Đất Rừng Phương Nam - Chương 6: Bước đầu cuộc sống lưu lạc
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
102


Đất Rừng Phương Nam


Chương 6: Bước đầu cuộc sống lưu lạc


“Em có biết con
panh-goanh không? Biết à? ừ, loài chim cánh cụt ở Bắc Băng Dương ấy, người ta
bảo rằng nó có một bản năng huyền bí để tìm về tổ cũ.”

Đó là nhũng lời mở đầu của một câu chuyện mà
anh Ba thủy thủ đã kể cho tôi nghe cách đây hai năm. Giờ đây, giọng nói ấm áp
của anh lại như văng vẳng bên tai.

Đã mấy hôm liền, chiều nào tôi cũng thấy
trong người gai gai sốt. Để được nghỉ ngơi và yên tĩnh một mình, tôi ôm nóp mò
vào nằm trong ngôi miếu cô hồn. Tôi chỉ nằm đó từ trưa đến chạng vạng thôi. Ban
đầu, cũng có hơi rờn rợn. Nhưng qua ngày thứ hai thì tôi đã quen đi, chẳng
nhưng không có gì đáng sợ mà lại còn thấy rất dễ chịu.

Trong ngôi miếu vắng vẻ này, tôi không bị ai
quấy rầy, tha hồ ngủ, và khi thức dậy, tôi có thể ngồi tự do hàng giờ miên man
đắm chìm trong những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn lục ra từ trong mới hồi ức rối
tinh của mình.

Lần này, khi tôi cựa mình ngồi dậy, nhìn ra
ngoài thì không thấy bóng mặt trời chiếu đỏ rực hạ xuống bên kia bờ kênh như
mọi hôm nữa, mà là một bóng trăng xanh lạnh ngắt thấp thoáng sau cành đa, đang
chiếu những tia sáng yếu ớt xuống bên thềm miếu.

Có lẽ đã khuya lắm. Đêm vắng vẻ quá. Cơn sốt
dữ dội ban chiều đã vật tôi nằm mê man đến tận giờ này. Đầu nhức như búa bổ,
miệng đắng ngắt, và một cơn khát cháy khô cổ họng lại bắt đầu đến giày vò hành
hạ tôi. Giá tôi đang nằm ở nhà thì mở mắt ra đã thấy có má tôi ngồi một bên. Có
lẽ má tôi sẽ đỡ tôi ngồi dậy, nâng cốc nước chanh đến tận miệng tôi, và tôi còn
chờ xem má tôi lo lắng thế nào, còn chờ xem má tôi xuýt xoa an ủi dỗ dành một lúc
rồi tôi mới uống cũng nên… Cuộc sống trôi nổi trong mấy tháng gần đây đã dạy
khôn cho tôi nhiều rồi.mày hãy tự lo lấy cho mày trước đã: Đừng có nghĩ đến
việc cậy ai nước rót cơm dâng”. Tôi cố sức đứng dậy, lảo đảo đi ra bờ
kênh. Chao ôi, làn nước lấp loáng ánh trăng lờ đờ trôi nhẹ dưới kênh kia mới
trong và mát làm sao! Tôi cúi xuống vốc những giọt vàng vỡ vụn vào lòng hai bàn
tay, uống lấy uống để, tưởng chừng như mình có thể uống cạn cả con kênh này thì
mới hả được cơn khát. Những làn nước mát vả vào mặt, vào gáy làm cho tôi dần
dần tỉnh hẳn.

Tôi lò dò trở vào ngôi
miếu, ngồi tựa lưng vào tường, thở dốc.

– Mau mau tìm cách trở lại nhà thôi.

– Thành phố quê hương mày giặc đã chiếm rồi,
mày còn về làm sao được chứ?

– Ước gì mình có được đôi
cánh như những con chim.

Những câu tự nhủ và tự hỏi mình cứ vẩn lên
trong đầu óc tôi Đột nhiên, tôi bỗng nhớ tới câu chuyện anh Ba thủy thủ đã kể
cho tôi nghe về bản năng huyền bí của loài chim cánh cụt những nhà sinh vật học
trên thế giới đã chứng minh điều đó… “Họ buộc những mảnh đồng nhỏ, ghi ngày
tháng và hòn đảo sinh trưởng của những con chim bắt được. Họ mang nó đi rất xa,
xuống tận vùng Nam Băng Dương và thả chúng ra. Thế mà một hai năm sau, người ta
lại bắt được những con chim đó ở đúng trên các hòn đảo cũ.”

Giọng nói ấm áp, đầy hấp dẫn của người thủy
thủ vui tính và nhiều mơ mộng xưa kia khiến cho tôi lúc nào cũng hong hóng chờ
nghe, lại văng vẳng bên tai. Tôi ngồi nhìn ra ánh trăng soi lờ mờ, thấy dần dần
hiện lên quang cảnh nhộn nhịp của các bến vận hà dọc theo đôi bờ sông trắng của
con sông Tiền Giang. Trên cầu tàu lục tỉnh, anh ngồi tựa lưng vào một trụ buộc
đỏi (xích), tay cầm tẩu thuốc lá; những làn khói mỏng xanh xanh từ trong tẩu
thuốc lá chưa kịp bay lên đã tan mất ngay theo gió. Tôi ngồi bên anh, từ trên
sàn cầu qua những khe ván đóng hở, có thể nhìn thấy ngay dưới chỗ mình ngồi
những thanh đà sắt bắt chéo vào nhau trong một màu tối âm u, và sâu hơn một
chút, dưới kia dòng nước lao nhanh như cắt lúc nào cũng giận dữ réo ào ào,
dường như muốn nhổ phăng những chiếc cột tàu bằng thép to tướng mà lôi dìm
xuống đáy sâu.

– Sướng nhỉ, anh nhỉ?
Được như con chim cánh cụt ấy thì bọn trẻ chúng em không bao giờ sợ lạc! – tôi
huơ tay nói như vậy.

– Đó là một con chim đáng
thương! Vì cánh nó quá ngắn phải không anh?

– Ừ, cũng có thể… Nhưng không hẳn như vậy
đâu. Anh muốn nói với em một vấn đề khác kia…

Người thủy thủ trẻ có khuôn mặt sạm nắng rất
đẹp, mái tóc lúc nào cũng bồng lên vì sóng gió đại dương, đăm đăm nhìn về chỗ
vạch ngang của dòng sông Cửu Long lòa nhòa gắn liền mặt nước với chân trời. Anh
im lặng một lúc; sau khi đã hút mấy hơi khói thuốc dài, giọng anh bắt đầu trầm
hẳn xuống, như nói với mình:

Cuộc sống của con người phải đâu chỉ thu hẹp
trên mảnh đất vùng quê? Đã đành quê hương là nơi gắn bó với cuộc đời mình nhất,
nhưng khi người ta còn trẻ tráng, phải bay nhảy hoạt động, đi đây đi đó chứ.
Lúc nào cũng chạnh nghĩ về quê hương, đó là báo hiệu của tuổi già…

Không phải vì có dôi chim cánh cụt mà con
panh-goanh không đi xa được đâu. Nó là một con chim không có cánh ở tâm hồn. Nó
như một ông cụ già lưng mỏi gối chùn, lúc nào cũng muốn tìm về nằm xuống ở quê
hương!

Chiều chiều, sau giờ học, thầy giáo tôi
thương dắt học trò ra sông Cửu Long tập bơi. Trên cầu tàu lục tỉnh ấy, tôi đã
gặp và quen anh. Anh làm thủy thủ trên một chiếc tàu rất lớn, có ba ống khói to
tướng sơn màu xanh da trời. Lâu lâu, tàu anh lại cặp bến một lần. Gặp anh vài
bận, tôi đã thấy gắn bó với anh rồi. Mà anh thì cũng rất mến tôi. Bởi tôi hay
hỏi đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, lung tung, mà anh cũng lấy làm thích
thú một thằng bé tò mò, lúc nào gặp anh cũng đặt ra nhũng câu hỏi, khiến anh
phải nhồi rất nhiều thuốc lá vào tẩu mới tìm ra lời giải đáp. Tôi mời anh về
nhà tôi chơi. Ba má tôi cũng rất quý anh thủy thủ vui tính, biết nhiều chuyện
lạ này. Lần nào anh đến chơi, ba má tôi giữ anh ở lại ăn cơm. Nhũng hôm ấy, nhà
tôi rộn lên tiếng nói, tiếng cười, vui như có cỗ. Quan hệ mật thiết giữa anh và
tôi khiến ba má tôi xem anh như người trong họ hàng.

Cuộc đời anh lênh đênh nhiều năm khắp các mặt
biển, trên nhiều chiếc tàu của những công ty hàng hải khác nhau. Anh đã đi qua
Ấn Độ Dương, vượt kênh đào Xuy-ê ra Địa Trung Hải, men theo bờ Đại Tây Dương
lên tận cảng Lơ Ha-vrơ… Gần khắp mặt biển Thái Bình Dương, cảng nào anh cũng
có tới. Anh biết rất nhiều thành phố, nhiều giống người… Chỉ có những xứ ở
bên kia tây bán cầu là anh chưa đặt chân tới thôi. Trong những mẩu chuyện anh
kể, tôi nghe quen nhiều tên giống người, tên vùng đất, hải cảng, tên thủ đô,
thành phố quan trọng trên hầu khắp các lục địa mà tôi đã học say mê trong các
bài địa dư ở trường…

– Em coi bộ thích phiêu lưu lắm hả? – có lần
anh hỏi tôi như vậy.

– Phiêu lưu là sao, anh?

Anh
nhoẻn miệng chơi, bập bập cái tẩu thuốc lá làm cho khói bốc xanh um như một ống
khói tàu, hạ thấp giọng:


Ờ phiêu lưu là nay đây mai đó. Trên rừng, dưới biển, đồng ruộng, núi cao… bất
cứ chỗ nào mình cũng đi tới. Càng đi thì càng gặp nhiều chuyện lạ, khiến cho
mình say mê… Thôi, bao giờ em lớn lên, em sẽ biết.

Năm
ngoái, anh đi đâu bên Thái Lan về, mang cho gia đình tôi nhiều thứ. Quà tặng ba
tôi là chiếc hộp thuốc bằng bạc chạm: quà tặng má tôi là một ông Phật bằng đồng
to lối nắm tay, ngồi dim mắt trên tòa sen…


suy đi nghĩ lại chẳng biết gì hơn – anh vỗ vỗ vai tôi – anh mua tặng em một
chiếc địa bàn Chiếc địa bàn bé bằng quả trứng, có cây kim đồng quay quay chỉ về
phương bắc, giờ đây lại hiện ra to tướng, lồng vào khung trăng vành vạnh đang
treo lơ lưng giữa trời kia. Nó là điềm báo như lời má tôi thường nói chăng? Hay
cái vật bé nhỏ, xinh xắn mang trong lòng nó mũi tên chỉ đường cho những kẻ viễn
du không may lạc lối trong sương mù, bão tố, giữa rừng rậm, đồng hoang… từ
khi cầm nó vào tay, số mệnh đã khiến cho tôi phải rơi vào cuộc sống lênh đênh
này chăng? Tôi nghẹo đầu vào vách, nhắm mắt lại, tưởng như nghe lại giọng hát
quen thuộc của người thủy thủ trẻ đang vẳng đến từ một chỗ thẳm xa nào:

“Xưa kia có một con tàu nhỏ

Nó chưa hề lướt sóng ra khơi…

Này hỡi những chàng thuỷ thủ

Đang xông pha trên ngọn sóng cao vời.”

Chà,
tôi lại khát nữa đây… Tiếng mạch đập trong tai tôi ù ù hay tiếng gió thổi
giữa trùng dương. Tôi chóng mặt quá, cứ buồn nôn. Tôi đang nằm đây hay đang
đứng trên con tàu lắc lư nhồi theo sóng? Giọng nam trầm của anh Ba thủy thủ cứ
dập dềnh đưa tiếng hát bè cao cua tôi chồm chồm bay vút ra xa… “Xưa kia
có một con tàu nhỏ… Nó chưa hề lướt sóng ra khơ… ơ…i.” Một lượn sóng thần
cao vút như núi hiện lên ở chân trời, băng băng chạy tới trong tốc độ nhanh
khủng khiếp, rồi chồm qua phủ mất con tàu và cuốn tôi đi… trôi mãi… trôi
mãi.. Tôi càng vùng vẫy thì càng thấy bị chìm sâu xuống đáy, mỗi lúc một ngạt
thở đến không còn đủ sức chịu đựng được. Rồi tôi không còn biết gì nữa…


Thằng bé tỉnh dậy rồi! – giọng mừng rỡ của một chị nào đó dịu dàng nói bên tai
tôi.


Tôi từ từ mở mắt ra, thấy mình còn đang nằm trong ngôi miếu. Một chị cứu thương
mặc chiếc áo bà ba màu lục đang ngồi bên cạnh, bàn tay mát rượi của chị hãy còn
đặt trên vầng trán nóng như lửa đốt của tôi. Chung quanh tôi, la liệt những
thương binh. Một anh bị thương ở đầu quấn đầy băng trắng, đang tựa lưng vào
chân bệ thờ hút thuốc lá, mỉm cười nhìn tôi. ánh nắng trời chiếu rọi nghiêng
bên mặt anh một quầng sáng lóa. Tiếng súng nổ ran xa xa. Lâu lâu, một tràng đại
bác không biết từ đâu bắn tới ùng oang… ùng oang… nổ dữ dội ngoài Ngã Ba
Kênh. Không khí sặc sụa mùi lửa cháy nhà và mùi thuốc súng cay nồng nồng.


Tây đến rồi hả anh? – Tôi hỏi anh thương binh đang mỉm cười nhìn tôi. Tôi cố
chống tay ngồi dậy, nhưng lại run run khuỵu xuống.

Cả
người tôi rã rời mệt mỏi như vừa qua một trận ốm lâu ngày. Qua lời kể của chị
cứu thương tôi mới hay rằng giặc Pháp bắt đầu tấn công vào vùng này từ sáng
sớm.

Chúng
cho quân xích hầu (trinh sát) ăn mặc giả thường dân mò vào, toan bắt sống mấy
anh tự vệ ở đầu trạm canh, nhưng ta đã cảnh giác phát hiện kịp. Tàu bày giặc
ném bom đốt cháy xóm chợ từ lúc giữa trưa. Hiện giờ, chúng còn đang ở bên đầu
cầu con lộ Cái Chanh…


Cha chả? Lúc khiêng các anh bị thương vào đây, thấy chú nằm mê man, thỉnh
thoảng cứ hét lên, tôi lo quá… Cạy mồm cạy miệng mãi mới nhét được mấy viên
thuốc cảm cho chú đấy. Lại hát lảm nhảm những gì gì… Này, nhà chú ở đâu?


Em không có nhà! – tôi đáp.

Coi
bộ thằng bé này chưa tỉnh hẳn đâu. Xem như nó còn mê đấy! Anh thương binh ban
nãy thong thả nói như vậy và cầm điếu thuốc lá hít một hơi dài, thản nhiên như một
người nhàn nhã đang ở nhà mình. Rồi anh lại nói: – Chị pha cho nó một cốc sữa
đi, nó sẽ tỉnh ngay. Lấy hộp sữa trong ba-lô tôi đấy. Tôi chưa cần đến…

Chị
cứu thương loay hoay đèn cồn đun nước. Tôi ngồi dậy, đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn
các anh thương binh đang nằm thiêm thiếp trên nhưng tấm đệm bê bết dấu máu chưa
khô. Một anh bị mảnh đạn đại bác cắt giập ống chân, những bắp thịt đùi cứ giật
giật khiến anh cựa người nhăn nhó theo, nhưng tuyệt nhiên không hề nghe anh rên
một tiếng.

Tôi
uống hết cốc sữa. Quả thấy người tỉnh táo lại ngay, nhưng miệng hãy còn khô và
đắng lắm, cứ thèm uống nước. Vào lúc gần tối thì giặc Pháp đã vượt được sông
Cái Chanh. Đạn súng máy bắn vào khu chợ bay vèo vèo trên nóc miếu. Người ta bắt
đầu đưa thương binh xuống xuồng chuyển đi từ lúc ngớt tiếng tàu bay.

Tôi
ngỏ ý muốn theo xuồng đưa các anh thương binh đi. Nhưng các ông cụ già bơi
xuồng không cho. Và chị cứu thương cũng bảo rằng tôi chưa khỏe hẳn. Chị cho tôi
một gói độ mươi viên thuốc cảm và một đòn bánh tét, lại ân cần khuyên tôi nên
về nhà mà nghỉ, muốn theo các anh thì còn nhiều dịp, lúc nào chả được. Rõ ràng
là không ai ngờ rằng tôi là một thằng bé sống không nhà. Chả nhẽ mỗi chốc lại
đem chuyện mình ra kể lể với mọi người sao? Nhất là để cầu lấy một lòng thương?

Không!
Tôi không thể làm như vậy được. Mà ngươi ta đang bận tíu tít kia, bao nhiên
chiến sĩ bị thương phải chuyển đi, giặc dã đổ bộ qua sông, xóm chợ cũng cháy
rồi. Một thằng bé lưu lạc như tôi, đâu phải là đáng bận tâm đối với họ?

Sự
tình đã đến nước này thì tôi cũng mặc, tới đâu hay đó Tôi bẻ một số cành cây
làm gậy cầm tay, đi dọc theo bờ kênh. Con dao găm còn nằm gọn trong chiếc túi
da đeo cồm cộm, ló cán ra bên trong túi áo vét-tông của tôi đây.

Hai
bờ kênh, nhà nào cũng đóng chặt cửa. Bàn ghế, lu mái (chum vại ) nhận lổm ngổm
dưới mương. Một con chó đứng giữa đường thấy tôi đi tới, cụp đuôi lủi vào bờ
dậu. Khi tôi qua rồi, con vật vắng chủ bèn chạy sủa duỗi theo ăng ẳng sau lưng
tôi một lúc.

Đêm
đó, tôi vào nằm trong một chòi rẫy bỏ hoang giữa đồng. Kinh nghiệm đã dạy tôi
nên tránh các đường giao thông thủy bộ quan trọng trong khi giặc sắp tấn công
đến nơi. Cả ngày hôm sau, tôi cứ nhằm về hướng những chòm cây có nhà ở mà đi
tới. Bây giờ, cơn sốt đã lui rồi. Nhờ mấy viên thuốc cảm và đòn bánh tét của
chị cứu thương, tôi đã có thể tiếp tục đi được từ sáng đến chiều, cho tới khi
gặp một dòng sông nước đặc như màu cà phê chắn ngang trước mắt.

Tôi
không biết mình đang đi tới chốn nào đây? Dọc bờ sông xa xa, người ta bắt đầu
đốt lên nhiều đống lửa. Trời không gió. những ngọn lửa cháy thẳng, trông như
màu trắng, rực rỡ giữa cảnh trời tà. Một làn ánh sáng tai tái, lờ mờ phảng phất
trên mặt nước. Cây cối ngả dần sang màu đen, biến thành những hình thù kỳ dị,
như những con quái vật dưới sông trèo lên chồm chỗm ngồi bên bờ.

Trên
một doi đất, có đám người xúm xít ngồi dưới chòm cây khô ánh lửa chiếu qua vai
những cái bóng quay lưng về mé sông, vờn qua vờn lại trên những chiếc xuồng ghếch
mũi kéo lên bãi bùn bên dưới chỗ họ ngồi khiến cho những chiếc xuồng kia trông
như động đậy muốn bò lên bãi. Hình như những người ngồi đó đang bàn cãi về chuyện
giặc Pháp có dám tiến sâu vào vùng này hay không. Tôi bước đến gần, nhìn vào họ
xem họ đang làm gì. Đột nhiên, hai chân tôi bỗng khựng lại… Kìa! ông cụ già
bán rắn đang ngồi dạng chân bên đống lửa. Con chó săn nằm sát bên chân chủ, mõm
ngóc lên, đuôi vẫy qua vẫy lại. Thằng bé đen trũi cầm sào nhảy lên bờ dạo trước
thì ngồi đối diện với bố, đang dùng những đầu ngón chân lật ngựa một con rùa
nhỏ. Con rùa bị hất vào lửa, bốn chân bơi bơi trong không khí, cổ vươn ra dài
ngoẵng. Mấy người đàn ông cởi trần, vận quần đùi đen, cao to như ông cụ già bán
rắn, người nào người nấy mặt đỏ lựng ngồi bình thản, ngắm con rùa lắc lư cái
mai, cố dịch ra xa luồng nóng hừng hực từ trong đống lửa phả ra. Một người rung
rung đôi vai cười hé… hé… hơi rượu từ cái mồm há hốc bay ra nồng nặc. Hai
người đàn bà mặc quần áo đen, ngồi xế bên ngoài một chút, như hai cái bóng, mắt
âu sầu nhìn ra sông.

Tôi
đánh bạo bước tới một bước nữa. Con chó săn tức thời chồm lên, sủa oang oang.
Mọi người chưa kịp ngẩng lên thì con vật tinh khôn đã phóng tới ngoạm vào túi
áo vét tông của tôi.

– Luốc? Yên nào! – Ông cụ già quát lên.

Con
chó săn buông túi áo tôi ra, lùi về bên chân chủ nhưng mõm vẫn nghếch lên hướng
về phía tôi, hai cánh mũi bóng nhẫy luôn luôn động dậy.


Ông ơi? Có phải cái này của ông không? – Tôi móc chiếc túi da beo ra, chìa về
phía ông cụ già bán rắn.

Ông
cụ già ngước nhìn lên, sửng sốt. Hai mắt ông dán chặt vào chiếc túi vằn hoa
trên tay tôi. Thằng bé bỏ con rùa nằm đấy, nhẩy đến chộp ngay chiếc túi tưởng
đã mất rồi. Nó nhe răng, cười như mếu:


Biết thế nào cũng có người nhặt được mà? Tía cứ bảo rơi dưới kênh!

Tôi
đang nhìn ông lão hay nhìn vào ngọn lửa, tôi cũng không biết nữa. Tôi bắt đầu
kể:


Hôm trời nổi dông, khi ông xuống thuyền chèo đi rồi, cháu bắt gặp cái túi này
nằm ở chỗ gốc cây bã đậu. Cháu nghĩ là của ông. Cháu nhặt lên, chạy theo gọi
mãi mà gió lớn quá, ông không nghe…

Ông
cụ già bán rắn lặng lẽ đứng lên. Tôi hơi lùi chân lại một bước. Nhũng người
ngồi chung quanh đống lửa cùng đưa mắt nhìn ông. Không thấy ông nói gì. Đột
nhiên ông xốc tới, dang hai cánh tay đại bàng ra, cắp lấy hai chân tôi, nâng
bổng cả người tôi đưa lên ngang mặt ông.

Đầu
lắc qua lắc lại, hàm râu cọ vào bắp vế tôi sào sạo, ông cất tiếng cười ha hả.
Con chó săn nhẩy cỡn chung quanh đống lửa, sủa ăng ẳng mấy tiếng, lại lao tới
liếm chiếc túi da beo trên tay thằng bé.


Tốt lắm, chú em! Qua cám ơn chú em đã! – Giọng mừng rỡ của ông lão vang âm rất
xa trong đêm tối. Ông ôm tôi quay một vòng rồi mới chịu buông tôi ra, đỡ tôi
vào ngồi cạnh đống lửa.

Ông
giật chiếc túi da beo trên tay thằng bé, tung lên tung xuống mấy cái trong lòng
bàn tay to lớn của mình, đoạn nghiêng người vào gần đống lửa, tháo miệng túi
cầm ra từng món, săm soi mãi.

Một
người đàn ông vỗ đánh bốp vào vai ông cụ già:

– Bác Hai? Vật đã tìm chủ trở về thì ta phải làm
một cái gì chứ.

Ông
lão cười khà khà:


Rồi khắc có ngay! Khắc có ngay mà?

Hai
người đàn bà ngồi nhích lên bên tôi. Một bà hỏi:


Em từ ngoài chợ Thới Bình vô đây à?


Cháu không biết Thới Bình. Cháu từ trên Chắc Băng xuống đây…


Ủa, vậy em đi đường nào?


Cháu cũng không biết… Cháu cứ theo đường mòn lội qua rẫy, lần mò đi mãi vậy
thôi?

Nghe nói Tây vô Chắc Băng rồi phải không? Đằng
mình bỏ trống cho nó vô à?


Có đánh chứ! Đánh nhau suốt ngày…

Tôi
lần lượt kể lại chuyển những người thương binh trong miếu và chị cứu thương mặc
chiếc áo bà ba màu lục Những người ngồi xung quanh đống lửa vừa hút thuốc lá
vừa lắng nghe chăm chú. Thỉnh thoáng họ lại à lên một tiếng và đưa mắt nhìn
nhau, mỉm cười. Không biết họ trao đổi với nhau những ý nghĩ gì.


Thế ba má chú em đâu rồi? Ông cụ già gõ cái nõ tẩu vào gót chân để trút tàn
thuốc lá ra, chợt hỏi tôi.

– Nhà cháu ở tận bên kia sông Tiền Giang. Cháu lạc
mất ba má cháu đã lâu rồi.


Ở Tiền Giang à? Vùng xã nào? – ông trố mắt hỏi.


Dạ, ở Mỹ Tho?


Ờ Mỹ Thon qua cũng có biết…

Người
đàn bà ngồi cạnh tôi chép miệng:


Khổ thân thằng bé! Bây giờ em tính đi dâu?

Tôi
cầm vỏ cây khô ném nhẹ vào đống lửa. Tôi lúng túng không biết đáp ra sao. Nhưng
tự nhiên tôi bỗng ngước lên, nói rắn rỏi:


Đi đâu cũng được. Cháu không sợ gì cả. Cháu còn trẻ tráng… đi được tới đâu,
cháu đi tới đó? Ơ đâu mà chả thích…

Tôi
không biết chính tôi đang nói, hay anh Ba thủy thủ hóa thân vào tôi thốt ra câu
ấy. Chắc là bộ mặt ngênh nghênh làm ra vẻ tự hào của tôi có gì buồn cười lắm
hay sao, mà khi tôi vừa dứt tiếng, mọi người ngồi chung quanh tôi đều cười rộ
lên.

– Đưa tay chú em cho qua
coi nào.

Một người đàn ông chụp phăng bàn tay tôi, nắn
nắn các ngón tay và kề vào đống lửa ngắm ngiá bàn tay tôi.

– Chú mày có số lênh đênh… và sẽ chịu khổ
nhiều. Nhưng rồi tất sau này sẽ khá. Lần đầu tiên tao mới nghe một thằng nhóc
nói y như giọng người lớn đấy! Khá lắm. Khá lắm.

Ông cụ già bán rắn hơi ngửa đầu ra, mắt nhìn
vào khoảng không trước mặt, miệng ngậm tẩu thở ra những hơi khói thuốc lá đặc
sệt. ông khẽ gật gù, quay lại ngó vào tay tôi. Tôi cảm thấy rân rân, dường như
đang bị những tia mắt của ông sờ vào khắp người mình vậy.

Thằng bé đen trũi đã chạy xuống mé sông, mò
vào thuyền cầm lên chai rượu tổ bố và cái bát sành to tướng.

Đám đàn ông nhịp nhịp đùi, vung tay lên nhao
nhao:

– Nào, chúng ta mừng cho
bác Hai.

– Vô tửu bất thành lễ!

– Lễ gì vậy?

– Lễ ra mắt của chú bé
này… Chúng ta đều cùng họ “lênh đênh”.

Cả ông cụ già bán rắn rót rượu ra bát, đưa mắt
hỏi tôi:

– Nhấp môi một tí, được chứ.

Tôi cười và lắc đầu. Ông nâng bát rượu lên,
tợp một ngụm nhỏ (Theo tục lệ vùng này bao giờ chủ mời cũng uống trước để chứng
tỏ trong rượu không có độc) rồi trao chuyền tay cho những người ngồi quanh đống
lửa.

Thằng Cò – tôi còn nhớ tên nó trong lần gặp
trước, cầm tay tôi kéo lại gần nó. Nó rủ rỉ nói vào tai tôi:

– Mày ăn gì chưa.

– Ăn rồi – tôi đáp.

– Có rùa vàng ngon lắm?
Còn mấy con dưới thuyền. Chốc nữa nướng cho mày ăn.

Vừa lúc đó, con chó bỗng chồm lên sủa oang
oang. Trong tiếng chó sủa dữ dội bất thình lình, tôi nghe có tiếng con vật gì
kêu “ché… ét… ché… ét ” ở ngoài bóng tối.

– A ha, Võ Tòng? Cả tháng
nay không gặp!

Một người đàn ông búng đầu ngón tay canh cách
vào cổ chai rượu, lắc lắc đôi vai, khề khà hát:

“Võ Tòng mà đả hổ

Tại Kiến Dương Cang

Gặp anh thời giữa đàng…

Con chó nhe nanh, lông
gáy dựng lên, hai chân trước chồm chồm ra bóng tối sủa dữ dội.

– Luốc? Yên nào?

Ông cụ già quát một tiếng. Con chó săn tiu
nghỉu lùi lại ngoan ngoãn nằm xuống bên chân chủ.

Tôi nắm chặt tay thằng Cò, hãi quá. Một người
đàn ông cổ lộ hầu, đen như cột nhà cháy, cởi trần, cao cao lêu nghêu đang hiện ra
trong ánh lửa. Hai hố mắt ông ta sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một
cặp tròng mắt trắng dã, long qua long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như
bờm ngựa phủ dài xuống gáy. Bộ ngực chắc nịch của ông ta ướt đẫm mồ hôi. Dưới
lớp mồ hôi bóng như mỡ đó, có hình một con rồng cuộn khúc xanh lè thích chàm
bằng những nét tinh vi, phập phồng theo hơi thở của ông ta. Con rồng xanh vươn
vây ôm chặt một quả tim, giữa có những chữ gì lấp loáng mồ hôi trông không rõ.
Chỗ gò má bên phải, năm cáí sẹo dài sả xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu
móng cọp cào. Một con gì giống như khỉ, hai tay dài nguều ngào, sắc lông đen
tuyền, chỉ trừ chỗ hai gò má là có mọc hai chòm lông trắng, đang ngồi vắt vẻo
trên vai con người kinh dị ấy.

– Lâu nay có làm dược con thịt nào khá không,
ông chúa sơn lâm? – Một người quay mặt ra, hỏi.

Người đàn ông mới đến thở phào một tiếng, thả
con vật xuống đất, tháo cánh nỏ đeo bên lưng ra, ngồi vào bên đống lửa nói
trống không:

– Tàm tạm vài con heo rừng. Hơn tháng nay còn
phơi cái da beo đóng mốc ở lều. Tây đánh gần tới, thiên hạ chạy tứ tán, bán cho
ai?

– Làm một hớp rượu đón gió đi, chú! – Ông cụ
già bán rắn nghếch râu lên mời.

– Không bán được da thì ta phơi thịt nhậu. Lo
gì.

– Bảo Tiểu đồng hầu rượu xem? Cho nó hầu rượu
đi, Võ Tòng!.

Võ Tòng búng vào miệng bát một cái, tức thời
con vật đưa hai tay dài nguều ngào ra bưng cái bát nâng lên ngang mặt lắc lư đi
đến chìa ra trước mặt ông cụ già ông cụ già cầm chai róc thêm rượu vào đầy bát
và hất hàm về phía Võ Tòng.

Tôi hỏi thằng Cò:

– Con gì lạ vậy?

– Con vượn bạc má. Khôn
lắm. Nó tên là Tiểu Đồng.

Thằng
Cò cứ ngó chăm chăm vào con vật, coi bộ thích lắm. Con vượn bạc má đứng thẳng
hai chân sau lên như người. Hai tay nó bưng bát rượu đi thẳng đến chỗ Võ Tòng,
đưa lên mời chủ. Tiểu Đồng nhe răng kêu “ché… ét, ché…ét”, rồi
bắt đầu đi vòng quanh đống lửa mời rượu từng người. Con chó săn gừ từ mấy
tiếng, vì sợ chủ nên phải nằm yên chứ coi bộ như nó chỉ chực chạy ra cắn một
miếng vào đùi con vượn thì mới hả. Đến chỗ hai người đàn bà mặc quần áo đen,
Tiểu Đồng nghiêng dầu cúi xuống chào, làm cho những người đàn ông thích chí
cười rộ lên. Hai người đàn bà lắc đầu quầy quậy, xua tay từ chối, nhưng con
vượn bạc má không chịu đi, cứ đứng giậm chân kêu “Ché~ét, ché…ét”.
Cho đến khi mỗi bà phải cầm bát rượu lên nhấp môi một ít, Tiểu Đồng mới chịu
bưng bát đi mời người khác.

– Chú
định đi đâu mà thả ngược lên vùng này vậy? – Ông cụ già bán rắn hỏi Võ Tòng.

– Quần
áo rách hết rồi. Nghe Tây sắp đến, đi đón kiếm một bộ ka-ki mặc chơi. – Võ Tòng
đáp chậm rãi.

Một
người đàn ông vỗ tay đánh bốp:


Này? Lấy được súng về bán cho anh em đi săn kiếm thịt ăn với nhé?


Tòng nhếch môi cười. Những vết sẹo ở gò má bên phải nhăn nhúm lại, thấy rất dễ
sợ.

– Súng để bắn giặc chứ có súng đâu thừa mà đi săn!

– Nhất
định là tôi sẽ kiếm được. Chỉ lấy quần áo thôi. Còn súng thì phải để cho anh em
tự vệ chứ.

Chợt
thấy tôi gật đầu tỏ ý đồng tình, Võ Tòng dừng lại chỉ vào tôi:

– Chú bé này, xem không phải là người cánh ta?

Ông
cụ già bán rắn gật gù, thò tay cầm một cái que khô cời vào đống lửa:

– Nhưng
nó sẽ là người cánh ta. Chốc nữa, tôi sẽ đưa nó theo tôi… Bà nhà tôi hẳn là
phải mừng lắm?

Một bầy chim đêm bay vút qua trên đầu chúng tôi.

Tiếng đập cánh rào rào mất hút trong vòm trời nhấp
nháy những vì sao xanh biếc.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN