Bên Cạnh Thiên Đường - Chương 27
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
106


Bên Cạnh Thiên Đường


Chương 27


Vào bất cứ lúc nào, cuộc đời cũng chỉ có một trọng điểm.

Chiềuhôm sau thì chúng tôi tới được Phượng Hoàng cổ trấn ở Tương Tây.

Kiếmmột khách sạn rẻ tiền trú tạm. Hai người kia đã mệt phờ, vừa vào phòng đã lănra ngủ say như chết. Còn tôi thì lang thang ra ngoài kiếm Lông Mi.

Bờsông vắng vẻ đìu hiu. Thuyền nan xếp thành một hàng dài, nước sông cuồn cuộn chả.Trên bờ chỉ có vài người địa phương ăn mặc kiểu người Miêu. Mùa đông lạnh lẽonày du khách rất ít khi tới đây, khung cảnh cũng trở nên tiêu điều xơ xác. Tôiđi dọc theo con phố nhỏ lát đá xanh kéo dài xuyên xuốt thị trấn, đi từ đầu tớicuối, rồi lại vòng trở lại mấy lượt, không thấy Lông Mi đâu, bèn quyết định thửhỏi thăm trong các khách sạn, đã hỏi một lượt hết cả các khách sạn gần đó màcũng chẳng có thu hoạch gì.

Bướctrên chiếc cầu nhỏ qua sông, tìm hết một lượt các khách sạn bên bờ đối diện. Trừmột căn phòng có con gái đang tắm là chưa tìm, vẫn chẳng thấy Lông Mi đâu. Bènđứng đợi trước căn phòng kia, chờ cô gái ra ngoài, không phải Lông Mi.

Độtnhiên tôi ý thức được rằng mình đang phải đối diện với một cuộc tìm kiếm trêndiện tích rộng tới 960 vạn km2, một cuộc tìm kiếm tuyệt đối không dễ hơn cuộc“Giải cứu binh nhì Ryan” trên phim chút nào, trong lòng không khỏi cảm thấy hơichán nản.

Quaytrở về khách sạn, tôi nằm vật ra giường, đầu óc trống rỗng.

Haingười kia giờ mới bò dậy, gọi tôi đi ăn cơm, tôi mặc kệ. Họ hẩy hẩy mấy lần,tôi vẫn mặc kệ. Cả hai lấy làm ngạc nhiên, đành ngồi đó hút thuốc chờ tôi dậy.Tôi thấy thế đâm ngại, đành ngồi dậy. Họ đâu phải cùng tôi đi tìm Lông Mi, tôikhông thể để tâm trạng tồi tệ của mình ảnh hưởng đến người ta được.

Thịtrấn Phụng Hoàng về đêm rất đẹp. Các con phố đều được lát đá xanh. Trên phố hầunhư đều là những ngôi nhà mái cong mang dáng dấp cổ xưa, mỗi góc mái đều treo mộtchùm đèn lồng đỏ, tỏa ra những luồng dáng dịu mắt rải khắp thị trấn. Tuy đã vềkhuya, nhưng vẫn còn rất nhiều cửa hàng mở cửa kinh doanh, bán đồ ăn, bán đồlưu niệm, bán quần áo, còn có rất nhiều quán trà và quán rượu nhỏ nữa. Tuy nhiềunhưng không hỗn tạp, không làm mất đi vẻ yên binh của , thậm chí còn điểm xuyếtcho văn hóa nơi đây thêm phần đặc sắc. Mùa đông du khách đến đây rất ít, chỉ cóvài ba người đi ba lô tụ tập thành từng nhóm đi qua.

Ăncơm xong, hai người kia kéo tôi đến quán rượu. Không muốn đi, nhưng không từ chốiđược, đành để mặc cho họ muốn làm gì thì làm.

Quánrượu ở đây cũng rất đặc biệt. Kết cấu hầu như chỉ cố gỗ thô, bốn phía treo đầynhững đồ vật đậm chất dân tộc. Khách chỉ lưa thưa vài ba người. Bên cửa sổ cóhai cô gái, ăn mặc như khách du lịch bụi, nhìn mặt mũi cũng xinh xắn dễ thương,tay cầm tạp chí du lịch, cúi đầu lẩm nhẩm đọc. Bảo là đẹp thì cũng không phải đẹplắm, nhưng không khí đặc biệt của nơi này khiến cho hai cô cũng trở nên rất có“chất”.

TâyMôn cứ liếc mắt nhìn tôi với Luật Sư, hình như đang khó xử không biết “chia” thếnào? Tôi đẩy hai người họ lên trước, rồi một mình ra ngồi cạnh cửa sổ, gọi mộttách trà xanh của địa phương sản xuất, lòng trĩu nặng ngắm nhìn dòngĐà Giang cuộn chảy, âm thầm nhớ về Lông Mi. Thi thoảng quay đầu lại, TâyMôn và Luật Sư hình như đang trò chuyện rất vui vẻ với hai cô gái mới quen thìphải.

Ngồimãi cũng chán, tôi bèn đứng dậy đi vòng vòng chung quanh.

Trêntường có rất nhiều lưu bút để lại: những câu dí dỏm, những lời từ trái tim, nhữnglời tỏ tình, có cả những hàng chữ nguệc ngoạc viết lung tung nữa.

Tôinghĩ một chút, rồi nắn nót viết lên lên trên đó: “Rất nhiều người trong đời chỉcó 0,1% thời gian là thật sự yêu một người nào đó 100%. Tất cả mọi người đềukhông thể chỉ yêu một người nào đó trong 100% thời gian của đờimình.”

Quyếtđịnh đến đâu cũng sẽ để lại lưu bút, để Lông Mi biết rằng tôi đang đi tìm em.

Chợtnhận ra bên cạnh có một cô gái đang đứng nhìn mình.

Quayđầu lại, cảm thấy hơi quen mặt. Nhìn kỹ hơn, liền nhận ra đó là cô gái tôi gặplúc đi tìm Lông Mi ban chiều. Cả hai nhìn nhau cười cười. Cô gái khoanh tay,nhìn hàng chữ tôi vừa để lại, nghĩ gì đó rồi nói:

-Nếu là tôi, thì chỉ cần 0,1% đó đã à quá đủ.

Tôinghe mà chợt thấy toàn thân run rẩy.

Trởvề chỗ ngồi, cô gái cũng đi theo, ngồi xuống bên cạnh.

Haitay cô cầm một chén trà lớn, áp má vào thành chén, hình như đang làm ấm lại gòmá lạnh băng, nghiêng nghiêng đầu ra nhìn dòng Đà Giang bên ngoài, trầmngâm không nói gì. Bên cạnh tay cô đặt một quyển sách. Tôi cũng không có tâm trạngđể ý đến ai, trong lòng chỉ nghĩ đến một mình Lông Mi.

Haingười cứ thế chìm trong im lặng. Lâu. Thật lâu.

Mộtbầu không khí kỳ dị dần dần hình thành, cô đặc lại.

Haicon người lặng lẽ, mang trong lòng những tâm sự khác nhau, giữ một khoảng cáchvừa xa lạ lại vừa thân quen.

Đầulưỡi tôi chợt có cảm giác ngòn ngọt, có lẽ cô gái kia cũng vậy.

Dườngnhư cả hai đều cùng cảm nhận được sự thay đổi rất nhỏ nhưng cũng rất tinh tế củabầu không khí xung quanh, đều thấy hơi lúng túng.

-Mới tới Phượng Hoàng à?

Tôibèn lên tiếng phá vỡ bầu không khí trầm mặc.

-Không. Ở cũng lâu rồi, đến đây luyện đàn.

Giọngnói của cô gái điềm đạm, nhưng có gì đó mệt mỏi và chán chường.

– Luyện đàn? Ghi ta hay Piano? hay là Violon?

– Cho hỏi Violon là cái gì thế?

Cô gái này nói chuyện có vẻ rất chú trọng đến lễ tiết.

– Là vĩ cầm ấy. Trong sách của Trương Ái Linh, thời đóngười ta gọi vĩ cầm là violon

Tôi lại không cẩn thận giở mấy trò cưa gái hồi xưa haydùng ra, trong lòng chợt thấy mình thật đáng tởm.

– Ồ, tôi thích cái tên này, hay hơn vĩ cầm nhiều.

Cô gái cười cười.

Cô đặt chén trà xuống, tay chống cằm, nhìn tôi chăm chú,điệu bộ rất hứng thú. Tôi không khỏi hơi hối hận, không biết nên sử xự thế nào.Thật tình là lúc này tôi không muốn chạm đến ai, mà cũng không muốn bị ai chạmđến mình.

– Đang tập nhạc của ai thế?

Tôi cầm chén trà lên, hỏi vu vơ.

– Ai cũng tập, nhưng chỉ lõm ba lõm bõm. Anh thích nghenhạc của ai nhất? Paganini?

Cô gái đốt một điếu thuốc, hờ hững kẹp giữa hai ngón tay,tư thế rất đẹp, nét mặt có vẻ rất u uất. Lúc nhắc đến Pagani­ni, điệu bộ của côcó gì đó rất mệt mỏi chán chường. Có lẽ tại hiện nay người ta cứ cho âm nhạc củaPaganini là tiêu chuẩn để thưởng thức âm nhạc, rất nhiều người chẳng bao giờnghe violon, nhưng chỉ cần nhắc đến Pagani ni là ít nhất cũng có thể vênh mặtlên là ta đây hiểu biết âm nhạc rồi.

– Cũng tàm tạm. Nói về người thì tôi thích Mozart vớiJascha Heifetz, còn về tác phẩm thì thích “Bài ca kẻ lang thang” của PablodeSarasate, từ trước đến giờ cũng luôn cho rằng đàn vi olon vì có những con ngườiấy, những tác phẩm ấy mà trở nên vĩ đại hơn.

Cô gái nghe rất chăm chú và hứng khởi.

Tôi lại cảm thấy mình hơi tự khoa trương, không muốn nóithêm nữa, bèn ngậm miệng lại.

Cả hai lại chìm vào trong im lặng.

Tây Môn đi tới, nói muốn đi dọc bờ sông, rủ chúng tôi đicùng. Tôi vốn định từ chối, chẳng ngờ cô gái đã đứng lên trước, gật đầu lịch sựnhận lời. Tôi ngây ra mất một lúc, rồi đành đứng dậy theo.

Sáu người ra khỏi quán rượu, đi bộ dọc theo bờ sông.

Đêm đã về khuya. Chỉ còn lại những chùm đèn lồng đỏ treotrên mái nhà như đang nhắc nhở màn đêm đừng tưởng rằng có thể nuốt hết được mọiánh sáng của nơi này. Đèn lồng chiếu ra những tia sáng mờ mờ mông lung, nhìn xaxa trông như quầng sáng huyền ảo. Dòng Đà Giang lững lờ trôi. Đêm đôngtĩnh lặng lạ thường, có thể nghe thấy cả tiếng nước chảy ì oạp. Vầng trăng lànhlạnh treo ở góc trời, thỉnh thoảng lại có một đám mây trôi qua, cùng với một trậngió lành lạnh nhưng không buốt da buốt thịt.

Gió lạnh thổi qua, Tây Môn và Luật Sư đều ôm lấy cô gáiđi bên cạnh.

Cô gái kia đứng một mình run rẩy, lịch sự dùng ánh mắt nhắcnhở tôi. Tôi giật mình, đành vòng tay ôm lấy cô. Cô gái hình như đã được giáo dụcrất chính quy theo kiểu Thiên Chúa Giáo, nói năng cử chỉ đều có một chút gì đórất u nhã, rất thần bí, thậm chí là đến độ hơi cứng nhắc.

Cô mặc một chiếc áo len đen tuyền mềm mại, eo chiết theokiểu Pháp, làm chiếc eo thon và bộ ngực đầy đặc càng lộ rõ. Cổ áo khoác dựng đứng,thấp thoáng bên trong là chiếc áo lót trắng thêu hoa mờ mờ. Cô gái này hình nhưcũng có thói quen giống Lông Mi, mùa đông chỉ thích mặc một chiếc áo len bênngoài nội y. Phát hiện này lại làm tôi cảm thấy thêm khó chịu và nhớ em.

Tây Môn đi tới nói bọn họ có việc, rồi nháy mắt đầy ẩn ý,sau đó bốn người kéo nhau đi về phía khách sạn.

Chỉ còn lại tôi và cô gái kia thần người đứng bên bờsông, không biết nên làm gì, không biết nên nói gì, tình cảnh rất khó xử.

Cô gái chợt lên tiếng hỏi tôi có muốn thả đèn ước nguyệnkhông? Tôi gật đầu đồng ý.

Cô bèn về khách sạn lấy ra mười mấy cái, rồi kéo tôi ra đầucầu bên bờ sông. Cô quỳ xuống, cẩn thận vén áo lên, rồi cắm nến cho từng câyđèn ước nguyện một. Tôi cũng ngồi xuống bên cạnh giúp một tay. Một chốc sau thìđã làm xong. Cô hỏi tôi muốn ước mấy điều? Tôi mỉm cười giơ một ngón tay lên.Cô gái cũng cười cười, đưa một ngọn đèn cho tôi, còn đâu để hết cho mình.

Tôi lấy bật lửa đốt nến lên, rồi đưa cho cô. Đèn ước nguyệnthực ra là một con thuyền giấy nhỏ màu đỏ, bên trên cắm một ngọn nến. Cô gái cầmđèn, nhẹ nhàng thả xuống mặt nước, con thuyền lập tức thuận dòng trôi đi. Tôi lạiđốt thêm một ngọn đèn nữa, đưa cho cô thả. Cứ vậy lặp đi lặp lại. Một lát sauthì cả mười mấy con thuyền đã trôi bồng bềnh trên mặt nước, tiền hô hậu ủng nhưmột hạm đội. Những ngọn nến bập bùng bập bùng chiếu sáng vùng nước xung quanh,nhìn từ xa trông đẹp vô cùng, một vẻ đẹp có gì đó rất không chân thực.

Cô gái chắp hai tay lại, mắt nhắm hờ, lẩm nhẩm cầu nguyện,rồi từ từ mở mắt, nhìn tôi cười cười, ra hiệu cho tôi cũng thả ngọn đèn củamình xuống. Tôi đặt con thuyền nhỏ lên tay, bắt trước cô gái nhắm mắt lại, ướcmột điều ước về Lông Mi. Con thuyền nhỏ này trông khá chắc chắn, đường nét mềmmại nhưng cũng rất mạnh mẽ, hi vọng nó đủ lực khí để đưa ước nguyện của tôitheo dòng nước trôi tới nơi tận cùng.

Tôi thắp nến, chăm chú nhìn ở cự ly gần. Ngọn lửa rất yếuớt, nhưng không hề tự ty, mà đang cháy hết sức mình, ngoan cường chống chọi lạivới gió lạnh. Một lúc sau, tôi mới chầm chậm thả con thuyền xuống mặt nước. Conthuyền nhè nhẹ trôi đi, giữ một khoảng cách cố định với mười mấy con thuyềnphía trước, không gấp gáp đuổi theo mà cũng không cam tâm bị bỏ lại phía sau, vừaxoay tròn vừa tiến lên phía trước, tựa như vũ công trong phim Vũ Khúc Tây TâyLý mặc váy xòe xoay tròn trong điệu múa vậy.

Con thuyền mỗi lúc một xa dần, từ từ mơ hồ, cuối cùng biếnthành một quầng sáng mờ mờ mông lung. Quầng sáng trong nháy mắt đã biến mất,nhường chỗ cho bóng đêm. Nó biến mất quá bất ngờ, phảng phất như đột nhiên nhắmmắt lại, tất cả ánh sáng đều bị mí mắt chặn hết vậy. Tôi đứng dậy dõi mắt nhìnra, hi vọng tìm được bóng dáng con thuyền nhỏ. Nhưng chỉ uổng công. Không nén nổicảm giác chán nản dâng lên.

– Phía trước có một con đập nhỏ, tất cả thuyền giấy trôiđến đó đều phải rơi xuống hồ cả. Cũng giống như tất cả mọi người đến cuối cùngđều phải mất đi thiên đường của mình vậy.

Cô gái dựa người vào vai tôi, cười khổ nói, ngữ khí dườngnhư đang cười trên sự đau khổ của người hkác.

Tôi không lên tiếng, chỉ ngẩng đầu nhìn trời. Bầu trờiđêm mênh mang, không trăng, bầu trời và dòng sông như có một hiệp định ngầm đểtái hiện lại thời kỳ hỗn độn xa xưa.

– Thường có cảm giác mình giống như một con thuyền giấynhỏ, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi ra bên lề cuộc đời.

Cô gái bi quan nói.

– Sống dù sao cũng tốt hơn là chết. Ít nhất là còn có hivọng.

Tôi chỉ biết khuyên như thế.

– Sau một hi vọng lại là một hi vọng khác. Đời người là mộtcái vòng luẩn quẩn. Xét về mặt tinh thần, thực ra chúng ta đều là những cái xácsống mà thôi. Linh hồn đã chết. Còn nhục thể thì chỉ là vấn đề của thời gian,nhục thể của chúng ta đang từ từ thối rữa với một tốc độ và mức độ mà chínhchúng ta cũng không thể ý thức được.

Cô gái thở dài một tiếng, rồi ngước lên nhìn trời đêm vớiánh mắt tuyệt vọng.

Tôi thừ người ra.

Đột nhiên nhớ lại lần ở Tây Đường, ba người ngồi trước cửanhà người chết, Bất Bất cũng từng nói một câu tương tự như vậy, thậm chí tôicòn nhớ rõ cả tiếng cười của Bất Bất.

Bất Bất rời bỏ tôi, sau đó là Lông Mi.

Cuộc đời hình như lúc nào cũng muốn đối địch với tôi vậy.

F #$%!

Tôi đưa cô gái mới quen về khách sạn.

Mộtngôi nhà to, tối om.

Côgái dắt tay tôi, đi xuyên qua sân, qua đại sảnh không một bóng người, lên lầuhai, mở cửa vào phòng, bật ngọn đèn bàn lên, ngồi xuống. Khung cảnh cũng được,trước mặt là Đà Giang, nhà cửa san sát bên bờ sông, tường thành cổ. Gianphòng không lớn lắm, đơn giản nhưng sạch sẽ. Trên giường để một cây violon màuđỏ. Tôi tiện tay cầm lên, nghịch nghịch mấy sợi dây đàn.

Côgái cười cười, ngồi xuống bên cạnh, cầm đàn kẹp dưới cằm, nghĩ một chút rồi nhắmmắt kéo một khúc nhạc. Tiếng nhạc trầm trầm, gam nửa cung cực kỳ không cân đốiđưa qua đưa lại, khiến người nghe cực kỳ khó chịu. Cô gái dường như bị âm nhạclàm ảnh hưởng, chìm sâu vào trong tiếng nhạc, nét mặt đau khổ, đến lúc caotrào, nước mắt còn trào ra, khóe mắt rưng rưng.

-Bài gì vậy?

Tôiphá vỡ bầu không khí trầm mặc.

-Gloomy Sunday.

Tôibỗng nhiên hiểu ra.

Mộtkhúc nhạc kỳ lạ của người Pháp. Tác giả đem nỗi đau khổ không thể giải thoát,và nỗi thương cảm ngọt ngào của mình hòa quyện vào tiếng đàn tuyệt vọng, phíasau những âm thanh tuyệt diệu ấy là lời phán đoán tàn khốc về ý nghĩa của sự tồntại, làm người nghe chợt sinh ra xung động muốn tự sát. Người tình của tác giảcũng chính là nạn nhân đầu tiên của khúc nhạc này. Về sau, chính tác giả cũng đểlại di ngôn: “Tự do thì đừng do dự”, sau đó nhảy lầu tự sát.

-Tự do thì đừng do dự.

Tôikhe khẽ nhắc lại.

-Tự do rồi chết.

Côgái tiếp lời.

-Đó chỉ là liên hệ mù quang thôi, đừng để mình chìm đắm vào trong ấy.

Tôikhuyên giải.

-Tôi đã chìm rồi, không thể thoát ra khỏi đó nữa rồi. Cuộc đời chẳng còn ý nghĩagì hết, chỉ có cái chết là nơi cuối cùng cho tôi ẩn náu mà thôi.

Côgái lẩm bẩm, liếm liềm nước mắt chảy xuống khóe miệng, nét mặt rất tuyệt vọng.

Côbuông đàn xuống, lại gần tôi chăm chú quan sát, rồi đưa ngón tay lên vuốt nhẹquanh môi tôi, vạ một đường tròn, rồi nhấc ngón tay lên, chấm vào nước mắtmình, chầm chậm nhét vào miệng tôi, nhè nhẹ chạm vào đầu lưỡi, rồi lại rút về,cho vào miệng mút mút, hình như đang nếm thử mùi của tôi thế nào. Kế đó lại gậtgật đầu, nheo mắt nhìn tôi cười cười, ra vẻ thích thú.

-Sống lâu quá cũng chẳng ý nghĩa gì, thà dùng 0,1% cuộc đời để yêu ai đó 100%còn hơn., nếu không thì thật là lãng phí.

Côgái yếu ớt nói khe khẽ.

Tôinhư bừng tỉnh khỏi một giấc mộng dài, vội vàng kiếm một lý do để rời khỏi đó.

Mộtmình đi trên cây cầu nhỏ bắc qua Đà Giang.

Hết sức mệt mỏi. Thậm chí còn có chút suy sụp: đã một lòng vượt đường xa gian khó đi tìm Lông Mi, ấy vậy mà suýt chút nữa lại lên giường một cô gái lạ. Nhất thời tức khí, tôi liền nhảy ùm xuống sông. Nước cạn gần hết, chỉ ngập đến đầu gối làm tôi đau buốt cả người. Nước sông lạnh như băng, gót chân tôi như bị mấy trăm mũi kim đâm vào một lúc. Tôi hự lên một tiếng, rồi nghiến răng đứng vững, bám vào chân cầu, đạp lên những bãi thủy tảo mềm mềm, cắn chặt môi đi qua sông, rồi đi một mạch về khách sạn, nằm ngẩn ra trên giường tầm nửa tiếng rồi ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau đã bị giọng Tương Tây oang oang của bà chủ nhà làm thức giấc.

Tôi bò dậy lái xe đi đón Luật Sư và Tây Môn, vừa đi vừa nhớ lại cô gái chơi violon, thở dài một tiếng, rồi tạm biệt Phượng Hoàng, tiếp tục lên đường.

Bọn họ dẫn theo cả hai cô gái hôm qua. Hai cô này đi du lịch ba lô từ Dương Sóc ỏ Quảng Tây, qua nhiều nơi rồi mới tới Phượng Hoàng, trạm tiếp theo sẽ là thác Hoàng Quảng Thụ ở Quế Châu. Cuộc sống của các cô cũng rất thú vị, thích đi du lịch bụi khắp nơi. Công ty không cho nghỉ dài hạn thì xin thôi việc luôn, đợi khi nào đi chán, thì lại về thành phố tìm việc khác. Cứ thế tuần hoàn như vậy.

– Thế không phải hơi đáng tiếc sao?

– Đáng tiếc gì mà đáng tiếc. Bất cứ lúc nào cuộc đời cũng chỉ có một trọng điểm, không thể cứ ngó trước nhìn sau được, nếu không thì làm cái gì cũng không xong. Năm nào chúng tôi cũng như vậy, vì muốn đi chơi nên xin nghỉ việc luôn. Chơi chán rồi thì lại về tìm việc mới, thực ra có tìm được hay không cũng chẳng quan trọng, dù sao thì cũng không chết đói được. Mục tiêu của chúng tôi là từ nay đến sang năm đi khắp các thị trấn cổ trên toàn quốc.

Cô gái trả lời.

“Bất cứ lúc nào cuộc đời cũng chỉ có một trọng điểm.”

Câu nói của cô gái làm tôi chìm trong suy tư.

Nhớ lại tôi trong quá khứ, những ngày tháng đã qua, lúc thì không tìm thấy trọng điểm, lúc lại có mấy trọng điểm liền, làm chuyện gì cũng nhìn trước lo sau, chẳng làm nên nông nỗi gì. Lúc nào cũng muốn làm tốt tất cả, cuối cùng thì chẳng thứ gì là tốt hết.

Bất cứ lúc nào cuộc đời cũng cần có một trọng điểm.

Trọng điểm này đáng lẽ phải là Lông Mi.

Đáng tiếc là đến giờ tôi mới ý thức được điều ấy.

Luật Sư đòi họ kể chuyện ở Dương Sóc cho nghe, hai cô gái kể rất tỉ mỉ.

Tôi không khỏi nhớ lại quãng thời gian đi leo núi với Lông Mi ở Dương Sóc.

Hồi ấy ở phòng tập thể hình chúng tôi có quen với một người bạn thích các hoạt động ngoài trời, đặc biệt là leo núi. Đúng lúc đó lại có một cuộc thi leo núi ở Dương Sóc, Lông Mi rất hứng thú, nên chúng tôi quyết định theo đoàn đi luôn. Tôi và Lông Mi ít khi leo núi nên kỹ thuật rất kém, có điều Lông Mi hình như rất có năng khiếu, chỉ tập một thời gian ngắn mà đã đoạt được giải ba của nữ! Nhưng mà nói thì cũng phải nói hết, lần đó chỉ có bốn cô gái tham gia, cô cuối cùng thì còn bị thương ở chân nữa. Sau khi kết thúc cuộc thi, hai chúng tôi ngồi thuyền xuôi theo dòng Li Giang ngắm cảnh.

Để lại ấn tượng sâu sắc nhất là khi thuyền đi qua núi Cửu Mã Họa, một con chuồn chuồn nhỏ đậu trên ngón chân trần của Lông Mi. Con chuồn chuồn rất đẹp, cứ đu mãi ở đó, dáng điệu thanh thoát lạ thường. Lông Mi dựa vào lòng tôi, ngồi trên mũi thuyền, ngắm nhìn con chuồn chuồn nhỏ xinh đẹp, nghe “The well tempered clavier” của Bach. Dãy núi kéo dài đổ bóng xuống dòng sông trong mát, hòa nhập với bóng hai người ôm nhau thật chặt.

Chuyến đi bắt đầu gian khổ.

Con đường cấp huyện từ Phượng Hoàng đến Đồng Nhân cực kỳ gập ghềnh, rất nhiều chỗ đang sửa, ổ gà với rãnh ở khắp nơi. Chiếc xe của tôi không ngừng lắc lư qua lại. Quốc lộ 320 dài dằng dặc làm tôi không cảm nhận được bất cứ cảm giác thích thú nào khi lái xe. Bọn họ bị lắc đi lắc lại từ tối hôm qua, giờ chắc đã mệt, chỉ một lát đã ôm nhau bò ra ngủ.

Tôi cẩn thận điều khiển xe chạy con đường gập ghềnh khúc khủy.

Nghe The Boxer của Paul Simon. Một bài hát cổ vũ chí khí con người. Kể về một cậu bé nghèo đến New York, không tìm được công việc, cả ngày lang thang nơi đầu đường xó chợ, trên mình không có lấy một xu. Một lần bị ép phải tham gia thi đấu boxing đường phố, liền lấy luôn đây làm nghề, mỗi ngày đều bị đánh cho mặt mũi xưng vù, cuối cùng cũng trở thành tay đấm chuyên nghiệp. Không khỏi nhớ đến những ngày tháng mới tốt nghiệp đại học.

Hồi ấy tôi cũng hơi giống Bì Tử, một bầu nhiệt huyết sục sôi mà không tìm được đất dụng võ, đi đâu cũng gặp trở ngại. Một hôm tình cờ nghe được bài “The Boxer” này, được cổ vũ, bèn quyết định vác ba lo đi Hải Nam, rồi Chu Hải, Thâm Quyến, nhưng cũng chẳng khá khẩm gì hơn, bèn quyết định đi dọc bờ biển Đông Nam về phía Bắc. Tìm việc mãi chẳng thành, tôi bèn vứt việc đó sang một bên, cứ lang thang khắp nơi, lưng đeo ba lô, mặc một chiếc quần bò bạc thếch, chân đi đôi dày da đã mòn vẹt cả gót, đi hết từ thành phố này sang thành phố khác. Cơm thì ăn loại cơm hộp rẻ tiền, ở trong khách sạn hạng bét, về sau tiền cũng chẳng còn nhiều, bèn ngủ luôn ở ghế đá trong công viên.

Lưu lạc đến Hạ Môn thì tôi hết sạch tiền, vẫn không tìm việc được, đành đến một công trường xây dựng làm tạm thợ hồ. Công việc đơn giản chỉ dựa vào sức trâu, lương lại thanh toán ngay nên rất hợp với tôi. Làm được nửa tháng thì đủ tiền, tôi lại tiếp tục vác ba lô lên đường. Đến Ôn Châu, lại càng khó tìm việc, chẳng hiểu thế nào lại chui vào một công xưởng sản xuất giày làm phụ việc, lương thì thấp mà việc thì vất vả, cuối cùng đành phải bỏ, tiếp tục đi tiếp. Hết tiền mua vé tàu, tôi phải đứng bên đường quốc lộ, thấy xe nào lên phía Bắc thì xin đi nhờ, rồi đánh giày cho lái xe để cám ơn. Cứ thế rồi cũng đến được Thanh Đảo, tìm được một công việc trong quán ăn. Quán sắp khai trương mà đường cống lại tắc, tôi là người phụ trách thông cống, ngày nào cũng phải chui ra chui vào giữa đống bùn đen ngòm thối om.

Cứ thế, tôi lang thang hết một năm ròng. Lúc về đến thành phố thì bộ dạng đã nhếch nhác thảm hại đến không thể nhận ra, không dám gặp ai. Không nhà không nghề ngỗng, lại không muốn nhờ vả bạn bè bà con, tôi bèn thuê một gian nhà nhỏ ở ngoại thành, ban ngày đi tìm việc, đêm về trốn trong nhà đọc sách nghe nhạc. không có điều hòa, trời lạnh đắp đến hai cái chăn rồi mà vẫn còn run lên cầm cập. Khoảng thời gian ấy, cứ nghe “The Boxer” là tôi chảy nước mắt, nắm chặt tay, tự nói với mình nhất định là phải nỗ lực vươn lên phía trước, kết thúc cái cuộc sống lông bông nhếch nhác này.

Một năm nữa lại qua đi, lý lịch của tôi không có kinh nghiệm, lại không chịu nói dối nên không nơi nào nhận. Cuối cùng, tôi cũng buộc phải nói dối, trong một lần phỏng vấn ở công ty quảng cáo, công việc đó quả thật là hấp dẫn ghê gớm, tôi buộc lòng tự mắt nhắm mắt mở với mình, nói đã có một năm kinh nghiệm, không ngờ lại được nhận vào làm thật. Cả đời này tôi chỉ nói dối có hai lần, lần thứ hai chính là nói yêu Bất Bất trong lúc chính bản thân tôi cũng không biết có phải mình yêu em thật hay không, cuối cùng dẫn đến kết cục là không biết xử trí phần tình cảm gọi là tình yêu đó như thế nào. Sau hai lần đó, tôi đã tự hứa với mình rằng từ nay không bao giờ nói dối nữa.

Sau rồi tôi lại nhảy qua một công ty chuyên kinh doanh xe hơi nhập khẩu miễn thuế, kiếm được một vạn đồng đầu tiên, bỏ cả vào một cái phong bì cất đi. Chẳng ngờ lúc dọn nhà lại không cẩn thận đánh mất. Khi ấy, tôi vừa khóc vừa lật tung tất cả các thùng rác trong khu lên, nghĩ lại cũng thấy thật buồn cười. Hồi ấy không phải tiếc tiền, mà là tiếc công sức, tiếc thành quả lao động đầu tiên trong đời. Cũng vì vậy mà tôi luôn không thể tha thứ cho cái tật hay đánh mất đồ của mình.

Bì Tử nói đúng: Cuộc sống tuyệt vời nhất, chính là thời trẻ thì nhếch nhác đến không chịu nổi, lúc già thì giàu có đến phát ngấy.

Lạc thú lớn nhất của đời người, chính là ở thời trai trẻ khó khăn, đem tuổi trẻ ra nhào nặn thành một mớ hồ đồ, gắng sức liều mạng vì cuộc sống, nếm đủ mọi đau thương thất bại. Tất nhiên là sau này phải có thu hoạch xứng đáng

Lái xe một mạch đến nửa đêm.

Phía trước có một đoạn đường bị sạt, xe xếp hàng dài như một con rồng đang uốn khúc. Xung quanh là dãy Lôi Công Sơn trải dài nhấp nhô, khung cảnh tiêu điều xơ xác. Các xe chở hàng trước mặt chúng tôi đều lần lượt tắt đèn tắt máy, xem ra còn phải đợi khá lâu nữa. Đành nằm xuống nghỉ ngơi.

Đêm yên tĩnh lạ thường.

Đôt nhiên có người gõ cửa xe. Ánh đèn pin lấp loáng chiếu vào mặt,

Ngạc nhiên bò dậy, nhìn qua cửa sổ, nhận ra bên đường đang có tầm hơn chục gã nông dân lưu manh mặt lạnh như tiền, tay cầm gậy gộc đang đứng. Dẫn đầu là một gã đầu trọc. Đằng xa có mấy tên khác từ trên xe bước xuống, còn thuận tay tát cho tài xế mấy cái nữa.

– Xuống xe!

Gã đầu trọc quát.

– Có chuyện gì vậy?

Tôi he hé cửa xuống hỏi.

– Thu lộ phí, mỗi người một trăm đồng.

Gã đầu trọc có vẻ bực tức.

Một đám hung hăng như lũ cướp trong phim “Khả Khả Tây Lý”. Giữa nơi hoang vắng thế này, nếu không xuống xe thì chỉ sợ bọn chúng đập xe. Luật Sư và Tây Môn đưa mắt nhìn nhau, không biết xử trí thế nào, còn hai cô gái thì ôm chặt lấy họ, nét mặt sợ hãi. Tôi trấn định lại, rút cây roi điện, rồi mở cửa xe, nói với gã đầu trọc:

– Bọn tôi đến Khải Lý công cán, bị tắc đường ở đây, mong mọi người nể mặt nhau một chút.

Nói xong liền bật điện, hoa lửa xẹt tung tóe, kêu rẹt rẹt. Gã đầu trọc giật bắn mình, bắt đầu lộ vẻ do dự, đưa mắt nhìn xem xe chúng tôi hiệu gì, có vẻ như đang đắn đ không biết làm gì. Phía trước đột nhiên vang lên tiếng động cơ ầm ầm, cả đoạn đường núi lập tức sáng rực như ban ngày, đường đã được thông. Tên đầu đành phải nhượng bộ, quát đồng bọn chạy lên núi.

Chuyện vừa rồi lại làm tôi nhớ đến Lông Mi.

Em rất giống một con linh dương nhỏ trong phim Khả Khả Tây Lý: chỉ mong mỏi một thảm cỏ xanh, một dòng suối mát, một nơi nghỉ chân, chỉ đơn giản có vậy, nhưng tôi lại không thể cho em được.

Em mang cho tôi hi vọng, còn tôi thì đáp trả em bằng tuyệt vọng.

Cảm thấy mình thật đáng hận!

Chẳng mấy chốc đã đến được Hoàng Quả Thụ.

Tạm biệt hai cô gái, chúng tôi lại tiếp tục lên đường.

Lại trải qua một lần nguy hiểm.

Xe đang chạy trên đoạn đường núi vòng vèo ở cao nguyên Vân Quý thì đột nhiên nổ lốp, cũng may là Tây Môn phản ứng nhanh, cố gắng khống chế được tay lái, cho xe dừng lại an toàn ở ngay sát mép vực. Cả ba chúng tôi toát hết mồ hôi lạnh, một lúc lâu sau mới binh tĩnh lại được. Tây Môn lấy ra cái kích để hay lốp. Tôi và Luật Sư thấy cách đó không xa có một sạp hàng nhỏ, bèn đi qua đó.

Sạp hàng thô sơ nhất toàn quốc.

Đá xếp dồn thành đống, cỏ khô phủ lên tên, tường ngăn được gép bằng canh cây, phía trên phủ một lớp cỏ khô. Ngoài cửa kê một chiếc bàn gỗ xù xì, bên trên đặt thuốc, rượu, mì ăn liền và mấy thứ khác. Trong nhà tối om, chỉ nhìn thấy một chiếc giường bằng đá bên trên phủ cỏ khô, và chiếc chăn bẩn thỉu dồn đống lại một góc.

Một bà lão mặc áo bông đang ngồi trên giường, vừa hút thuốc vừa ngước mắt lên nhìn chúng tôi.

Tôi mua vài bao thuốc lá rẻ tiền. Bà lão bước tới, đưa thuốc cho chúng tôi, rồi tiện thể thò tay vào góc tường moi ra một ít thuốc lá sợi, phơi dưới ánh mặt trời, thỉnh thoảng lại ngước lên nhìn tôi và Luật Sư, nét mặt lạnh lùng vô cảm.

Hai chúng tôi ngồi xuống bên cạnh bà hút thuốc. Một già hai trẻ, cùng tắm trong ánh nắng ngày mới, tạo thành một bức tranh vừa hài hước lại vừa có gì đó u uất thương cảm.

Giá mà có Lông Mi ở đây thì tốt, em có thể vẽ lại.

Qua Tinh Long thì đường bắt đầu bằng phẳng trở lại.

Những con đường trải nhựa kéo dài ra tít tắp.

Thỉnh thoảng lại gặp những dòng suối nhỏ chảy từ trên núi xuống. Triền núi vẫn tiêu điều xơ xác, nhưng cũng không thể che đậy được hơi thở của mùa xuân đang phủ kín vùng đất này, những điểm xanh nho nhỏ bắt đầu xuất hiện, mặt đất tràn trề nhựa sống, những trận gió thanh tân thổi tới làm chúng tôi thấy sảng khoái vô cùng. Ba người vừa nghe nhạc Mozart vừa hưởng thụ ân tứ bao la của mẹ tự nhiên vĩ đại.

Xe đi tới gần một cây cầu thì lại nổ lốp.

May mà ở đầu cầu có một tiệm sửa xe, chủ tiệm là một ông già. Tây Môn gọi ông đến giúp thay lốp. Còn tôi thì lang thang đi vào xem thử căn nhà đá của ông, so ra thì khang trang hơn của bà lão trên núi kia nhiều, ít nhất là cũng có một chiếc tivi đen trắng.

Ông già chậm chạp thay lốp, rồi quay trở lại ngồi bên cạnh cầu, ôm binh nước uống liên tục, ngây người ra nhìn xuống mặt sông. Bên cạnh gác một chiếc đàn nhị hồ. Tôi ngồi xuống, cầm lên thử kéo vài cái, nghe cót ca cót két rợn cả người, đành đặt xuống. Luật Sư thấy thế lại nhặt lên, cẩn thận chỉnh dây lại. Tôi nhìn anh ta cười cười, tưởng đang làm bộ làm tịch. Ai ngờ một lúc sau thì điệu “Nhị Tuyền Hoán Nguyệt” vang lên. Luật Sư nhắm hờ hai mắt, đầu đong đưa, say sưa kéo đàn. Tôi và Tây Môn chỉ biết há hốc miệng ra nhìn, ngạc nhiên không tả. Ông già cũng quay sang nhìn, nét mặt thản nhiên hờ hững như chẳng có chuyện gì. Luật Sư đàn xong thì trả lại nhị hồ cho ông già. Ông cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi cũng kéo lại khúc “Nhị Tuyền Hoán Nguyệt” một lượt nữa. Tôi không biết nên dùng từ ngữ nào để hình dung tiếng đàn này nữa, chỉ biết nêu lên một điển cố cho mọi người hiểu: “Seiji Ozawa khi lần đầu tiên nghe được bài dân ca Trung Quốc đã rơi lệ, cho rằng là nhạc của nhà trời.”

Không nén nổi tiếng thở dài trước khung cảnh tuyệt vời nơi đây: một cây cầu nhỏ, một dòng nước trôi, cây cối trụi lá mới nhú mầm xanh, rặng núi trải dài vô tận. Một ngôi nhà đá cũ kỹ, một ông lão nếp nhăn còn nhiều hơn râu tóc, mặc một chiếc áo bông cũ, chân đi một đôi giày quân dụng màu xanh cũ nát, tiếng nhạc cảm động lòng người, ánh mắt vừa lạc quan vừa cố chấp.

Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi đi qua một thị trấn nhỏ đậm đà phong vị của người dân tộc thiểu số.

Tất cả đều đội khăn xếp bằng vải xanh, mặc áo dài xanh, đi tất trắng, giày vải xám, hình như đang họp trợ, đâu đâu cũng thấy người, lợn, bò chen chúc. Xe của chúng tôi đành từ từ tiến lên phía trước.

Đột nhiên có người kêu lên thảm thiết rồi gục xuống đầu xe. Ba chúng tôi giật bắn mình, vội xuống xe xem thử, thì ra là một tên lưu manh muốn gây chuyện, cố ý làm bộ làm tịch. Đang định kéo tên vô lại đó ra thì Tây Môn vươn tay giữ tôi lại. Ngẩng đầu lên quan sát, mới thấy cả con phố dường như đã tạm thời ngưng mọi hoạt động, chăm chú nhìn chúng tôi như nhìn sinh vật lạ. Tên kia lại càng kêu la thảm thiết, lăn từ trên mũi xe xuống đất, nét mặt tỏ ra rất đau đớn.

Luật Sư liền bước tới, ngồi xuống hỏi tên kia muốn bồi thường thế nào. Tên lưu manh liền giơ ngay một ngón tay lên, Luật Sư nghĩ ngợi trong giây lát rồi móc ra mười đồng. Tên lưu manh khinh khỉnh liếc nhìn rồi tiếp tục ôm đầu lăng lộn dưới đất. Một đám thanh niên vừa nhìn đã biết là đồng bọn của tên kia khoanh tay lạnh lùng bước tới. Tây Môn liền chạy ra, lại gần tên lưu manh nói gì đó. Hắn cúi đầu nghĩ một lúc, rồi đứng thẳng người dậy, kéo tay Tây Môn đi ra phía trước. Tôi và Luật Sư vội vàng lên xe chầm chậm đi theo. Dòng người tự nhiên tách ra làm hai, nhường chỗ cho chúng tôi, chẳng mấy chốc cả người cả xe đã ra khỏi khu chợ đông đúc.

Một con đường rộng trải dài trước mắt. Tây Môn quay lại nháy mắt một cái. Tôi lập tức hiểu ý, len lén đạp ga, rồi bất ngờ rồ lên.. Tây Môn tung người lên đạp cho tên lưu manh một cú, rồi nhảy thẳng lên xe. Tôi đạp mạnh ga, tăng tốc lao ra khỏi thị trấn với tốc độ 120 km/h, bỏ lại sau lưng những tiếng hò hét tức tối.

Đi qua huyện Bàn, một địa phương rất nổi tiếng với món thịt chó.

Đang dừng xe mua nước thì một xe cảnh sát cũng đỗ két lại bên cạnh. Một tay cảnh sát giao thông nhảy xuống, nói chúng tôi dừng xe không đúng nơi quy định, phạt 50 đồng. Luật Sư liền ra lý luận một hồi, cuối cùng cũng không phải nộp phạt nhưng lại chọc giận tay cảnh sát kia, khiến anh ta tức tối ghi lại biển số xe tôi rồi lên xe bỏ đi.

Trở lại đường cao tốc.

Cả ba đều rất phấn kích, Luật Sư lái xe rất nhanh, nhưng đi một lúc thì Tây Môn đòi xuống đi tiểu, vừa tấp xe vào vệ đường thì chiếc xe cảnh sát lúc nãy đã dừng lại bên cạnh. Tay cảnh sát kia nhảy xuống, nói trên đường cao tốc không được dừng xe, lần này nhất định phải phạt. Luật Sư lại cãi với anh ta một hồi, nói phạt cũng được nhưng sẽ kiện anh ta tội lấy việc công báo thù riêng! Tay cảnh sát cũng không kém cạnh, quyết không nhượng bộ. Luật Sư tức giận, đẩy anh ta một cái. Chẳng ngờ tay cảnh sát cũng nóng tính, vung tay đấm thẳng vào mặt Luật Sư, làm anh ta ngã bổ nhào xuống đất. Tôi và Tây Môn vội chạy đến giữ tay cảnh sát lại. Tây Môn định đánh anh ta, nhưng tôi đã kịp thời ngăn lại, bước ra nói chuyện nghiêm túc. Nhưng tay cảnh sát này chẳng những không chịu nhận sai mà càng lúc càng quá đáng, thậm chí còn móc cả bộ đàm ra gọi thêm người tới.

Đột nhiên, anh ta rũ người, đổ vật xuống.

Sau lưng anh ta, Luật Sư lạnh lùng cầm chiếc roi điện đang xẹt lửa.

Tôi vội cúi xuống kiểm tra tay cảnh sát, thấy hô hấp vẫn binh thường mới thở phào nhẹ nhõm, vội vàng xốc anh ta lên xe, rồi ném bộ đàm sang vệ đường, chìa khóa xe thì nhét vào cốp sau. Tây Môn còn lấy ra một ít thuốc an thần, đổ vào miệng anh ta nữa.

Luật Sư lại khởi động xe, lao vút đi như gió.

Trong xe vang lên bài “Power to the people” của John Lennon.

Ba người cùng hát vang: “Power to the people, Power to the people, right on …”

Kế đó lại là một bài khác của Lenon – Stand by me. Mỗi lần thấy cô đơn một mình, tôi thường nghe bài này, cảm nhận sự phẫn nộ của Lenon, lấy đó cổ vũ bản thân mình vươn lên phía trước. Luật Sư lại đổi sang một đĩa của Trương Sở, nghe bài “Trời xanh bảo hộ cho nhân dân Trung Quốc được ăn no mặc ấm”, lời ca đậm chất triết học, làm máu nóng trong người chúng tôi sôi lên sùng sục.

Xe đi qua trạm thu phí, cũng may là không gặp phiền phức gì, chúng tôi đi thẳng một mạch tới Đại Lý ở Côn Minh.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN