Tắt đèn kể chuyện ma
Chương 8: N Cừu Nhị Quỷ [1]
Về chuyện thi cử thời xưa, ít nhất là khoảng đầu đời nhà Thanh, thậm chíxa hơn một chút là khoảng cuối đời nhà Minh, trong xã hội đã có quy định bất thành văn là vào đêm trước khi các thí sinh đến ứng thi, trong khuvực coi thi phải tổ chức nghi lễ mời hai loại quỷ báo ân và quỷ báo oánvề chứng kiến. Nghe nói vào buổi tối hôm đó, các vị quan chức đến thamdự phải mặc quan phục rất long trọng, thắp hương thành kính mời các vị“quỷ thần” có liên quan từ khắp các ngả đường đến chứng kiến. Những vị“quỷ thần” tới tham dự có thể được phân làm ba loại lớn như sau: loạithứ nhất là thần Thiên địa anh minh, chuyên đến trường thi giúp các vịquan quản lý trật tự, chủ trì công đạo, loại này thuộc về công lý. Mộtloại khác là hồn ma tổ tiên các gia đình có con em đến dự thi, lũ lượtkéo nhau tới trường thi để động viên, cổ vũ con cháu của mình. Tuynhiên, trà trộn vào nhóm những hồn ma này còn có nhiều tiểu nhân vô công rồi nghề cũng ra điều tò mò, lo lắng lắm, đứng ngoài ngó ngó, trôngtrông vào bên trong. Tất cả bọn họ nói cho cùng cũng chẳng giúp được gìcho việc thi cử, thậm chí có không ít hồn ma còn đứng chen lấn trongphòng của quan coi thi. Mọi sự công – tư đều được xem xét cẩn thận, chuđáo và cũng rất phân minh. Loại thứ nhất thì dùng cờ màu đỏ, loại thứhai thì dùng cờ màu xanh, còn loại thứ ba chính là “ân oán nhị quỷ”, tức là những hồn ma có ân, có oán với thí sinh hoặc gia chủ của thí sinh,và đơn thuần xuất phát từ ân oán cá nhân mà đến trường thi để gây sónggió, tạo thêm khó khăn cho sĩ tử. Nhưng sự xuất hiện của loại hồn ma này dường như lại hợp ý trời, được lòng thiên tử, vì vậy, rất có thể thựctế nhân vật chính lại là chính các vị quỷ thần. Tuy bọn họ một bên làân, một bên là oán, vị trí tương phản, mâu thuẫn, đối lập nhau, nhưngkhi dẫn họ vào trường thi thì không phân biệt khu vực, tất cả đều dùngcờ màu đen cả. Các quân sĩ sợ các vị quỷ thần không tìm thấy cổng lớncủa trường thi, một mặt vẫy cờ ở chốn u minh, một mặt còn phải kêu gàothảm thiết: “Ai có ân báo ân, có oán báo oán…” Trong chốc lát, từ bốnphía bỗng ào ào kéo đến các đội quân quỷ thần, ai nấy đều cầm trên taylá cờ của mình với màu sắc khác nhau, hăm hăm hở hở tiến vào cổng chính. Và ngay sau đó, các vị quân lính sẽ đem ba loại cờ biểu cắm vào bốn góc của trường thi. Dấu hiệu đó ám chỉ các vị thần linh hay ma quỷ đều đãđến đông đủ và đứng vào đúng vị trí của mình rồi. Đến ngày hôm sau, cácthí sinh mới điểm danh vào phòng thi, còn hiện tại thì có một hoặc vàivị ngồi sẵn trong phòng thi để chờ đợi.
Câu chuyện này có lẽ đãlàm cho người đọc, người nghe cảm thấy rất hoang đường và có phần rợntóc gáy, nhưng đây không phải chuyện tự nhiên mà có. Từ hàng nghìn nămnay, các câu chuyện ly kỳ cổ quái xảy ra trong và ngoài trường thi không phải là hiếm. Nếu như có người muốn viết về lịch sử các câu chuyện maquỷ ở trường thi của Trung Quốc, chẳng hạn như “có ma” hay “ma trêu” thì đều giống nhau ở chỗ là không dễ mà có thể bỏ qua tình tiết này được.
1
Việc thi cử diễn ra sớm nhất có thể nói là vào thời nhà Tùy, nhưng từ thờinhà Tùy đến nhà Đường rồi đến nhà Tống, những câu chuyện ma quỷ ở trường thi không thể so bì với thời Minh – Thanh. Tuy nhiên, có một chi tiếtkhác biệt là ma quỷ ở đây không phải phân thành ba loại như trên mà cókhoảng bốn loại.
Một loại có thể nói đến là “ma giúp đỡ”, dùngthân phận đặc biệt của mình để làm một số việc giúp đỡ các thí sinh màngười thường không thể làm được. Vi Huyến, người nhà Đường trong Lưu tân khách gia thoại lục[2] dẫn ra một câu chuyện như sau: “Quách Thừa Hỗ đi ứng thi, khi nộp bài thi đã nộp nhầm cuốn binh thư mà mình yêu thíchlên và để bài thi của mình trong một cái giỏ ở phòng thi. Khi anh tađúng ở cổng trường thi đi đi lại lại, một lão sứ đứng bên cạnh hỏi rõ sự tình, rồi nói có thể giúp anh ta, nhưng phải trả tiền thù lao là bavạn. Ngày hôm đó, mọi việc được giải quyết êm đẹp. Khi Quách Thừa Hỗ đem tiền đến nhà lão sứ, lúc này mới phát hiện ra chủ nhân của ngôi nhànghèo khổ đó đã chết được ba ngày, chính vì khòng cò tiền nên chưa thểchôn cất được.” Nhũng câu chuyện như thế về sau vẫn còn tồn tại nhưngtình tiết thì ngày càng ly kỳ hơn. Như ở thời Nam Tống trong Di kiênbính chí của Hồng Mai, tập bảy, Tề thập cửu lang có kể lại một câuchuyện không đơn giản chỉ là chuyện đổi bài thi. Thí sinh Lỗ mỗ sau khira khỏi trường thi mới nhớ ra lúc làm thơ đã quên không gieo vần vận,thế là có một tiểu sứ lấy trộm bài thi ra cho anh ta, sau khi chỉnh sửaxong liền đem về để ở chỗ cũ. Tiểu sứ này nhiều năm trước chết ở trườngthi, vì nghĩ đến gia cảnh nghèo khó của mình nên đã ngấm ngầm giở trò ma mãnh để giúp đỡ gia đình. Mà đã có thù lao thì đó lại là việc làm ănbuôn bán rồi, về lâu về dài có thể sẽ trở thành một nghề làm ăn theo mùa vận. Nhưng hồn ma mới chết mà có thể dùng “phép vận chuyện”, có thể vận khí di chuyển trong không trung như vậy thì quả thực cũng rất hiếm gặphơn nữa đến cả bài thi cũng có thể ăn cắp ra ngoài thì còn chuyện gì làkhông làm được nữa đây.
[2] Nghĩa là: ghi lại câu chuyện khách đến nhà họ Lưu.
Loại ma quỷ thứ hai cũng tương tự như “ma giúp đỡ” nhưng tính chất lại đốilập hoàn toàn. Việc thường làm nhất của loại ma quỷ này là nịnh bợ kẻ có quyền thế, không phiền thì có thể gọi là “ma bợ đỡ”. Cuốn thứ hai,Thiệu võ thí viện trong tập Di Kiên chi ất có đoạn kể lại “Mùa thu tháng Tám năm Thuần Hy thứ mười ba, Phúc Kiến thiệu võ đang thi đấu, có mộtvị Sứ có khả năng nhìn thấy ma, nhưng không nhìn rõ mà chỉ thấy có mộtvật đen từ trên không rơi xuống, dáng mạo giống như ma, mang theo “đương tam” (hơn hai mươi đồng tiền lớn), rồi để ngay ngắn ở trên bàn. Con manày đi qua các bàn của thí sinh, thi thoảng nở một nụ cười vui sướng, để một đồng tiền ở đầu án rồi đi. Khi hơn hai mươi đồng tiền được đặt hếtthì dùng trượng đánh đuổi những người không được nhận tiền, những sĩ tửvà kẻ đầy tớ đứng hầu bên cạnh hoặc bị đánh, hoặc bút rơi mà bọn họkhông hề có cảm giác gì. Rồi vị Sứ này nghĩ: “Những người được tiền thìsẽ được tiến cử, còn những kẻ bị đánh thì sẽ bị loại khỏi khoa thi. Rồiđi đến bảng niêm yết, quả nhiên đúng như dự đoán những người thi đậu đều là “người có tiền”, còn kẻ thi rớt là những người ngược lại.” Cũng cócốt truyện giống như câu chuyện vừa kể trên đây, vào thời nhà Minh, lạicó loại ma vào trường thi “cắm cờ”, người trúng cử ờ trên đầu sẽ cắm cờmàu đỏ, người bị loại cắm cờ màu trắng, tuy đã tránh việc bị lầm tưởnglà vật cản đường, nhưng lại làm cho người ta hoài nghi rằng đấy chính là ma bị cọp vồ vào trường thi[3]. Loại ma bợ đỡ này không thu phí, theođánh giá thì chúng không phải do Thượng Đế phái xuống. Giữa chốn trầngian thường có một loại người tiểu nhân, gặp người có lợi thế hoặc sắpcó lợi thế liền bỏ hết sĩ diện của bàn thân mà bám đuôi cầu cạnh ngườita, thực ra thì chưa chắc đã có lợi lộc gì, nhưng chúng vẫn không từ bỏcái hành vi hèn hạ đó. Ma bợ đỡ cũng giống loại người này, chỉ khác ởchỗ là nó có thể nhìn thấy khí âm dương thịnh suy trên người của các thí sinh, điều mà kẻ tiểu nhân ở chốn trần gian không thể nhìn thấy được.
[3] Vương Triệu Vân, người đời Minh, trong Huy lộc tân đàn, quyển thượng,Phốc bạo tự nhập trường có ghi lại, nhìn chung có sự không giống nhau,là cắm cờ đỏ kèm theo cờ vàng thì sẽ đăng khoa, nếu chỉ cắm cờ đỏ khôngcó cờ vàng thì cuối cùng cũng có tên trong bảng thứ hai.
Trướckhi các thí sinh bắt đầu làm bài thi, việc trúng cử hay không đã đượcsắp đặt trước, bất luận là nhân lực hay thiên lực, đều làm cho nhân khícủa người bị suy yếu dần. Hồng Mại từng cảm khái và viết rằng; “Ở phương Tây có người đã khẳng khái viết một bài nói về quy chế thi cử ở TrungQuốc, người đó cho rằng việc lựa chọn nhân tài trong các trường thi ởTrung Quốc là một việc làm rất cao minh nhờ đó đã chọn ra được nhiềunhân tài lỗi lạc phục dịch đất nước.” Mấy câu khen ngợi này đã làm không ít học giả của chúng ta phấn khởi mà lựa chọn dùng làm dẫn chứng để tựhào lấy vài ngày. Nhưng đối với những bất cập trong trường thi như đãxảy ra ở thời Nam Tống khiến nhiều người tỏ ra thất vọng ghê gớm đối với việc lựa chọn nhân tài cho đất nước, thì tuyệt nhiên không thấy họ nhắc đến, và giả như có nhắc đến thì họ cũng khéo léo dẫn dắt và quy kếtnguyên nhân tất cà là do ý trời, không liên quan đến các nhân tài. Trong truyện mặc dù có gây kích động một chút, nhưng huynh đệ, phụ tử nhà họHồng vẫn được coi là hiền thần. Vì thế, những điều vừa nói cũng khônghẳn là đều xuất phát từ sự căm tức.
Ngoài ra còn có loại ma khác, giống như những phần tử “phản động”, hành động theo hướng lưu manh, vôlại, đã chết mà vẫn không chịu yên, không có bản lĩnh đi tìm oan gia đểtính sổ, thì lại đem tà khí gieo rắc lên những sĩ tử vô tội. Kiểu này có thể gọi là “ma vô lại”. Thời nhà Tống, trong Nhàn song quát dị chí củaLỗ Ứng Long có ghi: “Trường thi Gia Hưng trước đó từng là kham viện, nơi thẩm vấn, điều tra phạm nhân, có nhiều người không chịu nổi cực hình mà chết ở đây. Sau khi chuyển thành trường thi, các oan hồn bắt đầu quấyphá. Mỗi lần thi có khoảng gần hai nghìn người, thường xuyên có thí sinh bị ma hại chết ở căn phòng thứ ba cạnh hành lang phía tây. Sau đó cómột vị khảo quan nằm mộng thấy có người tự xưng là “tướng quân trườngthi” nói: “Ta chết tại nơi đây, nay đã làm thần. Mỗi một thí sinh chết ở trường thi này đều là hậu bối của ta. Nếu lập miếu ở góc phía tây bắc,sẽ tránh được chuyện này.” Và thế là quan địa phương vì “ma vô lại” màlập miếu thờ, các sĩ tử đến thi, đều không quên chuẩn bị kim tiền, cầuphúc âm bảo hộ. Thí sinh chết ở trường thi không những không giảm bớt mà còn xảy ra liên tiếp, không chỉ có một hai lần, mà nhiều không kể hết.” Trong văn học, những câu chuyện kiểu như thế này quả thực không phảihiếm gặp. Đem cái oan ức, tội lỗi xảy ra ở trường thi đổ hết lên đầu maquỷ, sau đó yêu cầu thí sinh đến dự thi phải cầu bình an, nghĩ ra đượcchiêu trò lừa ma gạt quỷ như thế này, quan viên triều đình quả thực làthông minh hơn người. Thế là ác quỷ chuyên làm chuyện quấy phá người nay lại trở thành thần bảo hộ của trường thi, chính là nha dịch phụ tráchviệc trị an trong thành, chỉ cần nộp một hào phí bảo hộ thì sẽ không bịgây thêm phiền hà nữa.
Còn có một loại ma rất kỳ lạ. Sự xuất hiện của loại ma này không những có liên quan đến vận mệnh của các thí sinh, mà chủ yếu là dự báo điều hung đến với đám quan coi thi vô đạo trongthành. Thời nhà Thanh, mỗi cuộc thi lớn đều có loại ma quỷ kỳ dị này đến giở trò quấy phá. Trong Tam cương thức lược của Đổng Hàm, cuốn ba,Hương vi dị biến có đoạn viết: “Suốt mười bốn năm Thuận Trị, một ngàytrước hôm diễn ra kỳ thi Hương ở Giang Nam, bỗng sương giá kéo đến dàyba tấc, phủ kín cả trường thi, ma quỷ khóc than không ngớt. Sau khi bảng danh sách thí sinh trúng tuyển được công bố, chủ khảo tính mưu bày kếtìm cách ăn tiền hối lộ của thí sinh. Cảnh người nhà cùng sĩ tử khéonhau đến nhà quan phủ đông như nêm, cuối cùng lựa chọn ra trong số đómười tám người được coi là thi đỗ, cảnh tượng huyên náo như bán muangoài đường, ngoài chợ.” Cống Viên ở Bắc Kinh thời nhà Thanh còn lưu lại một truyền thuyết về “đại đầu quỷ” có quan hệ mật thiết với những vụ án trường thi như đã nói ở trên. Tiết Phúc Thành trong Dung am bút ký,cuốn ba, Mậu ngọ khoa trường chi án có đoạn viết: “Vào một buổi chiều tà của tám năm về trước, ở Hàm Phong bỗng nhiên vọng lại những âm thanhnhư tiếng khóc than thảm thương kỳ lạ, người ta đồn rằng âm thanh đóchính là dấu hiệu quỷ xuất hiện. Các đạo sĩ trong vùng đều khẳng định:“Đại đầu quỷ không dễ dàng vào được Cống Viên gấy náo loạn!”[4] Thếnhưng, kết quả lại cho thấy những phán đoán ban đầu của đạo sĩ là hoàntoàn sai lệch. Năm đó tại trường thi bất ngờ xảy ra biết bao chuyện lạ.Trong thi cử mà cảnh tượng mua quan bán tước diễn ra công khai như họpchợ giữa đường. Hình thức thì vẫn có các quan chủ quản đứng bên ngoàigiám sát, trông coi, nhưng thực chất bên trong thì sĩ tử và quan chủkhảo vẫn miệt mài thương lượng. Sau một hồi lâu “thi cử” mệt nhoài, cuối cùng cũng chọn ra được hơn mười người “xúng đáng”. Trong chuyện nàykhông ai có thể biết được liệu giữa tiếng khóc ma quái kia cùng với sựxuất hiện của đại đầu quỷ và bè cánh quan chủ khảo có quan hệ ràng buộchay không? Thật không ai có thể đưa ra câu trả lời chính xác. Chỉ cóđiều, nếu đại đầu quỷ không xuất hiện thì làm sao quan chủ khảo có cơhội phô diễn những chiêu trò bịp bợm, lừa gạt trắng trợn của mình. Để có câu trả lời thích đáng cho vấn đề nêu trên, thiết nghĩ ngoại trừ nhữngngười trong cuộc ra thì chắc hẳn không ai có bản lĩnh dám công khai mọichuyện!
[4] Căn cứ theo Châu lô bút ký của Tôn Tuyên, nói đại đầu quỷ là “mắt đỏ mở ra, đầu to hơn đầu của người bình thường vài lần”, mà còn hiện hình ngay tại phòng của khảo quan.
Tuy nhiên, ma quỷtrong trường thi đương nhiên không chỉ có loại này. Có thể dẫn ra đâymột vài ví dụ điển hình khác, như trong tập một của cuốn Di kiên bínhchí có đoạn viết về trường thi Lâm An: “Trong thời gian sĩ tử làm bàithi, có người trông thấy một người đàn ông và một người phụ nữ dắt taynhau tự do, thoải mái bước vào khu vực thi, lại có người nhìn thấy mộtđàn ngỗng trắng, hay có khi là một phụ nữ búi tóc cao, ngồi trên lancan, không nhìn thấy chân, lúc ẩn, lúc hiện, kỳ lạ vô cùng…” Những câuchuyện ma quái kiểu này cũng chẳng khác cảnh tượng người nông dân đuổinhầm lợn vào trường thi, câu chuyện chẳng liên quan đến thi cử học hànhmà chủ yếu chỉ là muốn mang đến một sự sôi nổi, náo nhiệt cho trường thi vốn quá trầm lắng mà thôi.
2
Ở trên đã kể ra mấy loại matiêu biểu thường xuất hiện trong trường thi. Mặc dù từ đầu đến cuốichứng tôi chưa đưa ra lời bình phẩm khẳng định hay phủ định về sự thậtcủa những câu chuyện kỳ lạ đó. Nhưng chuyện ma quỷ như thế này đến thờinhà Thanh đã loại bỏ dần những thứ được coi là không hợp pháp ở trườngthi như thế. Loại ma như đại đầu quỷ thì không cần phải nói đến nữa,ngay như “ma giúp đỡ”, “ma bợ đỡ” được coi tương đương với tầng lớp thấp như nha sai là tay sai thân cận, giúp việc trực tiếp cho quan viêntriều đình. Nếu đánh giá hành động, việc làm của những đối tượng này erằng sẽ ảnh hưởng đến khoản “quỹ đen” của lũ quan chủ khảo. Còn việcđược ví von với chuyện đuổi lợn vào trường thi chỉ là những hành động kỳ quái, để duy trì sự tôn nghiêm trong trường thi nên không thể khôngquản lý, mà việc quản lý những chuyện như thế này lại quá dễ dàng, không gây thêm phiền phức gì. Ví dụ như trong Tam phong thức lược có khẳngđịnh, trong phòng thi “có thần binh bảo vệ, thế lực ma quái không dámđến gần”. Vậy chỉ có hai loại hồn ma là hồn ma của những người thânthích và những loại ma báo ân, báo oán là được quyền “đặc cách” tự do đi lại trong trường thi, những loại còn lại bị liệt vào “danh sách cấm”.Để duy trì trật tự và chủ trì công đạo, khảo quan có mời những vị minhthần thiên địa đến. Tuy nhiên, sự góp mặt của những vị minh thần này suy cho cùng cũng chỉ là hình thức mà thôi. Còn nguyên nhân chính nổ racuộc chiến đằng sau lại chính là mấy dạng hồn ma hợp pháp được “đặccách” đi lại trong trường thi đó.
Nhân vật chính sẽ được nói tới ở đây đương nhiên là hai loại ma báo ân báo oán ấy. Nhưng cũng không thểbỏ qua vai trò mang tính xúc tác của loài ma gia quyến đó. Ma báo ân vàma báo oán một khi đã xuất hiện tại phòng thi, thí sinh chẳng may va vào sẽ giật mình, thậm chí còn bị kinh sợ đến suýt chết. Một khi đã chạmvào tà khí, đừng nói là vượt Long môn, đến tính mạng cũng khó mà bảotoàn được. Vì thế, ma gia quyến khi vào trường thi có nhiệm vụ bảo vệcon cháu của mình, tránh để con cháu họ gặp phải những tai họa khôngđáng có. Nhưng dường như những vị tổ tông này không phải ai cũng tuânthủ luật pháp. Trong số họ có không có không ít trường hợp vào trườngthi để tìm cách “đi cổng sau”. Những vong hồn này vì lo cho con cháumình đến ứng thi mà bắt tay thông đồng với quan lại. Những câu chuyệnkiểu như thế này ở thời Nam Tống đã có rồi, hình thức lại vô cùng phongphú, từ khóc lóc than nghèo kể khổ đến cố ý khuếch đại, phô trương sựgiàu có của gia đình… đều có cả. Một trong những câu chuyện đáng đượcnhắc đến nhất là tác phẩm Tử bất ngữ của Viên Tử Tài, trong đó có đoạnviết: “Huyện lệnh Dương Triều Quan được lệnh xuống huyện Hà Nam làm quan chủ khảo, đang đọc bài thi đột nhiên cảm thấy có phần hơi mệt mỏi,trong chốc lát đã chìm vào một giấc mộng lạ kỳ…”
Mơ thấy gặp mộtcô gái tầm khoảng ba mươi tuổi, trang điểm nhẹ nhàng, khuôn mặt thanhtú, thân hình vừa vặn, trên người mặc váy đều màu xanh, thoạt trông dáng vẻ giống người vùng Giang Nam. Cô gái nhẹ nhàng bước đến, vén tấm mànhlan, cất giọng nhẹ nhàng: “Sử quân làm ơn hãy để tâm đến bài thi của Quế Hoa Lý Hương, tôi xin nghìn lần cảm tạ!”
Quân Hương Tiêu Ngọcchết cách đây hơn một trăm năm bỗng dưng báo mộng về cho khảo quan nhờgiúp đỡ cháu của người bạn là Hầu Phương Vực (vị lão cống sinh cũng tầmkhoảng trên năm mươi tuổi rồi), thông đồng với quan, thật là chuyện lạlùng hiếm thấy. Theo như Viên Mai nói thì đây là chuyện mà chính DươngTriều Quan tự mình nói ra, hơn nữa còn “tự mình tưởng tượng thấy HươngQuân, giống như người thật đang hiện hình trước mặt”. Nhưng sau khingười viết mượn chuyện để nói lên sự thật, lúc ấy Dương Quan Triều cóchết cũng không chịu nhận chuyện đó là nhằm ám chỉ mình. Chình vì việcnày mà Viên Tử Tài phải viết thư nói rõ chủ ý thực sự trong câu chuyệncủa mình. Quả thực, Tùy Viên cũng không phải là người dễ dàng bỏ qua mọi chuyện, đang buồn giận vì sự chua ngoa, cay nghiệt bày ra trước mắt màkhông hề có nơi để thi thố, giãi bày, bèn viết liền một lúc hai bức thưtrả lời. Khổ thân cho vị Dương Triều Quan bảy, tám mươi tuổi này, khôngthể giả vờ làm chính nhân quân tử, cả bụng bực tức đều bị lôi ra ngoàihết. Thư trả lời của Viên thị có thể gọi là bài văn tuyệt diệu, đượcđăng ở “Tiểu thương sơn phòng xích độc”[5], các vị độc giả không phiềncó thể tìm đọc và suy ngẫm xem.
[5] Nghĩa là: thư từ tại sơn phòng nhỏ.
Không quay cóp thì không phải cuộc thi, nhưng người mà quay cóp thì sẽ cóvương pháp xử lý nghiêm khắc. Thế nhưng, ma quay cóp thì lại là điều hợp tình hợp lý, bởi lẽ người ta lúc ấy đâu có bị coi là “quay cóp” mà làđang báo ân đấy chứ! Lời dạy bảo lấy đức báo ân được ví như giọt nướctuôn chảy thành sông. Người Trung Quốc từ cổ chí kim đều xem việc báo ân là hành động nhận đức, cao đẹp. Vì thế sự xuất hiện của “ma báo ân” tựnhiên đã trở thành chương mục rõ ràng. Hồn ma đến trường thi để báo ân,thường là lúc gần đến Trung thu mà mang tặng hai hộp bánh Trung thu đểlàm thức ăn đêm thì quả thực chẳng có chút thành ý nào cả, vì vậy việcbáo ân lúc này là giúp sĩ tử quay cóp. Mà cái sự quay cóp của ma so vớicủa người trần cũng không khác nhau là mấy.
Vòng thứ nhất là vàomua đề. Trong Di kiên chi cảnh, tập ba, Tam sơn lục thương có ghi:“Truyền Trưởng người Duy Châu, Sơn Đông đến một ngôi chùa ở Ngô Giang,tình cờ gặp cảnh ma chay chôn cất người chết, liền hỏi tăng nhân. Saukhi biết được người nằm trong quan tài là Lục Thương, một vị khách ởquán trọ của tri huyện tiền nhiệm bị bệnh qua đời, do hoàn cảnh túng bấn mà không thể mai táng ở quê hương. Truyền Trưởng chạnh lòng thương xót, đã giúp di chuyển quan tài đến chôn cất tại phần mộ công. Vào tháng Bảy năm đó, Truyền Trưởng tham gia thi cử, nằm mộng thấy Lục Thương đến,nói hết đề của ba vòng thi cho anh ta biết. Đến lúc ứng thi, đề thi đúng như những gì hồn ma báo mộng, anh ta chỉ việc chép nguyên những thứmình đã thuộc.” Khi có kết quả, anh ta đỗ cao cũng là lẽ tự nhiên.
Thứ hai là đánh dấu trên bài thi. Lã Đại Kính thời Nam Tống trong tập haicuốn Hạc lâm ngọc lộ có đoạn viết: “Khi Vương Ngọc Sơn chủ trì việc thicử, nhớ đến người bạn học thì nhiều lần nhưng không đậu, liền viết thưmời anh ta đến một ngôi miếu ở Phúc Dương, nói nhỏ với anh ta: “Trongphần thứ nhất của bài thi nhớ dùng ba chữ “cổ”, tôi sẽ biết đó chính làbài của ông.” Sau khi thi xong, Vương Ngọc Sơn tìm trong đống bài thi,quả nhiên có bài dùng ba chữ “cổ”, liền đặt lên phía trước. Nhưng khiđối chứng tên và số báo danh thì không phải bằng hữu của mình. Vài ngàysau người bạn đến tìm gặp, Ngọc Sơn liền quở trách, người bạn chỉ taylên trời mà thề rằng: “Nếu không vì bị bệnh nặng suýt nữa mất mạng thìtôi đã không tự ý bỏ thi. Nhưng tôi thề có trời cao soi xét không hề hérăng tiết lộ nửa lời.” Không lâu sau, người dùng ba chữ “cổ” mà trúng cử kia đến bái kiến. Vương Ngọc Sơn liền hỏi vì sao trong đoạn đầu lạidùng ba chữ “cổ”. Người này trả lời rằng: “Khi tôi đến ứng thi có ở nhờtrong miếu Phúc Dương. Tình cờ trông thấy một cỗ quan tài, hỏi tăng nhân thì được biết trong quan tài là một người con gái, chết đã mười năm nay mà không có ai chôn cất. Tối hôm đó, tôi liền nằm mộng gặp một ngườicon gái, cô gái nói với tôi rằng, lần này thi, trong đoạn thứ nhất nếudùng ba chữ “cổ”, nhất định sẽ đăng khoa, nhưng hy vọng sau này anh cóthể chôn cất chu đáo đống tro cốt này. Tôi liền nghe lời cô gái và kếtquả là đỗ đầu như ngày hôm này.” Đây là hồn ma trong miếu Phúc Dương vôtình biết được mấu chốt của câu chuyện, bèn tiện tay bán cho thi ân.[6]
[6] Bạch Thoại, người đời Minh, trong tiểu thuyết Thạch điểm đầu có một hồi “cảm ân quỷ tam cổ truyền thí chỉ” chính là diễn câu chuyện này.
Thứ ba là cướp trong trường thi, phần này có nhiều chuyện thú vị, và cũnglà phần có thể thấy sự xảo quyệt, gian trá của con người. Trong Di kiênchí đinh, cuốn thứ hai, Ngô Canh đăng khoa kể lại: Trong thời kỳ ThiệuHưng, có một năm tổ chức thi cử tại quê hương, Ngô Canh cũng tham giaứng thi. Vốn không phải là người chăm chỉ học hành, lại đúng phải nămcoi thi với nguyên tắc “trong phòng thi không được quay trước ngó sau”,vì thế ý định quay cóp của Ngô Canh rất khó thực hiện. Đang trong tìnhcảnh khó khăn, bỗng nhiên như gặp được thầy Trương Viên ngồi bên nhắcnhở, Ngô Canh bèn lấy bài thi của Trương Viên sao chép lại một lượt. Mấy ngày liên tiếp sao chép toàn bộ, kết quả đỗ điểm cao. Sau khi thi xong, Ngô Canh đến nhà thầy Trương Viên cảm ơn thì mới biết Trương Viên không hề vào phòng thi. Lúc đó Trương Viên nói một câu: “Người ra tay giúp đỡ Ngô Canh không phải ai khác mà chính là hồn ma hiển linh báo ân. Đócũng là vì tổ tiên có tấm lòng nhân đức mà có ngày được báo đền.”
Rõ ràng quay cóp trong thi cử là câu chuyện chẳng lấy gì làm tốt đẹp, vậymà chỉ một câu “tổ tông âm đức”[7] là có thể lý giải cho hành động gianlận của con cháu, thật là điều khó có thể làm vừa lòng người ngay thẳng. Lương Cung Thìn, người đời Thanh, trong Bắc đông viên bút lục sơ biên,quyển thứ ba, Bạch quyển hoạch tuyển cũng dẫn ra một ví dụ điển hình:“Một sĩ tử trong kỳ thi không viết một chữ nào, ba lần nộp giấy trắngvẫn đỗ cao và sau này nhậm chức đường đường trở thành Thái huyện. Đươngnhiên đây cũng là nhờ có ma quỷ đến báo ân mà có được. Trong câu chuyện, chính người viết cũng bất mãn mà cất tiếng than rằng: “Báo đáp công ơnmà cũng cần gian lận như vậy sao?” Báo đáp công ơn hay chỉ là cái cớ đểche dấu sự gian trá? Quả thực điều này chỉ có ma quỷ mới biết được. Câuchuyện quay cóp nhiều uẩn khúc này xin không phí thời giờ bàn thêm ở đây nữa. Nhưng trong một tác phẩm khác như Liêu trai chí dị, đoạn Trữ sinhcó kể chuyện ma quỷ gặp lại bằng hữu nên vào trường thi để giúp đỡ. Bồlão tiên sinh có nói câu: “Kỳ chí kỳ hành, khả quan nhật nguyệt!” Cảmkích vì việc ma quỷ biết dùng đức để báo ân, vì tấm lòng được coi lànhân đức ấy mà tôi quay cóp, gian lận trong thi cử, đến ngay cả bản thân lão tiên sinh còn như vậy, những người khác làm theo kể ra cũng khôngcó gì để oán trách. Nhưng xét cho cùng thì quan niệm ràng buộc giữa tình nghĩa và pháp lý của người Trung Quốc vốn là như vậy, khó có thể lýgiải được hơn!
[7] Nghĩa là: tổ tông làm công đức nơi trần gian.
Cuốn thứ mười ba trong Hữu đài tiên quản bút ký của Du Việt có viết, quỷ báo ân đến làm bài thi hộ người khác là một cách rất tự nhiên. Sau khi cậucon trai nhà phú hào vào trường thi, cầm bút suy nghĩ rất lâu nhưng cảbuổi thi anh ta không viết được chữ nào. Bỗng nhiên có một cụ già đembản phác thảo sẵn của mình đưa cho anh ta. Hai, ba môn thi đều như vậy,khi công bố bảng điểm, quả nhiên anh ta đã thi đỗ. Thì ra chàng thiếuniên này đã làm một việc tốt, đó là anh ta lấy một cô gái, sau khi thành hôn anh mới biết, cô gái này đã hứa hôn với con trai của lão nho. Saukhi lão nho mất, con trai ông rất nghèo, bố mẹ của cô gái liền hối hậnkhông muốn gả cho người nghèo khó, nên đã gả cho chàng thiếu niên này.Và thế là chàng thiếu niên liền hỏi thăm đến nhà con trai của lão nho và anh coi con trai lão nho như chính là người thân của mình. Sau đó còngiới thiệu, mối mai cho một người con gái khác, rồi làm lễ thành hôn cho họ, không những vậy còn chuẩn bị đầy đủ lễ vật mang đến. Và đương nhiên lão ông trong phòng thi chính là hồn ma của lão nho hiển linh báo đáp.
Sự tri ơn, báo đáp quả nhiên là vô cùng khảng khái. Điều này thực sự làmcho các thí sinh không kìm nén được cảm xúc, vội vàng đi làm việc thiện, ít nhất thì cũng không được làm việc thất đức. Trong cuốn Thường đàm[8] của Lưu Thanh Viên, người đời Thanh, có kể lại một việc chính bản thânmình đã từng trải qua: “Vào mùa hè năm đó, các sĩ tử đang chờ thi, ngàydài nhàn nhã bèn ngồi lại với nhau tán chuyện về buồng the của một nhànọ rất dâm loạn. Một người vội vàng ngăn lại: “Không được nói đến chuyện này, kỳ thi đang đến gần, tránh vạ miệng, đợi thi xong rồi hãy nóichuyện này, lúc ấy sẽ không sợ tai bay vạ gió.” Lưu Thanh Viên cảm kháinói: “Sĩ tập như vậy, có thể học là biết!” Có thể thấy những câu chuyệnkiểu này cũng đã góp phần làm thay đổi phong tục vốn tồn tại lâu đờitrong dân gian. Trong khi các sĩ tử cũng biết, nếu thực sự muốn nhậnđược sự báo đáp hậu hĩnh thì phải đầu tư vào các vị khảo quan, mà khảoquan thì có “ân quỷ” bảo hộ, người khác không cần phải nói ba bốn đạonữa, chỉ cần tự xem xét bản thân và tổ tông của mình xem có làm việc tốt tích đức hay chưa mà thôi.
[8] Nghĩa là: nói chuyện hàng ngày.
Nếu muốn được “ân quỷ” báo đức thì điều trước tiên là phải mời được vị “ânquỷ” này tới đã. Và mời là việc của mời, nhưng cũng không được làm quáphô trương, vì từ trước tới nay, việc kêu cầu trong chiêu hồn đều khôngđược làm quá um xùm, huyên náo. Hơn nữa, trong một cuộc thi cũng khôngđược có quá nhiều “ân quỷ” cùng đến, nếu không thì đó chẳng phải là làmbài, đáp án của thí sinh mà lại là các vị “ân quỷ” dùng thủ đoạn làmgiúp, đến lúc đó, vị “đại đầu quỷ” bí ẩn kia ắt sẽ xuất hiện.
3
Loạt truyện “ân quỷ” báo ơn tuy xuất hiện không ít nhưng phần lớn đều rấtkhô khan và khó có thể làm người đọc cảm thấy hứng thú. Những loạttruyện như vậy, nói đi nói lại cũng chỉ có duy nhất một câu cửa miệng là “có ma” mà thôi. Vốn dĩ anh “đi cửa sau” may mắn thì công thành danhtoại, còn giả sử không may gặp người khảng khái phẫn nộ không tiếp đãi,lúc ấy ai còn tin vào lời nói ma quỷ của anh nữa. Vì thế trong nhân gian lưu truyền câu chuyện kỳ quái nơi trường thi mục đích cũng chỉ để kểlại chuyện oan hồn báo ân báo oán. Có những trường hợp, một người nào đó vốn thông tường kinh sử, khi vào trường thi hào hứng làm bài, thế nhưng trước khi rời phòng thi lại nộp giấy trắng, hoặc làm bài xong rồi độtnhiên bị đổ mực đầy trang giấy, đó là những việc thường tình. Sợ nhất là vào phải phòng thi mà có người tự nhiên phát điên, nhảy nhót, hò hét ầm ĩ, năm bảy lính cũng không đối phó nổi. Còn có chuyện có người trongphòng thi vất một sợi dây thừng lên xà nhà định tự sát. Đương nhiên đâykhông phải việc làm quậy phá từ phía giám thị, cho nên người ta thoáithác trách nhiệm cho những oan hồn về báo thù, mà trách nhiệm đó saucùng lại trút lên đầu thí sinh hoặc tổ tông của họ đã từng làm chuyệnthất đức, hại người.
Ghi chép chuyện chiêu hồn ma về, sớmnhất là vào thời Minh – Thanh, trong tác phẩm Tam cương thức lược của Tế Nhân Đổng, sau đó là ở Dạ đàm tùy lục của Nhân Trai Thị và Bắc đôngviên bút sơ biên của Lương Cung Thìn. Mặc dù việc chiêu hồn ma về khôngchính thức được coi là một tập tục tế lễ bắt buộc, nhưng với các sĩ tửviệc làm ấy đã trở thành một điều không thể thiếu trong các khoa thi.Cho nên, khi tuần phủ Giang Tô, chủ thí là Trương Bác Hành không tiếnhành chiêu gọi hai hồn ma, việc làm ấy đã được tác giả Tiền Vịnh của Lýviên thần thoại cho đó là hào kiệt. Trong Gia đại nhân của Lương CungThìn cũng kể lại một câu chuyện tương tự ở Quảng Tây, khi Lương ChươngCự là chủ thí cũng không cho chiêu gọi hai hồn ma. Ở Tiền Vịnh, khiTrương Bác Hành làm chủ thí được người đời nhắc đến và cho đó là dị sốbởi trong trường thi không những có thi sinh bị bệnh hoặc phát điên màchuyện chết người cũng thường xuyên xảy ra.
Trước khi nói vềchuyện chết người, có lẽ chúng ta cũng không nên ngần ngại mà bỏ quaviệc tìm hiểu một chút về tình hình trường thi. Cận Nhân Mã trong tácphẩm Thạch ốc tục trầm mạnh dạn đưa ra những so sánh rất cụ thể, đối với những miêu tả quý giá này, tôi tiến hành đối chiếu chúng với những tàiliệu khác dưới đây:
Các tỉnh tổ chức thi tại trấn phủ của mìnhđược gọi là Cống viện. Cống viện là một khu vực rộng lớn, nghe nói Cốngviện Giang Nam được coi là lớn nhất (đó là một mảnh đất rộng ở sau miếuphu tử Nam Kinh, giờ đã trở thành chợ văn hóa cổ), có thể tụ họp hơn hai mươi nghìn thí sinh. Ở Cống viện này xây lên từng hàng, từng hàng những dãy nhà đơn sơ, có đến trăm dãy nhà san sát nhau như vậy, mỗi dãy đánhsố tới một trăm và được sắp xếp theo thứ tự “Thiên tự văn”, “Thiên địahuyền hoàng”… Ví dụ như chữ “thiên” là số một, cứ thế đánh số thứ tự nối tiếp nhau đến hết. Mỗi phòng nhỏ này được gọi là trường ốc, cũng gọi là phòng thi, có cái gọi là phòng số, đặt số phòng ở nhà tù cũng cùng mộtsuy luận đó. Mà có tất cả bao nhiêu phòng? Chiều cao chỉ bằng đầu người, chiều rộng thì chỉ cần anh thò chân ra một chút là đụng đến tường đốidiện, kích thước chiều sâu thì nhiều hơn một chút, bên trong có thể dựng được một chiếc giường làm theo lối phương Bắc, đã là giường thì dùng để ngủ, tuy không rộng rãi lắm nhưng cũng có thể dựa đầu vào đó được, chân có thể duỗi thẳng ra, cũng có khi phải duỗi ra bên ngoài cửa phòng thi. Giường này dùng để ngồi khi làm bài thi, như thế cũng là rộng rãi lắmrồi. Nói tóm lại, nếu về phương diện xa hoa mà suy đoán, quy mô củanhững phòng thi này tương đương với phòng đơn thường gặp bây giờ. Phòngthi không có cửa, chỗ cửa vào có một miếng gỗ riêng biệt, nó được dùngđể kê bài thi khi viết và cũng là bàn dùng để ăn cơm. Bên trong treo một tấm rèm nhỏ cũng nhằm mục đích giúp phân biệt là trong hay ngoài. Cácthí sinh vẫn nói đùa với nhau rằng, đây là “nụy ốc phong quang”, trongđời phải may mắn lắm mới có dịp tá túc vài hôm.
Đến mùa thu tháng Tám hàng năm, nhân tài toàn tỉnh tập hợp đến đây thi ba đợt, mỗi đợt ba ngày. Trước ngày thi một ngày thí sinh được vào trường thi, sáng sớmhôm đó, thí sinh xem số thứ tự, mang hành lý, giống như hành khách chenchúc lên tàu trong dịp Tết, xếp hàng dài để đợi vào trường thi. Thườngcó câu “tú tài liễu kiến binh, hữu lý thuyết bất thanh”[9]. Bắt đầu ởkhoảng thời gian ở Cống viện, đại đa số tú tài đều phải tìm cách khônkhéo mà kết giao với lính gác. Những lính gác đeo dao bên mình, dáng vẻrất oai phong. Ngày thường, các cử nhân tú tài ngạo mạn, giờ đây trướcmặt lính gác lại trở nên ngoan ngoãn chẳng khác gì đứa trẻ lên ba chỉbiết gật, lắc liên hồi, bơ phờ dưới cái nắng gay gắt, binh lính gọi họđến uống nước, ngay cả buồn đánh hơi cũng chẳng dám. Cứ như thế, theođúng quy trình kiểm tra. Các cử nhân tú tài bị khám xét hành lý từngngười, từng người một. Và các binh lính cũng nhân cơ hội này để thể hiện thái độ coi thường, khinh miệt đối với các tú tài, cố ý kiểm tra mộtcách tỉ mỉ, đến nỗi khám xét cả những chỗ riêng tư hay bắt cởi bỏ quầnáo.
[9] Nghĩa là: tú tài gặp lính có lý cũng khó giải thích rõ ràng.
Trong lịch sử trường thi ở Nam Kinh có một câu chuyện có thật kể ra khôngkhỏi khiến bạn đọc cười ra nước mắt. Có một khoa thi, một thí sinh bịđám lính tìm ta cái ví giấu cẩn thận ở dưới hậu môn. Khi bị phát hiện,anh ta đến chết cũng không chịu nhận, cố tình biện hộ rằng cái ví đó làdo người ở đằng sau bỏ vào. Đám binh lính không hiểu sự tình, muốn tìmxem rốt cuộc đằng sau là người nào, cuối cùng người đằng sau cười lớn,đáp: “Phải, cứ cho là của ta để vào đó, nhưng sao nó không là để ở bêntrên, hay bên dưới mà lại nhằm vào đúng chỗ đó mà để? Hơn nữa, tại saonó lại cứ ở phần hậu môn mà mãi không chịu đi chỗ khác vậy?” Nói xonglại đắc chí cười ha ha. Lúc đó, đại đa số đám binh lính thích bỡn cợtvẫn không hiểu sự tình ra sao. Nhưng niềm vui đến với anh ta chưa đượcbao lâu thì phía sau lại tiến đến một nhóm khác, tiếp tục lục soát, làmmột lúc họ cũng khiến cái phần giữa anh ta nhô lên cao như vậy. Đúng lúc đó, Tả Tông Đường đang làm trợ lý tại đó, dùng một chân đá cho tên chỉhuy của đám binh sĩ vốn cao to hơn ông ta lăn lộn trên mặt đất (có ghichép khác cho rằng ông ta tát vào miệng tên chỉ huy đám binh sĩ một cáitát hoặc đá một cái rồi mắng thêm câu: “Đồ khốn nạn!” Có lẽ lúc đó trong thâm tâm ông Tả Tước gia kia còn mong muốn đá cho cả đám binh lính kialăn lộn khắp nơi trên đất). Nhưng có điều lạ lùng là sao ông ta lại bựcdọc và hận thù dữ dội đến vậy? Bây giờ nghĩ lại, tôi đoán rằng trongthời gian ứng thi trước kia, ông ta cũng từng chịu sự mắng mỏ, sỉ nhụcghê gớm của đám binh lính cho nên nay ngồi ở cương vị này, phải chứngkiến cảnh tượng trước mặt, ký ức bỗng chốc hiện về, mối thù xưa trỗi dậy sâu sắc đến nỗi quên hết cả địa vị và tư cách cao quý của mình. Nói tóm lại, chỉ sau khi kiểm tra đã đạt đủ tiêu chuẩn, các thí sinh mới đượcđưa đến vị trí của mình. Khi hoàng hôn buông xuống, thân thể tuy đã mệtnhoài, mặt mày ủ rũ, nhưng cũng phải cố cổ vũ mình lấy tinh thần chuẩnbị bước vào vòng thi cử. Bởi ngay tối hôm đó là phát đề thi, cũng cónghĩa là bắt đầu tính thời gian làm bài.
Thí sinh đã vào phòngthi thì phải ở đó làm một mạch đến hết ba ngày ba đêm, ăn ngủ, đại tiểutiện cũng ở đó, cộng thêm cái nóng oi bức của tiết trời tháng Tám khiếncho phòng thi ở đây bốc mùi hôi thối. Đặc biệt là ở vùng nóng ẩm nhưGiang Nam, ban ngày ruồi muỗi bay loạn xạ, tối đến muỗi tấn công ào ào,không khí giống như chốn lao tù. Nhưng tù nhân trong tù đâu cần động não suy nghĩ để làm văn thơ, vì vậy cử nhân tú tài tương lai trên thực tếrất khổ và thậm chí còn khổ hơn cả tù nhân, vì không được quyền tự do tự tại.
Từ những bức ảnh cũ của Cống viện Bắc Kinh cho phép chúngta hình dung rõ hơn về những căn phòng ẩm thấp này. Địa chỉ cũ của Cốngviện Bắc Kinh là Học viện xã hội học Trung Quốc, bên cạnh có ngõ hẻm vẫn được bảo tồn và được đặt tên là “Cống viện”. Vị trí lúc bấy giờ là gầncửa phía đông hẻo lánh và hoang vắng, nhưng nay đã trở nên sầm uất, nhộn nhịp hơn rất nhiều. Xem những bức ảnh cũ được lưu giữ lại, những cănphòng nhỏ hẹp, ẩm thắp, sân nhỏ bẩn thỉu làm người ta khó có thể tưởngtưởng nổi đây là “long môn” một bước lên trời của các nhà trí thức. Cống viện ở nơi đô thành còn như thế, các trường thi ở tỉnh, phủ, châu,huyện chỉ xếp sau mà thôi. (Ghi chép của Giới Xuyên Long khi nhìn thấyhai nghìn sáu trăm phòng thi chi đặt ở một chỗ, “không những không manglại cho người xem cảm giác tráng lệ, mà tương phản hoàn toàn, đó là sựlạnh lẽo, hoang mang đến rợn người”.) Từ hình ảnh này có thể suy đoán ra chế độ thi cử thời xưa “buồn tẻ”, “chán nản” đến mức nào. Nhà văn Nhậtnày hiểu về văn hóa Trung Quốc còn hơn cả tiền bối của Kanier. Cống viện Bắc Kinh vẫn còn chút lợi thế về điều kiện tự nhiên, đó là khí hậu mátmẻ, trừ khi gặp phải thời tiết nóng bức, oi ả của tháng Tám, cho nên maquỷ ở đây xuất hiện nhiều nhất ở cửa ngõ phía nam.
Vào thời nhàThanh, năm Đạo Quang thứ mười bảy, tức năm Đinh Dậu (1837) thi xã tạiPhúc Kiến, thời tiết nóng bức, khắc nghiệt khác thường, trong ba vòngthi có nhiều sĩ tử mắc bệnh và bị ma ám. Quyển tam ký Li biêm hiên chấtngôn[10] của Đới Liên Phân có ghi chép lại câu chuyện thi Hương tại NamKinh vào năm Đinh Mão. Truyện kể rằng, vào đợt thi đó có một nửa số thísinh bị say nắng và có hơn bốn mươi người bị chết trong phòng thi. Người chết nhiều như vậy nên trường thi này, chuyện ma quỷ hiện về đòi mạngđương nhiên là nhiều rồi.
[10] Nghĩa là: đặc tính chữa trị của kim li.
Cứ thi xong một môn người ta lại thấy xác của mấy thí sinh được khiêng ratừ Cống viện, cộng thêm mấy vị mắc chứng tâm thần cũng được dẫn ra theo. Tạm gác chuyện này qua một bên, phải điều tra nguyên nhân sự cố để còncó cái cớ dẹp tan mọi phẫn uất trong lòng người dân. Muốn giảm bớt những rắc rối này, họ bèn đưa ra lý do có sẵn là oan hồn báo oán hiển linhđòi mạng, lấy lý do ấy thì người dân còn biết nói gì đây? Nếu người nhàcó hỏi tiếp, giải quyết không xong nữa thì đưa chuyện đó vào “cửa viđoạt mệnh lục”, hoặc viết thành một đoạn kịch nhỏ, cũng có khi chuyểnthể thành tiểu thuyết Mãn thôn thính thuyết Thái Trung Lang[11]. Songchuyện ma báo thù rốt cuộc cũng chỉ là cớ của quan phủ và quan trọng hơn nữa là mục đích xoa dịu sự phẫn nộ của quần chúng đối với việc vô tìnhbạc nghĩa ấy thôi.
[11] Nghĩa là: cả làng nghe truyện Thái Trung Lang.
4
Thi cử đối với những người trí thức chính là “long môn”, vượt qua được thìthân phận sẽ trở nên cao quý gấp bội lần, còn ở mức độ nhất định nào đóthì chế độ thi cử thực sự đem lại cho sĩ tử nghèo một cơ hội tốt để đổiđời. Chuyện những thư sinh nghèo sau khi đỗ đạt làm quan vô tình bạcnghĩa làm cho người khác rất chú ý. Đến trường thi xuất hiện ma báo thù, đại đa số hồn ma báo thù đều vì sự vô tình bạc nghĩa giữa vợ chồng,người yêu, bạn bè với nhau. Vào trường thi, bạn bè thân thích của haithí sinh kỳ vọng anh ta bao nhiêu thì kẻ thù và oan gia của anh tanguyền rủa sâu nặng bất nhiêu. Lấy chuyện của người để đoán chuyện ma,giờ đây, tự nhiên hồn ma và thí sinh có liên quan đến chuyện ân oán vàhận thù, tình tiết này thực sự cũng vô cùng hấp dẫn. Trường thi lúc nàylại là nơi lý tưởng cho việc trả thù hay báo ân, báo oán.
Nhưngviệc báo ân, báo oán của ma cũng có giới hạn, nó không được vượt quáphạm vi cho phép xảy ra sự cố trên trường thi. Dựa theo nguyên tác nàymà có mấy cách báo thù dưới đây. Cách thứ nhất, “trục trường”, nghĩa làtìm cách khiến cho thí sinh không thể làm bài một cách bình thường rồibị đuổi giữa chừng. Có lẽ đây là hình thức trừng phạt nhẹ nhàng nhất.Trong đó, để thực hiện có một cách gọn nhẹ nhất thì oan hồn ma quỷ bấtgiác hiện hình trong lúc thi, khiến cho thí sinh chột dạ, sợ sệt mà tựhiểu rằng, nếu càng gắng gượng thì sẽ càng làm cho sự việc trở nên totát, biết điều thì hãy tự mình rời khỏi trường thi. Thí sinh kín đáotrốn chạy như vậy mục đích để có thể tránh khỏi hình phạt nghiêm khắchơn. Mà mục đích của oan hồn cũng chỉ mong cho kẻ thù không thành tàinên nếu mục đích đạt được rồi thì dễ dàng bỏ qua. Đó cũng là một cáchtrừng phạt khoan hồng, độ lượng nhất rồi.
Có trường hợp khác lạicó chút dứt khoát hơn. Chưa gặp ma đã tính trước chuồn. Dực quynh bạibiên của Thang Dụng Trung, quyển một, Khoa trường ẩn sự[12] có ghi chéplại nhiều điều lạ lùng xảy đến trong trường thi: “Khoa Canh Thân, thísinh nọ ở Tô Châu vào phòng thi, quân hào hỏi anh ta họ gì, liền đáp họTrương, quân hào vui mừng nói: “Tôi đoán chắc khoa thi năm nay ông nhấtđịnh sẽ đỗ đạt. Tối qua tôi nằm mơ thấy một người con gái cũng ngồi ởphòng này, tay cầm một cành hoa quế, tôi hỏi vì sao thì cô ta nói, đợingười đàn ông họ Trương đến. Nay ông mang họ Trương, lại ngồi đúng vàochỗ đó, nhất định sẽ đỗ điểm cao.” Trương mỗ nghe xong, vẻ mặt vô cùnghoảng hốt, sợ hãi chạy ra khỏi phòng thi.
[12] Nghĩa là: sự việc bí ẩn trong trường thi.
Có trường hợp oan hồn cho thí sinh vào phòng thấp, sau đó nhập vào, tự nói địa chỉ nhà và kể chuyện xấu xa của bản thân họ để tự bôi nhọ thanhdanh và làm mất danh tiếng. Bắc đông viên bút lục sơ biên, cuốn ba ghichép chuyện xảy ra ở trường thi Giang Nam năm Bính Ngọ Càn Long[13]:“Khi vừa phát đề thi xong, một sĩ tử liền không ngớt cất cao giọng hát,rồi bỗng nhiên dán đề thi thứ nhất lên bảng: “Hồn phách phiêu bạt đã bao năm rồi, hôm nay gặp nhau trước cửa phòng thi. Lúc đầu còn cho rằng đólà lương duyên, nhưng sau sao anh lỡ ra tay làm mất hết công danh củatôi?” Hát xong để đề thi ở đó rồi lảo đảo đi ra ngoài. Cùng sách Tụcbiên[14], quyển năm ghi chép câu chuyện về cuộc thi Hương năm đó: Có một sĩ tử bỗng nhiên dang tay như ôm đàn tì bà, cất lên bài hát dân ca Mãngiang công[15], vừa hát vừa trêu ghẹo xung quanh. Hát xong bỗng nhiênkhóc nức nở và than vãn những chuyện buồn khổ của chính mình. Cuối cùnglấy giấy thi lau nước mắt, ngủ say mê mệt, sáng sớm hôm sau đi ra với bộ dạng thật thảm hại.
[13] Năm Bính Ngọ Càn Long tức năm 1786.
[14] Nghĩa là: biên soạn tiếp.
[15] Nghĩa là: giang sơn màu đỏ.
Một cách nữa là làm bẩn bài thi. Thí sinh làm bẩn, rách hoặc mất bài thi,khiến cho anh ta mất công làm bài mà chẳng có kết quả gì, đây cũng làmột hình thức trừng phạt rất khoan hồng. Độn trai ngẫu bút[16] của TừCôn viết về việc mà chính bản thân tác giả trải qua: “Thời Khang Hy, năm Tân Mão, ở trường thi Giang Nam có một thí sinh làm xong bài thi, sauđó anh ta đi vệ sinh, khi vào không thấy bài thi của mình đâu nữa. Mộtlát sau, ở công đường có truyện dụ nói: “Đường Tự Hào bị mất bài thi,nay bài thi lại từ trên trời rơi xuống phía tây của trường thi, nhưng đã bị rách làm hai rồi.” Thí sinh này yêu cầu thay giấy thi để làm lại,nhưng một vị giám khảo đã từ chối anh ta, và nói: “Trong chuyện này ắtcó quỷ thần, có thay bài thi cũng không có tác dụng gì đâu.”
[16] Nghĩa là: viết về việc từ chối ăn chay.
Cuốn thứ hai trong Dạ đàm tùy lục của Nhân Trai Thị có viết về một kỳ thiHương: “Có một vị tú tài say sưa làm văn, làm đến giữa đêm tự nhiên gặpmột người vén rèm cửa đi vào. Người này mặc quan phục thời cổ, mặt mũirất kỳ dị. Tú tài chợt giật mình, ngây người ra, người đó liền chìa tayra và nói: “Ta là thần minh hiển linh. Tổ tông của nhà ngươi có tích âmđức, vì thế môn thi này nhà ngươi nhất định sẽ đỗ với thành tích cao,ngươi hãy viết một chữ vào lòng bàn tay ta, khi điền vào bảng (danh sách niêm yết) sẽ lấy chữ này để kiểm chứng.” Vị tú tài này vô cùng mừng rỡ, liền cầm bút, mài mực đen đậm rồi vẽ lên tay người đó một chữ “khôi”rất to. Vừa viết xong đã không nhìn thấy bàn tay đó đâu nữa, cũng khôngthấy bóng dáng của vị thần minh kia đâu, mà chỉ thấy một chữ “khôi” ởtrên bài thi của mình. Màu vừa đen vừa đậm, thấm đẫm cả trang giấy. Vàtất nhiên, vị đó không phải thần minh gì cả, chỉ là oan hồn giả mạo màthôi.”
Một cách kỳ lạ khác đó là hiện tượng thí sinh bỗng nhiênphát điên. Oan hồn hiện hình hoặc nhập vào người làm cho các thí sinhđang thi thì phát điên, phát cuồng, những chuyện như thế này ở trongtrường thi cũng không ít. Cuốn thứ năm trong Bắc Đông Viên bút ký sơbiên viết thời Càn Long, năm Kỷ Hợi, trong kỳ thi Hương chỉ có mộttrường thi mà có đến ba người bị điên.
Người thứ nhất sau khibước vào trường thi, phát đề thi xong, tự nhiên phát điên chạy vào trong thành, gặp người liền đọ sức quyết liệt. Một người khác sau khi nhậngiấy làm bài, bước vào phòng thi, đột nhiên nổi cơn điên mà kêu rằng:“Tôi chỉ có thể viết tờ trình lên, có người muốn hãm hãi, ép tôi làmđiều gian dối!” Còn một người khác, bỗng dưng nổi con điên loạn, hét ầmĩ: “Tìm kiếm anh đã năm năm, hôm nay gặp được, anh không được đi nơi nào khác.” Liền sau đó anh ta chạy ta ra ngoài, tự tìm đến cái chết màkhông ai có thể ngăn cản được.
Sự khắc nghiệt nhất của việc trảthù chính là lấy mạng đền mạng. Ma báo thù sẽ lấy mạng người ở trườngthi và cái oán độc này chắc chắn sẽ rất sâu nặng. Nhưng những kiểu lấymạng ở trường thi thường núp dưới những hình thức như thí sinh tự sáthoặc bạo bệnh mà chết. Theo thống kê các con số được ghi chép lại, việcngười tự sát tại trường thi nhiều hơn việc theo cổ tự vẫn, tuy có ngườinói rằng đó là bị oan quỷ hại chết sau đó giả dạng dưới hình thức tựthắt cổ chết, nhưng cái này chưa đủ cơ sở để thuyết phục người khác. Màtrong truyền thuyết viết về oan quỷ chính là “ải quỷ” cũng có rất nhiều, ví như Dư mạc ngẫu đàm tiết lục của Tôn Đàn có viết về một cuộc thi vào mùa thu ở Hồ Nam, sau khi các sĩ tử vào trường thi, nửa đêm bỗng từ đâu đó vang lên bài thơ tuyệt cú. Mà điều lạ lùng là những câu thơ lại từmiệng của một cô gái đọc lên, và câu thơ cuối cùng: “Kim dạ nguyệt minhnhân tĩnh hậu, thanh linh nhất bức kết tàn sinh.”[17] Quả nhiên là oanhồn của “ải quỷ” hiển linh. Ngoài ra, các thí sinh khi vào phòng thithường mang theo con dao nhỏ, vì thế việc tự kết liễu đời mình cũng làđiều dễ dàng thực hiện được. Trong cuốn Bàng biếm hiên trực ngôn củaTiền Thuật có viết: Vào năm Đinh Mậu, kỳ thi Hương ở Nam Kinh có đến hơn bốn mươi người chết, trong đó có ba trường hợp có thể nói là rất kỳ lạ, được ghi lại dưới đây:
[17] Nghĩa là: đêm nay trăng sáng, sau khi người tĩnh tâm lại, đã kết thúc cuộc sống tàn khốc này bằng một đoạn vải màu xanh.
Có một thí sinh ở Dương Châu, vào đêm mồng Tám, khi tất cả mọi người đangtập trung ở bên ngoài thì chỉ có một mình anh ta đi vào phòng ngủ. Đêmđã về khuya, mọi người nghe thấy trong phòng phát ra tiếng động lạ vànhìn thấy thí sinh này vén rèm cửa chạy ra ngoài, tay mang theo chiếcbát vỡ, rồi dùng các mảnh sành để rạch bụng, máu chảy thành suối, tayanh ta nắm lấy ngũ tạng của mình và gục xuống, nghiêm giọng nói: “Khôngtin, nhìn tim tôi!”, nói xong anh ta ngã xuống đất và chết.
Cáichết tuy rất thảm hại nhưng theo lão nô đi với thí sinh này nói, ngườihuynh đệ của anh ta chết sớm, để lại cô nhi quả phụ, người này vì muốnchiếm tài sản nên đã ép chết em dâu mình, giết chết đứa cháu tội nghiệp, vì vậy có tội thì phải chịu tội.
Những kiểu bị oan hồn lấy mạng, ngoài những người vong ân bội nghĩa còn có một lượng lớn những ngườilàm việc ác như cưỡng bức, cho vay nặng lãi, chiếm lĩnh tài sản, ruộngvườn của người khác, buôn bán thuốc phiện… Lương Cung Thần vào năm CanhThân tham gia ứng thi. Số là bên cạnh có người thắt cổ chết trong nhà vệ sinh, trước khi chết đã tự viết vào bài thi của mình: “Dao bút giếtngười có ba, đồng tính luyến ái là một, mời đại nhận thực thi chínhpháp.” Thật là một người chết không đủ để che đậy tội lỗi, mà trời bắtchết, thì rõ ràng mặt mũi phải úp xuống đất!
Oan hồn đòi mạng quả nhiên là giả, nhưng điều tra về cái chết của những người này lại tìm ra được rất nhiều chuyện xấu xa, đó là những thu hoạch ngoài ý muốn. Từ đó chúng ta có thể thấy, các lão gia lợi dụng chức vụ của mình ở địaphương để làm những việc thất đức. Vì thế, cách nói về oán quỷ trongtrường thi cũng không phải là không có ý nghĩa.
Đương nhiên,người chết ở trong trường thi không phải ai ai cũng là kẻ ác. Trước khibước vào phòng thi, thí sinh phải chuẩn bị kỹ tâm lý, chỉ hy vọng gặpđược đề thi mà mình đã cố công chuẩn bị kỹ càng. Đến khi phát đề thi thì tất cả đều ngỡ ngàng, thất vọng, bao nhiêu hy vọng, chờ đợi từ ba nămnay bây giờ đã trở thành con số không, cơ hội tiếp theo phải khổ sơ, chờ đợi thêm ba năm nữa. Như Lưu Thanh Viên từng nói: “Vào lúc đó, gặpnhiều đề thi không được như ý thì tự nhủ với lòng mình, năm nay chắc sẽkhông đỗ, có trăm cái cần phải suy nghĩ, hoặc là lo có thù không thểtrả, hoặc đói rét, hoặc bị người thân, bạn bè cười chê, hoặc bị chủ nợđòi, hoặc bị người khác bắt nạt… Có bao nhiêu cái cần phải lo lắng, suynghĩ, cách nghĩ ngắn nhất của người đần độn, phong hàn, vất vả, mệt nhọc và bệnh tật là tìm đến cái chết cũng là điều hợp tình hợp lý!”
Vậy ở đoạn trước thuật lại sự việc tại các trường thi như vậy, khi nói vềma quỷ thì không thể không nhắc đến quỷ chính thức ở trường thi, nó cótên gọi là “khoa trường quỷ”. Những con ma đó đều là do “phong hàn laotụy” hoặc các thí sinh tự tìm con đường ngắn nhất để giải thoát cho mình là chết ở trường thi. Trong Vô thường và Nữ điều của Lỗ Tấn có hai lầnnhắc đến điều này: “Trong phòng tối ở sau đại điện của miếu Thành Hoànghoặc miếu Đông Nhạc, ở nơi đã biểu diễn kịch Mục Liên, “khoa trườngquỷ”, “điêu tử quỷ”[18], “yêm tử quỷ”[19] và “diệt tử quỷ”[20] xếp cùngvới nhau, có thể xem như là những hồn ma vô tội. Dân chúng là nhữngngười hiền lương, trong mắt họ, những người thuộc tầng lớp thấp kém củaxã hội mà cố gắng vượt lên số phận nhưng lại chết ở trường thi, thì đềuđáng được cảm thông. Tuy có những người sau khi vượt lên số phận, đốivới bản thân cũng chẳng được lợi ích gì, nhưng có một vài việc làm chongười ta lo lắng, những hồn ma của điêu tử, yêm tử, diệt tử, trành tửđều cần tìm người thế thân cho mình, “khoa trường quỷ” cùng nhóm với bọn họ, có phải cũng cần đến trường thi để tìm người thế thân? Nếu đúng như vậy, những phiền phức có thể còn lớn hơn rất nhiều![21]
[18] Nghĩa là: ma thắt cổ chết.
[19] Nghĩa là: ma chết chìm.
[20] Nghĩa là: ma ngã mà chết.
[21] Quách Trắc Vân sống ở thời cận đại, trong Đồng linh kế chí, cuốn sáuviết: “Sĩ tử chết tại Tỏa viên, thi thể không được đi ra từ “long môn”,giá dây đỡ để không, để lộ ra ngoài, gọi là đánh thái bình. Sau đó linhhồn không tiêu tan hoặc vẫn lưu lại nơi đó và chịu cảnh khổ cực trongmưa gió.
P/S: Lá thư trả lời đầu tiên của Viên Tử Tài gửi cho Dương Lạp Hồ
Tần Thế huynh tới, giao tận tay rồi nhắc nhở, phải nói là huynh quá viểnvông! Những truyện trong cuốn Tử bất ngữ đều là bịa đặt, nói nhăng nóicuội, sao xứng đáng được coi là một tác phẩm điển hình, đáng tin cậy, vì thế ta không cần nhớ tên tuổi tác giả. Huynh cho đó là những việc cóthật trong chính sử, để chỉnh
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!