Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương
Chương 31
“Ở Idris,” Valentine bình tĩnh trả lời. “Nơi con không bao giờ tìm thấy.”
Bàn tay Jace đang run. “Nói cho tôi nghe…”
“Đưa chú thanh kiếm, Jonathan.” Đó là chú Luke, giọng bình tĩnh, thậm chí còn có phần nhẹ nhàng.
Jace nghe như thể anh đang nói vọng lên từ đáy giếng vọng lên. “Sao ạ?”
Clary bước thêm một bước nữa. “Đưa chú Luke thanh kiếm. Để chú cầm nó đi Jace.”
Anh lắc đầu. “Anh không thể.”
Cô lại tiến thêm bước nữa; một bước nữa, và giờ cô đã đứng gần anh đến mức có thể chạm được vào anh. “Được, anh có thể mà,” cô nhẹ nhàng nói. “Làm ơn.”
Anh không nhìn cô. Đôi mắt anh đang xoáy vào mắt người bố. Khoảnh khắc đó cứ kéo dài và dài mãi, dường như là vô tận. Cuối cùng anh gật đầu, nhanh gọn, nhưng không không hề hạ tay xuống. Nhưng anh để chú Luke đến đứng bên cạnh và đặt tay trên tay anh, trên chuôi kiếm. “Giờ cháu thả ra được rồi đó, Jonathan,” chú Luke nói – rồi, thấy vẻ mặt của Clary, sửa lại. “Jace.”
Jace dường như không nghe thấy chú. Anh thả chuôi kiếm và rời xa người bố. Một vài màu sắc trên mặt anh trở lại, và giờ trông anh trắng như bột bánh, đôi môi chảy máu nơi anh đã cắn vào. Clary đau đớn chỉ muốn chạm vào anh, ôm lấy anh, vì biết rằng anh sẽ không bao giờ cho phép.
“Ta có đề nghị thế này,” Valentine nói với chú Luke, bằng cái giọng đều đều tới ngạc nhiên.
“Để tôi đoán nhé,” chú Luke nói. “Là ‘Đừng giết tôi’ hả?”
Valentine cười phá, phát ra một tràng âm thanh không hề có chút vui vẻ nào. “Còn lâu ta mới chịu hạ mình để cầu xin anh tha mạng,” hắn nói.
“Tốt,” chú Luke đáp, dùng lưỡi kiếm quệt nhẹ lên cằm gã đàn ông kia. “Tôi sẽ không giết anh trừ khi anh buộc tôi phải ra tay, Valentine. Tôi không muốn giết anh ngay trước mặt các con anh. Thứ tôi muốn là chiếc Cốc.”
Những tiếng rống dưới nhà giờ vang lên dữ dội hơn. Clary có thể nghe tiếng gì đó tựa tiếng bước chân ở hành lang bên ngoài. “Chú Luke…”
“Chú nghe thấy rồi,” chú nạt.
“Ta đã nói rồi, chiếc Cốc ở Idris,” Valentine nói, ánh mắt chuyển ra sau chú Luke.
Chú Luke đang vã mồ hôi. “Nếu nó ở Idris, anh hãy dùng Cổng Dịch Chuyển mang nó tới đây. Tôi sẽ đi cùng anh. Mang nó trở về.” Đôi mắt chú Luke đang đảo qua đảo lại. Lại có thêm nhiều hoạt động ngoài hành lang, những tiếng la hét, tiếng thứ gì đó đổ vỡ. “Clary, ở đó cùng anh cháu. Sau khi bọn chú bước qua, cháu hãy dùng Cổng Dịch Chuyển để tới nơi an toàn.”
“Cháu không rời đây đâu,” Jace nói.
“Có đó.” Có gì đó dộng thình thình lên cửa. Chú Luke cao giọng. “Valentine, Cổng Dịch Chuyển. Đi”
“Không thì sao nào?” Đôi mắt Valentine chằm chằm nhìn cánh cửa với vẻ suy tính.
“Tôi sẽ giết anh nếu anh buộc tôi phải ra tay,” chú Luke nói. “Dù trước bọn nhỏ hoặc không. Cổng Dịch Chuyển, Valentine. Ngay.”
Valentine dang rộng đôi bàn tay. “Tùy anh thôi.”
Hắn hơi lùi lại, ngay khi cánh cửa mở tung vào trong, bản lề rơi xuống sàn. Chú Luke né ra để tránh cánh cửa rơi xuống đè vào, trong lúc đó khẽ quay người, thanh kiếm vẫn trên tay.
Con sói đứng ở ngưỡng cửa như một ngọn núi của những tiếng rống, lông nâu, vai đùn về trước, môi vén lên để lộ những chiếc răng đang nhe ra. Máu chảy xuống từ không biết bao nhiêu vết thương rách toác trên da.
Jace khẽ chửi rủa và tay đã cầm sẵn thanh thiên đao. Clary nắm lấy cổ tay anh. “Đừng… chú ấy là bạn.”
Jace ngờ vực nhìn cô, nhưng cũng hạ tay xuống.
“Alaric…” Chú Luke hét lên gì đấy, bằng một ngôn ngữ Clary không hiểu. Alaric lại gầm gừ, phục người sát hơn xuống sàn nhà, trong giây phút bối rối, cô cứ ngỡ chú ta sẽ lao vào chú Luke. Rồi cô thấy bàn tay Valentine đặt ở thắt lưng, ánh lấp lánh của những viên đá quý đỏ, và nhận ra mình đã quên mất hắn vẫn còn cầm con dao của Jace.
Cô nghe tiếng hét gọi tên Luke, cứ ngỡ đó là giọng mình – rồi nhận ra rằng cổ họng cô như bị đổ keo, còn chính Jace mới là người hét.
Chú Luke quay lại, dường như chạm tới đau khổ, khi con dao khỏi tay Valentine và bay về phía chú như một con bướm bạc, xoay vòng trong không khí. Chú Luke giơ kiếm – và một thứ gì đấy to lớn, lông xám nâu lao vào giữa chú và Valentine. Cô nghe tiếng Alaric tru, tru vang lên, đột nhiên ngưng bặt; nghe tiếng con dao đâm trúng. Cô há hốc miệng và cố chạy tới, nhưng Jace giữ cô lại.
Con sói nằm còng queo dưới chân chú Luke, máu ướt đầm bộ lông. Thật yếu ớt, với bàn chân sói, Alaric quặp lấy chuôi đao nhô ra từ ngực.
Valentine cười lớn. “Và đây là cách anh trả lại sự trung thành không đòi hỏi gì mà anh đã mua với cái giá quá ư rẻ mạt sao, hả Lucian,” hắn nói. “Bằng cách để chúng chết thay cho anh.” Hắn đang lùi lại, vẫn nhìn chú Luke.
Chú Luke mặt trắng bệch, nhìn hắn, rồi cúi nhìn Alaric; lắc đầu một cái rồi quỳ xuống, ôm lấy xác con sói vừa ngã xuống. Jace, vẫn giữ vai Clary, rít lên, “Đứng im đây, nghe anh nói không? Ở yên đây.” và đuổi theo Valentine, giờ đang vội hướng về phía bức tường đầu kia, chẳng hiểu vì sao. Hắn định nhảy ra khỏi cửa sổ à? Clary có thể thấy hình phản chiếu của hắn in trên chiếc gương lớn viền vàng khi hắn tới gần nó, và nét biểu cảm trên gương mặt hắn – một dạng nhẹ nhõm nhạo báng – khiến nỗi cuồng nộ muốn giết người trào dâng trong cô.
“Đợi đấy mà em nghe,” cô lầm bầm rồi đi theo Jace. Cô chỉ dừng lại để cầm lấy con dao cán xanh trên nền nhà bên dưới gầm bàn, ở nơi Valentine đã đá bay nó tới. Món vũ khí trong tay cô giờ đã có cảm giác thoải mái, trấn an, khi cô đẩy chiếc ghế đổ sang bên và tiến tới gần tấm gương.
Jace đã giơ thanh thiên đao ra, ánh sáng tỏa rộng lên trên, làm tối đen viền mắt anh và hai bên hõm má. Valentine đã quay lại và đứng ngoài vòng sáng, quay lưng với tấm gương. Qua tấm gương, Clary có thể thấy rõ chú Luke đằng sau họ; chú đã đặt thanh kiếm xuống và rút thanh kindjal chuôi đỏ khỏi ngực Alaric, một cách nhẹ nhàng và cẩn trọng. Cô cảm thấy buồn nôn và nắm chặt lấy con dao của mình hơn. “Jace…” cô mở lời.
Anh không quay lại nhìn cô, dù tất nhiên anh nhìn thấy hình cô trong gương. “Clary, anh đã bảo em đợi mà.”
“Con bé giống mẹ lắm,” Valentine nói. Một bàn tay đã đưa ra sau lưng; hắn đang lần theo viền khung gương mạ vàng. “Không thích làm những điều được bảo.”
Jace không còn run như vừa nãy, nhưng Clary có thể cảm nhận được sự kiểm soát mỏng manh của anh đang bị kéo dãn tới mức nào, như lớp da căng trên mặt trống. “Anh sẽ đi cùng ông ta tới Idris, Clary. Anh sẽ mang chiếc Cốc về.”
“Không, anh không thể,” Clary mở lời và thấy, trong gương, gương mặt anh biến dạng ra sao.
“Em có ý kiến gì hay hơn không?” anh hỏi.
“Nhưng chú Luke…”
“Lucian,” Valentine nói bằng cái giọng mượt như nhung, “đang chăm lo cho một đồng chí đã ngã xuống. Còn về chiếc Cốc và Idris, chúng không ở đâu xa. Chỉ qua tấm gương này thôi, có thể nói là thế.”
Jace nheo mắt. “Tấm gương này là Cổng Dịch Chuyển?”
Đôi môi Valentine mím chặt và hạ tay, rụt khỏi tấm gương khi những hình ảnh trong đó bắt đầu cuộn tròn và thay đổi như màu nước chảy trên một bức tranh. Thay vào hình ảnh căn phòng với những món đồ gỗ tối màu và nến, giờ Clary có thể thấy cánh đồng xanh, những tán lá cây xanh như ngọc lục bảo, đồng cỏ rộng mênh mông dẫn tới một ngôi nhà đá lớn đằng xa xa. Cô có thể nghe thấy tiếng đàn ong bay vo ve và tiếng lá cây xào xạc trong gió, cùng mùi lá kim ngân phảng phất theo hương gió.
“Ta đã bảo con là không xa mà.” Valentine đứng ở nơi giờ là một ngưỡng cửa vòm mạ vàng, mái tóc rung động nhờ cùng cơn gió thổi qua tán lá của rặng cây đằng xa. “Có giống như con nhớ không, Jonathan? Không có gì thay đổi nhỉ?”
Trái tim Clary nghẹn lại trong ngực. Cô không nghi ngờ gì đây chính là ngôi nhà thời thơ ấu của Jace, hiển hiện đó quyến rũ anh tựa như kẹo hay đồ chơi có thể dụ trẻ nhỏ. Cô nhìn Jace, nhưng có vẻ anh chẳng hề thấy cô. Anh đang nhìn Cổng Dịch Chuyển, và quang cảnh đằng sau với cánh đồng xanh và ngôi nhà. Cô thấy nét mặt anh dịu lại, môi cong lên thèm muốn, như thể đang nhìn một người anh yêu.
“Con vẫn có thể về nhà,” bố anh nói. Ánh sáng tới từ lưỡi dao thiên thần mà Jace cầm trên tay tỏa bóng anh ngược ra sau để có vẻ như đang di chuyển qua Cổng Dịch Chuyển, khiến những cánh đồng ngập tràn ánh nắng và đồng cỏ bị phủ tối.
Nụ cười nhạt dần trên đôi môi Jace. “Đó không phải nhà của tôi,” anh nói. “Giờ đây mới là nhà của con.”
Cơn giận bùng lên khiến nét mặt Valentine thay đổi khi nhìn cậu con trai. Cô sẽ không bao giờ quên đi vẻ mặt đó – nó khiến cô đột ngột muốn gặp mẹ ghê gớm. Vì dù mẹ Jocelyn có giận cô tới đâu, mẹ cũng chưa bao giờ nhìn cô như thế. Mẹ luôn luôn nhìn cô với tình yêu thương vô hạn.
Nếu cô có thể cảm thấy thương cho Jace hơn mình đã từng cảm thấy, thì hẳn khi đấy cô đã thấy thế rồi.
“Tốt lắm,” Valentine nói và lùi lại một bước qua Cổng Dịch Chuyển để chân chạm đất Idris. Môi hắn cong lên thành một nụ cười. “A,” hắn nói, “quê nhà.”
Jace vội vội vàng vàng tới trước ven rìa Cổng Dịch Chuyển trước khi dừng lại, tay chống lên khung viền mạ vàng. Dường như một sự lưỡng lự kỳ lạ đang kìm giữ chân anh, thậm chí ngay cả khi Idris đang rung động trước mắt anh như một ảo giác trong sa mạc. Chỉ cần một bước thôi…
“Jace, đừng.” Clary vội nói. “Đừng đi theo ông ta.”
“Nhưng chiếc Cốc,” Jace nói. Cô không biết anh đang nghĩ gì, nhưng con dao trong tay anh run dữ dội vì tay anh rung.
“Hãy để Clave xử lý! Jace, làm ơn đi mà.” Nếu anh đi qua Cổng Dịch Chuyển đó, có lẽ anh sẽ không bao giờ trở lại, Valentine sẽ giết anh. Anh không muốn tin điều đó, nhưng hắn sẽ xuống tay.
“Em gái con nói đúng.” Valentine đang đứng giữa đồng cỏ xanh và những bông hoa dại, những lá cỏ rung động dưới chân hắn, và Clary nhận ra rằng dù hắn và họ chỉ cách nhau vài phân, nhưng họ đứng ở hai đất nước hoàn toàn khác nhau. “Con thực sự nghĩ con có thể chiến thắng sao? Dù là con đang có thanh thiên đao còn ta thì không có lấy một mảnh vũ khí? Ta không chỉ mạnh hơn con, mà bố nghi rằng con không có gan giết bố. Và con sẽ phải giết chết bố đó, Jonathan à, trước khi bố đưa chiếc Cốc cho con.”
Jace nắm chặt lấy thiên đao. “Tôi có thể…”
“Không, con không thể đâu.” Valentine vươn tay ra, qua Cổng Dịch Chuyển và chộp lấy cổ tay Jace lôi về phía trước tới khi mũi dao chạm vào ngực hắn. Nơi bàn tay và cổ tay anh chui qua Cổng Dịch Chuyển, chúng hình như rung động như thể nhúng xuống nước. “Vậy làm đi,” Valentine nói. “Đâm đi. Ba phân thôi – có lẽ là bốn.” Hắn giật con dao tới trước, mũi dao cắt qua lớp vải áo. Một vòng tròn đỏ như bông hoa anh túc nở rộ ngay trên trái tim hắn. Jace, thở dốc, giật tay ra và loạng choạng lùi lại.
“Đúng như ta nghĩ,” Valentine nói. “Quá yếu đuối.” Và thật đột ngột đến choáng váng, hắn vung nắm đấm về phía Jace. Clary hét lên, nhưng cú đấm không hề động tới Jace: thay vào đó cú đánh chạm vào mặt Cổng Dịch Chuyển tạo ra thứ hợp âm của hàng ngàn thứ mỏng manh vỡ vụn. Những vết nứt hình mạng nhện lan trên lớp kính-mà-chẳng-phải-kính; điều cuối cùng Clary nghe được trước khi Cổng Dịch Chuyển vỡ tan thành ngàn mảnh nhỏ là tiếng cười nhạo báng của Valentine.
Mảnh gương vỡ đổ xuống sàn nhà hệt một cơn mưa băng đá, một thác nước những mảnh vụn bạc đẹp một cách kỳ lạ. Clary lùi lại, nhưng Jace vẫn đứng bất động trong khi lớp gương vẫn rơi xung quanh anh, nhìn chằm chằm vào khung gương trống rỗng.
Clary cứ tưởng anh sẽ chửi rủa, sẽ hét hay nguyền rủa người bố, nhưng thay vào đó anh chỉ đợi cho những mảnh vụn ngừng rơi. Sau đó, anh im lặng quỳ xuống và cẩn thận lựa giữa những mảnh gương vỡ và nhặt một mảnh lớn nhất, xoay nó trong tay.
“Đừng,” Clary quỳ xuống bên anh, đặt con dao cô đang cầm xuống. Sự hiện diện của nó không còn làm cô yên lòng nữa. “Anh đã không thể làm gì được đâu.”
“Có chứ.” Anh vẫn nhìn xuống mảnh kính. Những mảnh vụn kính phủ bạc tóc anh. “Anh đã có thể giết chết ông ta.” Anh quay mảnh vụn về phía cô. “Nhìn đi,” anh nói.
Cô nhìn. Trên mảnh gương nhỏ cô vẫn thấy một mảnh của Idris – một chút trời xanh, bóng của tán lá xanh. Cô thở dài đau đớn. “Jace…”
“Các cháu ổn không?”
Clary ngước nhìn. Chú Luke đang đứng trước mặt họ. Chú không cầm vũ khí, đôi mắt hõm sâu với hai quầng xanh kiệt sức. “Bọn cháu ổn,” cô đáp. Cô có thể thấy thân hình nằm co quắp đằng sau chú, che một nửa trong chiếc áo khoác dài của Valentine. Một bàn tay nhô ra từ dưới viền vải; đầu móng tay là những móng vuốt. “Alaric…?”
“Chết rồi,” chú Luke nói. Giọng nói của chú chất chứa vô vàn nỗi đau thương được kìm nén; dù chú không biết Alaric nhiều, Clary biết cảm giác tội lỗi sẽ đè nặng lên chú mãi mãi. Và đây là cách anh đáp trả sự trung thành không đòi hỏi mà anh đã mua bằng cái giá quá rẻ mạt sao, Lucian. Để chúng chết thay anh.
“Bố cháu chạy mất rồi,” Jace nói. “Cùng chiếc Cốc.” Giọng anh nghe buồn buồn. “Chúng ta đã đưa nó tới thẳng cho ông ta. Cháu đã thất bại.”
Chú Luke đặt một tay lên đầu Jace, phủi lớp bụi gương dính trên tóc anh. Những móng vuốt vẫn đang phô ra, những ngón tay chú dính máu, nhưng Jace chịu đựng cái vuốt ve của chú như thể anh chẳng quan tâm, và cũng chẳng nói gì. “Đó không phải lỗi của cháu,” chú Luke nói và nhìn xuống Clary. Đôi mắt xanh của chú rất kiên định. Chúng nói: Anh cháu cần cháu; hãy ở lại cùng thằng bé đi.
Cô gật đầu, chú Luke bỏ họ lại đó mà đi tới bên cửa sổ. Chú mở toang cửa sổ, để cho những luồng gió ùa vào phòng làm lung lay ánh nến. Clary có thể nghe chú hét lên, gọi những con sói bên dưới.
Cô quỳ xuống cạnh Jace. “Ổn rồi mà,” cô ngắc ngứ nói, dù rõ ràng chuyện chẳng ổn chút nào, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ ổn, rồi cô đặt tay lên vai anh. Lớp vải áo anh nham nhám dưới đầu ngón tay cô, ướt mồ hôi, và dễ chịu kỳ lạ. “Chúng ta có mẹ. Chúng ta có anh. Chúng ta có mọi thứ quan trọng.”
“Ông ấy nói đúng. Đó là lý do anh không thể chui qua Cổng Dịch Chuyển,” Jace thì thào. “Anh không thể làm được. Anh không thể giết chết ông ta.”
“Anh mà thất bại thì chỉ có một cách,” cô nói, “đó là nếu đã thực sự thất bại.”
Anh không nói gì, chỉ thì thào gì đó. Cô không nghe ra, nhưng cô vẫn vươn tay và cầm lấy mảnh gương trên tay anh. Anh đang chảy máu nơi tay cầm gương, từ hai vết cắt sâu và một vết nông. Cô bỏ mảnh gương xuống và cầm tay anh, khép những ngón tay anh lên lòng bàn tay bị thương. “Thật chứ Jace,” cô nói, dịu dàng như cô đang chạm vào anh, “anh không biết là không được chơi với mảnh kính vỡ à?”
Anh phát ra tiếng kêu nghe như tiếng cười bị nghẹn trước khi vươn tay ra mà ôm lấy cô. Cô biết chú Luke đang quan sát họ từ cửa sổ, nhưng cô vẫn cương quyết nhắm mắt và chôn mặt vào Jace. Anh có mùi của muối và máu, và chỉ khi miệng anh áp gần tai cô, cô mới hiểu ra anh đang nói gì, rằng lúc trước anh thì thầm điều gì, và đó là một chuỗi từ đơn giản nhất trần đời: tên cô, chỉ có tên cô mà thôi.
Phần kết
ĐAU THƯƠNG ĐẾN VỚI NHỮNG ĐỨA CON
Hành lang bệnh viện trắng lóa cả mắt. Sau quá nhiều ngày sống dưới ánh đuốc, ánh đèn khí gas và ánh sáng mờ mờ ảo ảo của ngọn đèn phù thủy, ánh đèn huỳnh quang khiến mọi thứ tái nhách và không tự nhiên. Khi Clary ký tên ở bàn trước, cô nhận ra người y tá đưa cho cô bìa kẹp hồ sơ mang nước da trông vàng vọt kỳ lạ dưới ánh đèn tuýp. Có thể cô ta là quỷ, Clary nghĩ và giao trả tập hồ sơ. “Cửa cuối cùng ở cuối hành lang,” y tá nói và cười hiền hậu. Hoặc chắc mình điên rồi.
“Cháu biết,” Clary nói. “Hôm qua cháu tới đây rồi mà.” Và ngày hôm kia, và hôm kia nữa. Mới đầu buổi hôm và hành lang không hề đông chút nào. Một ông lão đi từng bước chậm chạp trên đôi dép lê và mặc áo choàng, kéo theo một bình ôxy di động đằng sau. Hai bác sĩ mặc bộ đồ phẫu thuật màu xanh đang cầm hai cốc xốp cà phê, hơi nước bốc lên trong không khí lạnh lẽo. Bệnh viện bật điều hòa có phần quá lạnh, dù ngoài trời không khí cuối cùng cũng chịu chuyển sang thu.
Clary tìm thấy cánh cửa ở cuối hành lang. Cửa đã mở. Cô nheo mắt nhìn vào trong, không muốn đánh thức chú Luke nếu chú đang ngủ trên chiếc ghế cạnh giường, như trong hai lần trước cô tới. Nhưng chú đang thức và nói chuyện cùng một người đàn ông cao ráo mặc áo choàng màu da dê của hội Tu Huynh Câm. Anh ta quay lại, như cảm nhận được Clary vừa tới, và cô thấy đó là Tu Huynh Jeremiah.
Cô khoanh tay trước ngực. “Có chuyện gì vậy ạ?”
Chú Luke có vẻ kiệt sức, bộ râu lờm xờm ba ngày chưa cạo, cặp kính kéo lên đỉnh đầu. Cô có thể thấy lớp gạc vẫn quấn quanh ngực bên dưới lớp áo sơ mi vải flannel rộng thùng thình. “Tu Huynh Jeremiah đang định về,” chú nói.
Kéo mũ lên, Jeremiah đi về phía cửa, nhưng Clary đã chặn lại. “Sao đây?” cô thách thức anh ta. “Anh sẽ giúp mẹ tôi chứ?”
Jeremiah tới gần cô hơn. Cô cảm nhận được khí lạnh tỏa ra từ cơ thể người tu huynh, như khói bốc ra từ băng. Em không thể cứu người khác trước khi cứu được bản thân mình, giọng nói vang lên trong đầu cô.
“Trò bánh quy-tiên tri đã cũ lắm rồi,” Clary nói. “Mẹ em làm sao thế? Anh có biết không? Liệu Tu Huynh Câm có giúp được mẹ như đã từng giúp Alec không?”
Chúng tôi chẳng giúp ai cả, Jeremiah nói. Mà chúng tôi cũng không có nhiệm vụ phải giúp những kẻ đã ly khai khỏi Clave.
Cô lùi lại nhường đường cho Jeremiah bước vào hành lang. Cô quan sát anh ta bỏ đi, hòa mình vào đám đông, không ai thèm liếc nhìn anh ta tới lần thứ hai. Khi nhắm hờ mắt, cô thấy sự rung động do ảo ảnh bao quanh anh ta và tự hỏi những người khác đang thấy gì: một bệnh nhân? Một bác sĩ trong bộ đồ mổ đang hớt hải đi lại? Một người thân buồn bã tới thăm người nhà?
“Anh ta nói thật đấy,” chú Luke nói từ sau cô. “Anh ta không cứu Alec; mà là Magnus Bane. Và anh ta không biết chuyện gì không ổn với mẹ cháu nữa.”
“Cháu biết,” Clary nói và trở lại phòng. Cô mệt mỏi tới bên giường. Thật khó để liên kết với dáng người nhỏ bé trắng bệch đang nằm trên giường, bị cuốn trong một mê cung những đường ống, với người mẹ tóc đỏ rực như lửa tràn đầy sức sống của cô. Tất nhiên, tóc mẹ cô vẫn đỏ, xổ tung trên gối như một chiếc khăn choàng đầu dệt bằng những sợi chỉ màu đỏ đồng, nhưng nước da của mẹ quá trắng khiến Clary liên tưởng tới bức tượng sáp Nàng Công Chúa Ngủ Trong Rừng tại bảo tàng người sáp Madame Tussauds, có phần ngực nhấp nhô nhờ một bộ máy đồng hồ.
Cô nắm lấy bàn tay gầy guộc của mẹ, như mình đã làm vào ngày hôm qua và hôm kia. Cô có thể cảm nhận nhịp mạch đập trên cổ tay Jocelyn, chậm rãi và ổn định. Mẹ muốn dậy, Clary nghĩ. Mình biết mẹ muốn mà.
“Tất nhiên mẹ cháu muốn rồi,” chú Luke nói và Clary nhận ra rằng cô vừa nói lớn. “Mẹ cháu có nhiều thứ để khỏe lại lắm, nhiều thứ hơn mẹ cháu có thể biết.”
Clary nhẹ nhàng đặt tay mẹ xuống giường. “Chú đang nói tới Jace.”
“Tất nhiên là chú nói tới Jace rồi,” chú Luke nói. “Mẹ cháu đã khóc thương anh trai cháu suốt mười bảy năm. Nếu chú có thể nói với mẹ cháu rằng mẹ cháu không cần khóc nữa…” chú ngừng nói.
“Người ta nói, đôi lúc những người trong cơn hôn mê vẫn nghe thấy chú nói,” Clary gợi ý. Tất nhiên bác sĩ cũng nói đây không phải một ca hôn mê thông thường – không bị thương, không bị thiếu hụt ôxy, không có sự ngừng hoạt động đột ngột của tim hay não. Chỉ như là mẹ đơn giản chìm vào giấc ngủ và không thể nào được đánh thức nổi.
“Chú biết,” chú Luke nói. “Chú đã nói chuyện với mẹ cháu. Gần như không ngừng.” Chú cười mệt mỏi. “Chú nói với mẹ cháu rằng cháu đã dũng cảm thế nào. Rằng mẹ cháu sẽ tự hào về cháu ra sao. Đứa con gái chiến binh của mẹ.”
Có gì đó sắc nhọn và đau đớn trồi lên trong cổ họng cô. Cô nuốt nó xuống, nhìn ra ngoài ô cửa sổ. Qua đó cô thấy bức tường gạch đơn điệu của tòa nhà đối diện. Chẳng có quang cảnh tuyệt đẹp của những rặng cây hay dòng sông nào ở đây. “Cháu đã đi mua đồ chú bảo,” cô nói. “Cháu mua bơ đậu phộng, sữa, bột ngũ cốc và bánh mỳ từ tiệm Fortunato Brothers.” Cô nhét tay vào túi quần. “Cháu còn tiền lẻ…”
“Giữ đi,” chú Luke nói. “Cháu có thể dùng tiền này đi taxi về nhà.”
“Simon sẽ chở cháu về,” Clary nói. Cô quan sát chiếc đồng hồ hình con bướm treo lủng lẳng trên dây đeo chìa khóa. “Thật ra, giờ có lẽ cậu ấy đã ở dưới nhà rồi.”
“Tốt, chú mừng vì cháu có thời gian chơi với bạn.” Chú Luke có vẻ yên tâm hơn. “Mà cứ giữ tiền đi. Tối nay gọi đồ ăn về nhà.”
Cô mở miệng định cãi, rồi ngậm miệng lại. Chú Luke, như mẹ cô thường nói, là một tảng đá vào những lúc rắc rối – vững chãi, đáng tin cậy, và hoàn toàn không thể bị lay chuyển. “Mà chú nhớ về nhà nhé? Chú cũng cần phải ngủ đấy.”
“Ngủ? Ai cần ngủ chứ?” chú đùa, nhưng cô thấy sự mệt mỏi hằn in trên khuôn mặt chú khi chú ngồi xuống cạnh giường mẹ. Chú nhẹ nhàng gạt lọn tóc khỏi gương mặt mẹ Jocelyn. Clary quay người đi, đôi mắt cay cay.
Chiếc xe van của Eric đang chạy không bên vệ đường vào lúc cô bước ra ngoài lối ra của bệnh viện. Vòm trời cao cao phía trên, giống chiếc chén sứ xanh hoàn hảo, mang sắc màu đá ngọc bích sẫm hơn ở phía trên dòng sông Hudson, nơi mặt trời đang từ từ lặn xuống. Simon nhoài người sang giúp cô mở cửa xe và cô lồm cồm ngồi vào ghế bên cạnh bạn. “Cám ơn.”
“Đi đâu nào? Về nhà nhé?” cậu hỏi, lái xe hòa vào dòng giao thông của Đại Lộ số Một.
Clary thở dài. “Tớ còn chẳng biết đâu là nhà nữa.”
Simon liếc xéo sang cô. “Cảm thấy thương tiếc cho mình hả, Fray?” Giọng cậu đang chế giễu, nhưng nhẹ nhàng. Nếu cô nhìn ra sau cậu, cô vẫn có thể thấy những vết ố đen trên ghế sau nơi Alec đã nằm, chảy máu, trong lòng Isabelle.
“Ừ. Không. Mình không biết nữa.” Cô lại thở dài, vén gọn một lọn tóc xoăn xoăn. “Mọi thứ đều thay đổi. Mọi thứ đều đã khác. Đôi lúc mình ước mọi chuyện sẽ trở về như trước kia.”
“Mình thì không,” Simon nói, làm cô ngạc nhiên. “Chúng ta đi đâu đây? Ít nhất nói cho mình biết là lên khu nội ô hay ngoại ô đi.”
“Tới Học Viện,” Clary nói. “Xin lỗi,” cô nói thêm, khi cậu đánh tay lái làm một vòng quay đầu xe tuyệt đối là phạm luật giao thông. Chiếc xe van, quay trên hai bánh, rít lên phản đối. “Đáng ra mình nên nói với cậu trước.”
“Hừ,” Simon nói. “Cậu vẫn chưa trở lại đó đúng không? Kể từ khi…”
“Ừ, không phải từ hồi đó,” Clary nói. “Jace gọi cho mình và nói rằng Alec và Isabelle đã ổn. Có vẻ là bố mẹ họ đang tức tốc trở về từ Idris, giờ rốt cuộc có người đã thực sự nói cho họ biết chuyện. Họ sẽ về đây trong khoảng một hai ngày tới.”
“Nghe tin từ Jace có kỳ lạ không?” Simon hỏi, giọng vẫn bình thường. “Ý mình là, từ khi cậu biết…”
Cậu không nói nữa.
“Ừ?” Clary nói, giọng bắt đầu hơi cao lên. “Từ khi mình biết gì nào? Rằng anh ấy là đồ biến thái giết người thích quấy rối mèo à?”
“Thế nào mà con mèo của anh ta ghét tất cả mọi người.”
“Ôi, im đi Simon,” Clary bực dọc. “Mình biết ý cậu, và không, chẳng kỳ gì hết. Dù sao cũng đã chẳng có gì xảy ra giữa bọn mình cả.”
“Không có gì ư?” Simon nhại lại, cực kỳ không tin.
“Không có gì,” Clary quả quyết, liếc nhìn ra ngoài cửa sổ để cậu không thấy máu đang chạy rần rần lên hai má cô. Họ đang đi qua một dãy nhà hàng và cô có thể thấy quán Taki’s sáng rực rỡ dưới ánh hoàng hôn đang tụ lại.
Họ quành qua góc đường vừa khi mặt trời vừa biến mất sau ô cửa sổ hình hoa hồng của Học Viện, đổ xuống con đường phía dưới tạo thành những tia nắng hình vỏ sò mà họ chỉ mới nhìn thấy. Simon đỗ xe trước cửa và tắt máy, nghịch chìa khóa trên tay. “Cậu muốn mình lên cùng không?”
Cô lưỡng lự. “Không. Mình nên làm việc này một mình.”
Cô thấy sự thất vọng thoáng qua mặt Simon, nhưng biến mất rất nhanh. Simon, cô nghĩ, đã trưởng thành rất nhiều sau hai tuần qua, cũng như cô vậy. Dù sao đó cũng là điều tốt, vì cô hẳn sẽ không muốn bỏ cậu lại sau. Cậu là một phần của cô, cũng như khả năng hội họa của cô, bầu không khí bụi bặm của Brooklyn, tiếng cười của mẹ và dòng máu Thợ Săn Bóng Tối của chình cô vậy. “Được rồi,” cậu nói. “Chút nữa cậu có cần mình đưa về không?”
Cô lắc đầu. “Chú Luke cho mình tiền đi taxi. Mà mai cậu có muốn sang nhà mình không?” cô hỏi thêm. “Chúng mình có thể xem vài tập Trigun, làm ít bỏng ngô. Mình thích nằm xem phim ở nhà.”
Cậu gật đầu. “Nghe hay đấy!” Cậu nhoài người tới, hôn phớt nhẹ lên má cô. Đó là một nụ hôn nhẹ như lá vàng rơi, nhưng cô cảm thấy cơn rùng mình chấn động đến tận xương. Cô nhìn bạn.
“Cậu có nghĩ đó là một sự trùng hợp không?”
“Mình có nghĩ cái gì là trùng hợp cơ?”
“Rằng chúng ta tới Xứ Quỷ vào đúng cái đêm tình cờ Jace cùng những người khác tới đó đi săn một con quỷ ấy? Cái đêm trước khi Valentine tới bắt mẹ mình ấy?”
Simon lắc đầu. “Mình không tin vào những sự trùng hợp,” cậu nói.
“Mình cũng vậy.”
“Nhưng mình phải thừa nhận,” Simon nói thêm, “dù trùng hợp hay không, nó cũng trở thành sự cố ngẫu nhiên.”
“Sự Cố Ngẫu Nhiên,” Clary nói. “Giờ đó là tên ban nhạc cậu đấy.”
“Nghe hay hơn hầu hết những cái tên bọn mình nghĩ ra,” Simon thừa nhận.
“Còn gì nữa.” Cô nhảy khỏi xe, đóng sập cửa lại. Cô nghe thấy cậu bấm còi khi cô chạy lên lối đi dẫn đến cửa giữa những phiến cỏ mọc quá dày, thế là cô vẫy tay không buồn nhìn lại.
Bên trong nhà thờ lạnh và tối, có mùi của mưa và giấy ẩm mốc. Tiếng bước chân cô vang vọng trên nền đá, làm cô nghĩ tới Jace trong nhà thờ ở Brooklyn: Có thể có Chúa đó, Clary, mà cũng có thể không. Dù thế nào, chúng ta vẫn chỉ có một mình.
Trong thang máy cô lén nhìn mình trong gương khi cánh cửa lanh canh đóng lại. Hầu hết các vết bầm và vết cào xước đã lành lặn không để lại vết tích. Cô tự hỏi liệu Jace đã từng thấy cô nghiêm nghị như hôm nay chưa – cô mặc đồ để vào bệnh viện, váy đen xếp li, đánh son bóng hồng và chiếc áo sơ mi cổ thủy thủ theo phong cách cổ điển. Cô nghĩ trông mình như thể đứa bé tám tuổi vậy.
Nhưng anh thấy cô thế nào thì có sao đâu, cô tự nhủ, dù là bây giờ hay mãi mãi sau này. Cô tự hỏi liệu họ có bao giờ giống như Simon và cô em gái không: một sự hòa trộn giữa chán nhau tới tận cổ và giận nhưng thương yêu nhau. Cô không tưởng tượng ra được.
Cô nghe tiếng meo meo lớn trước khi cánh cửa kịp mở. “Này Church,” cô nói, và quỳ xuống bên quả bóng xám đang lượn lờ trên sàn. “Mọi người đâu rồi?”
Church, rõ ràng là muốn được gãi bụng, kêu ỉ ôi. Clary thở dài chịu thua. “Đồ mèo điên,” cô nói, gãi nhiệt tình. “Mọi người…”
“Clary!” Là Isabelle, lả lướt trong hành lang trong chiếc váy dài màu đỏ, mái tóc được ghim cao bằng những chiếc kẹp gắn đá. “Thật mừng được gặp lại cậu!”
Cô nhào xuống ôm lấy Clary khiến cô sém mất thăng bằng.
“Isabelle,” Clary há hốc miệng. “Mình cũng mừng được gặp lại cậu,” cô nói thêm, để Isabelle kéo cô đứng thẳng.
“Mình rất lo cho cậu,” Isabelle vui vẻ nói. “Sau khi các cậu tới thư viện với bác Hodge, mình ở lại với Alec, mình nghe một tiếng nổ lớn và mình tới thư viện, tất nhiên các cậu đã biến mất và mọi thứ vung vãi trên sàn nhà. Và có máu cùng những vệt đen nhớp nháp phủ lên mọi thứ.” Cô nàng rùng mình. “Mà cái đó là cái gì?”
“Một lời nguyền,” Clary nói lí nhí. “Lời nguyền của bác Hodge.”
“À, đúng rồi,” Isabelle nói. “Jace đã nói với mình về bác Hodge.”
“Có sao?” Clary ngạc nhiên.
“Rằng bác ấy được giải lời nguyền và bỏ đi? Ờ, có. Mình cứ nghĩ lẽ ra bác ấy sẽ nán lại để tạm biệt bọn mình cơ,” Isabelle nói thêm, “mình hơi bị thất vọng vì bác ấy. Nhưng mình đoán là bác ấy sợ hội Clave. Mình cá bác ấy sẽ sớm liên lạc với bọn mình thôi.”
Vậy là Jace không nói cho họ biết bác Hodge đã phản bội, Clary nghĩ, không biết mình cảm nhận thế nào nữa. Nhưng rồi, nếu Jace đang cố tránh cho Isabelle khỏi bối rối và thất vọng, thế thì có lẽ cô không nên can dự vào.
“Mà này,” Isabelle nói thêm, “chuyện thật tệ, mà mình chẳng biết làm thế nào nếu Magnus không xuất hiện và phù phép cho Alec khỏe lại. Phải từ đó không, ‘phù phép’ ấy?” Cô nhíu mày. “Jace nói với bọn này về mọi chuyện xảy ra trên đảo. Thực ra mình còn biết trước đó kia, vì Magnus cả đêm cứ ôm điện thoại. Mọi người trong Thế Giới Ngầm đều xôn xao hết cả. Cậu biết không, giờ cậu nổi tiếng rồi đó.”
“Mình á?”
“Ừ. Con gái của Valentine.”
Clary rùng mình. “Vậy thì mình đoán Jace cũng thành người nổi tiếng nữa.”
“Cả hai người đều nổi tiếng,” Isabelle vẫn nói bằng cái giọng vui vẻ như cũ. “Cặp anh em nổi tiếng.”
Clary nhìn Isabelle một cách tò mò. “Mình không nghĩ rằng cậu sẽ mừng theo kiểu này khi nhìn thấy mình, mình phải thừa nhận.”
Cô gái kia căm phẫn chống tay lên hông. “Sao lại không?”
“Mình không nghĩ cậu thích mình tới mức đó.”
Sự tươi sáng của Isabelle nhạt dần và cô nhìn xuống những móng chân sơn nhũ bạc. “Mình cũng không nghĩ là mình thích cậu đâu,” cô nàng thừa nhận. “Nhưng khi mình đi tìm cậu và Jace, các cậu đã biến mất…” Giọng cô nàng lạc đi. “Mình không chỉ lo lắng cho anh ấy; mình còn lo cho cậu nữa. Ở cậu có gì đó rất… an ủi. Và Jace tốt tính hơn nhiều khi có cậu bên cạnh.”
Đôi mắt cô mở to. “Thật á?”
“Đúng là thế mà. Ít cáu giận hơn. Cũng không phải anh ấy tốt bụng hơn gì, nhưng ít nhất anh ấy cho cậu thấy sự tốt bụng trong con người anh ấy.” Cô ngừng lại. “Và mình đoán là mình lúc đầu chẳng hề ưa cậu, nhưng giờ mình thấy trò ấy ngốc quá. Chỉ vì mình chưa hề có một cô bạn gái bao giờ không có nghĩa là mình không thể học cách có một người.”
“Thực ra mình cũng vậy,” Clary nói. “Mà Isabelle này?”
“Ừ?”
“Cậu không cần giả bộ tốt đâu. Mình thích khi cậu là chính cậu hơn.”
“Đỏng đảnh như con quỷ cái ấy à?” Isabelle nói và cười to.
Clary định cự lại khi Alec xuất hiện trong hành lang với hai cây nạng. Một chân của anh được băng bó, ống quần bò xắn tới đầu gối và có vết băng khác trên thái dương, dưới mái tóc đen. Còn lại anh trông vẫn khỏe mạnh so với một người suýt chết bốn ngày trước. Anh vẫy một cây nạng để chào.
“Chào,” Clary nói, ngạc nhiên khi anh đã xuống giường đi lại. “Anh có…”“Khỏe không hả? Khỏe,” Alec nói. “Thậm chí anh không cần cả những thứ này sau vài ngày nữa.”
Cảm giác tội lỗi dâng đầy lên cổ cô. Nếu không phải vì cô, Alec sẽ không hề phải chống nạng. “Em thực sự mừng vì thấy anh vẫn ổn, Alec ạ,” cô nói, đặt mọi phân lượng của sự thành tâm trong giọng nói.
Alec chớp mắt. “Cám ơn.”
“Vậy là Magnus chữa trị cho anh sao?” Clary hỏi. “Chú Luke nói…”
“Đúng đó!” Isabelle reo lên. “Quá là tuyệt luôn. Ông ta xuất hiện và bắt mọi người ra khỏi phòng rồi đóng cửa lại. Những tia lửa màu xanh màu đỏ cứ bay ra ngoài hành lang qua kẽ cửa.”
“Anh chẳng nhớ gì hết,” Alec nói.
“Sau đó ông ta ngồi bên giường Alec cả đêm và tới sáng để xem anh mình có tỉnh dậy không,” Isabelle nói thêm.
“Anh cũng chẳng nhớ chuyện đó,” Alec vội nói vào.
Đôi môi đỏ của Isabelle cong lên thành một nụ cười. “Mình tự hỏi sao Magnus biết mà tới? Mình có hỏi, nhưng ông ta không nói.”
Clary nghĩ tờ giấy gấp gọn mà bác Hodge đã ném vào lò lửa sau khi Valentine bỏ đi. Cô nghĩ, bác là một người lạ lùng, đã dùng thời gian để làm mọi cách cứu Alec trong khi lại phản bội mọi người – và mọi thứ – bác từng quan tâm tới. “Mình không biết nữa,” cô nói.
Isabelle nhún vai. “Mình đoán là ông ta nghe tin từ đâu đó. Ông này có vẻ có một mạng lưới tin vịt lớn đó. Thiệt đúng là đồ đàn bà.”
“Ông ta là Đại Pháp Sư Brooklyn mà, Isabelle,” Alec nhắc nhở, nhưng không phải là không buồn cười. Anh ta quay sang Clary. “Jace đang ở trên nhà kính nếu em muốn gặp,” anh nói. “Anh sẽ đi cùng em.”
“Thật ạ?”
“Ừ.” Alec trông chỉ hơi không thoải mái. “Sao lại không chứ?”
Clary liếc nhìn Isabelle, người cũng nhún vai. Dù Alec định làm gì, anh cũng không nói cho cô em gái biết. “Đi đi,” Isabelle nói. “Dù gì thì mình cũng có việc phải làm.” Cô nàng vẫy tay với họ. “Đi đi.”
Họ cùng nhau bước trên hành lang. Alec đi nhanh, kể cả khi chống nạng. Clary phải rảo bước mới theo kịp. “Chân em ngắn lắm đấy,” cô nhắc anh nhớ.
“Xin lỗi.” Anh đi chậm lại, có vẻ hối lỗi. “Nghe này,” anh bắt đầu. “Những điều em nói với anh khi anh hét với em về Jace…”
“Em nhớ,” cô lí nhí nói.
“Khi em nói với anh rằng em, em biết đấy, rằng anh chỉ là – đó là vì…” Hình như anh ta đang gặp vấn đề trong việc ráp câu hoàn chỉnh. Anh cố nói lại. “Khi em nói anh là…”
“Alec, đừng.”
“Ừ. Thôi vậy.” Anh mím môi lại. “Em không muốn nói về chuyện đó.”
“Không phải thế. Chỉ là em thấy tệ vì những điều em nói. Thật tệ hại. Không hề đúng chút nào…”
“Nhưng mà đúng đó,” Alec nói. “Mọi từ.”
“Như thế cũng không được,” cô nói. “Không phải sự thật nào cũng nên được nói ra. Như vậy thì phũ phàng quá. Và khi em nói Jace đã bảo với em rằng anh chưa từng giết một con quỷ, anh ấy nói lý do là vì anh luôn bảo vệ anh ấy và Isabelle. Đó là một điều tốt anh ấy nói về anh. Jace có thể là một tay đểu đấy, nhưng anh ấy…” Yêu anh, cô muốn nói vậy, nhưng ngừng lại. “Chưa bao giờ nói một điều xấu nào về anh với em cả. Em thề.”
“Em không cần phải thế,” anh nói. “Anh cũng thừa biết.” Anh có vẻ bình tĩnh, thậm chí là tự tin theo cách cô chưa từng nghe thấy ở anh. Cô nhìn anh, ngạc nhiên. “Anh cũng biết anh không hề giết Abbadon. Nhưng anh rất cảm kích vì em đã nói với anh điều đó.”
Cô cười rung người. “Anh đánh giá cao em vì em đã nói dối anh?”
“Em làm vì lòng tốt,” anh nói. “Điều đó có ý nghĩa rất nhiều, rằng em tốt với anh, thậm chí sau những việc anh đã đối xử với em.”
“Em nghĩ Jace sẽ rất giận em vì nói dối nếu như lúc đó anh ấy không đang lo quắn lên,” Clary nói. “Nhưng mà sẽ không giận bằng nếu biết điều em đã nói với anh lúc trước.”
“Anh có ý này,” Alec nói, khóe môi hơi nhếch lên. “Chúng ta đừng nói gì với Jace đi. Ý anh là, có thể Jace có thể chặt đầu quỷ Du’sien từ khoảng cách mười lăm mét chỉ bằng một cái mở chai và dây cao su đấy, nhưng đôi lúc anh nghĩ cậu ta không hiểu nhiều về con người đâu.”
“Em cũng nghĩ vậy.” Clary nói.
Họ tới chân cầu thang xoắn ốc dẫn lên mái nhà. “Anh không thể đi lên.” Alec gõ cái nạng vào bậc thang bằng kim loại. Nó phát ra những âm thanh khe khẽ.
“Cũng được. Em tự lên được.”
Anh định quay đi, sau đó quay lại nhìn. “Anh phải đoán ra em là em gái Jace chứ nhỉ,” anh nói. “Cả hai cùng có một tài năng hội họa.”
Clary ngưng lại, chân đang đặt lên bậc thang thấp nhất. Cô giật mình. “Jace biết vẽ à?”
“Không hề.” Khi Alec cười, đôi mắt anh sáng lên ngọn đèn xanh, và Clary hiểu vì sao Magnus lại bị anh thu hút đến vậy. “Anh đùa đấy. Cậu ta còn chẳng vẽ nỗi một đường kẻ nữa là.” Cười khúc khích, anh ta bỏ đi trên cây nạng. Clary ngơ ngác nhìn anh ta đi. Một Alec biết trêu đùa tếu táo về Jace là điều cô có thể quen được, dù khiếu đùa của anh ta có chút vấn đề.
Nhà kính vẫn hệt như cô hằng nhớ, dù bầu trời trên mái nhà bằng kính đã chuyển màu xanh lục bảo. Mùi hương hoa trong lành, thơm thoang thoảng làm thanh tỉnh đầu óc cô. Hít một hơi thật sâu, cô đi qua những chiếc lá và nhánh cây đan xin xít.
Cô thấy Jace đang ngồi trên chiếc ghế băng bằng đá cẩm thạch ở giữa nhà kính. Anh cúi đầu, hờ hững xoay vật gì đó trong tay. Anh ngước lên khi cô chui qua một cành cây và vội nắm tay quanh vật đó. “Clary.” Anh có vẻ bất ngờ. “Em làm gì ở đây vậy?”
“Tới thăm anh,” cô nói. “Em muốn biết anh thế nào rồi?”
“Anh ổn.” Anh đang mặc quần bò và áo phông trắng. Cô có thể thấy những vết thâm đang mờ dần, giống như những đốm tối màu trên ruột táo trắng. Tất nhiên, cô nghĩ, những vết thương thật sự nằm bên trong, được che giấu khỏi mắt bao người, trừ của chính anh.
“Cái gì đó?” cô hỏi, chỉ vào bàn tay đang nắm lại của anh.
Anh mở tay. Một mảnh kính vỡ nằm trong lòng bàn tay anh, rìa lấp lánh ánh xanh da trời và xanh lá cây. “Một mảnh kính Cổng Dịch Chuyển.”
Cô ngồi xuống cạnh anh. “Anh có thấy gì trong đó không?”
Anh hơi nghiêng, cho ánh sáng chạy trên đó như trên nước. “Một mảnh trời. Cây, một con đường mòn… anh cứ xoay nó, cố nhìn thấy ngôi nhà đá. Nhìn thấy bố anh.”
“Valentine,” cô sửa lại. “Vì sao anh muốn thấy ông ta?”
“Anh nghĩ có thể anh sẽ thấy ông ta làm gì với Cốc Thánh,” anh ngần ngừ đáp. “Thấy nó ở đâu.”
“Jace, đó không phải là trách nhiệm của chúng ta nữa. Không phải vấn đề của chúng ta. Giờ khi hội Clave cuối cùng cũng biết chuyện gì xảy ra, nhà Lightwood đang vội vã trở về. Hãy để họ giải quyết.”
Lúc này anh mới thực sự nhìn cô. Cô tự hỏi rằng sao họ có thể là anh em trong khi họ chẳng giống nhau chút nào. Ít nhất, sao cô không có những hàng lông mi đen cong hay xương gò má góc cạnh kia chứ nhỉ? Chẳng công bằng chút nào. Anh nói. “Khi anh nhìn qua Cổng Dịch Chuyển và thấy Idris, anh biết chính xác Valentine định làm gì, rằng hắn muốn biết anh có thực sự bị ngã quỵ không. Mà có quan trọng đâu – anh vẫn muốn về nhà hơn anh hằng tưởng.”
Cô lắc đầu. “Em không hiểu Idris có gì hay. Nó chỉ là một nơi thôi mà. Cái cách anh và bác Hodge nói về nó…” Cô ngừng lại.
Anh lại nắm lấy cái mảnh gương kia. “Ở đó anh thấy hạnh phúc. Chỉ có một nơi anh có được sự hạnh phúc như thế.”
Clary giật một cuống lá ở bụi cây gần đó và bắt đầu dứt lá. “Anh thấy tiếc cho bác Hodge. Vì thế anh không kể cho Alec và Isabelle chuyện thực sự xảy ra.”
Anh nhún vai.
“Rồi họ cũng sẽ biết thôi.”
“Anh biết. Nhưng anh sẽ không phải người nói ra.”
“Jace…” Mặt hồ xanh rì với những chiếc lá rơi xuống. “Sao anh có thể hạnh phúc ở đó? Em biết anh nghĩ gì, nhưng Valentine là một ông bố tồi. Ông ấy giết chết thú cưng của anh, nói dối anh, và em biết ông ta còn đánh anh – đừng giả bộ ông ta không làm đi.”
Một nụ cười ma mị hiện trên gương mặt Jace. “Chỉ hai ngày Thứ năm một lần.”
“Vậy sao anh…”
“Đó là thời gian duy nhất anh cảm nhận được mình là ai. Là nơi anh thuộc về. Nghe có vẻ ngu ngốc nhưng…” Anh nhún vai. “Anh giết quỷ vì đó là việc anh giỏi và anh được dạy để làm, nhưng không phải con người anh. Và một phần anh giỏi việc đó chỉ vì sau khi anh nghĩ bố anh chết, anh đã – tự do. Không chịu hậu quả. Không ai để thương khóc. Chẳng ai quan trọng với anh mà chỉ là một người đi qua đời anh.” Khuôn mặt anh có vẻ như được tạc từ vật cứng. “Anh không còn nhiều cảm xúc như xưa nữa.”
Giờ nhánh cây kia đã trụi lùi lá; Clary vứt nó sang bên. “Vì sao không?”
“Vì em.” Anh nói. “Nếu không vì em, anh đã đi theo ông ta qua Cổng Dịch Chuyển. Nếu không vì em, anh đã đuổi theo ông ấy ngay bây giờ.”
Clary nhìn xuống cái hồ đầy những lá. Cổ họng cô nghẹn đắng. “Em tưởng em làm anh thấy bất an.”
“Đã quá lâu,” anh nói, “anh cứ nghĩ anh bất an vì có cảm giác anh chẳng thuộc về đâu. Nhưng em làm anh có cảm giác anh thuộc về.”
“Em muốn anh đi tới một nơi cùng em,” cô ngắt lời.
Anh liếc nhìn cô. Có gì đó trong cái cách mái tóc vàng nhạt rơi xuống mắt anh làm cô thấy buồn không chịu nổi. “Tới đâu?”
“Em mong anh tới bệnh viện cùng em.”
“Anh biết mà.” Đôi mắt anh nheo lại tới khi trông như viền đồng xu. “Clary, người phụ nữ đó…”
“Cũng là mẹ anh, Jace à.”
“Anh biết,” anh nói. “Nhưng anh với bà ta chỉ là một người xa lạ. Anh chỉ có một người bố và giờ ông ta đã đi mất. Còn tệ hơn cả chết.”
“Em biết. Và em biết dù có nói với anh mẹ tuyệt thế nào, rằng mẹ anh là một người phụ nữ tuyệt vời, xinh đẹp và cao quý thế nào và anh may mắn thé nào khi biết mẹ cũng chẳng ăn thua gì. Em không yêu cầu điều này vì anh, mà là vì em. Em nghĩ nếu mẹ nghe thấy giọng anh…”
“Thì sao?”
“Biết đâu mẹ sẽ tỉnh dậy.” Cô kiên định nhìn anh.
Anh nhìn thẳng vào mắt cô, rồi mỉm cười – một nụ cười chua xót và có chút méo mó, nhưng là một nụ cười thực sự. “Được. Anh sẽ đi cùng em.” Anh đứng dậy. “Em không cần phải nói với anh những điều hay ho về mẹ em,” anh nói thêm. “Anh đã biết rồi.”
“Thật sao?”
Anh hơi nhún vai. “Mẹ đã nuôi dạy em đúng không?” anh nhìn lên mái nhà kính. “Mặt trời sắp lặn rồi.”
Clary đứng dậy. “Chúng ta nên tới bệnh viện. Em sẽ trả tiền xe,” cô nói thêm, sau một thoáng suy nghĩ. “Chú Luke cho em ít tiền.”
“Không cần thiết đâu.” Nụ cười của Jace rộng hơn. “Đi nào. Anh có cái này cho em xem.”
“Nhưng mà anh lấy nó ở đâu đấy?” Clary hỏi, nhìn vào chiếc mô tô đậu trên nóc nhà thờ. Xe màu xanh lá cây độc địa sáng loáng, với bánh xe viền bạc và những ngọn lửa rừng rực sơn trên yên xe.
“Magnus đang phàn nàn rằng có người bỏ nó ngoài nhà lần trước khi ông ta mở tiệc,” Jace nói. “Anh thuyết phục ông ta đưa nó cho anh.”
“Và anh bay tới đây?” Cô vẫn nhìn anh chằm chặp.
“Ờ hớ. Anh càng lúc bay càng lụa.” Anh vắt một chân qua yên xe, và vẫy tay cho cô ngồi sau anh. “Nào. Anh sẽ cho em xem.”
“À, ít nhất là lần này anh biết nó bay được,” cô nói và ngồi ra sau. “Nếu chúng ta đâm xuống khu đậu xe của một nhà hàng Key Food, em sẽ giết anh đấy, anh rõ chửa?”
“Đừng lố bịch thế chứ,” Jace nói. “Làm gì có khu đậu xe nào ở khu Upper East. Sao phải lái xe đi mua đồ tạp hóa khi có người giao tới tận nhà cho em chứ?” Chiếc mô tô bắt đầu gầm rú, át đi tiếng cười của anh. Clary ré lên, nắm chặt lấy thắt lưng Jace khi chiếc xe phóng xuống mái nhà dốc xuôi nghiêng của Học Viện và lao vào khoảng không.
Gió thổi tung tóc cô khi họ bay lên, cao trên nhà thờ, vượt qua những nóc những tòa nhà cao ốc và chung cư gần đó. Và thành phố trải rộng trước mắt cô như một chiếc hộp đá quý được cẩu thả mở tung, đông đúc và đẹp hơn cô dám tưởng: đây là quảng trường xanh như màu ngọc bích của Công Viên Trung Tâm, nơi quần thần nhà tiên họp vào những đêm hè; đây là ánh sáng từ những quán bar và câu lạc bộ dưới phố, là nơi những ma cà rồng nhảy nhót suốt đêm tại Xứ Quỷ; đây là những con hẻm ở phố Trung Hoa nơi người sói lẩn lút đi lại trong đêm, bộ lông phản chiếu ánh đèn thành phố. Đây là những pháp sư đang bước đi với đôi cánh dơi, đôi mắt mèo kiêu hãnh và ở kia, khi họ bay qua sông, cô thấy những cái đuôi màu sắc thoáng lướt qua dưới mặt nước màu bạc, sắc lóng lánh của mái tóc dài đính ngọc trai và nghe thấy những tiếng cười cao vót, róc rách của những nàng tiên cá.
Jace ngoái lại nhìn cô, gió thổi tung mái tóc anh. “Em đang nghĩ gì thế?” anh hỏi lớn.
“Chỉ là sao mọi thứ dưới kia lại khác tới vậy khi lúc này đây, anh biết đấy, lúc này đây sau khi em có thể nhìn thấu.”
“Mọi thứ dưới kia vẫn y như thế,” anh nói, quặt về phía dòng sông Đông. Họ lại đang hướng tới cầu Brooklyn. “Em mới là người đổi khác.”
Tay cô vô thức nắm chặt lấy thắt lưng anh khi họ lao xuống càng lúc càng gần dòng sông. “Jace!”
“Đừng lo.”Anh nghe có vẻ vui phát điên. “Anh biết anh đang làm gì mà. Anh không làm bọn mình chết đuối đâu.”
Cô nheo mắt tránh cơn gió vùn vụt thổi tới. “Anh đang kiểm nghiệm lời Alec nói về chuyện vài chiếc xe có thể lặn dưới nước đấy à?”
“Không.” Anh cẩn trọng giữ thăng bằng xe khi họ bay vụt lên khỏi mặt nước. “Anh nghĩ đó là một câu chuyện.”
“Nhưng Jace,” cô nói. “Mọi câu chuyện đều là thật.”
Cô không nghe thấy tiếng anh cười, nhưng cô cảm nhận được, sự rung động qua mạng sườn anh chuyển sang đầu ngón tay cô. Cô ôm chặt hơn khi anh vút xe lên, kéo ga cho xe phóng lao về phía bên kia cầu như một chú chim xổ lồng. Dạ dày cô rơi ra khi dòng sông bạc xoáy xa dần và những mẩu cầu trượt dưới chân cô, nhưng lần này Clary mở mắt, để có thể nhìn thấy tất cả.
HẾT
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!