Khương Hoán không phải ngôi sao, ít nhất anh tự cảm thấy thế. Nhưng trong mắt những người thuộc giới phim nghệ thuật [1] vừa nhỏ bé vừa lạnh lùng thì Khương Hoán là một ngôi sao lớn. Anh ít nói, yêu nghề, bốn bể là nhà, xuất thân không rõ, đóng phim thích làm khổ mình lẫn làm khổ đạo diễn, song dù vậy vẫn trở thành ánh trăng sáng của rất nhiều người.
[1] Phim nghệ thuật là bộ phim độc lập nghiêm túc nhằm vào một thị trường thích hợp hơn là nhằm vào số đông khán giả đại chúng.
Ngoại hình của Khương Hoán không phải kiểu đẹp trai mắt to mày rậm truyền thống. Khóe môi anh mạnh mẽ, mắt một mí mỏng nhưng lông mi dày, con ngươi màu đen sâu thẳm mang đến cảm giác thần bí tựa một chú mèo, khiến người ta đã nhìn là không quên.
Có điều so ra thì ngoại hình có vẻ đang dần trở thành điểm ít hấp dẫn nhất của Khương Hoán.
Trong một buổi phỏng vấn với tạp chí điện ảnh, đạo diễn bộ phim Mặt trời xanh Hứa Vi Thủy từng cho phóng viên xem bức ảnh khiến ông nhìn trúng Khương Hoán.
Đường phố London một ngày âm u, Khương Hoán ngồi xổm ven đường hờ hững nhìn con chim bồ câu ăn vụng cạnh chân mình, ánh mắt vừa như dò xét vừa có chút hoang mang, chiếc balo màu đỏ của anh cực kỳ nổi bật giữa đất trời xám ngắt.
“Thần thái của cậu ấy quá đặc biệt.” Hứa Vi Thủy giải thích: “Rất cuốn hút, không nhịn được muốn tìm hiểu rốt cuộc cậu ấy vừa trải qua những gì… Trông cậu ấy cô đơn và lạnh nhạt, đồng thời cũng rất phóng khoáng, không có vướng bận, tràn đầy bí ẩn… Khoảnh khắc cậu ấy trùng khít với nhân vật tôi tìm kiếm đã lâu, tôi quyết định bắt buộc phải thuyết phục cậu ấy diễn.”
Hứa Vi Thủy cho rằng thành công của Mặt trời xanh là nhờ cảm giác tự sự độc đáo ở Khương Hoán, mức độ phù hợp giữa anh và nhân vật cùng với phản ứng hóa học của hai diễn viên.
Các đạo diễn và diễn viên từng hợp tác với Khương Hoán đều nhận xét tương tự, khen anh diễn xuất nhập tâm, có tinh thần cầu tiến, nhập vai một cách thỏa đáng, còn cực kỳ hấp dẫn.
Liên tiếp hai tác phẩm Mặt trời xanh và Đợi gió đến lọt vào danh sách rút gọn hạng mục “gây chú ý” tại Cannes, Mặt trời xanh đoạt giải phim hay nhất ở hạng mục này, Đợi gió đến công chiếu trong nước, là phim nghệ thuật có doanh thu phòng vé gần vượt mốc một trăm triệu, trở thành hắc mã bứt phá nhất trong số các bộ phim chiếu cùng năm.
Từ đó Khương Hoán trở thành cái tên nổi tiếng trong giới phim nghệ thuật nước nhà.
Cánh truyền thông tập trung chú ý vào ngôi sao mới nổi này và nhanh chóng nhận ra sự đơn độc khác thường của anh: từ chối phỏng vấn, từ chối chương trình tạp kỹ lẫn chương trình thực tế, tần suất cập nhật Weibo cực kỳ thấp, dường như chỉ dành thời gian cho phim ảnh và cuộc sống riêng.
Hai lần anh vào đoàn làm phim đều khó nắm bắt hành tung, bình thường chỉ có tình cờ bắt gặp mới biết được tung tích.
Anh không cố tình tránh né ai, có thể nói chuyện nhưng từ chối ký tên và chụp ảnh chung. Thái độ mâu thuẫn mà thờ ơ này thường thấy ở các diễn viên, ngôi sao đã được anh quán triệt suốt nhiều năm, ngạc nhiên là chưa nhận bất cứ đánh giá xấu nào.
Quản lý Trương Annie bày tỏ: “May sao đám săn ảnh không hứng thú với cậu, chỉ sợ gặp phải fan cuồng cực đoan thôi.”
Khương Hoán trả lời cô: “Kệ họ đi.”
Trương Annie nói: “Chị bắt đầu hơi lo một ngày nào đó cậu qua lại thân thiết với fan.”
Khương Hoán ngẫm nghĩ giây lát: “Chưa chắc.”
Khi ấy câu trả lời của anh làm Trương Annie giật nảy mình, rối rít hỏi đã xảy ra chuyện gì. Khương Hoán không hiểu, nhìn nét mặt muốn nói lại thôi của Trương Annie mới biết có lẽ chị lo mình ngủ với fan mà giấu.
Khương Hoán cạn lời, phủ nhận ngay: “Sao thế được.”
“Chưa chắc.” Đến lượt Trương Annie giễu cợt: “Cái giới này hai loại người dễ phát sinh quan hệ nhất là người cùng ngành và fan. Fan nam của cậu quá đông, nhỡ gặp ai mặt mũi hợp gu cậu thì sao?”
Sự thật chứng minh ở một vài khía cạnh Trương Annie vẫn rất hiểu Khương Hoán, trống vắng ba năm, cuối cùng anh cũng ngủ với fan rồi.
Khương Hoán sinh ngày 2 tháng 1, cung Ma Kết, vừa bước sang tuổi ba mươi. Tuổi này đã chịu tiêm nhiễm trong giới nghệ thuật gần mười năm, dĩ nhiên không thể nào chưa yêu bao giờ.
Người đầu tiên là diễn viên nam đóng cùng anh trong Mặt trời xanh, trong phim làm hại nhau ngoài đời lại vừa ý nhau. Nhưng sau hai tháng mối quan hệ này đi đến hồi kết, Khương Hoán đề nghị chia tay mà chẳng đưa ra lý do gì. Bây giờ người kia sự nghiệp và gia đình đều viên mãn, dịp lễ tết thi thoảng hỏi han, còn đâu cả hai như người xa lạ.
Người thứ hai tương đối đặc biệt, là một người theo chủ nghĩa độc thân nổi tiếng trong giới làm việc sau hậu trường. Mối quan hệ kéo dài gần bốn năm, nguyên nhân nghề nghiệp dẫn đến gặp nhau thì ít xa nhau thì nhiều, không nghe nói giữa hai người tồn tại kỷ niệm lãng mạn hay đau khổ, cuối cùng chia tay trong hòa bình vào năm Khương Hoán hai mươi tám tuổi.
Từ bấy trở đi Khương Hoán không hẹn hò nữa, rặt một vẻ hiểu thấu sự đời không thiết tha gì. Trương Annie từng lo có khi nào mối tình thứ hai tạo thành di chứng, nhưng Khương Hoán nói không liên quan đến nó.
Vì sao lại thích, vì sao lại chia tay, vì sao lại giữ khoảng cách với tất cả những người bày tỏ thiện chí với mình? Mỗi lần được hỏi Khương Hoán đều suy tư rất lâu, sau đó trả lời bằng giọng điệu chậm rãi đặc trưng của mình: “Thì… Cảm thấy đến đích rồi, không muốn đợi, cũng không muốn tạm bợ.”
Cho nên khi Dụ Hà ngỏ lời muốn ngủ với mình một lần, Khương Hoán đồng ý cũng là bởi “cảm thấy đến đích rồi”.
Suy nghĩ của cậu trai tuổi đôi mươi đầy táo bạo, nhắc đến thứ yêu thích là nói mãi không ngừng. Trước mặt anh cậu không ngại ngùng hay tỏ vẻ, từ cơ thể, nét mặt đến lời nói đều thẳng thắn, dù có mục đích thì cũng trong sáng tới nỗi gần như ngây thơ.
Tiếp xúc với Dụ Hà mấy ngày, Khương Hoán chưa từng cảm thấy Dụ Hà có điểm nào không tốt.
Câu “không giống anh” không đầu không đuôi trong bình luận khiến anh nhớ đến thời điểm nhận được bức phác họa. Tâm trí anh vẫn vẹn nguyên ánh mắt của Dụ Hà, ngón tay cầm bút chì và hàng mi run run khi họ hôn nhau.
Anh kìm lòng không đặng mím môi.
Khương Hoán ôm ấp dự cảm diệu kỳ mở trang cá nhân của chủ bình luận. Ảnh đại diện là tấm phông màu tím dùng cho cảnh cuối phim Mặt trời xanh, ba ngày trước người này đăng bài nói làm mất thẻ nhớ máy ảnh, icon mặt khóc thương xót đống ảnh vẫn chưa xuất file.
Đến đây Khương Hoán chắc chắn tài khoản này là Dụ Hà, bởi lẽ chiếc thẻ nhớ ấy đã trở về với chủ nhân của nó, do chính anh giúp tìm lại.
Có thể bóng lưng khi Dụ Hà đi quá gọn gàng dứt khoát, khiến Khương Hoán tin cậu chẳng chút luyến lưu, thế nên cũng cho rằng bình luận đơn giản này chỉ là câu trả lời bình thường, sau khi phát hiện Dụ Hà còn theo dõi tài khoản của mình thì Khương Hoán thoát Weibo.
Dụ Hà không muốn lưu cách liên lạc của anh, có lẽ cậu sợ cả hai dây dưa không rõ.
Vốn dĩ quan hệ lên giường trước đã dễ nhầm lẫn giữa cảm xúc và h@m muốn, lý trí nhường chỗ cho hormone manh động, có thể dễ dàng gi ết chết một mối tình mong manh khi nó chưa kịp nảy mầm.
Nếu không có bình luận này, anh sẽ cảm thấy quyết định của Dụ Hà chín chắn, thận trọng và kiên quyết hơn hẳn lứa tuổi. Sương gặp nắng sẽ bốc hơi, tạm biệt như vậy cũng là một kết thúc không mấy tốt đẹp nhưng có thể diện với Khương Hoán.
Khương Hoán ngắm nghía điện thoại, ngón tay chậm rãi mân mê hình chạm nổi không bằng phẳng ở mặt sau ốp lưng.
Bỗng dưng anh hơi tò mò về Dụ Hà.
*
Gần trưa, mùa mưa vừa mới bắt đầu, tiếng mưa liên miên không ngớt, hệt như sương mù và gió tràn ngập khe núi kéo đến bao phủ bầu trời thị trấn Lâm Thủy.
Nước mưa nhỏ giọt xuống mái hiên tạo thành đường thẳng, tốc độ bình bình không nhanh không chậm, nhưng mãi chẳng thấy nhỏ đi.
Dụ Hà thay quần áo, cầm laptop sang quán cà phê cạnh nhà trọ tìm Bồ Tử Liễu, đây là nơi yêu thích của Bồ Tử Liễu từ ngày đầu đến Lâm Thủy, hiện giờ đã có chỗ ngồi cố định.
Cô ngồi bên cửa sổ cắn bút ngẩn ngơ, tóc còn hơi ẩm kẹp lại bằng kẹp càng cua.
Dụ Hà ngồi xuống gọi “đàn chị”, Bồ Tử Liễu hoàn hồn, lấy USB trong túi xách: “Ở trong đây hết.”
“Em cảm ơn chị.” Dụ Hạ không khách sáo với cô.
Chuyến du lịch nghiên cứu ở tỉnh Vân chủ yếu đi qua những ngôi nhà từ thời Minh, khu vực này khí hậu ẩm ướt, không còn nhiều kiến trúc bằng gỗ được bảo tồn hoàn hảo, thiết kế cũng hơi khác vùng Trung Nguyên và Bắc Bộ. Máy ảnh Bồ Tử Liễu mang theo trang bị ống kính Telephoto [2], dùng để chụp các chi tiết ở chỗ cao.
[2] Telephoto là loại ống kính được thiết kế để chụp các vật thể xa trong nhiếp ảnh thể thao, động vật hoặc những trường hợp mà người chụp không thể nào đến gần đối tượng chụp.
Máy tính nhà cậu đã cũ, cắm USB vào cũng đơ một lúc lâu.
Đến khi Dụ Hà bắt đầu xem các hình chạm khắc và tầng tầng lớp lớp đấu củng, cuối cùng Bồ Tử Liễu cũng chán đến mức không nhịn được phải nói chuyện với cậu.
“Thế là hôm qua em không đi tìm anh diễn viên kia thật à?” Cô không thích phim nghệ thuật, cũng không nhớ tên Khương Hoán nên gọi bằng tên trong phim: “Cái anh… trong Đợi gió đến, tên gì ấy nhỉ?”
“Lưu Tiểu Khải.”
“À đúng, Lưu Tiểu Khải.” Bồ Tử Liễu chống cằm ngắm nước mưa chảy xuống mái hiên: “Lúc đấy chị bị bạn cùng phòng lôi đi xem, trước khi xem chẳng biết diễn viên nào, còn tưởng là phim rác. Ai ngờ cảm động vãi, hôm ấy mascara của chị lem hết cả, nhất là đoạn Lưu Tiểu Khải tiễn Y Hà Nhĩ ra bến xe…”
Đợi gió đến là một trong những bộ phim ăn khách của Lam Chi Hoa, phong cách của nữ đạo diễn người Đài Loan luôn tinh tế, kể về tình cảm anh em kỳ diệu giữa chàng trai người Hán và cô gái Mông Cổ trong thời đại đặc biệt, kết thúc có hậu để lại một cái dằm trong tim khán giả, là câu chuyện dịu dàng mà tàn nhẫn.
“Cảnh cuối cùng Lưu Tiểu Khải đẹp trai phát khóc luôn.” Bồ Tử Liễu nói xong cũng bật cười: “Tất nhiên chị cũng khóc thật, vừa khóc vừa hỏi anh diễn viên này tên gì mà đẹp thế…”
“Tên là Khương Hoán.” Dụ Hà nói: “Hoán trong nghĩa thay đổi.”
Bồ Tử Liễu lặp lại, giờ thì nhớ tên rồi. Cô vẫn không bỏ qua: “Thế hôm qua em không đi gặp anh ấy hả?”
Dụ Hà im lặng, tập trung chọn ảnh mình cần.
“Nói đi mà Dụ Hà.” Bồ Tử Liễu đặt cốc cà phê xuống, dựa sát vào bàn: “Nói nhỏ thôi, chị không kể cho người khác đâu, mấy hôm nay em với anh ấy trò chuyện những đề tài gì?”
“Không có gì, chỉ phim ảnh thôi…” Dụ Hà đáp, khéo léo lảng tránh câu hỏi của cô: “Anh ấy là người của công chúng, nói vài câu với em đã may mắn cho em lắm rồi.”
Bồ Tử Liễu nghĩ thấy cũng phải, lại nói tiếp: “Anh ấy để tóc dài ghê, bây giờ ít gặp diễn viên nam để tóc dài.”
“Chắc kịch bản yêu cầu.” Dụ Hà ngẫm nghĩ: “Bộ phim anh ấy mới đóng máy, vai của anh ấy để tóc dài.”
“Không đội tóc giả hay nối tóc à?”
“Anh ấy nói.” Dụ Hà chần chừ giây lát, cảm thấy có lẽ tiết lộ ít chuyện vụn vặt cũng không sao: “Anh ấy bắt đầu nuôi tóc từ khi nhận lời mời đóng phim, thời gian đấy không bận, chắc là nuôi hơn hai năm, đến khi vào đoàn phim là vừa vặn. Nhưng phim chưa công chiếu, cũng không biết rốt cuộc có liên quan gì tới nội dung phim.”
Bồ Tử Liễu líu lưỡi: “Tận tâm với nghề quá vậy…”
Từ lâu nhịp độ cuộc sống của dân thành phố đã ngày càng nhanh, cảnh dùng phông xanh, hành động có hiệu ứng và diễn viên đóng thế, tóc là tóc giả, quần áo cũng sử dụng một lần, bỗng nhiên phát hiện còn có người kiên trì nuôi tóc dài suốt hai năm vì một bộ phim quay trong một trăm ngày, cuối cùng chỉ đóng một cảnh ngắn, phản ứng đầu tiên của cô không phải tán thưởng mà là sốc.
Bồ Tử Liễu lập tức cộng cho Khương Hoán một trăm điểm vì chi tiết nhỏ này, bày tỏ khi nào phim chiếu sẽ rủ bạn cùng phòng đi ủng hộ tiếp.
Dụ Hà nghe xong chỉ cười, không nói với cô rằng phim của Khương Hoán muốn ra rạp đều rất vất vả, lời hứa ủng hộ chẳng biết năm nào tháng nào mới thực hiện được.
“Em còn biết nhiều hơn chị.” Bồ Tử Liễu tự giễu: “Chị hỏi được không? Dụ Hà, bọn em gặp nhau thế nào? Hôm đó em không trả lời chị, chỉ nói em gặp anh ấy rồi.” Cô hào hứng như thể đã giúp Dụ Hà bắt đầu một câu chuyện lãng mạn: “Có phải cực kỳ trùng hợp không, sau khi quen biết nhận ra anh ấy vô cùng khác?”
“… Không khác.” Dụ Hà ngừng một chốc: “Cũng không trùng hợp, do em mặt dày thôi.”