Kể Chuyện.......Đêm Khuya - Chương 2: Lại nói về "Những thứ dưới nước"
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
137


Kể Chuyện.......Đêm Khuya


Chương 2: Lại nói về "Những thứ dưới nước"


Đường lão nhân khi xưa đã viết một cuốn sách bàn về “vạn vật sống trong nước”, cuốn sách nổi tiếng giới thiệu những loài “tôm, cá, cỏ, cây”. Chủ đề này thực sự đã gợi mở cho tôi nhiều suy nghĩ, vì thế cho nên tên đề mục mở đầu câu chuyện không nhất thiết phải nói rõ ràng cái ẩn ý “quỷ sông ma nước” mà chỉ cần gợi mở ra trong phạm vi rộng lớn của một lớp ngôn từ có tính bao quát, vừa mơ hồ, lại vừa bí ẩn. Hơn nữa, cũng không cần phải nhắc tới đặc thù hay sự nghiêm trọng của ma quỷ, mà chỉ cần nói tới vạn vật chung chung mà thôi. Nhưng hôm nay, vấn đề này lại được bàn luận một cách chi tiết, tỉ mỉ hơn. Giả dụ câu chuyện mà chúng ta đang bàn tới ở đây được đặt một típ chuyện giật gân “nói chuyện về những con ma chết đuối” hay văn nhã hơn là “thuyết nịch quỷ[1]”, thì điều này chắc hẳn rất khó tìm được một tạp chí thích hợp để đăng tải. Vì thế mượn lối nói của tiền nhân và đưa thêm vào dấu ngoặc kép, người viết không hề có ẩn ý gì sâu xa mà chỉ mong sao thoát khỏi được những mông lung, rối rắm trong nhan đề, để câu chuyện đến được với độc giả và nhận được sự đồng thuận, yêu mến. Đương nhiên sau khi tháo gỡ được những khó khăn này, vẫn không thể tránh khỏi nhiều ý kiến trái chiều, điều này cũng giống như khi đang sung sướng thưởng thức cá biển mà vẫn phải lo ngại về một điều gì đó ẩn sâu trong dòng nước. Tuy nhiên, đó là những câu chuyện của sau này, còn thực tại vẫn rất khó để có thể vượt qua nỗi mông lung, hỗn độn này.

[1] Thuyết nịch quỷ cũng có nghĩa là nói chuyện về những con ma chết đuối.

Trong tác phẩm của mình, Đường lão nhân có một đoạn nói rõ dụng ý việc chuyên tâm nói chuyện ma quỷ của mình, trong đó có đoạn viết: “Tôi có ý muốn lấy ma nước là đề tài tiên phong cho tác phẩm của mình, chính đề tài này sẽ gợi ra nhiều hứng thú cho mọi người trong việc nghiên cứu, thẩm định trên nhiều phương diện.” Trong khoảng bảy mươi năm sau khi có câu nói này, không biết đã có ai hứng thú làm công việc thẩm định, nghiên cứu về vấn đề này chưa, hoặc là sau những điều tra nghiên cứu cũng chưa thấy có ý kiến tranh luận gì. Nói tóm lại, tôi vẫn chưa phát hiện thấy có bài viết nào đề cập tới phương diện này. Thành phố tôi ở khi còn nhỏ là một vùng sông nước phương Bắc, có không ít sông, hồ, kênh, rạch chằng chịt, cho nên người dân nơi đây vẫn thường kể cho nhau nghe câu chuyện về những con ma chết đuối. Những câu chuyện ấy chỉ nhằm nhắc nhở trẻ con trong vùng không được chơi đùa ở những chỗ gần sông nước. Mặc dù tôi không còn nhớ rõ những câu chuyện hồi ấy có đặc sắc như những câu chuyện ma vùng sông nước Giang Nam hay không, nhưng đến bây giờ, mặc dù nước sông vùng Hoa Bắc đã cạn khô, lòng sông rộng lớn của mười mấy năm trước đây nay đã trở thành công trường đang thi công nạo vét, nhưng “vạn vật trong nước” ấy chính là những thứ được đào khoét nằm sâu trong lòng đất. Thành phố tôi sống bây giờ lại là nơi chẳng có lấy một dòng sông hay con suối, và đương nhiên cũng chẳng có những câu chuyện ma như trước kia. Mấy năm về trước, để cải thiện tình hình, thành phố đã cho đào một con sông nhân tạo, lòng sông được lát xi măng, hai bên bờ sông là những bậc thềm ngay ngắn, sườn dốc thoai thoải, nhưng không hiểu vì sao, cứ sau ba đến năm bậc lại đột ngột hạ xuống mấy thước, kết quả là mấy năm liền đều có người bị rơi xuống nước chết đuối. Những ghi chép để lại về những vụ chết đuối ấy có lẽ cũng không nhiều lắm, chủ yếu đều là những ghi chép trên tinh thần khoa học, không nhuốm màu sắc mê tín dị đoan, cho nên cũng chỉ có mấy dòng tin tức, cảnh báo đăng rải rác trên các tạp chí, còn lại chẳng có gì được coi là dấu hiệu của những câu chuyện huyền bí về “người thế tội”. Nói thao thao bất tuyệt một hồi, mục đích của người nói cũng chỉ nhằm giải thích hai chữ “lại nói” có trong đầu đề chương chuyện. Thực tế thì những chuyện trên đây cũng chẳng liên quan gì nhiều với những điều mà Đường lão nhân đã viết, chỉ là từ trong những câu chuyện ấy có chứa đựng một vài thông tin thú vị về ma nước mà chúng tôi muốn bàn tới ở đây.

Chết đuối có thể được coi là biểu hiện phản ánh sự tiến hóa từng bước của con người, vì trong hành trình đi lên của nhân loại luôn luôn có những lối mòn và con người cứ theo cái lối mòn ấy mà đi. Chết đuối cũng là một trong những lối mòn như thế. Lội nước trượt chân và lũ quét dữ dội đều là những điều mà tổ tiên chúng ta không thể lường trước được. Đối với chúng ta, để có được một khái niệm về hồn ma thì rõ ràng cần phải có nhiều hơn những ghi chép về các vụ chết đuối, mà những hồn ma và những người chết đuối lại gặp gỡ nhau ở một quan niệm đã trở thành cố hữu trong tín ngưỡng dân gian là người chết đuối bao giờ cũng phải kéo theo người khác rơi xuống nước để làm kẻ thế thân cho mình thì mới có tư cách tham gia vào vòng luân hồi của những kiếp “ma nước”. Từ trước đó, thi thể của người chết đuối có thể bị chôn vùi hay chìm nổi lênh đênh theo dòng nước lũ làm mồi cho cá dữ nhưng linh hồn của họ thì vẫn vẩn vơ nơi mồ mả hoặc men theo những người hợp duyên qua lại trên đường, những người chết này hầu như không có trường hợp ngoại lê.

Linh hồn của người chết đuối mà có danh tính, địa chỉ quê quán rõ ràng, phần lớn đều được gọi với tên là “Phùng Di”. Cái tên Phùng Di này khẳng định đây là một sự vay mượn tạm thời vì vốn dĩ đó là tên gọi của Hà bá. Trong Hoài Nam Tử có đoạn viết: “Phùng Di đặc đạo, dĩ tiềm đại xuyên[2]” Từ thời nhà Hán trở về trước, dòng sông lớn được nhắc tới ở đây chính là sông Hoàng Hà. Trong những tài liệu còn ghi chép lại được đã xuất hiện câu chuyện lưu tryền trong dân gian về Phùng Di. Trong những câu chuyện ấy, Phùng Di hiện lên là một vị thần sông từ thời cổ đại vô cùng gần gũi với người dân vùng sông nước. Dường như vị thần sông ấy có nguồn gốc xuất thân từ một người bình thường trong dân gian, chỉ sau khi tu luyện “đắc đạo” mới trở thành thần sông nước: “Phùng Di, người vùng Hoa Dương, đắc đạo trở thành thần sông.” Nhưng làm thế nào Phùng Di có thể đắc đạo thành tiên? Những ghi chép giải thích về vấn đề này lại hoàn toàn không giống nhau, trong cuốn bốn truyện sưu tầm về thần thánh của Ca Bảo thời Đông Tấn đã hé lộ một số thông tin được lưu truyền trong dân gian:

Hoằng Nông Phùng Di là người vùng Hoa m[3], chết đuối trong một lần qua sông vào ngày Canh Thìn tháng Tám. Thiên hoàng thương xót phong làm Hà bá cai quản vùng sông nước. Trong sách Ngũ hành cũng viết: “Hà bá chết vào ngày Canh Thìn. Không thể chèo thuyền qua sông, đắm thuyền mà chết.”

[2] Có nghĩa là: Phùng Di tu luyện thành công về ở ẩn nơi sông lớn.

[3] Tên địa danh ở tỉnh Thiểm Tây – Trung Quốc.

Thì ra, sự “đắc đạo” của Phùng Di xuất phát từ nguyên nhân chết đuối của ông ta. Nhưng lúc đó vẫn chưa thịnh hành thuyết “thi giải[4]” thành tiên, ở đây ám chỉ sự chết đuối của Phùng Di. Trên thực tế, ông ta rơi vào tình cảnh tai ương như vậy thực sự chẳng có gì may mắn cả, cũng chẳng phải thoát xác hóa thần hóa thánh gì hết. Vì thế việc chết đuối và “đắc đạo” là hai chuyện không hề liên quan đến nhau. Vậy nhưng, tại sao Thiên hoàng lại phong tước cho ông ta là Hà bá? Để lý giải điều này người ta chỉ có thể dựa vào phỏng đoán. Đứng từ phương diện cái thiện mà nói thì sau khi Phùng Di qua đời, đảm nhiệm vai trò thần sông, xuất phát từ chính nỗi bất hạnh mà cuộc đời mình gặp phải, nên ông ra sức cứu giúp, bảo vệ người dân, tránh cho họ gặp phải tai nạn chết đuối. Đó là một việc làm đầy thiện tâm. Nhưng đứng từ phương diện cái ác mà lý giải, theo thuyết Ngũ hành đã đưa ra lời khuyên cảnh báo tới những người chèo thuyền qua sông vào những ngày nước lớn phải hết sức cảnh giác, vì thời điểm đó chính là lúc Hà bá giận dữ sẵn sàng nhấn chìm bất cứ ai xuống vực nước sâu thăm thẳm. Tuy nhiện, trong tâm thức của con người, chúng ta vẫn tin vào tấm lòng thiện tâm của người quân tử, cho nên mỗi người dân vẫn thường không nghi ngại mà nhận định rằng việc làm quen thuộc, giản đơn của thần Hà bá chính là bảo vệ, cứu giúp những người qua sông được an toàn. Có thể đưa ra một ví dụ dễ thấy từ truyện Dinh tân phụ[5] trích từ cuối năm, Sưu thần ký[6]:

“Trên dòng sông Hoài Nam đã từng xảy ra cái chết thương tâm của một cô gái trẻ, vốn là một thiếu nữ xinh đẹp, mười sáu tuổi đã xuất giá. Câu chuyện về nàng thật thương tâm! Sống ở nhà chồng, nàng bị áp bức, đánh đập đến nỗi không thể chịu được. Vào đúng ngày mùng Chín tháng Chín, trong nỗi đau khổ, uất ức đến tột cùng, nàng tự tìm đến cái chết. Câu chuyện về người con gái bất hạnh ấy vẫn được người dân kể lại với nỗi thương cảm vô bờ. Trong những ghi chép của mình, Vu Chúc đưa ra lời khuyên: “Những người phụ nữ trong gia đình cần ghi nhớ trong ngày mùng Chín tháng Chín chớ nên làm bất cứ việc gì.”

[4] Thi giải: có nghĩa là thoát xác.

[5] Người vợ trẻ.

[6] Những ghi chép, sưu tầm chuyện về các vị thần.

Một oan hồn bị mẹ chồng đối xử tàn nhẫn mà chết, linh hồn hóa thành minh thần để bảo vệ những người phụ nữ bất hạnh, vị minh thần này cùng với oan hồn chết đuối nói ở trên chẳng phải cũng giống nhau ở hành động nhân nghĩa ấy sao?

Nếu phỏng đoán này là đúng, thi Hà bá chính là oan hồn đầu tiên được phong thần. Sự việc chết đuối mà hóa thành thần sông như thế, hàng ngàn năm sau, vào thời Nam Tống cũng lưu truyền trong dân gian câu chuyện nổi tiếng về Lý Hầu khi qua sông bị quỷ ám mà chết. Cũng giống như Phùng Di, ông ta chết đuối và cũng được phong làm thần trị thủy. Một ví dụ khác trong Hữu đài tiên quán bút ký, cuốn chín, Tiên giang nữ thần của Du Việt có đoạn kể về một dân nữ họ Lưu sống ở huyện Hữu Tuyền, tỉnh Tứ Xuyên sau khi chết đuối: “Ở dòng sông Tiên Giang, mỗi khi có người rơi xuống nước thường có một vị thần xuất hiện cứu vớt. Vị thần này mỗi lần hiện lên thường mặc một chiếc áo trắng, dung mạo toát lên vẻ xinh đẹp của một thiếu nữ còn xuân trẻ. Người ta cho rằng, rất có thể đó là linh hồn của người con gái họ Lưu kia. Đã trải qua bao đời mà linh hồn người đã khuất vẫn lẩn khuất đâu đây, người dân vùng này đã gom góp tiền bạc xây dựng miếu thờ nàng, trên thành miếu còn ghi tạc dòng chữ “Tiên Giang thủy thần miếu[7]”, lúc nào cũng nghi ngút khói hương.” Từ điều này có thể thấy, người dân sống vùng sông nước thường có một niềm tin, hy vọng tuyệt đối vào sức mạnh của những vị minh thần phù hộ cứu giúp mình vượt qua khó khăn, hoạn nạn.

[7] Nghĩa là: Miếu thờ thủy thần trên sông Tiên Giang.

Nhưng cũng có những điều trái ngược với tín ngưỡng này, đó là tư tưởng “giang Trành[8]”, linh hồn sau khi chết thường tìm đến lôi kéo những người khác vào chỗ chết đuối để làm người thế thân cho mình. Quan niệm “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” này được nói tới sớm nhất trong cuốn ba, truyện truyền kỳ Bắc mộng tỏa ngôn[9] của Tôn Quang Hiến, trong tác phẩm có đoạn viết:

Lưu vực hai bên bờ những dòng sông lớn thường có nhiều oan hồn chưa siêu thoát vẫn đi đi về về dụ dỗ nhưng người qua lại ngã xuống nước, đắm thuyền mà chết, oan hồn người chết lại tiếp tục quẩn quanh dụ dỗ, hãm hại những người qua sông khác, tạo thành cái vòng luẩn quẩn đầy oan nghiệt.

[8] Nghĩa là: Ma đưa lối quỷ dẫn đường.

[9] Nghĩa là: Những ghi chép tản mạn về giấc mộng phương Bắc.

Cũng vẫn tác phẩm ấy, trong cuốn bốn có đoạn ghi:

Phàm là những người chết do hổ vồ, hay ngã nước thì linh hồn đều rất khó siêu thoát, họ thường vật vờ quanh quẩn tìm người thế mạng cho mình.

Sau này, hai chữ “giang trành” không còn được người đời sau sử dụng, thay vào đó học nhắc nhiều đến những chữ “oan hồn chết đuối”. Điều này đại khái là chỉ những kẻ chết đuối nếu không tìm được người thế mạng thì sẽ không đầu thai thành người được. Trên thực tế, những oan hồn cần tìm người thế mạng không chỉ có ở quanh ao, hồ, sông nước mà ngay cả oan hồn chết đuối dưới giếng cũng cần tìm người thế thân. Trong Tiền thị tư chí của Tiền Thế Chiêu thời Nam Tống có đoạn viết:

Vào thời Thiệu Hưng, Ngô Sơn Hạ có một cái giếng lớn, mỗi năm đều có nhiều người rơi xuống giếng chết đuối. Thái úy Đống Đức đã cùng nhân dân hào phóng quyên góp tiền của xây cất giếng, có thể dùng thùng lấy nước, giúp hạn chế nhiều vụ tai nạn thương tâm xảy ra, có người trước khi chết còn nghe thấy từ trong giếng vọng ra tiếng nói: “Các người luôn sợ hãi trước cái chết, chúng ta có khả năng cướp đi sinh mạng của các người bất cứ lúc nào.”

Câu nói cuối cùng đó thực chất chỉ là thủ pháp “vẽ rồng thêm mắt” của người viết, rất có thể là ảnh hưởng từ truyện Tiếu lâm hoặc trích từ Phật môn. Còn đối với câu chuyện về oan hồn chết đuối, trong những cuốn tiểu thuyết từ thời Tống đã nhiều lần đề cập đến, tác dụng giáo dục mà những câu chuyện đó mang lại chính là khuyên mọi người đặc biệt lưu ý khi qua lại những khu vực ven sông, nơi đã từng có người bị chết đuối, không những không nên lội nước mà tốt nhất hãy tránh xa khu vực đó một khoảng cách an toàn. Bài học có ý nghĩa cảnh báo đặc biệt với những ai sống trong khu vực nhiều sông, hồ, kênh, rạch.

Một khi những hồn ma đã tìm được người thế thân, họ sẽ ra sức tìm cách lôi kéo, dụ dỗ, hoặc sử dụng những trò lừa gạt, bịp bợm, hoặc dùng chính nhan sắc để mê hoặc. Người viết cố ý nhấn mạnh và đưa ra lời cảnh báo tới những gia đình sinh sống ở ven sông, vì trên thực tế, phần lớn những hồn ma chết đuối đều có liên quan tới những vụ án trên sông nước, cho nên những linh hồn ấy nếu chưa được siêu thoát chẳng khác gì lũ thổ phỉ chuyên gieo tội ác, hãm hại người vô tội. Trong Di kiên giáp chí, cuốn bốn Tưởng Bảo vong mẫu của Hồng Mại thời Nam Tống có đoạn kể lại một cách súc tích, khúc triết và đầy sống động về vấn đề này:

Phác Tưởng Bảo một mình một ngựa rong ruổi về quê, đang chìm đắm trong cảnh sắc thôn dã giữa đem khuya tĩnh mịch, bỗng từ phía sau đi tới một giai nhân khoác trên mình bộ xiêm y trắng toát, cùng song hành đi tới bến nước trước mặt. Giai nhân mời mọc chàng cùng tắm tiên, nàng cầm vạt áo nhẹ nhàng cởi ra, rồi từ từ ngâm mình xuống nước. Bất chợt vang một lên tiếng gọi mơ hồ, ban đầu chỉ là những âm thanh vọng lại từ xa nghe không rõ, sau rõ dần, nghe ai oán như lời khóc mẹ. Trong lời than khóc có hàm ý răn đe: “Đồng hành giả phi hảo nhân, thiết bất khả dữ dục [10” Lời nói vừa dứt, Phác Tưởng Bảo vội vã lội vào bờ, phi ngựa chạy thẳng đến nhà dân gần đó. Khi trấn tĩnh ngoái đầu nhìn lại chỉ còn thấy chiếc áo trắng phất phơ, mập mờ rồi biến mất.

[10] Có nghĩa là: Người đi cùng không phải là người tốt, tuyệt đối không nên tắm chung.

Câu chuyện nhằm đưa ra bài học đề cao cảnh giác, ý nghĩa của bài học này không chỉ có tác dụng đối với nhân dân sống ở những vùng sông nước, mà suy rộng ra ở những nơi như tụ điểm cờ bạc, lầu xanh cũng có hiện tượng “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” dưới nhiều dạng thức khác nhau. Như vậy có thể nói, tác dụng giáo dục của những câu chuyện ma quỷ là thiên biến vạn hóa, có thể áp dụng vào nhiều trường hợp khác nhau trong cuộc sống, tuy chưa thật đầy đủ nhưng cũng có thể bổ sung một cách phong phú và cụ thể hơn cho tư tưởng “thần giáo” theo quan niệm của dân gian.

Trong Tử bất ngữ của Viên Mai, cuốn ba, Thủy tiên điện có đoạn viết: Một chàng thư sinh, trên đường vào kinh hưởng bổng lộc vua ban, tình cờ gặp một người áo đen, người này đã dùng hết lời ngon tiếng ngọt dụ dỗ chàng theo nàng ta xuống “Điện Thủy tiên” dạo chơi vãn cảnh. Khi cánh cửa sơn son thiếp vàng mở ra, từ phía tây hồ nổi lên một cung điện uy nghi lộng lẫy, bên trong xuất hiện vô số các cung nữ với xiêm y lộng lẫy đang say sưa trong lời ca điệu múa. Người áo đen chỉ tay và nói: “Kia là chốn bồng lai tiên cảnh, chàng hãy cùng ta ở lại đây ngắm nhìn các mỹ nữ, thưởng nhạc họa thơ, cuộc sống như vậy chẳng phải vui vẻ lắm sao?” Câu chuyện này còn ngụ ý một lời khuyên sâu sắc gửi tới các bạn thanh niên trẻ tuổi không nên ham mê quá đà vào những trò ăn chơi nơi vũ trường, quán xá. Với ý nghĩa đó, câu chuyện đã vượt qua cả giới hạn bó hẹp của phạm vi “kể chuyện ma quỷ” mà vươn ra tầm xã hội, mang đến những bài học giáo dục thiết thực nhất. Những câu chuyện ma quỷ được ghi chép lại trong Hữu đài tiên quán bút ký có sử dụng rất nhiều yếu tố huyền ảo nhằm huyễn hoặc con người, chẳng khác nào dùng tấm màn che nhiều màu sắc che khuất tầm nhìn của người khác, khiến họ không thể thấy được lối đi mà chỉ còn cách men theo những thanh vịn lan can chới với để qua cầu.

Từ những hành vi ma quỷ đó, có thể thấy đây đều là những âm mưu xấu xa nhằm hãm hại người khác để chuộc lợi về mình, vì thế cả “giang trành” và “hổ trành[11]” đều chẳng kém gì lũ lừa gạt, đê hèn, bỉ ổi, xấu xa… chúng đôi khi còn giống nhau ở ngay thủ đoạn và hành vi hại người. Như trong Tùng song mộng ngữ của Trương Hãn đã ghi lại trường hợp hai thư sinh bị chết đuối trên sông. Để mình có thể được đầu thai luân hồi vào kiếp khác, họ đành phải hóa thành hai kiều nữ chốn “thanh y” hòng dụ dỗ những chàng thư sinh tuấn tú đồng môn của mình. Cho nên, điều bị coi là “ích kỷ” ở đây thực chất lại là những mong muốn chính đáng, không có sự lựa chọn nào khác buộc họ phải sử dụng những thủ đoạn tàn ác đẫm máu, đó chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của những hồn ma khát khao được luân hồi chuyển kiếp mà không còn cách nào. Thành thử suốt khoảng thời gian mấy chục năm về trước, một loạt những quy định nghiêm ngặt về “bạch phân chi ngũ” hóa ra đều là mong tìm được người thế mạng. Tuy nhiên, trong thời điểm đó cũng xuất hiện những hồn ma cao thượng, chịu chấp nhận số kiếp lưu đày khổ ải mà không cần thế thân. Câu chuyện của Vương Lục Lang trong Liêu trai chí dị chắc hẳn đã quá quen thuộc với mọi người, vì thương tình Vương Lục Lang mà Thiên đế đã ban cái chết cho một cô gái làm oan hồn thế thân cho chàng ta, nhưng thật không ngờ sau bao ngày tháng trông mong có một vận may để đầu thai, siêu thoát, vậy mà đến lúc cần đưa ra quyết định, anh ta lại lựa chọn chấp nhận mãi mãi làm oan hồn lênh đênh chìm nổi trên mặt nước mà nhường lại cơ hội sống sót cho người con gái vô tội kia. (Câu chuyện này về sau còn được dùng để nói tới quan điểm về sự báo ứng ở đời, nhưng khi đưa vào “cảm ứng thiên bàng chứng” lại dùng để nói tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống). Một ví dụ khác trong Hữu đài tiên quán bút ký, cuốn sáu, có kể lại câu chuyện về một người chẳng may sa chân xuống nước mà chết đuối, mặc dù không giống hành động của Vương Lục Lang, nhưng nhân cách của anh ta cũng được xem là cao thượng, vì bắt đầu từ giây phút anh ta lìa khỏi thế gian và chìm dưới đáy nước, anh ta cũng không hề có ý định hại người hòng thế mạng cho mình, cho nên những hồn ma chết đuối ấy tất nhiên cũng được nhân dân coi thờ như những vị thần tốt bụng luôn bảo vệ cuộc sống của con người.

Đối với những hồn ma tìm cách hãm hại người vô tội để thế mạng một cách vô lý, Viên Mai, nhà thơ nổi tiếng đời Thanh cũng đưa ra nghi ngờ, trong Viết tiếp tử bất ngữ, cuốn ba, Đả phá quỷ lệ có đoạn viết:

Đêm khuya thanh vắng, chàng thư sinh họ Lý đang say sưa đọc sách bên dòng suối cạnh nhà, bỗng từ xa vẳng lại một giọng nói đầy ma mị: “Ngày mai sẽ có người qua sông, và thế thân cho ta.” Ngày hôm sau, quả nhiên có người qua sông, chàng thư sinh họ Lý bèn tìm cách ngăn anh ta lại.

Đêm về, hồn ma hôm trước đến trách mắng: “Nhà ngươi cớ sao lại ngăn cản việc ta tìm người thế thân?” Chàng thư sinh họ Lý đáp: “Vạn vật đều có quy luật luân hồi, tại sao ngươi không chờ đợi đến kiếp luân hồi mà nhất nhất phải tìm người thế thân cho mình?” Hồn ma đáp lại: “Lệ thường dưới âm phủ trước nay đều như thế, ta cũng không thể làm khác. Ta đâu có được may mắn như người sống giữa chốn trần gian, đi học thì được cấp lương, được làm quan, chức quan còn trống tất nhiên sẽ có người được bổ khuyết, ngươi nghĩ xem như vậy chẳng phải là quá may mắn hay sao?” Chàng thư sinh họ Lý đáp: “Nói như ngươi thì quả là nhầm lẫn quá rồi! Học trò đi học được nhà vua cấp lương thảo, quan lại được hưởng bổng lộc vua ban, người dân trong thôn cùng xóm vắng ai nấy đều có phần, vậy thì chẳng thể nói là lãng phí, tất cả đều có định mức được quy định rõ ràng, không thể là việc làm tùy tiện, bất đắc, bất nhiên được. Hơn nữa cuộc sống trần gian và địa phủ, giữa âm và dương vốn khác xa vời vợi, tự sinh tự diệt, mình làm mình hưởng, vì thế tạo hóa chỉ có công quản lý của cải và phân chia công bằng cho tất cả mọi người mà thôi.” Hồn ma lại nói: “Vậy với kẻ quân vương, hai chữ thịnh suy, thế ngôi thì giải thích làm sao?” Lý đáp: “Nhà ngươi còn hỏi tới chuyện thế ngôi sao? Các vương triều thay thế nhau là điều tất yếu của lịch sử, việc nhà ngươi đến để kéo ta làm người thế thân, lại còn hỏi ta về việc luân vương, thật chẳng khác nào mắng người trước mặt.” Hồn ma cười lớn, nhảy múa mà đi, từ đó không thấy quay lại nữa.

Viên Từ nói tới ma quỷ mà không tin ma quỷ, trong những câu chuyện cổ dân gian vẫn thường thấy có những cách hỏi vặn như vậy, qua đó hàm ẩn rất nhiều những kiến giải đặc sắc về cuộc sống, con người, về nhân tình thế thái. Ông đưa ra một ví dụ về chuyện ma quỷ ở thế giới địa phủ, nhưng từ chuyện cõi âm mà người ta có thể dễ dàng hình dung, liên tưởng tới cõi dương, đây là dụng ý lấy âm chỉ dương của người viết. Mục đích của câu chuyện không phải là chuyển luân vương mà là chính chúng ta, những con người đang sống trong thế giới thực tại.

Nhưng tại sao chúng ta lại không có cơ sở khoa học lý giải điều này mà phải mượn cớ hồn ma đáng thương tự tìm đến phiền phức trong câu chuyện để gửi gắm suy nghĩ của mình? Quả thực, ngay cả những gợi dẫn từ trong câu chuyện dân gian, Viên Tử cũng mới chỉ đưa ra những gợi ý cho những nghiên cứu sau này. Khiêm nhường đưa ra cách lý giải xuất phát từ căn nguyên của câu chuyện này để gửi thông điệp cảnh báo tới mọi người nên tránh xa những mép nước nguy hiểm. Ngoài ra, thông qua câu chuyện này, người viết còn muốn đưa ra lời cảnh báo thứ hai, lời cảnh báo dành cho những ai có ý định nhảy sông tự tử, đừng coi thường mạng sống của mình, nói một cách khác chính là ông lên tiếng phản đối những suy nghĩ tiêu cực muốn tìm đến cái chết hòng trốn tránh cuộc đời. Tất nhiên, với những hồn ma tự vẫn như vậy ít có nhiều liên quan đến nguyên nhân do cuộc đời đưa đẩy.

Quả thực, những tài liệu nghiên cứu hiện đã có thể phản ánh phần nào một cách chân thực hoàn cảnh lịch sử của thời đại. Những câu chuyện về “nịch quỷ cầu đại[12]” xuất hiện muộn nhất vào cuối đời Đường. Nếu so sánh với những câu chuyện về “ải quỷ cầu đại[13]” xuất hiện vào thời Nam Tống thì là xuất hiện sớm hơn mấy trăm năm. Từ những ảnh hưởng khách quan, có thể thấy, so với “ải quỷ”, “nịch quỷ” có tác động xấu, phá hoại và làm ô nhiễm môi trường sinh thái của chúng ta, vì thế đối với “nịch quỷ”, mọi người thường có thái độ phản cảm. Nói một cách mang tính chất thăm dò thì mặc dù trong lịch sử có nhiều người chết vì treo cổ hơn những người chết vì chết đuối, nhưng có vẻ như càng về sau này số vụ chết đuối ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra là có nên nâng cao trình độ “thuyết phục” một bộ phận những người có suy nghĩ coi thường mạng sống muốn nhảy sông tự vẫn sang treo cổ tự vẫn? Về vấn đề này thật khó để đưa ra những con số thống kê chính xác, chúng tôi cũng chỉ xin dừng lại ở một vài suy nghĩ mang tính chủ quan như vậy.

[12] Hồn ma chết đuối tìm người thế thân.

[13] Hồn ma treo cổ tìm người thế thân.

Nói đi nói lại, dù sao đã dám cả gan đề cập đến những vấn đề này thì cần phải có thái độ dứt khoát, hoặc là làm hoặc là không. Một khi đã nhắc đến hồn ma chết đuối thì phải nói thêm về những linh hồn vì treo cổ tự tử mà chết. Trên đây đã nhắc tới “ải quỷ cầu đại”, thì cũng nên nói rõ hơn về chủ đề này.

Hồn ma treo cổ

Trong Duyệt vi thảo đường bút ký của Kỷ Vân đã dẫn một câu chuyện nói về một tên côn đồ, qua đó phân biệt rõ hai loại hồn ma, một loại chết chìm dưới giếng, một loại khác treo cổ tự vẫn, cả hai hình thức tìm đến cái chết đó đều cần phải đắn đo vì chẳng ai có thể biết lựa chọn nào là thích hợp.

Trong Đường ngôn có một câu nói: “La bặc bạch thái các hữu sở ái[14]”, một câu nói khác cũng có ý nghĩa tương tự: “Đầu hà thượng điếu, các hữu sở hiếu[15]” Tại sao lại có những người dễ dàng tìm đến cái chết mà không biết trân trọng cuộc sống của mình? Tất nhiên phải tìm đến con đường không lối thoát như vậy cũng có nhiều nguyên nhân từ hoàn cảnh đến tâm lý, nhưng nghĩ kỹ lại thì còn có một nguyên nhân khác xuất phát từ chính “sự thoải mái” trong quá trình đơn giản hóa cuộc sống và cái chết, nên những người tự tử ngày càng một gia tăng đã trở thành điểm nóng của xã hội.

[14] Ngay cả loài củ cải trắng còn có tình yêu.

[15] Cúi đầu trên mặt sông xót thương người đã chết cũng là biểu hiện của tình thương yêu.

Không biết là bắt đầu từ khi nào, thắt cổ tự vẫn đã trở thành phương thức thường dùng nhất của những người muốn tự sát. Mặc dù, đó không phải là cách thể hiện “oanh liệt” nhất, nhưng không thể nghi ngờ đó là hình thức tiện lợi và nhanh chóng nhất. Và đó cũng là hình thức thường dùng của các vị hoàng đế ngày xưa. Thời Xuân Thu, Sở Linh Vương, Ngô Vương là những vị hoàng đế cao quý đã lựa chọn đến với cái chết bằng cách treo cổ tự vẫn bên gốc cây trên đỉnh Vạn Tuế sơn. Còn đối với những người dân thường, thì trong Tự quái đông nam ký có miêu tả, từ những ngôi nhà tranh ven sông thường vọng đến những âm thanh thảm thiết, đó là tiếng khóc thương, than vãn của những người dân thường khi họ đi tới bước đường cùng buộc phải tìm đến cái chết trên xà nhà để giải thoát cho chính mình.

Ở thời cổ đại, hình thức tự sát rõ ràng không phải là “cái mốt đa dạng” theo kiểu “quang điện hóa khí” như thời hiện đại, nhưng cũng có một vài hình thức để lựa chọn. Vậy mà cách họ tự sát cũng oanh liệt chẳng kém gì Sở Bá Vương hay Vưu Tam Thư. Bởi lẽ ở họ có dũng khí, có sự lợi hại mà người bình thường không thể có, khi thì nhảy lầu, lúc lại rơi từ trên đài cao xuống… Hình thức tự sát ở thời cổ đại cũng có những đặc quyền nhất định, trong đó mức thấp nhất chính là hình thức bêu xấu trên khán đài, rồi ép uống thuốc độc, nhốt vào nhà lạnh hoặc xông khói độc… Không nói đến những phí tổn do các hình thức tự sát này gây ra, rõ ràng thời nay chúng ta không thể dễ dàng theo được cha ông ta về sự “tinh tế” và “mức độ sáng tạo” như thế. Nói đi nói lại, lựa chọn hình thức tự vẫn treo cổ hay nhảy sông vẫn đỡ tốn kém chi phí nhất. Hơn nữa, hình thức treo cổ lại không câu nệ về mặt thời gian, địa điểm hay bị người ngoài xoi mói, bắt bẻ nhiều điều. Nói một cách khác thì hình thức này vốn không bị phụ thuộc vào địa hình, địa thế, chỉ cần chuẩn bị một sợi dây đủ đỡ trọng lượng cơ thể mình là có thể đạt được mục đích rồi. Từ những điểm trên có thể thấy treo cổ tự vẫn vẫn là hình thức tiện lợi mà từ những người bình dân đến dòng dõi quý tộc thường lựa chọn mỗi khi muốn tìm đến cái ch

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN