Sao Đen - Chương 30: CUỘC HỌP KÍN CỦA BỌN PHỤC THÙ
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
118


Sao Đen


Chương 30: CUỘC HỌP KÍN CỦA BỌN PHỤC THÙ



Tôi đã nhận được bức điện hiếm hoi của Trung tâm chỉ huy từ Tổ Quốc phát đi. Tôi nói là hiếm hoi vì đây là lần đầu tiên sau hơn ba chục phiên trực vô hiệu. Sự chuyển tải phức tạp máy tiếp sóng công suất yếu nên các tín hiệu đều mờ nhạt rất khó nhận. Nhưng may sao chúng tôi vẫn hiểu được những gì cậu tôi muốn nói với chúng tôi. Tôi không thể nói lại điều gì với cậu vì chúng tôi không thể phát tin theo chiều ngược lại, nhưng chúng tôi hy vọng cậu hiểu được tấm lòng thương nhớ của chúng tôi.

“Hoàng Quý Nhân sẽ ra nước ngoài”. Đó là điều hoàn toàn có thể. Qua câu chuyện với Tùng Lâm, tôi thấy anh ta nói nhiều đến lực lượng mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo tài ba của một thủ lĩnh mới đã gây cho nhà cầm quyền rất nhiều khó khăn. Lực lượng quốc nội đó sẽ liên hệ chặt chẽ với những người lưu vong để chơi lại ván bài từ đầu với Cộng sản.

Phải chăng nhà lãnh đạo tài ba này chính là Hoàng Quý Nhân? Không! Tôi tự bác bỏ phán đoán của mình. Tướng mạo Nhân không thích hợp với một chính trị gia. Y là một tên đao phủ, một kẻ khủng bố thì hoàn toàn có thể. Ngữ ấy mà giương ngọn cờ chính trị lên thì làm sao thu hút được quần chúng? Nhưng Bạch Kim đã không đồng ý với tôi.

– Anh quan niệm bộ mặt chính khách tay sai phải như thế nào? Tướng Thiệu, tướng Kỳ còn làm được tổng thống, thủ tướng thì tại sao Hoàng Quý Nhân lại không có thể?

– Thì chính những tên quân phiệt đó đã trở thành biểu tượng cho thảm bại, thế thì một tên mật thám thờ ba đời chủ làm sao đủ uy tín tập hợp lôi kéo được những lực lượng chính trị?

– Trâu tìm trâu, ngựa sẽ tìm ngựa. Anh chẳng đã từng nói mục tiêu chiến lược trước mắt của kẻ thù là làm chảy máu Việt Nam. Chúng chưa có cơ hội tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược mới, hoặc gây bạo loạn lật đổ Nhà nưởc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Như vậy chúng lựa một tên đao phủ, hay tên khủng bố chuyên nghiệp lãnh đạo tổ chức phản động này là thích hợp chứ sao nữa.

Nhận xét của Bạch Kim rất lô gích làm cho tôi không thể loại trừ. Tôi cười dàn hòa:

– Thôi được. Dù Hoàng Quý Nhân ở cương vị nào thì ta cũng phải đối phó với tình huống này. Có ba điểm ta phải quan tâm. Thứ nhất: Nhân có thế qua Westland , nơi tụ tập những tổ chức gọi là “lực lượng chi viện tiền tuyến”. Ở đây Nhân có thể gặp Warrens để tiếp thụ những kế hoạch phá hoại rộng lớn hơn. Thứ hai: Nhân có thể đến gặp vợ ở Hồng Kông. Việc Trung Quốc tiến công sáu tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy bọn bành trướng rất quan tâm đến chuyện câu kết với bọn phản động nội địa. Và bọn phản quốc cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội bắt tay với kẻ thù mới của dân tộc. Thứ ba là ngay tại đây, Los Angeles là trụ sở thường trực của Liên minh Việt kiều Hải ngoại. Nhân có thể đến đây tìm kiếm sự ủng hộ của nhiều thế lực phục thù ở Mỹ, tranh thủ sự tài trợ của bọn lưu vong giàu có. “Mọi con đường đều dẫn tới Washington “. Đồng đô-la vẫn là thần bảo mệnh của bọn chúng. Chỉ có một khó khăn là cả hai chúng ta đều không có khả năng điều tra trực diện Hoàng Quý Nhân.

– Ta nhờ anh Ân được không?

– Ngay từ cuộc hội thảo lần trước anh Ân đã chống lại quan điểm của bọn phục thù. Anh cũng không có trong ban lãnh đạo. Dĩ nhiên ta cũng thông qua anh Ân để biết thêm hoạt động của Hoàng Cơ Bảo. Còn mối tình của em với Hoàng Bảo Thạch hồi này ra sao?

Bạch Kim đấm vào lưng tôi rồi nguýt dài:

– Nói thế mà nghe được!

– Anh xin lỗi, anh muốn nói “mối tình vờ” đó ra sao?

– Hoàng Bảo Thạch vẫn ve vãn em. Y tỏ ra rất chú ý đến chuyện em định bỏ ra hai trăm ngàn đô-la đầu tư vào ngành dệt ở Hồng Kông. Thạch mê em có lẽ cũng vì món hồi môn đó!

– Em sẽ qua hắn mà thu lượm mọi tin tức về Hoàng Quý Nhân.

– Còn anh?

– Anh sẽ đi Voca City chuyến nữa. Ở đấy còn nhiều việc lắm.

Tôi bay đi Forthworth thăm Antonio. Vợ chồng anh thân tình đón tiếp tôi. Hai anh chị và cháu gái nhỏ sống ở thành phố này. Thỉnh thoảng họ mới trở về trại Oliver.

Tôi được Antonio cho biết; tiểu thư Miguel đã lấy chồng. Chồng cô, Ramiro Alonzo trước đây là một điền chủ giàu có ở Del Joinville. Anh ta đã bỏ ra hai chục năm trời để sưu tập những di vật văn hóa của thổ dân sống trên dãy Andes thuộc vùng núi lửa Veneltéla. Ramiro đã bán hết gia sản đi để có được một viện bảo tàng. Chẳng bao lâu nguồn tài chính của anh khô kiệt, anh phải đi vay nợ để tiếp tục công việc. Nhưng món nợ lãi đó đã làm anh phá sản. Nếu anh chịu bán bộ sưu tập đồ sộ của mình cho những kẻ sán lùng cổ vật ở Mỹ thì chẳng những thừa sức để trả nợ mà số dư còn đủ sống suốt đời, nhưng Ramiro đã không làm như thế. Anh lo những di vật vô giá đó lọt vào tay bọn giàu có Bắc Mỹ. Anh cầu cứu chính phủ giúp đỡ nhưng bị từ chối. Không còn cách nào khác, Ramiro Alonzo đành viết giấy hiến toàn bộ tài sản của mình cho thành phố Del Joinville với yêu cầu duy nhất là giữ lại những thứ đó cho nhân dân địa phương. Anh phải trốn sang Mỹ với cái tên giả Vera Sauna. Con người nghèo khổ lang thang đó đã gặp được một tâm hồn đồng điệu. Alonzo đã cùng Miguel lập nên một hội từ thiện lấy biểu tượng “Rắn lông chim”. Họ đang có chủ trương đến Việt Nam để điều tra những hậu quả của chất độc màu da canh đối với môi trường sống và những di chứng trên cơ thể con người. Họ sẽ vận động quyên góp tiền bạc để giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh.

– Cảm ơn các anh chị, những người Mỹ nhân hậu bao giờ cũng quan tâm đến đất nước Việt Nam chúng tôi – Tôi nói với Antonio.

– Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Bất cứ nơi nào tội ác còn ngự trị hoặc để lại những di họa thì nơi đó vẫn phải là nỗi đau chung của nhân loại.

– Anh làm cho tôi nhớ đến câu thơ của John Donne.

… Cái chết mỗi con người làm ta bé nhỏ đi

Ta hòa nhập với Nhân quần rộng lớn.

Xin đừng hỏi: Chuông nguyện hồn ai thế?

Chuông nguyện cầu cho chính cả hồn anh.

– Đúng như vậy. Mỹ đã rút khỏi Việt Nam , nhưng vẫn mang trên mình những vết thương tinh thần và thể xác nạng nề. Tôi yêu nước Mỹ của tôi, tôi muốn hiến dâng cả cuộc đời cho nước Mỹ, nước Mỹ tự do của Washington, của Lincoln… chứ không phải của bọn 3K, bọn tỉ phú. Tôi đi viết ở những vùng nguy hiểm không phải do tính hiếu kỳ, phiêu lưu thúc đẩy. Tôi muốn cho hình ảnh nước Mỹ tốt đẹp lên.

– Tôi định đi Bangkok rồi đi Westland một lần nữa. Anh có muốn đi với tôi không?

– Chuyến đi vừa rồi tôi mới đến được Chiang Rai. Tôi muốn vượt biên giới sang Mae Sai nhưng không được. Một người da trắng không thể trà trộn vào đám dân bản xứ. Tôi mới đến được cạnh của vùng “tam giác vàng” chứ chưa lọt vào nổi.

– Anh có tìm được điều gì thú vị không?

– Qua chuyện trò với những người ở Chiang Rai tôi được biết vùng ba biên giới này vốn là nơi cư trú của người H’mông, người Yao , người Shan… Họ có nghề trồng thuốc phiện từ lâu đời. Khi Quốc Dân đảng Trung Hoa bị quét khỏi lục địa, tàn quân của quân đoàn 93 của tướng Li Mi đến trú ngụ ở vùng này. Những người Tàu đã biết tăng nhanh sản lượng thuốc phiện và tiêu thụ thuốc phiện bằng cách thiết lập những đường dây thương mại với Bangkok, Hongkong, Ma Cao, Chợ Lớn, Đài Bắc, Singapor… Không ai dám đến vùng núi cao hiểm trở này kể cả quân đội của chính phủ. Đó là nơi tị nạn của bọn cướp thuộc nhiều chủng tộc, được trang bị mạnh. Hai nhân vật nổi lên chi phối vùng này là Le-wen Fan và Tuan Si Wan. Chúng lập đại bản doanh ở Tham Ngob và Mac Salong. Chính phủ Bangkok làm ngơ vì họ cần tận dụng bọn này để vô hiệu hóa các lực lượng thâm nhập của Bắc Kinh. Mặt khác sự gia tăng sản lượng thuốc phiện cũng làm tăng nguồn ngoại tệ của Thái, tăng tốc độ làm giàu của nhiều sĩ quan cao cấp. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, quân viễn chinh Pháp cũng đã tiếp tay cho đường dây buôn lậu quốc tế này. Suốt từ năm 1946 đến năm 1954 rất nhiều máy bay Dakota của Pháp chuyển nhiều thuốc phiện từ Bắc Lào về Tân Sơn Nhất về Nông Pênh. Một đường dây mặt đất từ Luông Pha Băng đến Phonxavan, Séno, Paksé đưa thuốc phiện tới Huế… Những tên buôn lậu người bản xứ như Sananicon, Kà Tày, Bảy Viễn, v.v… làm giàu rất nhanh chóng.

Trong thời kỳ Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh bí mật ở Đông Dương, CIA đã liên hệ chặt chẽ với những thủ lĩnh của nhiều bộ tộc, những tên tướng cướp và bọn trùm buôn lậu ở vùng Tam Giác Vàng. Đã có nhiều cuốn phim vào báo chí phương Tây phanh phủi chuyện này nhưng họ chưa nêu nổi danh tính những kẻ đã nhúng tay vào việc hình thành những đường dây buôn lậu héroine vào nước Mỹ.

– Điều quan trọng là phải biết được những tên “trùm hiện đại”.

– Muốn đến được cái đích đó, tôi phải lần theo đường dây của lịch sử. Sau sự sụp đổ của Lo Hsing Han, “chiến trường ma tuý” nổi lên ba lực lượng. Lực lượng thứ nhất của người Shan do những người phái hữu Miến Điện cầm đầu. Lực lượng thứ hai dưới quyền Kuan Cheung đáng sợ, một người lai Sion-Shan, cụt tay. Lực lượng thứ ba mạnh nhất với ba nghìn tay súng được coi là đoàn hùng binh của chiến trường ma tuý hiện đại. Ngay san khi Quốc Dân đảng rút đi, Bắc Kinh đã dần dần kiểm soát được nhiều bộ tộc ở Đông Miến dưới danh nghĩa những phong trào giải phóng dân tộc, nhưng thực chất là những tổ chức buôn lậu quốc doanh ở Yannam. Trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương, thị trường ma tuý có một cơ hội vàng. Những nhà máy tinh chế bạch phiến được xây cất trong vùng này đã đem lại lãi suất rất lớn. Một gam bạch phiến nguyên chất giá một nghìn phăng (ở thị trường Paris ) thì chất thuốc phiện màu vàng nhạt ở Thái gọi là “Kay” chỉ đạt sáu trăm F/kg. Các đường dây ma túy tràn vào Nam Việt Nam phục vụ cho quân viễn chinh Mỹ quên đi những cơn ác mộng. Rồi từ Nam Việt Nam, ma túy theo lính Mỹ đi Nhật Bản, đi Guam vào nước Mỹ. Với sản lượng năm mươi tấn một năm, vùng Tam Giác Vàng cung cấp hàng năm cho Thái Lan một số ngoại tệ khá lớn. “Thai connection1 (Đường dây Thái chuyên buôn lậu ma tuý) chuyển héroine sang Italia. Rồi “French connection2 (Đường dây Pháp chuyên buôn lậu ma tuý) Sicile chuyển tiếp đến Marseille. Tam giác Madrid – Amsterdam – New York đã mở rộng thị trường ma túy với một gia tốc chưa từng có.

– Nhưng đó chỉ là chuyện cũ. Còn chuyện hôm nay? – Tôi hỏi Antonio.

– Đó chính là vấn đề mà tôi quan tâm nhất. Nhưng tiếc là nó vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Anh thử xem những mối liên hệ giữa Mc Dovan và Shiadej, viên lãnh sự Thái ở Chicago. Mối liên hệ giữa Warrens với người đàn bà Tàu giàu có Lee-Chon-Yan, chủ nhà băng Banville mà người ta thường gọi là “bà tỉ phú đỏ”. Tôi có nhiều bằng chứng là bà ta có liên hệ với Khan Sa, một nhân vật đầy quyền lực ở vùng Tam Giác Vàng hiện nay. Anh cũng nên để ý đến nhột người Mỹ tên là Mendel Strong và tên Tomado-le-Loup một tên Mafia hiện đang có mặt ở Hongkong và Bangkok từ nhiều tháng nay.

– Sao anh lại biết những chuyện này? – Antonio ngạc nhiên.

– Tôi tập làm báo nên tôi thu lượm mọi nguồn tin vào cuốn sổ.

– Anh có thể nói rõ hơn được không.

Tôi đã cung cấp cho Antonio tất cả những hiểu biết của tôi, của Bạch Kim và cả những gì còn lại trong bộ sưu tập của Phương Dung về vấn đề ma túy. Tôi không tiếc anh điều gì vì nó không thuộc lĩnh vực của tôi. Đó chỉ là những tin tức hỗ trợ cho hoạt động bề rộng. Antonio rất thú vị và thế là anh quyết định bay đi Băngkok một chuyến nữa.

Hoàng Quý Nhân đã vượt biển ở một địa điểm thuộc Phan Trang. Xuất phát từ mũi Mang, chúng kẻ một đường ngắn nhất ra hải phận quốc tế. Warrens đã bố trí cho tàu chiến Mỹ chờ sẵn ở đây. Ngày hôm sau một cuộc đón tiếp long trọng đã diễn ra ở Voca City.

R. Warrens, Mc. Dovan, M. Strong, Bảy Dĩ, tướng Southit thuộc lục quân Westland và nhiều nhân vật quan trọng đã đến chào mừng con người hùng từ Việt Nam đến. Warrens không làm ồn ào như vụ Nguyễn Hùng Thắng nên chẳng có nhà báo nào được phép tìm đến.

– Thưa ông Warrens , thưa quý vị. Trước hết tôi xin cảm ơn sự tiếp đón thân hữu của quý vị. Sự có mặt của tôi hôm nay tại đây, bản thân nó đã là một chiến công. Hải lực Hoa Kỳ đã vớt tôi lên từ biển cả sau khi tôi vượt qua hàng rào thép của Cộng sản. Có một điều vui mừng là chúng tôi đến đây không phải với hai bàn tay trắng, với danh nghĩa của kẻ chạy trốn khối lưỡi hái của tử thần, mà là người được quốc dân ủy nhiệm đi tìm một cố gắng chung ngõ hầu xoay chuyển cục diện chiến lược trên vùng đất mà những người tự do tưởng như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Bản thân tôi cũng không còn là một cá nhân cô đơn nữa. Tôi thực sự trở thành đại diện của cả một dân tộc đang bị tù đày. Con đường trước mặt của chúng ta còn rất dài, nhưng ngay từ hôm nay tôi đã có thể tuyên bố với quý vị rằng tương lai của nó rất sán lạn. Sở dĩ có được niềm lạc quan trên là bởi lẽ tôi, chính tôi đã làm sống lại những con người, những bộ máy tưởng như đã bị lịch sử chôn vùi sau thảm họa 30 tháng 4. Những con người dũng cảm thực sự có năng lực này chẳng những cần thiết cho sự nghiệp của dân tộc tôi, ulà còn vô cùng có ích cho thế giới tự do, cho nước Mỹ vĩ đại, người bạn lý tưởng của những dân tộc bị Cộng sản nô dịch…

Những tràng vỗ tay nổi lên ầm ỹ nhưng những bức tường cách âm tốt không để một gợn sóng âm thanh nào lọt nổi ra ngoài. Hoàng Quý Nhân không trình tất cả món quà của y ra trước mặt các quan chức Mỹ. Y gặp riêng từng người, và với từng người y có một chiến thuật mà y cho là thích hợp. Cuộc đàm phán với Warrens đã đi đến những thỏa thuận tổng quát:

Một là: Khôi phục nhanh chóng lại bộ máy cũ của CIA. Phát triển thêm mạng lưới điệp viên săn tìm tin thứ cấp trên toàn lãnh thổ từ Nam đến Bắc Việt Nam. Đưa guồng máy đó vào hoạt động thực sự trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế van hóa…

Thứ hai: Thành lập Mặt trận Tự do và một chính phủ lâm thời chỉ đạo cuộc khởi nghĩa trong nước để thu hút sự quan tâm của dư luận Mỹ. Có thể công khai các nhân vật lãnh đạo đã gây được thanh thế thật sự trong quốc nội lẫn quốc ngoại. Một danh sách chính phủ lâm thời đã được sắp đạt. Quý Nhân muốn dành cho những phần tử trong nước nhiều ghế hơn. Nhưng y cũng gặp nhiều khó khăn vì danh sách y đưa ra quá nghèo nàn. Toàn là những tên vô danh tiểu tốt, ít hiệu quả tâm lý. Warrens khuyên y nên lựa thêm những nhân vật lưu vong. Để nâng cao uy tín cho họ có thể tổ chức cuộc cuộc thâm nhập lớn vào nội địa, tổ chức “ra mắt quốc dân” của cái nội các lâm thời này. Sẽ quay phim, chụp ảnh phân phát cho các tổ chức thông tin quốc tế. Sau đó lại đưa các vị nhát gan ấy ra công cán ở nước ngoài. Chỉ cần mượn cái danh, cái thực vẫn là Nhân và bọn chân tay ở trong nước. Kế đó của Warrens xem ra là hay nhất. Vì vậy Quý Nhân sẽ đi Mỹ cùng với Bảy Dĩ và tên phản bội Hùng Thắng để tiến hành hiệp thương với phái lưu vong.

Khi mà có được chính phủ lâm thời thì Warrens sẽ chính thức xin Chính phủ Mỹ viện trợ cho nó. Trước mắt CIA có thể chi thẳng năm triệu đô-la của quỹ mật giúp cho những hoạt động này.

Nhân cũng hứa sẽ chuyển giao chuyến hàng đầu tiên cho Warrens. Đó là mười ki-lô-gam chất héroine hảo hạng theo một con đường bảo đảm mà hai bên lựa chọn. Warrens cảm ơn Nhân và hứa sẽ chuyển ngân đầy đủ cho tài khoản của Nhân ngay san khi “phi vụ” được thực hiện.

Hai ngày sau đó một phái đoàn đặc biệt do Hoàng Quý Nhân dẫn đầu bay đi Washington. Họ được chính Price, đại diện của Bộ Ngoại giao cùng nhiều quan chức khác tiếp đón.

Tôi và Antonio đến Voca City vào mùa hè 1979. John Antonio gặp lại người bạn cũ là Mendel Strong. Anh chưa biết Warrens nên định thông qua Mendel để tiếp cận Warrens nhưng không may cho anh là ông trùm này đã về Mỹ. Anh tìm cách lân là làm quen với người đàn bà Tàu Lee-Chou-Yan.

Còn tôi thì đến mật cứ Béta. Tùng Lâm đi vắng! Cô gái hầu phòng Diệu Lan cho hay Tùng Lâm đã đi Voca City một tuần rồi. Có thể anh còn bay đi Washington. Buồn quá tôi quyết định đến thảm Trương Tấn Hào. Gặp lại tôi, Hào mừng lắm.

– Trời, lâu quá không thấy anh lại. Tôi ở đây hẻo lánh quá, ít bạn bè đến thăm buồn lắm.

– Anh có nhận được tin chị và các cháu không?

– Dạ trước đây hai tháng có một lá thư. Ở nhà vẫn bình thường và lần này họ lại kêu tôi quay về mới ngán chứ!

– Vợ kêu chồng về là chuyện vui chứ sao lại ngán?

– Đâu phải chỉ về với bả và xắp nhỏ mà là về sống với chế độ Cộng sản. Mình đã bỏ đi, nay về đâu có nổi.

– Có ông anh ruột là Cộng sản bảo lãnh thì sợ chi.

– Dạ là nghe bọn trẻ viết thư nói bậy bạ vậy thôi chớ ổng đâu có viết cho tôi.

– Thế anh Tùng Lâm hồi này có hay lại thăm anh không?

– Dạ có. Cách đây mươi bữa anh có lại. Nằm với tôi vài hôm. Coi bộ ông tướng đang bị kẹt đó?

– Sao?

– Họ đang biểu ông ra làm Tổng trưởng quốc phòng chi đó. Nghe bự lắm!

– Làm bộ trưởng thì có gì mà kẹt. Cho tôi làm bộ trưởng tôi cảm ơn ngay!

– Kẹt chớ. Vừa qua nghe nói có một ông cỡ bự đằng mình từ Sài Gòn sang. Họ nói lực lượng quốc gia đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của ổng và giải phóng được nhiều vùng khỏi tay Cộng quân. Họ còn nói quân Cộng sản nay bị phân tán ra hai đầu, ở Cam-bốt và ở biên giới Việt-Trung, nên trong nội địa chống trơn cả. Trung Cộng đang ngả sang phía Mỹ và định cho Hà Nội bài học thứ hai. Chưa chừng kỳ này họ vô Thăng Long cho coi. Miền Nam Việt Nam đang có cơ may để định đoạt số phận của mình. Washington và Bắc Kinh cùng hợp sức thì Hà Nội chịu sao nổi. Họ đang khẩn cấp xúc tiến thành lập nội các. Do đó tướng Tùng Lâm có cơ được mời ra làm Tổng trưởng.

– À ra thế! Vận may đã tới sao gọi là kẹt được?

– Ông đâu có khoái chức vụ này ông không tin có thể hạ nổi quân Cộng sản Việt Nam. Quay trở lại lúc này là đeo cái án tử hình vào cổ. Nhưng từ chối ctĩng dở vì ông vừa ký thêm một hợp đồng ba năm với Warrens. Thế là ông đành bay đi Mỹ để khởi sự một chương trình rất mạo hiểm nhưng quang vinh.

– Còn anh, có lẽ họ cũng sắp bổ nhiệm làm Đô đốc Tư lịnh Hải quân đó! – Tôi thăm dò Hào.

– Đâu có. Tôi chỉ có ba cái tàu chở hàng nhỏ xíu, lấy đâu ra chiến thuyền mà gọi là hải quân đô đốc? Nghe nói Hải quân của họ được Nga Xô trang bị cả tàu tuần dương cỡ Frégat mang hỏa tiễn đối hạm và đối không rất mạnh.

– Biết đâu rồi Mỹ lại trang bị cho các anh thứ mạnh hơn! Chỉ mới huấn luyện bốn mươi lăm tên lính đã trở thành Tồng trưởng quốc phòng thì chỉ huy bốn chiếc ghe thừa sức là Tư lịnh Hải quân!

Cả hai chúng tôi đều cười vui vẻ. Tôi tạm biệt Hào và hẹn khi nào tân Bộ trưởng Quốc phòng về tôi sẽ kéo xuống thăm anh.

Tôi quay về Voca City bắt liên lạc với Tám để điện về Trung tâm những tin tức trên. Tôi cũng báo cáo với đại tá Đức là tôi còn làm việc ở Westland một thời gian dài nữa để theo dõi tình hình này. Qua đường bưu điện tôi cũng đà “nói lóng” cho Bạch Kim biết là Hoàng Quý Nhân đã có mặt ở Washington và có thể đến Cali mật hội với cụ Hoàng Cơ Bảo trong một thời gian gần đây. Cần phải hữu ý sự kiện này.

Thực ra Bạch Kim đã nhận biết tình hình này trước khi lá thư tới. Hoàng Bảo Thạch đã khoe với cô là anh có thể sẽ phải đứng ra đảm nhiệm những trọng trách lớn lao của quốc dân giao phó. Thường vụ Liên minh Việt kiều Hải ngoại sẽ hiệp thương với lãnh tụ Mặt trận Tự do quốc nội để thành lập chánh phủ lâm thời chung, nhằm điều hành hữu hiệu công cuộc chiến đấu chống cộng sản, giải phóng Tổ Quốc.

– Nghĩa là chúng ta sẽ có một chính phủ lưu vong?

– Không, không thể gọi là một chính phủ lưu vong được. Nó sẽ có mặt ngay trong nước, ở tiền tuyến để lãnh đạo quốc dân, chỉ huy nghĩa sĩ.

– Trời ơi, thế là anh lại ra đi, anh trở lại Việt Nam trong cảnh hoang tàn một lần nữa.

– Cũng có thể – Vẻ mặt Bảo Thạch được pha trộn giữa niềm kiêu hãnh và một nỗi buồn man mác rất nghệ sĩ.

– Nhưng liệu có thể thắng nổi Cộng quân không?

– Trước đây chúng ta thua Trung Quốc chứ đâu phải thua Việt Cộng. Nay Mỹ đã nắm được con bài Trung Quốc trong tay, Việt Cộng đang bị bao vây từ bốn mặt. Cơ hội cho sự bùng nổ bên trong đã mở ra. Ta cần phải giành lấy tay lái của con tàu lịch sử. Một khi đã có sự trao phó của quốc dân, anh sẵn sàng trở lại quê hương dù có phải buông mình trên chiến địa!

Để đáp lại vẻ mặt đầy kịch tính của Hoàng Bảo Thạch, Bạch Kim cũng biểu lộ tình cảm bi lụy của mình một cách xa xôi bằng hai câu thơ Chinh phụ ngâm trích dịch trong cuốn sách giáo khoa tiếng Pháp:

O ciel d’un bleu magigue aux pro-fondeurs sublines

Qui donc est lauteur de ce facheux état de choses?

1 (xanh kia thăm thẳm từng trên. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này)!

Cảm kích trưởc tâm hồn đa cảm của mỹ nhân, tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch cũng ứng đối lại bằng mẩu thơ tình của Bạch Cư Dị qua ngôn từ mẫu quốc:

Vous êtes en amont du Tương

Je suis en aval du même fleuve

Quoique nous buvions tout deux de I’eau du Tương

Nous nous regardons, mais nous he nous voyonls pas2

(Chàng ở đầu sông Tương,

Thiếp ở cuối sông Tương,

Cùng uống nước sông Tương,

Nhớ nhau mà chẳng thấy)

Người ta nói “săn đuổi tình yêu là một cuộc săn đuổi kiêu căng” nhưng ở đây không có tình yêu nên cuộc săn đuổi chỉ chứa đựng những mánh khóe giả dối. Cái tình cảm lòe loẹt mà cả hai bên đem ra phô diễn đều nhằm che giấu một điều bí mật bên trong. Mục tiêu của Hoàng Bảo Thạch là món hồi môn nửa triệu đô-la nằm ở ngân hàng Manhattan. Còn Bạch Kim thì nhằm tới những chuyện gì sắp xảy ra ở cuộc họp kín của những kẻ phục thù.

Warrens, Price, Mc Dovan… là những người bảo trợ cho cuộc hội nghị này. Họ đã quyết định chiến lược chung ở ĐÔNG Dương, đặc biệt là ở Việt Nam trong bối cảnh Trung Quốc ngả sang phương Tây. Mỹ và Trung quốc thừa nhận họ có lợi ích chiến lược song song là ngăn cản ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Việc làm suy yếu Việt Nam, tiến tới làm thay đổi chiều hưởng chính trị ở đây là mục tiêu đầy tham vọng của họ. Việc thành lập chính phủ của lực lượng nổi loạn lúc này là cần thiết. Đó là cái bàn đạp chính trị để Mỹ quay trở lại Đông Nam Á như điều Trung Quốc mong muốn. Họ đã mặc cả để chọn ra một danh sách những nhân vật hàng đầu. Cụ Hoàng Cơ Bảo già quá nên chỉ có thể giữ được cái chức Chủ tịch Liên minh. Nhưng cụ đã khôn khéo tiến cử người con trai vào nội các. Nhà cách mạng Hoàng Quý Nhân lãnh tụ của Mặt trận Tự do dân tộc được cử làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng chiến tranh. Tướng Tùng Lâm được bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng quân lực, Hoàng Bảo Thạch Tổng trưởng ngoại giao. Mlle Mộng Vân nay gọi là bà Lê Mộng Vân, Tổng trưởng thông tin tuyên truyền. Ông Lê Ván Dĩ, Tổng trưởng tài chánh. Ông Nguyễn Hùng Thắng, đảng viên cộng sản li khai được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục tác chiến tinh thần. Năm vị tổng trưởng thuộc các bộ Nội vụ, Kỹ nghệ, Thương mại, Canh nông và Giáo dục buộc phải giấu tên vì hiện đang hoạt động ở Việt Nam. Tóm lại, một nội các hoàn chỉnh với những bộ mặt mới đứng ra lãnh trách nhiệm trước quốc dân sẽ chính thức công khai ra mắt tại quốc nội một ngày gần đây. Để có tiếng vang lớn trên trường quốc tế, Thủ tướng Hoàng Quý Nhân quyết định những thành viên nội các sẽ trở về nước, rồi sau đó tuỳ theo từng nhiệm vụ họ có thể hoạt động trong nước hay sẽ lại ra nước ngoài tiếp tục công vụ cao cả của chánh phủ lâm thời.

Cái lý thuyết buộc chuông vào cổ mèo lúc này không đủ sức kích thích tinh thần các yến nhân trong nội các. Chỉ có Mộng Vân là hăng máu nhất. Tướng Tùng Lâm im lặng chờ đợi xu thế chung. Nguyễn Hùng Thắng thì mặt không còn hạt máu. Y tưởng đi thoát ra mrớc ngoài là được trả công, được tận hưởng lạc thú, được viết hồi ký bôi nhọ chế độ cộng sản kiếm món tiền lớn, thỏa thích sống cuộc đời con heo! Ai ngờ nay phải quay lại, lên rừng lập chiến khu để chống lại những người đã đưa y từ bùn đen lên bệ Phật! Tuy nhiên y cũng không thể lùi vì khi đến Voca City y đã ba hoa quá nhiều về cái luận điệu đi tìm chân lý của Bảy Dĩ mớm cho. Hoàng Bao Thạch đã được ông bố chuẩn bị tinh thần từ trước “Muốn có miếng đỉnh chung thì phải lăn vào lửa”. Hãy cứ hăng hái trở về ít ngày, sau đó đề xuất mở chuyến công du năm châu quảng bá đại nghĩa, tìm hiểu sự đồng tình của các quốc gia tự do. Lúc đó thì tha hồ sung sướng. “Công thành, danh toại, hầu bao rủng rỉnh”. Còn Lê Văn Dĩ thì chẳng có gì phải lo sợ. Dù sao y cũng được Nhân giao cho đứng bên ngoài để giải quyết các vấn đề tài chính với Warrens.

Bạch Kim biết rằng những ngày ở Cali, Hoàng Quý Nhân lành việc ở khách sạn Hilton. Nhưng y hay đi lại nhà Nghiêm Bửu Châu, người công sự cũ ở biệt thự Vie du Château. Kim đã tìm hiểu tình hình cuộc họp kín qua Hoàng Bảo Thạch, nhưng thực tình cô chưa tin vào tất cả những điều Thạch nói. Có thể vì động cơ riêng mà Thạch đã ba hoa hoặc cắt xén sự thật đi để tranh thủ tình cảm của Bạch Kim.

Kim quyết định tiếp cận Hoàng Quý Nhân thông qua người đàn bà Nhật Bản vợ của Nghiêm Bửu Châu. Nhưng cô lại sợ phải đối mặt với Hoàng Quý Nhân lỡ ra y hỏi thăm Phan Quang Nghĩa thì cô biết trả lời ra sao? Giấu cũng dở mà nói thật cũng không xong. Vì vậy Kim phải chờ lúc Châu và Nhân đến cuộc họp cô mới vào nhà Châu. Do đã quen biết từ trước nên câu chuyện của Kim và Kenji rất thoải mái. Bạch Kinh vui thích reo lên:

– Ôi, Kenji cắm hoa đẹp quá. Chẳng có bình hoa nào giống bình nào. Mỗi cái có một vẻ đẹp riêng. Người Nhật có nghệ thuật cắm hoa nổi tiếng gọi là Ikébana. Nó đã trải qua nhiều thế kỷ gắn với lịch sử phát triển nghệ thuật. Nó tồn tại không chỉ ở mặt truyền thống mà còn do nó đã trở thành một trong những nguyên tố nghệ thuật chủ yếu của thế giới hiện đại.

– Phải có sự suy nghĩ thì mới tạo nên được những đường nét, màu sắc hoà hợp như thế này.

– Vâng, phải học cả đấy Kim ạ, Ikébana trước hết biểu hiện quan niệm triết học về nhân sinh và vũ trụ quan của người Nhật. Bông cao tượng trưng cho trời, bông thấp là đất, những bông vừa phải là con người, là sự sống. Sự sống hòa quyện trong thiên nhiên. Con người là trung tâm của vũ trụ… ở Nhật có nhiều trường dạy Ikébana. Mỗi trường một phong cách. Thí dụ như cành hoa mận trắng như tuyết cắm nghiêng trên chiếc bình hợp kim đen xù xì như tảng đá nguyên thủy. Hoa mận sáng lên như ngọn nến trước gió. Còn bông hoa mỏ hạc đỏ thẫm giống như ngọn bấc, như trái tim nồng cháy, tỏa sáng. Mình thể hiện bình hoa này theo trường phái Sogetsu-ryu. Còn chiếc đĩa gốm hình tròn này lại cắm mấy cành sồi, vài lá thông và những bông cúc mốc, tạo dáng một đảo hoa trên hồ nước theo phong cách Ohara-ryu. Đây thì là vài lá duỗi chồn màu mận chín cùng với cành thông dù trên chiếc đĩa nhựa trắng giản dị làm cho tâm hồn con người thư giãn như tắm trong ánh trăng. Đó là phong cách Ikenobo…

– Nghĩa là phải có cả sự dung hợp giữa hoa và bình, giữa chủ đề thể hiện và việc đi kiếm hoa tìm lá.

– Đúng thế. Thế thì mình phải đến học Kenji, Kenji dạy mình nhé!

– Được thôi. Nhưng Kim có đủ kiên nhẫn không?

– Đủ chứ. Mình có công việc gì đâu. Nghệ thuật cắm hoa Ikébana sẽ làm cho mình yêu đời hơn.

Bạch Kim ra về trong đầu óc cứ lẩn quẩn với những bình hoa. Cô đi chọn mua mấy chiếc bình gốm rất độc đáo. Dáng thấp, có đáy rộng rất vững. Cô khéo léo gắn máy ghi âm nhỏ vào bên trong bàn chông chì rồi láng một lớp thiếc mỏng bên ngoài. Cô lấy băng nhựa trám kỹ vào đáy mà nhìn bên ngoài không thấy được. Cô đưa bình đến hỏi Kenji:

– Kenji xem bình này thì phải mua hoa gì?

– Bạn phải chọn đề tài đã. – “Niềm vui bất chợt”.

Sau vài phút suy nghĩ, Kenji bảo:

– Kiếm lấy một cành thông mụn cóc và bông mẫu đơn. Vài bông hoa mỏ hạc.

Bạch Kim về. Mãi tám giờ sáng hôm sau Kim mới đem hoa lại, Kenji đã khéo léo hướng dẫn Kim tạo nên một vòng cung những lá thông già khắc khổ. Mấy bông mỏ hạc lan trên mặt nước. Bông mẫu đơn đỏ chói như vừa lộ ra khỏi cái hang động của mụ phù thủy vươn lên trước ánh mặt trời. Đó là bài học đầu tiên của cô học trò Ikébana người Việt.

– Đẹp quá! Còn chiếc bình mới này Kim định lấy đề tài gì?

– “Đêm trắng”. Một đêm lạnh lẽo trên hồ Green Lake. Một đêm thương nhớ không sao ngủ được.

– Hãy kiếm về đây vài bông tú cầu trắng, vài bông alstroe-mérina. Mình sẽ giúp Kim tạo hình theo trường phái Sogetsu-ryu. Cái bình này của bạn có dáng một con tàu cô đơn. Tiếc là màu nó hơi nhạt.

Bạch Kim gửi lại chiếc bình lên giá và hôm sau mang hoa lại. Cô học trò Ikébana chăm chỉ đổi hết bình hoa này đến bình hoa khác. Khi cô cảm thấy đã lĩnh hội được nghệ thuật kỳ diệu này, cô hứa sẽ làm những bài tập rồi chụp ảnh màu gửi lại cho cô giáo Kenji nhận xét sau.

Bạch Kim tháo những băng từ ra kiểm tra lại kết quả. Một băng đã ghi được khá đầy đủ cuộc nói chuyện tay đôi giữa Nghiêm Bửu Châu và Hoàng Quý Nhân:

“… Chương trình của tôi ở Mỹ chỉ còn một tuần nữa. Tôi sẽ đi Bác Kinh. Chúng ta cũng phải biết chơi con bài Trung Quốc”.

” Anh hy vọng gì ở họ?”.

“- Họ cũng chẳng giàu có gì. Nhưng vị trí, địa lý của họ vô cùng quan trọng. Họ lại đông người, họ không tiếc máu như người Mỹ. Nếu ta biết điều hòa cái tỷ lệ giưa đô-la và máu, ta sẽ tạo ra được một phản ứng kết hợp hoàn toàn với hiệu suất tối ưu! (Nhân cố nói theo thuật ngữ của các nhà bác học).

“- Họ đã mời các anh”.

“- Price đứng ra làm môi giới. Trước đây Liên minh Việt kiều Hải ngoại đã có quan hệ không chính thức với họ. Bây giờ thì ta có đủ tư cách để liên minh với họ, thậm chí có thể ký những mật ước. Ông bố vợ mình đã giúp mình chuẩn bị nội dung cho chuyến đi này”.

“- Xin chúc anh gặp được nhiều điều may mắn. Công việc của tôi hiện nay đang gặp khó khăn” (giọng Châu buồn buồn).

“- Sao? Có gì không ổn? Công trình Ultra-Gamma của anh tưởng đã đưa vào sản xuất”.

“- Tổ hợp công nghiệp hóa chất Cali C.C.C. không tìm được nghiệm trường đủ tiêu chuẩn để thể nghiệm chất T20-20 của tôi. Tất cả mới chỉ được chứng tỏ trong phòng thí nghiệm. Họ sợ đưa ra địa hình tự nhiên kết quả sẽ thay đổi. Thử với súc vật thì hiệu lực, nhưng với con người thì ra sao? Họ không thừa nhận những kết quả của Labor Vie du Château vì theo họ chưa được một hội đồng khoa học của Pantagone chứng kiến”.

“- Nước Mỹ rộng lớn thiếu gì nghiệm trường. Đối với họ thì dân da đen là thừa kia mà?”.

“- Không. Luật pháp của họ không cho phép tiến hành thử nghiệm chất độc chiến tranh trên đất Mỹ. Họ buộc các tổ hợp hóa chất phải đi thuê nghiệm trường ở các nước khác. Từ nhiều năm nay các công ty công nghiệp hóa chất lớn phải mượn đất của các quốc gia Nam Mỹ để tiếng hành thí nghiệm. D.A.O đã bí mật thử ở thượng nguồn sông Amazon. Nhưng gần đây báo chí đã phanh phui chuyện này ra trước công luận nên D.A.O. phải chuyển sâu vào những vùng hoang vu thuộc dãy Andes. Còn C.C.C thì lại muốn có những nghiệm trường đông dân cư để kết quả thí nghiệm hấp dẫn mạnh những hợp đồng sản xuất của Ngũ Giác Đài. Tôi nghĩ chỉ có anh mới giúp đỡ được chúng tôi. Nhân danh thủ tướng chính phủ lâm thời, anh cho thuê một vùng nào đó…”.

“- Tôi đang cần gây cái vốn chính trị đầu tiên. Nếu tôi cho thuê đất để thử nghiệm hoá chất độc chiến tranh thì có khác gì tự sát”.

“- Anh lầm rồi. Tôi hy vọng điều ngược lại. Cuộc thí nghiệm này của chúng tôi lại làm tăng thêm uy tín chính trị của anh lên!”.

-…?

“- Hiện nay Washington đang tung ra một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ là Việt Nam dùng chất độc chiến tranh do Liên Xô chế tạo ở vùng biên giới Cam-pu-chia – Thái Lan nhằm làm giảm nhẹ sự lên án những di hại của chất độc da cam do Mỹ gây ra ở Đông Dương trước đây. Lúc này mà ta đưa được chất T20-20 vào thử nghiệm ở một vùng nào đó thì thật tuyệt vời. Bộ máy thông tin đại chúng Hoa Kỳ sẽ hô hoán lên là hóa chất độc chiến tranh Xô Viết đưa sang Việt Nam đã thất thoát ra ngoài gây chết nhiều người. Thứ này chưa hề có trong danh mục của Ngũ Giác Dài nên rất dễ đánh lạc hướng công luận. Một mũi tên đồng thời đạt hai đích!”.

Sau ít phút im lặng, tiếng Hoàng Quý Nhân hỏi nhỏ:

“- Giá cả thuê nhượng thế nào?”.

“- Tùy theo nghiệm trường, nhưng mỗi lần thủ không dưới một trăm ngàn đô-la”.

“- Thôi được, chúng ta sẽ thỏa thuận cách thực thi. Dự án của anh ra sao?”.

“- Từ California, những trái bom đặc biệt được USAF đưa đến Banville. Máy bay lên thẳng sẽ đưa ra vịnh Sima cho một hải đội đặc nhiệm thâm nhập theo sông Tiền hay sông Hậu đem bom đến nghiệm trường”.

“- Tiêu chuẩn của nghiệm trường ra sao?”.

“- Để dễ đánh lạc tướng ta cần chọn một địa điểm vừa gần kho của Cộng sản, vừa gần chợ. Chợ càng lớn càng tốt vì ta cần tìm ra hiệu quả tối đa. Trái bom sẽ được nổ đúng phiên, đúng lúc đông người nhất. Kết quả sẽ được ghi lại bằng siêu vi ảnh. Những nhà khoa học của Ngũ Giác Đài và C.C.C sẽ tìm cách đến Việt Nam bằng con đường hợp pháp với danh nghĩa một tổ chức nhân đạo đi điều tra sự hủy hoại môi trường lâu dài của chất độc màu da cam. Họ sẽ mang theo những máy móc tối tân và đến hiện trường sau khi trái bom T20- 20 nổ được mười lăm phút. Kế hoạch trên phải được phối hợp rất chặt chẽ bằng những phương tiện thông tin tinh vi nhất.

“- Việc này phải được điều hành dưới một kế hoạch thống nhất của Viễn Đông vụ CIA. Phần tôi, tôi sẽ lựa địa điểm, bố trí lực lượng đón tiếp. Bảy Dĩ và Tùng Lâm lo việc lựa người, huấn huyện, chọn hải đội thâm nhập. Riêng việc đưa đoàn khoa học vào kiểm chứng, anh phải phối hợp với CIA để thực hiện. Giờ nổ bom là tùy thuộc vào anh và hội đồng khoa học”.

“- Dạ, tôi sẽ phải lo cho kế hoạch T20-20 vì đây là công trình khoa học của tôi. Tôi phải đến hiện trường chứ không thể trao cho ai. Nếu thành công C.C.C. sẽ phải trả tôi năm trăm ngàn đô-la, tôi sẽ không quên anh”.

“- Cảm ơn. Tôi xin hứa với người đồng nghiệp cũ là sẽ giúp đỡ và đảm bảo an ninh tới mức cao nhất cho anh và đoàn. Bây giờ anh có thể thu xếp gấp cho tôi ký mật ước cho thuê nghiệm trường với C.C.C”.

Nghe xong cuộn băng, mặt Bạch Kim tái đi, mồ hôi lam tấn trên vầng trán. Cô không ngờ Nghiêm Bửu Châu, một con người lúc nào cũng nói năng nhỏ nhẹ, dáng điệu thanh nhã, cặp mắt rụt rè sau vòng kính trắng, ngày ngày ngắm những bình hoa được tạo hình theo nghệ thuật Ikébana tuyệt mỹ đó lại chứa đựng một tâm địa khủng khiếp như vậy. Hắn đang muốn đổi mạng hàng ngàn đồng bào hắn để lấy năm trăm ngàn đô-la.

Bạch Kim muốn bay sang Voca City gặp chồng ngay nhưng công việc ở đây cũng đang bề bộn. Phái đoàn đi Bắc Kinh gồm bộ ba Nhân – Thạch – Vân đang thu hút tâm trí cô. Cô không thể thông báo những tin trên cho chồng qua thư từ hay điện thoại công khai được. Điện cho anh về chăng? Không được. Tình hình Đông Nam Á cũng sẽ mở đầu những diễn triến phức tạp. Bắc Kinh đang cố thiết lập một đường dây liên lạc nóng với Bangkok để làm sống lại chế độ diệt chủng của bọn Pôn Pốt ở Cam-pu-chia, khuyến khích, thúc đẩy Thái Lan theo đuổi một chính sách phiêu lưu mới.

Chỉ có hai vợ chồng hoạt động trên một địa bàn kéo dài nửa vòng trái đất thật vô cùng khó khán. Giá có một người thứ ba làm con thoi thì đỡ biết bao nhiêu. Bạch Kim đang ngồi suy tư thì Quang Trung bước vào.

– Má.

– Con vào đây với má!

Trung chạy vào ngồi xuống bên, ôm lấy vai má.

– Hôm nay sao má buồn thế má?

– Con trai ngoan của má má hơi khó ở một chút thôi. Con chuẩn bị thi cử sao rồi?

– Con vẫn gắng sức ở mức cao nhất. Má đừng lo cho con, con hiểu rõ nhiệm vụ của con. Niềm tin vào mục tiêu của con ngày càng vững chắc.

– Ngoan lắm. Ba đi xa, má cũng bận, hơn nửa trình độ của má cũng chẳng còn đủ giúp đỡ cho con. Tất cả chỉ trông cậy ở bác Ân thôi.

– Hôm nào bác cũng xem bài vở của con rất kỹ. Gặp khó khăn gì con đều hỏi bác.

– Bác có hứa dịp hè này cho con đi chơi đâu không?

– Dạ có. Bác định cho con đi thăm Montréal. Sau đó theo sông Saint Laurent đến vùng thác Ningara. Chặng cuối cùng đến thành phố Chicago thăm những thắng cảnh trên hồ Michigan. Má đi với con nhé!

– Nhưng má lại đang bận. Ngay chuyện sang thăm ba mà má cũng chưa lựa được thời gian đây. Con có nhớ ba không?

– Con nhớ lắm má ạ. Hay hai má con ta cùng đi thàm ba vài bữa vậy. Khi trở về con sẽ đi Canađa với bác Ân sau.

Bạch Kim vụt nghĩ ra có thể để Quang Trung đi Voca City một mình chuyển tin khẩn cho chồng. Quang Trung đã trở thành một chàng trai thực sự rồi. Mười tám tuổi. Cao một mét sáu tám, đẹp trai và thông minh. Con đã thừa kế được những phẩm chất tốt nhất của Dung và Nghĩa, lại hấp thụ được một nền giáo dục nghiêm túc, khuôn phép, chặt chẽ của gia đình nên có vẻ chững chạc trước tuổi. Nó lại đã hiểu rõ được công việc của ba má nên có giao nhiệm vụ cho nó, Bạch Kim cũng yên tâm. Ở tuổi này, mẹ nó cũng đã bước vào cuộc chiến đấu thực sự.

– Hay là thế này nhé. Mai mẹ đến Assia Tourism mua vé cho con. Con sẽ đến thăm ba vài ngày. Có một việc cần má muốn con nói với ba. Được không?

– Dạ được chứ ạ. Má hãy tin con, con lớn rồi, con đi một mình có sao đâu.

Bạch Kim viết lại tình hình vào một mảnh giấy bắt con học thuộc rồi cô đốt đi. Cô kiểm tra lại nhận thức của con. Chuyến công tác đầu tiên phải vừa sức để chắc thắng. Nó sẽ khích lệ con những bước tiếp sau.

– Con sẽ nói đúng như vậy cho ba nghe, nhưng tuyệt đối không cho ai biết. Đây là những điền tuyệt mật, con hiểu chứ?

– Dạ, con hiểu.

Hôm sau cả nhà tiễn Bạch Kim và Quang Trung ra sân bay. Nhưng Quang Trung bay đi Westland, còn Bạch Kim thì đến Hồng Kông. Tôi nhận được điện báo con trai sang thăm mà hết sức ngạc nhiên. Tại sao má nó không đi lại để mình cháu đi. Hay Bạch Kim ốm? Hoặc giả có sự nghi ngờ nho nhỏ nào đó mà phải cử thằng bé đi giám sát chàng? Nếu đã định “kiểm tra” thì sao lại phải đánh điện báo trước? Thật không sao giải thích nổi.

Mười sáu giờ chiếc Boeing 707 của hãng Panam hạ cánh xuống sân bay Voca City. Tôi đứng ở lối ra để chờ cháu. Cháu trai của tôi xuất hiện như một khách du lịch thực sự. Hai bố con ôm nhau và cả hai đều rất xúc động. Cháu không nói lý do chuyến đi ở ngay sân bay. Về đến khách sạn, cháu cũng chỉ nói lâu ba không về, nhớ ba, cháu sang thăm và tiện thể đi giải trí vài ngày để cuối tháng bước vào mùa thi. Thế thôi. Mãi tới lúc hai ba con cuốc bộ đi chơi phố cháu mới nói rõ sứ mạng thông tin của cháu cho tôi nghe. Tôi vừa cảm động vừa sung sướng vì con trai tôi đã học thức bài học đầu tiên má nó giao cho. Cháu trình bày lại tất cả những tình tiết một cách sáng tỏ. Cháu chấp hành chỉ dẫn của má như một tình báo viên thực thụ. Tôi bắt chặt tay con. Chỉ mai thôi, ông Đức đã có thể nắm được một tin tức rất quan trọng. ông có biết trong chiến công này có cả thằng cháu nhỏ mà ông thường kể lại cuộc đời chiến dấu của mẹ cháu cho cháu nghe đó không? Liệu ông có biết rằng cháu đã một mình đi nửa vòng trái đất đến một chất nước xa lạ để chuyển tin đến cho ông với một niềm tin đầy hứng khởi hay không? Tôi không bộc lộ những ý nghĩ sâu kíntrong tâm hồn mình cho cháu biết, nhưng tôi cũng gợi lên những ý quan trọng cho cháu hiểu là nguồn tin của chúng tôi sẽ giúp chẩn cấp trên có thời gian để ngăn ngừa một tội ác khủng thiếp. Cháu đã góp phần để cứu hàng ngàn sinh mạng vô tội khỏi cái chết chất độc hóa học.

– Thưa ba, con không thể ngờ cái người khách vẫn đến nhà ta ăn uống vui vẻ, bình luận âm nhạc sôi nổi, nói chuyện văn chương say sưa đó lại không chút ngần ngại gây ra một vụ thảm sát để làm giàu. Không hiểu lần sau ông ta đến nhà, con có thể giữ được bộ mặt bình thản với ông ta hay không.

– Bao giờ con cũng phải làm chủ được tình cảm của mình. Con chưa phải là quan tòa. Vả lại, những cảm xúc bồng bột dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng và cả sự nghiệp chung nữa. Con nên nhớ rằng chúng ta đang sống trong vùng địch. Bí mật là vũ khí phòng thủ mạnh mẽ nhất của chúng ta.

Ba hôm sau tôi tiễn cháu bay trở lại bán đảo Nelson. Cậu Đức đã biểu dương Bạch Kim vì đã khôn khéo lấy được một tin tức quan trọng. Cậu giao cho tôi phải tìm bằng được hướng thâm nhập của chương trình T20-20 mà cậu gọi bằng mật danh: “Chiếc bình hoa Ikébana”. Cậu cũng thông báo cho tôi tin mừng: Tôi được đề bạt trung tá và Bạch Kim được phong đại uý. Tiếc là cháu Quang Trung chưa được công nhận là binh nhì!

Một tuần sau Tùng Lâm trở lại Voca City. Chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Pyramid. Vẻ mặt của anh không được thanh thản.

– Anh bị bịnh hay sao mà coi bộ hốc hác thế?

– Đúng là ngọc thể bất an – Anh cười gượng – Mình đến Ca-li-phot-nha nhưng không qua chỗ hiền đệ được. Phong tỏa hết trọi.

– Chuyện chi mà kỳ vậy anh Tư?

Tùng Lâm liếc mắt nhìn quanh, ra đóng cửa buồng lại rồi thì thầm:

– Một cuộc họp kín!

Tôi mở băng nhạc Disco rồi kéo anh ra ban công.

-… Với ai?

– Thành lập chánh phủ lâm thời.

– Chánh phủ nào?

– Chánh phủ của đằng mình. Chính phủ chống Cộng chứ sao. Trời ơi, nhà báo chi mà chậm hiểu quá xá.

– Họp kín rồi lại phong toả thì nhà báo biết sao được. Anh cũng tham gia nội các chứ?

– Lúc đầu thì thế đó. Nhưng sau Thủ tướng kiêm luôn Tổng trưởng chiến tranh. Mình được chỉ định là Tổng tham mưu trưởng.

Tôi ôm lấy anh cười vui vẻ:

– Xin chúc mừng đại ca.

Tùng Lâm nghiêng nét mặt, rót ly rượu uống cạn rồi hầm hầm:

– Đ. cha cái thứ Tổng tham mưu trưởng đó. Mình đâu có thiết.

– Trời, sao anh Tư lại coi thường vinh quang vậy? Chắc anh Tư muốn cái ghế Tổng trưởng chiến tranh!

– Tổng trưởng mà làm gì với ba thằng biệt kích ấy. Nó sẽ đưa mình về Việt Nam. Hiền đệ biết đấy hai triệu quân Cộng hòa, nửa triệu quân Mỹ còn đo ván nữa là mấy thằng biệt kích!

– Thế thì anh nhận làm gì?

– Không nhận đâu có được. Sau khi mình ký tiếp cái hợp đồng ba năm nó mới đẻ ra cái chuyện chính phủ lâm thời. Lại trót đăng đàn diễn thuyết ở Cali nêu ra cái chủ thuyết con mèo con chuột gì tùm lum lên đó. Nay lui sao đặng. Nó beng đầu mình đi chứ giỡn được à?

Tùng Lâm uống thêm ly Cognac rồi lè nhè ngâm mấy cân thơ của Lý Bạch:

– Hán hạ Bạch Đăng Thành.

Hồ Khuy Thanh Hải độ.

Cổ lai chính chiến địa

Kỷ kiến hữu nhân hồi1.

(Quân Hán xuống thành Bạch Đằng

Quân Hồ Khuy về Thanh Hải.

Xưa nay đi chiên đấu xa

Có thấy mấy người trở lại)

Một lần nữa lại tự đem thân vào chỗ chết đây! Tùng Lâm nhếch mép cười chua chát – Nhưng cũng có điều khích lệ. Lương Tổng tham mưu trưởng tạm thời là một nghìn hai trăm đô-la.

– Chánh phủ lưu vong thì đâu có ngán!

– Phải về Việt Nam chớ. Ai cho mình ngồi ôm mấy con nhỏ ở mật cứ Béta để hưởng lương hoài?

– Nhưng cũng mới nói sẵn sàng thôi, còn lâu mới về nổi.

– Làm liền chớ! – Anh ghé sát vào mặt tôi, phả ra đầy hơi ruợư – Cuối tháng này cuộc hành quân “Đồi mồi’ bắt đầu.

– Có cho nhà báo đi cùng không?

– Ồ không! Mình phải học Cộng sản, vật chất có trực tiếp liệu dẫn đầu. Gọi là cuộc hành quân “Đồi mồi” vì hành động thâm nhập của nó bí mật như con đồi mồi bò lên bãi cát đẻ trứng rồi vùi kín đi đó. Đằng này ta dùng hải thuyền đưa vũ khí vào vùi kín trong các căn cứ. Quân biệt kích sẽ đổ bộ sau. Lực lượng nội địa phối lợp với lực lượng ngoại nhập, phát động quần chúng đồng khởi giành quyền làm chủ y hệt Cộng sản! Hiền đệ nghe chiến thuật, chiến lược của Tổng tham mưu trưởng có khoái cái lỗ nhĩ không?

Tùng Lâm vỗ vai tôi và cả hai cùng cười, cười át cả bản nhạc “Looking at the midnight”, cười đến chảy nước mắt…

Chúng tôi sống vui vẻ với nhau ở VocaCity ba ngày thì Tùng Lâm được Warrens gọi đi nhận kế hoạch huấn luyện mời.

Chuyến công du của Hoàng Quý Nhân đi Bắc Kinh được hoạch định vào cuối tháng 8 năm 1979. Hứa Vĩnh Thanh đã đến Hồng Kông trước để thu xếp chương trình nghị sự cùng các thể thức tiếp kiến. Đoàn có hai phụ tá là tiến sĩ Hoàng Bảo Thạch, Tổng trưởng ngoại giao, nữ sĩ Lê Mộng Vân, Tổng trưởng thông tin tuyên truyền.

Cuộc viếng thăm của họ được gọi là “thể theo” lời mời của Hội hữu nghị Quốc tế, một tổ chức đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Hình thức này đặt ra để thu xếp những cuộc đàm phán và ký kết những mật ước với đủ loại tổ chức phản động quốc tế cùng một số chính phủ mà Trung Quốc không hoặc chưa có quan hệ ngoại giao chính thức.

Cùng đi với đoàn Nhân – Thạch – Vân đến Hồng Kông còn có tiến sĩ Price, chuyên viên nghiên cứu Á Châu vụ thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Sự tháp tùng của Price làm cho phái đoàn Nhân thân sức nạng. Price là người bạn tốt của Trung Quốc. Ông ta thuộc phái “lục địa”, người chủ trương chơi con bài Trung Quốc đến cùng. Người ta gọi Price là tấm Pa-ne giúp Trung Quốc bắc cầu sang phương Tây. Một nhân vật như thế chắc chắn sê được Bắc Kinh vì nể và ve vãn.

Người vui thứ nhất trong dịp này có lẽ là Hứa Quế Lan. Vừa được gặp tình nhân lại vừa được gặp cả chồng. Nhất là người chồng bỗng trở nên danh giá, nổi tiếng, vị thủ tướng của chánh phủ Lâm thời Việt Nam ! Chưa bao giờ Hứa Quế Lan tỏ ra dịu dàng, lễ độ với Hoàng Quý Nhân như lần này. Chị ta hứa sẽ quản lý tốt lương bổng tài sản của vị thủ tướng đầu tư ở các ngân hàng nước ngoài một cách hữu hiệu. Nhưng Nhân cũng chẳng phải là người nhẹ dạ cả tin. Trong suốt những ngày ái ân nồng thắm Quế Lan mới chỉ nhận được ở chồng những lời hứa, những viễn ảnh huy hoàng lộng lẫy.

Mộng Vân thì đi tìm bằng được Bạch Kim. Trước khi đi chị ta đã đến bán đảo Nelson và được biết là cô bạn gái đáng yêu đã đi Hồng Kông từ tuần trước. Chị ta quyết định một lần nữa thu hút bằng được số vốn kha khá của Bạch Kim vào một chuyến áp-phe ma tuý ở Hồng Kông. Còn Hoàng Bảo Thạch cũng đi tìm Kim vì mối tình chưa ngã ngũ, vì cái mỏ lộ thiên chưa ai khai thác!

Họ đã tìm thấy Bạch Kim ở khách sạn Auriga. Hai vị tổng trưởng độc thân liền thuê hai lòng bên cạnh bao vây chặt lấy con mồi. Thực ra Bạch Kim đã nóng lòng chờ họ. Với cô, họ cũng là những con mồi, theo đúng như đánh giá của cô.

Cứ mỗi lần Bảo Thạch muốn tiếp cận Bạch Kim một cách tình tứ thì lại vướng phải người đàn bà quá tuổi giữ chằng chằng lấy mỹ nhân, vuốt ve hôn hít cô ta sỗ sàng ngay trước mặt kẻ si tình. Còn khi Mlle Mộng Vân muốn giương bẫy ra cho nàng quả phụ ngây thơ thì lại vấp ngay phải cái tay kính cận cò mồi ám quẻ!

Lần này họ bay đi Bắc Kinh nên Bạch Kim chẳng còn cách gì nhét máy ghi âm vào hành trang của họ. Cô bế tắc về chiến thuật. Ông già bán sách cũ cũng chẳng có mưu mẹo gì giúp đỡ được cô. Họ có hai, mình chỉ một, những cuộc gặp gỡ tay ba này thật vô tích sự. Cô quyết định phân tán họ ra thì mới hy vọng tìm nổi một cái gì sở hở ở họ.

Sau một tuần tiến hành mọi công việc chuẩn bị, phái đoàn Nhân – Thạch – Vân bay đi Bắc Kinh. R. Price ở lại vì cuộc gặp gỡ tay ba chẳng những hạ thấp vai trò của bọn tay sai mà còn gây khó khăn trong những cuộc đàm phán ký kết các mật ước song phương. Thế là Hứa Quế Lan có dịp đi lại tự do với người tình, còn Price thì tha hồ âu yếm Jimi, đứa con xinh đẹp ngoài giá thú của ông ta.

Bắc Kinh đã đón tiếp đoàn Nhân – Thạch – Vân bằng một nghi thức long trọng chẳng kém gì những cuộc đón tiếp chính thức. Cuộc hội đàm đã diễn ra trong phòng khánh tiết của Nhân dân đại lễ đường. Nhân vật cầm đầu phái đoàn Trung Quốc là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hàn Thế Phong. Phụ tá cho ông ta là vụ trưởng Vương Phúc Đạt và một viên tướng trong Tổng bộ hậu cần Nhân dân giải phóng quân. (Sở dĩ họ không thể đón long trọng hơn vì hiện tại họ vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với Hà Nội. Bên cạnh họ cũng còn một lực lượng tay sai lưu vong của Hoàng Văn Hoan nữa).

Hàn Thế Phong nhiệt liệt hoan nghênh những chiến sĩ tự do, lực lượng cách mạng chân chính của nhân dân Việt Nam anh em đang vùng lên chống lại chính quyền tiểu bá. Trung Quốc sẵn sàng giúp đỡ hết sức mình cho các dân tộc đấu tranh cho quyền độc lập của mình, Trung Quốc mong ở biên giới phía Nam của mình có những quốc gia tự do, thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, và đế quốc xã hội. Các phong trào giải phóng có thể tin tưởng ở Trung Quốc như tin vào người đồng minh bền vững, chung thủy của họ…

Đáp lại những lời đường mật trên, Hoàng Quý Nhân đã thay mặt cho phái đoàn tỏ lời cảm ơn chân thành đến chính phủ và một tỉ nhân dân Trung Quốc vĩ đại đã quan tâm đến số phận các dân tộc nhược tiểu láng giềng. Y tuyên bố:

“Chánh phủ của chúng tôi sẽ lãnh đạo nhân dân chiến đấu cho một quốc gia tự do dân chủ và phồn vinh. Chúng tôi kêu gọi sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Chúng tôi mở cửa với tất cả các chế độ. Chúng tôi liên minh với mọi lực lượng. Hàng ngũ của chúng tôi luyện nay cũng bao gồm cả những người cộng sản thức thời. Lý tưởng của chúng tôi có khác nhau nhưng chúng tôi có mục tiêu chung là phản đối cuộc xâm lược Cam-bốt, phản đối sự khiêu khích với các lân quốc, chống lại chính sách theo Liên Xô đại bá. Chúng tôi tin rằng với cương lĩnh đó, chúng tôi sẽ tập hợp được sức mạnh dân tộc để hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. (Quý Nhân cố bắt chước cái khẩu khí chính trị của Trung Quốc, nhưng xem ra nó cũng lúng túng như khi y dùng những ngôn từ Thiên chúa giáo để bắt liên lạc với cha Trinh. Y không ngờ là nó vẫn gây được một hiệu quả mạnh mẽ. Vị trưởng đoàn Trung Quốc đã chạy lại ôm lấy y mà hôn lấy hôn để. Sự biểu hiện tình cảm quá suồng sã đó cũng không làm cho Nhân thú vị gì. Nhưng y vẫn chịu đựng một cách nhã nhặn).

Khi bàn về những thể thức hợp tác cụ thể, phía Trung Quốc nêu ra một mật ước đòi tôn trọng chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa bao gồm các quần đảo ngoài khơi từ bán đảo Lôi Châu đến gần bờ biển Mã Lai. Hoàng Bảo Thạch sửng sốt liếc nhìn sang Nhân, Nhân nhìn Vân, Vân nhìn Thạch. Cuối cùng thì Nhân ra hiệu cho hai phụ tá cứ bình tĩnh. “Hãy để cho họ đặt giá, thuận mua, vừa bán, lo gì”. Không thấy người đối thoại phản ứng gì, phía Trung Quốc liền nêu tiếp một bản thống kê những thứ mà Trung Quốc có thể chi viện cho quân khởi nghĩa. Đó là những vũ khí hạng nhẹ dùng cho chiến tranh du kích. Một số mìn, kíp nổ, hóa chất gây nhiễm độc nguồn nước. Một số phương tiện thông tin vô tuyến, vài chiếc thuyền máy, thuy

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN