng kinh suốt ba ngày, nghiền ngẫm tất cả nghi thức và quy tắc, ông ta đâm ra chán ngán chuyện cầu nguyện, tụng niệm. Ông ta tự bảo sẽ tiêu khiển một chút. Thế nên ông ta sửa soạn một bữa tiệc lớn, mời hết người trong vùng. “Nhưng mình sẽ không mời anh chàng hàng xóm khốn khổ – ông ta tính toán. Một người loại đó không thể ngồi chung với những người khá giả”.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!